Trang tiếng Anh

      Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt

   

...... ... .  . .  .  .
Lịch Sử Ðức Phật Tổ Cồ Ðàm
Maha Thongkham Medhivongs

THIÊN THỨ MƯỜI BA (c)

NHỮNG CHUYỆN LẠ XẢY RA TRONG BỐN MƯƠI LĂM NĂM
TRUYỀN ÐẠO CỦA ÐỨC PHẬT TỔ CỒ ÐÀM (tt)

-ooOoo-

HÓA ÐỘ NGƯỜI NGOẠI ÐẠO TÊN JAMBUJÌVAKA

Khi đức Thế Tôn ngự tại Trúc Lâm tịnh xá có thuyết chuyện độ ông ngoại đạo tên là Jambujìvaka rằng:

Ðời Ðức Phật có hồng danh là KASSAPA (Tàu âm Ca Diếp). Ở nơi ngoại ô, có một ông bá hộ hết lòng trong sạch với Phật giáo nên ông tự lập ra một ngôi chùa và dâng cúng đến một vị Tỳ khưu, Ông bá hộ thường dâng cúng tứ vật dụng rất trọng thể đến vị Tỳ khưu ấy hằng ngày. Ngày nọ, có một vị Thánh nhơn đi khất thực ngang qua nhà ông bá hộ. Ông bá hộ trông thấy vị Thánh nhơn ấy phát tâm trong sạch về phẩm hạnh của Ngài, nên thỉnh Ngài vào nhà dâng cúng vật thực, và dâng y tắm mưa cho Ngài. Rồi bạch rằng: Bạch Ðại Ðức, tóc của Ngài đã dài, tôi xin gọi thợ cạo đến cạo hầu Ngài, và sẽ cho người đem giường đến chùa để Ngài nghỉ.

Vị Tỳ khưu hằng thọ thực tại nhà ông ấy hằng ngày thấy ông bá hộ trong sạch với vị Thánh Tăng ấy mới nghĩ rằng: Ông bá hộ cúng dường nhiều đến vị Tỳ khưu vừa mới gặp; không cúng dường cho ta được như thế nầy khi ta ở đây đã lâu rồi.

Ông thọ thực xong cùng đi về chùa với vị Thánh Tăng mới đến. Khi về tới chùa vị Thánh Tăng liền nhuộm y tắm mưa của ông bá hộ dâng cúng. Ông bá hộ đưa thợ đến cạo cho Ngài và cũng đem chỗ ngủ đến dâng cho Ngài. Ông bá hộ liền bạch với vị Thánh Tăng ấy rằng: Xin Ngài nghỉ nơi đây, rồi sáng ngày xin thỉnh Ngài đến thọ thực ở nhà tôi với Ngài trụ trì đây. Ông trụ trì lấy làm khó chịu với sự mời thỉnh của thí chủ. Ông nghĩ bực lòng nên chiều lại vị trụ trì đến chỗ của Ngài Ðại Ðức kia mắng vị Ðại Ðức ấy nhiều lời nhưng có bốn điều là: Nầy ông Tỳ khưu mới đến kia, ông nên ăn phân đi còn hơn là ăn đồ vật thực của người thí chủ nầy. Ông nên cạo đầu bằng bẹ cây thốt nốt đi còn hơn là ông để cho người thợ cạo của ông thí chủ cạo cho ông. Ông ở trần truồng đi còn hơn là ông mặc đồ của ông thí chủ cúng dường cho ông. Ông ngủ trên đất đi còn hơn là ngủ trên giường của ông thí chủ cúng dường cho ông.

Khi ông trụ trì ấy mắng nhiếc như vậy, Ngài Ðại Ðức ấy nín thinh không hề nói một tiếng nào, vì Ngài nghĩ rằng: Người tối mê nầy sẽ bị đọa vào sâu trong ác đạo khi mà ta vẫn còn ở nơi nầy. Ngài nghĩ vậy liền đứng lên đi tìm nơi an lạc riêng của Ngài, sáng ngày không đến thọ thực ở nhà ông bá hộ ấy.

 

Sau khi mắng vị Thánh Tăng ấy xong, ông trụ trì về phòng mình. Ðến sáng ngày, ông dậy sớm lo dọn dẹp chùa, quét lau sạch mọi nơi, múc nước đầy hết. Khi đi vào xóm thọ thực ông lấy đầu móng tay đánh chuông, ý ông không muốn cho vị Ðại Ðức đến hôm qua nghe. Ông tưởng rằng: Ông Tỳ khưu mới đến chắc mệt mỏi không thế nào nghe tiếng chuông ta đánh bằng móng tay được. Sau khi đánh chuông xong một chặp ông liền đắp y mang bát vào xóm thọ thực.

Vị thí chủ chuẩn bị vật thực ngọt ngon dâng cúng cho hai vị. Khi thấy chỉ có một vị Ðại Ðức đến lấy làm lạ mới hỏi: Bạch Ðại Ðức còn vị Ðại Ðức kia đâu không thấy đến?

- Ðừng hỏi đến ông ấy làm gì. Sau khi ông về, ông ấy vào phòng ngủ đến sáng, bần đạo lo dọn quét xong xuôi; đánh chuông vang lên mà ông ấy cũng vẫn không hay chi hết.

Ông bá hộ nghĩ rằng: Vị Ðại Ðức hôm qua đây lục căn của Ngài thật thanh tịnh, giới đức trang nghiêm như ta, thấy , ta cúng dường trọng thể đến Ngài Ðại Ðức, nên nói gì Ngài đây chớ chẳng không? Mặc dầu nghĩ vậy nhưng ông là người trí thức vẫn cúng dường một cách cung kỉnh, sau khi ông trụ trì ấy thọ thực xong, ông lấy bát của ông trụ trì rửa sạch để đồ ăn mới vào bát rồi nói: Bạch Ðại Ðức, nếu Ngài có gặp vị Ðại Ðức mới đến xin Ngài từ bi dâng vật thực trong bát nầy cho Ngài dùm tôi.

Sau khi thọ lãnh bát và nhận lời, ông trụ trì liền nghĩ: Nếu vị Tỳ khưu mới đến được thọ thực vật ngon như vầy thì ông ấy sẽ mến tiếc nơi nầy chắc ông ta ở luôn. Vậy ta nên đổ đồ ăn nầy bỏ đi là yên.

Trên đường về chùa ông không gặp vị Ðại Ðức ấy mà về đến chùa cũng không có Ngài. Với hai muôn năm vị trụ trì ấy hết lòng hành đạo giới đức trang nghiêm; nhưng sau khi quá vãng ông ta bị đọa vào A tỳ địa ngục kể ra thì dài đến hết thời gian của một vị Chánh đẳng Chánh giác. (Nghĩa là kể từ đời đức Phật Ca Diếp đến đức Thế Tôn của chúng ta hiện tại).

Ðến thời kỳ đức Thế Tôn của chúng ta ông sanh vào một gia đình khá giả ở tại thành Vương Xá. Khi đứa bé ấy biết đi, không chịu nằm trên giường chiếu hay nệm mà chỉ thích nằm đất. Không chịu ăn vật thực chỉ thích cứ ăn phẩn của mình. Những người vú nuôi nghĩ: Chắc còn nhỏ nên chưa phân biệt được sạch dơ. Khi lớn lên lại thích ở trần truồng, ăn phẩn, ngủ đất thôi.

Cha mẹ nghĩ: Ðây là con không nên nuôi trong gia đình. Nên cho nó vào ở với người tu đạo gọi là Jivaka .

 

Cha mẹ liền dẫn đứa bé ấy vào chùa của người tu theo đạo Jivaka. Ðạo Jivaka nhận cho đứa bé ấy vào đạo. Sau khi xuất gia ông ta thường lấy tàu thốt nốt chẻ lấy cái da mỏng bén mà cạo đầu chớ không dùng dao cạo. Khi cạo đầu máu chảy và tóc tai coi sần sượng thật là khổ. Ông ta được tên là Jivaka .

Sáng hôm sau ngày xuất gia của ông ta, cha mẹ có thỉnh các vị tu đạo Jivaka về nhà cúng dường. Bọn ngoại đạo Jivaka bảo ông ta rằng: Hôm nay cha mẹ ngươi làm lễ cúng dường vậy ngươi nên đi với chúng ta.

Vì không thích ăn vật thực nên nói: Xin quí vị cứ đi không nên lo gì tôi, tôi không đi đâu. Ðợi cho những người ngoại đạo đi hết: Y mới vào cầu tiêu ra, bốc phẩn ăn no lòng. Về sau bọn ngoại đạo không hề thấy ông chịu ăn vật gì mặc dầu họ có đem vật thực ngọt ngon đến cho. Bọn ngoại đạo lấy làm lạ vì không biết lấy gì ăn mà không chịu ăn vật thực. Lâu ngày, vị trưởng lão của đạo Jivaka mới hỏi ông ta rằng: Tại sao ông không thọ thực những vật của chúng tôi đưa lại cho ông.

Ông ta đáp: Tôi đã có sẵn vật thực nơi đây rồi.

Bọn người ngoại đạo lấy làm lạ mới bàn với nhau rằng: Người nầy làm gì có vật thực sẵn sàng nơi đây hằng ngày, vậy chúng ta phải rình xem coi ông ta được vật thực từ đâu đến.

Ngày nọ bọn người ngoại đạo đi hết, nhưng vẫn còn người rình xem ông ta ăn gì. Khi ấy ông ta tưởng rằng: Người đều đi hết rồi, nên mở cầu tiêu vào hầm bóc phân ăn như những ngày trước. Những người rình thấy tình hình ghê gớm như vậy nên mới thưa cho vị trưởng lão trong chùa ấy hay. Các vị trưởng lão mới hội nhau lại bàn rằng: Tên nầy làm việc mà không ai có thể làm được thật là hèn hạ quá. Nếu các đệ tử của thầy Cồ Ðàm biết được họ lại đồn rằng: Bọn Jivaka là bọn ăn ph?n. Vậy chỉ còn có một lẽ là đuổi tên nầy ra khỏi đạo giáo của chúng ta ngay từ bây giờ.

Từ giờ phút ấy ông Jivaka bị khai trừ ra khỏi chùa của người tu đạo Jivaka. Khi ông Jivaka bị khai trừ ra khỏi giáo hội không biết phải ở nơi nào cho tiện.

Trong Vương Xá thành có một tảng đá to, người trong thành thường dùng nơi ấy như nhà vệ sinh công cộng. Ông Jivaka liền chọn ngay nơi ấy làm chỗ dung thân rất tiện cho ông ta mọi việc, ông ta ở nơi ấy đợi đến tối ra bốc phẩn ăn no nên không còn sợ ai rình rập, vì nào ai nghi ngờ việc ấy. Ban ngày nếu thấy người thì ông ta đứng một chân còn chân nọ thì đạp lên gối chân kia; tay vịn vào một tảng đá, mặt ngước lên trời, miệng hả ra.

Người thấy ông ta làm như vậy mới hỏi: Thưa ông, tại sao ông đứng một chân, miệng hả ra như vậy?

- Ta chỉ sống bằng vật thực là gió thôi.

 

- Thưa ông, vậy tại sao ông lại đứng một chân?

- Ta là người tu hành hạnh rất cao và rất tinh tấn, nếu ta đứng hai chân thì trái đất làm sao chịu nổi, sẽ rung chuyển, chúng sanh làm sao yên được. Vì vậy ta đứng một chân thôi. Ta đứng như thế nầy cả đời không hề nằm.

Người đời chỉ tin và nghe theo lời ca tụng quảng cáo; nên người trong hai xứ Anga và Ma Kiệt Ðà đều tin rằng: Ðây thật là người hành đạo chín chắn cao quí nhứt không ai bằng. Lời ca tụng ấy truyền ra rất mau. Nên không bao lâu rất có nhiều người đến lễ bái và xin cúng dường vật thực quí giá, nhưng ông ta quyết định từ chối. Nhưng vì nhiều người yêu cầu không sao từ chối cho được, có kẻ khóc lóc van xin Ngài dùng cho chúng tôi được phước, xin Ngài vui lòng thọ thực để tế độ cho chúng tôi là người cần phước báu.

Ông ta nói: Thật ra ta không thích thọ thực món chi hết. Nhưng vì lòng trong sạch của các người ta không từ chối thêm được. Vì ta thọ thực thì làm cho phạm hạnh của ta bị nhơ bẩn đi. Y nói xong liền lấy một cọng tranh nhúng vào mật, đường, sữa xong liếm lấy một ít nơi đầu lưỡi thôi. Xong y bảo thôi các người hãy đi đi để ta được yên tĩnh. Các người đã được nhiều phước rồi.

Ông ta hành như thế trót năm mươi lăm năm.

Ngày nọ, lúc rạng đông đức Th? Tôn trông thấy ông Jivaka có duyên với Ngài và sẽ hết nghiệp xấu xa được đắc Thánh quả. Ðức Phật thấy rằng: Tên ngoại đạo tên Jambukàjivaka đã ở trong lưới của Như Lai. Người nầy sẽ đắc A-la-hán quả sau khi nghe lời giáo huấn của Như Lai lại đắc được Patisambhidà (Tàu dịch Tuệ Phân Tích). Cũng do nơi ngoại đạo nầy mà Như Lai độ được nhiều chúng sanh. (Từ đây đức Thế Tôn gọi tên ông ta là Jambukàjivaka ).

Sáng ngày, đức Thế Tôn vào Vương Xá thành khất thực khi về chùa liền bảo Ananda rằng: Như Lai đi đến nơi của người ngoại đạo tên Jambukàjivaka .

Ðức Ananda hỏi: Bạch đức Thế Tôn, Ngài ngự đi một mình chăng?

- Phải Như Lai ngự đi một mình.

Ðức Thế Tôn ngự đến nơi ấy nhằm lúc xế chiều. Trước khi Ngài ngự đến nơi ấy chư Thiên đều biết. Thiên vương Ðế Thích nghĩ rằng: Nơi cư ngụ của tên ngoại đạo Jivaka nầy thật là dơ uế mùi hôi thối không sao chịu nổi, mà đức Thế Tôn lại ngự đến nơi ấy. Vậy chúng ta phải làm mưa to để rửa cho sạch những đồ uế trược ấy đi. Khi ấy một trận mưa to đổ xuống làm cho những uế trược ấy trôi đi hết, nơi ấy không còn có mùi xú uế nữa.

 

Chiều lại đức Thế Tôn ngự đến nơi của Jambukàjivaka và gọi: Nầy Jambukàjivaka ơi!

Jambukàjivaka lấy làm lạ nghĩ rằng: Người lạ nầy là ai mà lại biết rõ tên ta là Jambukàjivaka vậy? Ông ta mới hỏi: Ai gọi tôi đó?

 

- Ta đây Jambukàjivaka .

 

- Có chuyện chi đó ông đại Sa môn?

- Hôm nay ta muốn xin ngươi cho ta ở đậu nơi đây với ngươi một đêm.

 

- Ông đại Sa môn ơi! Nơi đây không có chỗ nào hết.

- Jambukàjivaka , ngươi không nên đối xử với Như Lai như vậy. Nên cho ta ở tạm một đêm. Ðã gọi là người xuất gia thì nên giúp đỡ người xuất gia, người thế tục giúp đỡ người thế tục.

- Nói vậy ngươi là người xuất gia sao?

- Phải Như Lai là người xuất gia.

- Nếu ngươi là người xuất gia vậy dụng cụ của người xuất gia như bầu đựng nước của người để đâu? Và chỉ để làm lễ cúng dường của người đâu?

- Ðồ ấy của Như Lai cũng có, nhưng mang theo nhiều thứ nặng nề khó khăn; nên chi Như Lai để những vật ấy vào bên trong hết.

Nghe vậy nổi giận nên hỏi: Nếu vậy, ngươi không đem theo những món ấy sao?

Ðức Thế Tôn vui vẻ đáp: Nầy Jambukàjivaka ơi, thôi chuyện ấy hãy dẹp lại một bên đi, chuyện cần hiện giờ là người nên cho Như Lai một chỗ ở tạm hôm nay thôi.

 

- Tôi đã nói nơi đây không có chỗ ở.

Ðức Thế Tôn liền chỉ chỗ gần ấy và nói: Còn chỗ kia ai ở?

- Không có ai ở hết.

- Vậy người hãy để chỗ ấy cho Như Lai.

- Tùy ý người.

Ðức Thế Tôn tự tay Ngài trải tọa cụ ra rồi ngồi nơi ấy. Ðến canh một Tứ đại Thiên vương đến hầu đức Thế Tôn làm cho hào quang sáng rực. Jivaka lấy làm lạ mới nghĩ rằng: Ánh sáng gì đây?

Ðến nửa đêm có Thiên vương Ðế Thích đến hầu Phật, hào quang của Ngài còn sáng hơn Tứ đại Thiên Vương nhiều càng làm cho Jivaka nghi ngờ không ít. Ðến canh chót lại có Phạm Thiên đến hầu Phật hào quang của một vị Phạm Thiên sáng không chi đo lường được mặc dầu là mặt trời vẫn còn kém nhiều. Jivaka kinh khủng hơn khi thấy trong một đêm mà có ba việc khác lạ như vậy.

Ðến sáng ngày, Jivaka mới hỏi: Ông đại Sa môn ơi, hồi đầu hôm ai đến chỗ của Ngài làm cho hào quang chiếu sáng một vùng vậy?

Ðức Thế Tôn đáp:

- Ðó là Tứ đại Thiên vương.

- Ðến làm gì?

- Ðến hầu Như Lai coi Như Lai có chuyện chi sai bảo chăng?

- Nói vậy ông còn lớn hơn cả Tứ đại Thiên vương nữa sao?

- Phải vậy Jambukàjivaka , Như Lai là vị Pháp Vương cao quí hơn các hàng vương giả trong tam giới.

- Còn ai đến trong lúc nửa đêm?

- Ðó là Thiên vương Ðế Thích.

- Ðến làm gì?

- Ðến lo giúp việc cho Như Lai.

- Nếu vậy ông còn hơn cả Thiên vương Ðế Thích nữa hay sao?

- Phải, Thiên vương Ðế Thích ví như người thí chủ lo săn sóc bịnh hoạn cho Như Lai; hay cũng có thể ví như vị Sa di có phận sự giúp đỡ việc nhỏ nhặt trong tư thất của Như Lai.

- Vậy còn ai đến với ông canh chót?

- Các vị Bà la môn khi nhảy mũi cùng gọi Namo Mahà Brahmano (có nghĩa là tôi xin qui y với Phạm Thiên) vị ấy là Ðại Phạm Thiên.

- Vậy ông còn cao quí hơn cả Phạm Thiên nữa hay sao?

- Ðúng vậy. Như Lai là vị Phạm Thiên cao quí hơn tất cả Phạm Thiên.

 

- Nầy ông đại Sa môn; ông là một vĩ nhân phi thường hơn tất cả vĩ nhân. Ta ở đây đã năm mươi năm rồi. Những vị chư Thiên ấy không vị nào đến nơi ta ở để giúp đỡ ta, ta chỉ ăn gió đứng một chân từ bao giờ đến bây giờ. Nhưng các vị ấy không hề đến với ta.

Ðức Thế Tôn dạy: Nầy Jambukàjivaka , ngươi có thể lừa gạt người đời được, vì những người ấy là kẻ tối mê, nay ngươi lại muốn dối gạt đến Như Lai. Ngươi ăn toàn phẩn, ngủ trên mặt đất, cạo đầu bằng bẹ thốt nốt, lõa thể cả năm mươi lăm năm nay rồi, mà ngươi lại dối đời là: Ta ăn gió, đứng một chân, không ngồi chẳng nằm. Sở dĩ mà ngươi hành như vậy là vì nghiệp chướng từ kiếp trước. Nay ngươi cũng vẫn còn cố chấp tà kiến ấy nữa chăng?

 

- Nầy ông đại Sa môn vậy ta làm nghiệp chướng gì trong kiếp trước?

 

Khi ấy đức Thế Tôn mới nhắc lại tiền kiếp của ông ta làm cho ông lấy làm kinh khủng tội lỗi ghê gớm ấy. Ông lập tức ngồi xuống. Ðức Thế Tôn liền trao cho ông một cái choàng tắm. Khi ông bận xong liền đảnh lễ đức Phật. Ðức Thế Tôn liền thuyết pháp năm điều tuần tự Phạn ngữ gọi là ANUBUBBIKATHÀ (xem đoạn Ðại Ðức Yassa). Sau thời pháp ông đắc A-la-hán quả và cả Tuệ phân tích. Ông liền xin phép xuất gia. Khi ấy đức Thế Tôn đưa tay phải ra và dạy rằng: Ngươi hãy thành vị Tỳ khưu. Tức nhiên râu tóc đều rụng, và trên mình có đắp y và có bát đã như vị Tỳ khưu xuất gia từ lâu.

Cùng trong ngày ấy, dân chúng hai xứ Anga và Ma Kiệt Ðà đem đồ lễ vật đến cúng dường cho ông Jivaka. Khi thấy có đức Thế Tôn ngự nơi ấy mới nghĩ rằng: Vậy Ngài Ðại Ðức của ta và ông Sa môn Cồ Ðàm ai lớn hơn? Có người nghĩ rằng: Nếu ông Sa môn Cồ Ðàm lớn hơn thì Ngài Ðại Ðức của ta phải tới chỗ của ông Cồ Ðàm. Vì Ngài Ðại Ðức của ta lớn hơn nên ông Sa môn Cồ Ðàm mới tới chỗ của Ngài Ðại Ðức ta.

Ðức Thế Tôn hiểu ý nghĩ của những người có mặt nơi ấy nên Ngài dạy ông Jambukàjivaka rằng: Ngươi nên làm cho hàng đại chúng hết hoài nghi đi.

Ông Jambukà đảnh lễ đức Thế Tôn và bạch rằng: Ðệ tử cũng đã muốn làm như vậy, nhưng vẫn còn đợi lịnh của đức Bổn Sư. Nói xong ông nhập Tứ thiền xuất ra liền dùng thần thông bay lên cao độ một cây thốt nốt và nói: Bạch đức Thế Tôn tôi là đệ tử của Ngài. Nói xong đáp xuống chỗ cũ và đảnh lễ đức Thế Tôn, rồi bay lên cao hơn lần thứ nhứt một lần, và cũng nói như vậy đáp xuống đảnh lễ. Ngài làm như vậy bảy lần.

Hàng đại chúng có mặt nơi ấy đều nghĩ rằng: Thật là chuyện phi thường của đấng Ðại Giác.

Ðức Thế Tôn thuyết: Ông Jambukà chỉ dùng cọng tranh chấm đồ vật thực của các vị đem đến để trên chót lưỡi vì ông nghĩ rằng: Ta cố hành hạnh tinh tấn. Nếu ông ấy có cố hành như vậy đến hàng trăm năm cũng vẫn chưa bằng một phần trong mười sáu phần mà đã chia ra làm mười sáu lần (rồi) của người hành đúng theo chánh pháp.

Ðức Thế Tôn liền thuyết câu kệ:

MÀSE MÀSE KUSAGGENA
BÀLO BHUNJETHA BHOJANAM
NA SO SANKHATADHAMMANAM
KALAM GACCHATI SALASIM.

 

Nghĩa: Kẻ thiếu trí hằng thọ thực bằng đầu cọng tranh mỗi tháng ( một lần) người ấy cũng không thể sánh bằng một phần mười sáu đã chia ra làm mười sáu lần (rồi) của người hành Chánh đạo là người đã hiểu thông pháp.

Chú giải: Ý đức Thế Tôn dạy: Người thiếu trí không thông hiểu pháp giải thoát là Giới, Ðịnh Huệ cố ý nghĩ và hành: Ta phải cố gắng tinh tấn, mỗi tháng chỉ dùng cọng tranh chấm vào vật thực mà dùng; Người hành như thế cả đời cũng chẳng bằng một phần mười sáu đã chia ra làm mười sáu lần của người đã hành theo chánh pháp trong một thời gian ngắn. Người hiểu thông pháp ý nói đắc được đạo quả.

Sau khi dứt thời pháp có rất nhiều người đắc đạo quả và trở thành đệ tử Phật.

 

CHUYỆN THÀNH KOSAMBÌ

Bà Màgandiyà là Thứ hậu của vua Udena tại thành Kosambì. Bà là người rất oán ghét đức Phật. Bởi vì, khi bà chưa là Thứ hậu còn ở chung với ông chú là một vị Trưởng giả. Khi ông chú bà vào rừng chơi gặp đức Thế Tôn tướng hảo quang minh thật là đẹp nhứt của nam giới. Ông nghĩ chỉ có người nầy mới xứng đáng làm chồng của cháu ta. Ông liền biểu đức Thế Tôn ở nơi ấy đợi ông đem cháu lại gả cho. Ông về trang điểm cháu thật đẹp đem đến để g? cho Phật. Ông không biết rằng: Ðây là đấng Ðại Giác. Khi đem cháu đến, bà vợ trông thấy dấu chân đức Thế Tôn bà liền bảo ông rằng: Dấu chân nầy là của đấng Ðại Giác. Vì muốn độ vợ chồng ông Trưởng giả ấy nên đức Thế Tôn mới để dấu chân nơi cội cây. Khi tìm được đức Thế Tôn, ông Trưởng giả nói đem cháu lại gả. Ðức Thế Tôn liền thuyết về thể trược, nghĩa là đức Thế Tôn dạy thân nầy không đẹp v.v... Bà Màgandiyà nghe vậy tức giận rằng: Ðức Thế Tôn chê bà. Bà cột oan trái rằng: Bao giờ bà làm Hoàng hậu thì bà sẽ trả oán sự chê bà. Về sau bà làm Thứ hậu xứ Kosambi. Bà rất được đức vua sủng ái.

Khi ấy đức Thế Tôn lại ngự đến thành Kosambì và độ được bà Hoàng hậu đắc Tu-đà-hườn quả, làm cho bà Màgandiyà càng oán ghét đức Thế Tôn thêm. Bà không biết làm sao bà liền ra tiền thuê người chưởi mắng đức Thế Tôn. Dạy những người ấy chưởi những câu chưởi tệ nhứt trong lúc ấy có mười điều là: Thằng ăn trộm, thằng điểu giả, thằng khùng, thằng lừa, thằng lạc đà, thằng bò, thằng địa ngục, thằng súc sanh, thằng không thể sanh cõi thiên đàng, thằng chỉ còn có con đường là địa ngục.

Ðại Ðức Ananda nghe người chưởi mắng những lời thô bỉ chịu không nổi, nên bạch với đức Thế Tôn rằng: Người thành nầy chưởi chúng ta quá, vậy chúng ta nên đi nơi khác.

 

- Bây giờ đi đâu đây Ananda ?

- Bạch đức Thế Tôn đi xứ khác.

- Nếu đến xứ khác mà người trong xứ ấy cũng chưởi ta thì đi đâu nữa Ananda ?

 

- Bạch đức Thế Tôn, thì chúng ta lại đi xứ khác nữa.

- Khi người xứ ấy chưởi nữa thì chúng ta làm sao hở Ananda ?

- Thì lại đi xứ khác nữa.

 

- Ananda ơi, chúng ta đi như vậy thật là thất sách. Vì chuyện gì phát sanh nơi nào thì tất lặng nơi ấy. Không nên đi nơi nào khác Ananda , nầy vậy ngươi thấy người hạng nào chưởi mắng ta?

 

- Bạch đức Thế Tôn toàn là những hạng hạ lưu trong xã hội.

- Ananda ơi, chúng ta ví như tượng trận. Vì tượng trận phải nhẫn nại chịu tất cả các thứ khí cụ như tên, lao, giáo v.v... phạm tới nó, vì khi lâm trận không sao tránh khỏi đó là trách nhiệm. Sự nhẫn nại chịu những lời của kẻ vô sỉ chưởi mắng là phận sự của kẻ tu hành. Rồi đức Thế Tôn thuyết câu kệ:

AHAM NÀGOVA SANGÀMAM
CÀPÀTO PATITAM SABAM
ATIVÀKYAN TITIKKHISSAM
DUSSILO HI BAHUJJANO.

 

Nghĩa: Ta phải nhẫn nại chịu lấy lời chưởi mắng, ví như tượng trận chịu đựng tên đạn giữa trận; vì trong đời nầy người một phần đông là kẻ không có giới đức.

Phần đông thường có người tập được những con thú đã thuần thục rồi đến biểu diễn nơi công cộng. Khi có đức vua ngự đến xem con vật được tập thuần thục ấy biểu diễn. (Con vật nầy trở nên con vật hữu dụng). Trong nhóm người ai là người đã có tu hành (tập được hạnh nhẫn nại) người ấy mới chịu nổi được lời xỉ vả, người ấy mới là người cao quí. Những con ngựa dữ, những con tượng dữ khi đã dạy được thuần thục rồi mới là con vật có giá trị cao quí. Cũng như người tự dạy mình được mới gọi là người cao thượng hơn những con thú ấy.

Chú giải: Tượng trận có nhiều tánh nhẫn nại với tất cả các thứ vũ khí khi lâm trận. Người tu hành cũng phải có nhẫn nại để chịu đựng những vũ khí tối độc của người là lời nói hay lời mắng nhiếc xỉ vả. Những con thú dạy thuần như tượng trận thật là quí, nhưng con người đã dạy được mình càng quí vô cùng vô tận vậy.

 

SỰ BẤT HOÀ CỦA CHƯ TĂNG XỨ KOSAMBÌ

Tại chùa Ghositàràma gần thành Kosambì có hai nhóm Tỳ khưu là Pháp sư và Luật sư. Mỗi bên có năm trăm người đệ tử.

Ngày nọ, vị Pháp sư đi cầu lại quên để dư nước rửa trôn ở trong chậu nước trong phòng vệ sinh rồi ra đi. Sau lại có vị Luật sư lại vào phòng vệ sinh, trong chậu nước còn dư nước, ông liền hỏi ông Pháp sư: Có phải Ðại Ðức để nước dư trong phòng vệ sinh không?

 

Ông Pháp sư đáp: Bạch Ngài, phải!

- Ngài có biết rằng: Nếu làm như thế là phạm vào điều học vì để dư nước sau khi đi cầu trong phòng vệ sinh không?

- Bạch Ngài, thật tôi không biết.

- Nếu Ngài không hiểu thì Ngài đã phạm vào điều học.

- Nếu vậy Ngài cho tôi xin sám hối điều lỗi ấy.

 

- Nếu điều nầy Ngài không có tác ý để làm thì vô tội.

Vị Pháp sư không biết mình là người phạm vào điều học.

Vị Luật sư khi về tới tư thất của mình liền nói với đệ tử mình rằng: Vị Pháp sư ấy đã phạm điều học mà cũng chẳng biết.

 

Bọn đệ tử của Luật sư gặp đệ tử của vị Pháp sư mới nói: Thầy tế độ của các ông phạm vào điều học mà cũng chẳng biết.

Ðệ tử của vị Pháp sư về bạch việc ấy với thầy tế độ của mình. Vị Pháp sư nói: Vị Luật sư ấy đã nói với ta rằng: Không phạm tội vì không có tác ý. Giờ lại bảo là ta phạm tội. Vị Luật sư nầy phạm tội nói dối.

 

Khi đệ tử của vị Pháp sư gặp đệ tử của vị Luật sư trả đũa rằng: Thầy tế độ của quí vị phạm tội nói dối. Cả hai bên khi gặp nhau là nói tới chuyện phạm lỗi của nhau nên chuyện càng ngày càng to thêm lên, nguyên nhân chỉ chút nước dư trong phòng vệ sinh mà ra.

Sau khi gặp cơ hội thuận tiện các vị Luật sư lại hội nhau lại đọc tuyên ngôn khai trừ chư vị Pháp sư không cho dự lễ vì phạm điều học.

Kể từ ngày ấy đi trong chùa Ghositàràma chia ra làm hai phái rõ rệt và cũng ra mặt chống đối nhau. Khi ấy chư Tỳ khưu ni cũng chia ra làm hai phái, đến đổi chư Thiên trong chùa và chư Thiên cõi trời cùng Phạm Thiên cũng chia ra làm hai phe để chống nhau vì chấp rằng: Bên nầy phải bên kia quấy.

Ðức Thế Tôn biết chuyện ấy Ngài liền gởi lời khuyên nhủ cả hai bên rằng: Nầy các thầy Tỳ khưu, các thầy nên hợp tác với nhau. Ðến lần thứ nhì có vị Tỳ khưu bạch cho đức Thế Tôn hay rằng: Bạch đức Thế Tôn, hai phe ấy không có ý định hòa hợp nhau, đức Thế Tôn lại gởi nhắn nhủ lần thứ ba nữa. Ngài lại được tin rằng: Chư Tỳ khưu ấy đã chia rẽ nhau thật sự rồi.

Ðức Thế Tôn phải thân hành ngự đến nơi ấy, Ngài dạy về cái hại của sự bất hòa, Ngài chỉ trích về sự tuyên ngôn khai trừ nhau, Ngài dạy phải cùng hòa hợp cử hành các lễ nhất là lễ Phát lồ ở cùng một nơi có lễ kiết giới tại chùa Ghositàràma , Ngài truyền chư Tăng hãy hội lại nơi Tăng đường, Ngài dạy các vị ấy trải tọa cụ ngồi cách nhau một khoảng có thể một vị chen vào ngồi được. Mặc dầu đức Thế Tôn đã dạy như vậy nhưng Ngài lại nghe rằng: Mặc dầu vậy mà các vị ấy vẫn chẳng hòa. Ðức Thế Tôn lại ngự đến chùa Ghositàràma một lần nữa và Ngài dạy rằng: Các thầy Tỳ khưu nầy, các thầy không nên bất hòa nhau. Nầy các thầy Tỳ khưu khi đã gọi là bất hòa, sự gây gổ, sự tranh giành và sự cãi vã nhau chỉ đem lại tai hại thôi, cũng như loài chim Latukikà (chim sâu) vì sự cãi vã nhau làm hại đến tượng. Rồi đức Thế Tôn dạy: Các thầy Tỳ khưu nầy, Như Lai xin các ông hãy hòa hợp nhau, nhiều ngàn chim se sẻ vì sự cãi vã và bất hòa nhau nên bị tiêu diệt hết.

 

Mặc dầu đức Thế Tôn hết lòng giảng dạy nhưng các thầy cũng chẳng vâng lời.

Khi ấy có một vị Tỳ khưu thấy đức Thế Tôn phải nhọc lòng như vậy Ngài lấy làm khổ tâm, nên bạch Phật rằng: Bạch hóa đức Ðại Từ Bi, Ngài là đấng cứu thế vị Pháp Vương, xin đức Thế Tôn hãy tri túc, nghỉ cho an tịnh cõi lòng. Chúng tôi đã là hạng gây gổ nhau, tranh giành nhau. Mặc dầu đức Thế Tôn có nói đến chuyện ngài Dìghati bị đức vua Brahmadatta giết, Thái tử Dìghàti cũng vẫn không cột oan trái oán thù. Khi mà đức Th? Tôn có dạy thêm rằng: Các thầy Tỳ khưu nầy, sự nhẫn nại và sự yên lặng của Thái tử Dìghàti không trả thù cho cha như vậy. Các ngươi là người tu cũng chẳng nên oán thù gây gổ nhau chi, nên coi gương ấy và nên hành theo, nên yên tịnh tu hành cho mau giải thoát. Mặc dầu đức Thế Tôn có dạy như thế thì Ngài cũng không thể làm cho chúng tôi đoàn kết lại được đâu.

Ðức Thế Tôn thấy bọn nầy khó dạy, không vâng lời, nên Ngài nghĩ: Ta ở lại đây cũng chẳng ích chi. Ngài liền vào khất thực tại thành Kosambì mà không nói cho vị Tỳ khưu nào biết cả, sau khi khất thực xong Ngài đi thẳng đến Bàlakalona-kàràma một mình, Ngài lại từ ấy đi thẳng vào rừng Pàrileyyaka. Ngài đến ngự dưới một cội cây to và nhập hạ nơi rừng ấy.

Ðồng thời ấy có tượng chúa đoàn trông thấy sự ở chung với đoàn rất bực mình nên cũng đi ở riêng trong rừng ấy và gặp được đức Thế Tôn. Tượng chúa lấy làm trong sạch với đức hạnh thanh cao của đức Thế Tôn hết lòng hầu hạ Ngài hết ba tháng hạ. Nơi đây có hai vị chúa tể là vị PHÁP VƯƠNG và TƯỢNG CHÚA.

 

Khi Thiện nam Tín nữ đến chùa không thấy có đức Thế Tôn, mới hỏi: Bạch chư đai đức, Ðức Thế Tôn ngự nơi nào?

- Ðức Thế Tôn đã ngự vào rừng Pàrileyyaka rồi.

- Bạch Ðại đức, tại sao đức Thế Tôn lại vào ở rừng như vậy?

- Sở dĩ mà Ðức Thế Tôn vào ở nơi rừng thẳm như vậy, vì Ngài hết lòng dạy chúng phải hòa nhau, nhưng chúng ta không vâng lời Ngài nên Ngài đi ở nơi yên tịnh.

- Bạch chư Ðại Ðức, quí Ngài xuất gia theo giáo pháp của Phật nhưng khi các Ngài bất hòa đức Thế Tôn khuyên bảo, mà các Ngài lại không vâng lời sao?

- Chúng ta không hòa nhau.

Thiện tín nghĩ rằng: Những vị Tỳ khưu xuất gia theo Phật, khi Ngài dạy hãy hòa nhau mà các thầy không hòa. Chúng ta không được hầu hạ cúng dường và thính pháp của Ngài cũng vì các vị Tỳ khưu nầy. Chúng ta chẳng nên cúng dường tứ vật dụng đến các vị ấy nữa mà cũng chẳng kính trọng các thầy ấy làm gì.

Kể từ ngày ấy đi, không còn người tín đồ nào vào chùa cúng dường cho các vị Tỳ khưu ấy. Chỉ đôi ba ngày sau bị đói khát chịu không nổi nên tìm nhau để sám hối tội lỗi của nhau. Xong rồi mới mời tín đồ đến để nói rằng: Hiện nay chúng ta đã xin lỗi và sám hối nhau rồi. Vậy xin quí vị hãy trở lại với chúng ta.

- Vậy quí Ngài đã xin lỗi và sám hối với đức Thế Tôn chưa?

- Chưa.

 

- Vậy xin quí vị đi xin lỗi và sám hối với đức Thế Tôn trước đã. Riêng chúng tôi sẽ trở lại với quý Ngài là sau khi quý Ngài đã sám hối với đức Thế Tôn xong rồi.

Các vị Tỳ khưu không sao đến nơi Phật ngự được vì trong lúc đang còn trong Hạ.

 

Khi ấy đức Thế Tôn ngự tại rừng Pàrileyyaka thật là an nhàn, mọi việc đều có tuợng chúa Pàrileyyaka lo thật chu đáo. Trước khi muốn giúp làm việc cho Phật thật là bỡ ngỡ vì không biết làm sao múc nước lên, nên tượng tìm một cây to đạp cho ngã xuống, dẫm đứt từng đoạn xong chà một khúc cho tròn như cái bát dùng ngà khoan thành lỗ dùi mãi thành ra một cái gàu nước để dâng đức Thế Tôn rửa tay chân. Khi muốn có nước nóng dâng Phật tắm, dùng vòi kéo ra một tảng đá to xong ôm lấy cây chà đến để quanh tảng đá đập đá văng lửa cháy những lá khô bắt cây cháy, khi biết đá nóng. Tượng dùng một khúc cây đẩy tảng đá ấy xuống ao nước gần bên làm cho nước nóng. Lấy gàu múc nước mang lên dâng Phật tắm, khi ấy tượng đi mang choàng tắm đến dâng Phật Ngài hỏi: Có nước nóng rồi phải chăng Pàrileyyaka. Ðức Thế Tôn đi theo sau tượng đến nơi thường tắm là có nước sẵn.

 

Khi đức Thế Tôn vào làng khất thực tượng liền mang bát để lên đầu đi theo sau. Khi đến ven rừng, Ðức Thế Tôn dạy: Pàrileyyaka, kể từ nơi nầy đi ngươi không thể theo Như Lai được. Vậy ngươi hãy trao bát cho Như Lai.

 

Tượng chúa trao bát cho đức Thế Tôn, Ngài vào làng khất thực còn tượng thì tìm chỗ nào yên tịnh đợi đón đức Thế Tôn về. Khi đức Thế Tôn về đến tượng chúa liền tiếp lấy bát để trên đầu rồi theo đức Thế Tôn về rừng. Khi đến nơi để bát vào nơi đức Thế Tôn hằng ngồi thọ thực, lấy gáo múc nước hầu hạ không khác một ông Sa di nếu không nói là Ðại Ðức Ananda. Khi đức Thế Tôn thọ thực tượng bẻ nhánh cây quạt hầu Ngài. Ðêm lại tượng bẻ khúc cây to cầm nơi vòi đi quanh nơi Phật ngự, vì sợ những thú dữ đến làm hại Ngài. Từ ngày đức Thế Tôn ngự lại tại rừng ấy với tượng chúa, rừng ấy đổi tên là Rakkhitavanasanda , nghĩa là khúc rừng có canh phòng cẩn mật. Tượng chúa hành động như vậy kể từ ngày gặp Phật.

Ðồng thời tượng hầu hạ đức Thế Tôn như vậy, cũng có một con khỉ chúa, thường để ý thấy tượng hầu hạ đức Phật cũng phát tâm trong sạch nghĩ rằng: Vậy ta phải có gì dâng cúng đến Ngài? Từ ngày ấy đi khỉ nhứt định phải tìm làm một việc gì hữu ích chi cho đời mình. Ngày nọ khỉ trông thấy một tổ ong không còn có ong ở nữa, nên rất mừng bẻ nguyên một nhánh ấy đem đến dâng cúng đến đức Thế Tôn. Ðức Thế Tôn liền thọ lãnh. Khỉ ngồi nơi xa để coi Phật làm sao và nghĩ rằng: Ðợi coi đức Thế Tôn có thọ thực đồ ta cúng dường không? Khỉ thấy đức Thế Tôn thọ lãnh xong ngồi yên thì lấy làm lạ nghĩ: Tại sao Ngài không thọ thực? Khỉ liền đến cầm lấy coi có những gì mà Ngài không thọ thực. Khỉ xem rõ thấy còn những con ong con, khỉ liền lần lần khều những con ong con ấy ra hết đem dâng lại cho đức Thế Tôn một lần nữa. Lần nầy Ngài thọ lãnh và thọ thực, khỉ thấy vậy lấy làm thỏa thích nhảy nhót vui mừng. Vì quá vui nên nhảy lên nhánh cây thật cao rồi nhảy xuống, rất rủi nhầm nhánh cây khô và sức nhảy nặng nên gãy, khỉ mất thăng bằng không gượng được nên té luôn xuống hố nhằm nơi cây nhọn làm khỉ chết tại chỗ. Nhờ khi chết tâm vui mừng trong việc làm của mình nên được sanh về cõi trời Ðạo Lợi trong toà lầu bằng vàng cao ba mươi do tuần.

 

Sự nhập hạ của đức Thế Tôn trong rừng Rakkhavana với tượng chúa Pàrileyyaka ai ai cũng biết. Vì vậy các vị đại thí chủ như ông Cấp Cô Ðộc, bà Visàkhà v.v... Nghe vậy liền viết thơ tới đức Ananda rằng: Xin Ðại Ðức phải làm sao thỉnh cầu đức Thế Tôn về cho chúng tôi.

 

Sau khi ra hạ xong có năm trăm vị Tỳ khưu vào hầu Ðại Ðức Ananda yêu cầu Ngài rằng: Bạch Ðại Ðức chúng tôi không được nghe lời vàng ngọc của đức Từ Phụ lâu lắm rồi, chúng tôi phải làm sao mới được nghe pháp giải thoát của Ngài. Ngài vui lòng cho chúng tôi cùng đi với Ngài.

Ðại Ðức Ananda dẫn các vị ấy cùng đi với Ngài. Khi đến ven rừng Ngài nghĩ rằng: Không nên đem các vị nầy vào hầu Phật, vì Ngài đã ở nơi rừng vắng hằng ba tháng rồi. Ngài đề nghị chư vị Tỳ khưu ấy phải ở ngoài ven rừng đợi Ngài.

Tượng chúa trong thấy Ðại Ðức từ xa đến lập tức bẻ một cành cây to chạy ngay đến hướng Ngài Ðại Ðức đi đến. Ðức Thế Tôn trông thấy liền dạy rằng: Pàrileyyaka ơi, hãy ngừng lại và đứng dang ra, vị Tỳ khưu ấy là đệ tử hầu Như Lai. Tượng bỏ cành cây xuống nhưng tỏ ra không có thiện cảm với Ðại Ðức là không tiếp lấy bát của Ðại Ðức. Tượng nghĩ rằng: Nếu thật thầy Tỳ khưu nầy là đệ tử Phật, thì không bao giờ để bát trên bát của Phật.

Ðại Ðức Ananda là vị đệ tử rất chu đáo nên sự hành động của Ngài rất vừa lòng tượng chúa. Tượng chúa phát tâm trong sạch kính nể Ngài Ðại Ðức. Khi Ngài Ðại Ðức làm xong phận sự rồi đảnh lễ đức Thế Tôn ngồi nơi phải lễ.

Ðức Thế Tôn phán hỏi: Ananda , ngươi đến đây một mình ngươi sao?

Ðại Ðức đáp: Bạch đức Thế Tôn, đệ tử đến đây với năm trăm vị Tỳ khưu.

Ðức Thế Tôn hỏi: Vậy các vị ấy ở đâu?

- Vì đệ tử chưa biết đức Thế Tôn định thế nào? Nên đệ tử để các vị ấy ở ngoài rừng, vào đây một mình thôi.

- Ngươi hãy gọi các vị ấy vào đây.

Ðại Ðức Ananda vâng lời đi gọi chư Ðại Ðức ấy vào hầu Phật. Khi đảnh lễ xong liền ngồi nơi phải lẽ. Rồi bạch đức Thế Tôn rằng: Bạch đức Thế Tôn, Ngài là vị Pháp Vương cao quí, khi Ngài còn ở đời Ngài là vị Ðế vương. Hôm nay Ngài lại ở nơi rừng hoang vắng như thế nầy cả ba tháng hạ là chuyện thật khó làm. Chắc không ai hầu hạ Ngài sớm trưa lo nước lạnh và nước uống cho Ngài.

Ðức Thế Tôn dạy: Nầy các thầy Tỳ khưu, những việc người vừa nói đã có tượng chúa Pàrileyyaka lo cho Như Lai thật chu đáo. Sự có được người bạn như thế nầy ở gần bên thật là cao quí. Rồi đức Thế Tôn thuyết ba câu kệ:

Nếu người có được người bạn có trí tuệ để giữ mình, trí tuệ nhớ hiểu nhiều, người có đặc ân là làm cho được kết quả lợi ích cùng đi chung nhau (Người mà có được người bạn hoàn toàn như vậy) thì nên mãn nguyện (vì người bạn ấy) có trí nhớ (giúp ta) chận đứng các tai hại đang ở bên ta và đang tìm thế làm hại ta, khi đã đi chung với người bạn như vậy (thì thật an vui).

 

Nếu người không có được người bạn có trí tuệ giữ mình, có trí tuệ hiểu nhiều, có đặc ân là làm cho những sự lợi ích kết quả đến cùng đi chung nhau. (Người không có bạn như vậy) nên đi một mình. Ví như vị minh quân bỏ cả quốc gia ra đi một mình (vì Ngài trông thấy cái hại của ngai vàng). Hay ví như tượng chúa tên Matanga bỏ đoàn ra đi ở nơi rừng vắng một mình.

 

Sự đi một mình còn cao quí hơn có bạn là kẻ hung ác, ngu dại cùng đi chung. Người không có bạn ác như nói trên cùng đi chung. Người ấy có tri túc, ở nơi thanh vắng một mình không làm tội lỗi; cũng như tượng chúa Matanga có sự tri túc ở một mình và không làm tội lỗi.

 

Sau khi dứt câu kệ năm trăm vị Tỳ khưu đắc A-la-hán quả. Ðại Ðức Ananda liền bạch Phật rằng: Các đại thí chủ như Trưởng giả Cấp Cô Ðộc, bà Visàkhà v.v... có gởi thơ đến cầu xin đức Thế Tôn yêu cầu đức Thế Tôn về vì tất cả đệ tử đều mong nhớ Ngài.

Ðức Thế Tôn dạy: Nếu vậy ngươi hãy mang bát đi. Ðức Thế Tôn liền trao y, bát cho Ðại Ðức Ananda. Tượng chúa trông thấy vậy liền đứng cản đường. Chư Tăng thấy lạ mới bạch hỏi Phật: Bạch đức Thế Tôn, tượng chúa tỏ ý muốn gì vậy?

- Nầy các vị, tượng chúa muốn cúng dường cho các vị. Tượng chúa nầy đã dày công giúp đỡ Như Lai rất nhiều, vậy không nên làm cho tượng thất vọng. Nầy các thầy, vậy các thầy phải nán ở lại đây. Rồi đức Thế Tôn và chư Ðại Ðức đồng trở lại chỗ cũ.

Tượng liền vào rừng bẻ các thứ trái cây ngon ngọt thơm rất quí đem về chia ra từng phần đủ dâng đến năm trăm vị Tỳ khưu. Sau khi thọ thực xong , đức Thế Tôn liền đứng dậy ra đi về thành. Tượng liền vào đứng ngăn giữa chư Tăng và đức Thế Tôn. Chư Tăng thấy vậy lấy làm lạ hỏi đức Thế Tôn: Bạch đức Thế Tôn, tượng chúa làm chi đây?

 

- Nầy các thầy Tỳ khưu, tượng muốn đưa các người đi còn Như Lai thì ở lại. Rồi đức Thế Tôn liền nói với tượng: Tượng Pàrileyyaka ơi, hôm nay Như Lai phải đi và không trở lại. Trong kiếp nầy, Thiền định hay Minh sát tuệ hoặc đạo, quả ngươi không thể nào đắc được đâu, ngươi hãy ngừng và ở lại nơi đây.

 

Tượng nghe đức Thế Tôn dạy vậy liền đút vòi vào miệng rống lên, rồi tránh đường cho đức Thế Tôn ngự đi, tượng từ từ theo sau. Khi đến ven rừng, đức Thế Tôn liền dừng lại nói với tượng Pàrileyyakà rằng: Nầy Pàrileyyakà ơi, kể từ chỗ nầy đi tới không phải là chỗ của ngươi có thể đi đến được đâu, đó là chỗ ở của người đời nơi ấy có rất nhiều tai hại nguy hiểm quanh mình, ngươi nên ở lại nơi nầy là hơn.

 

Tượng nghe Phật dạy liền đứng lại hai hàng nước mắt rưng rưng nhìn theo đức Thế Tôn ngự đi với hàng Tăng lữ. Khi đức Thế Tôn ngự đi vừa khuất tầm mắt thì tượng chúa vừa ngã xuống chết liền; liền khi ấy được sanh về cõi trời Ðạo Lợi có tòa lầu cao bằng vàng ba mươi do tuần. Có tên là Pàrileyyaka. Ðức Thế Tôn ngự về Kỳ Viên tịnh xá.

Chư Tỳ khưu thành Kosambì nghe tin đức Thế Tôn đã ngự về thành Thất La Phiệt, liền kéo nhau đến hầu Phật.

Ðức vua Ba Tư Nặc được tin rằng: Các vị Tỳ khưu thành Kosambì chia rẽ nhau sẽ đến Kỳ Viên tịnh xá. Ngài lập tức ngự vào chùa hầu Phật và bạch: Bạch đức Thế Tôn trẫm sẽ ra lịnh cấm không cho các vị Tỳ khưu thành Kosambì vào xứ của trẫm.

- Tâu Ðại vương, các vị Tỳ khưu ấy toàn là hạng có giới đức nhưng chỉ không vâng lời Như Lai vì họ gây nhau thôi, hiện nay bọn họ đến đây để xin sám hối với Như Lai. Vậy xin Ðại vương rộng lượng để các vị ấy đến.

Ông Trưởng giả Cấp Cô Ðộc bạch Phật rằng:

 

- Bạch đức Thế Tôn đệ tử sẽ không bằng lòng cho các vị ấy vào tịnh xá nầy.

Ðức Thế Tôn cũng khuyên ông không nên cố chấp chuyện đã qua khi mà người ta đã biết chừa bỏ tội lỗi.

 

Khi các vị Tỳ khưu ấy đến thành Thất La Phiệt, đức Thế Tôn dạy cho các thầy ấy đến ở một nơi thanh tịnh, không có một vị Tỳ khưu nào đến gần chư Tỳ khưu Kosambì .

 

Có người đến hỏi:

- Bạch đức Thế Tôn, nhóm Tỳ khưu nào ở thành Kosambì đến đây là các vị tạo ra sự chia rẽ gây gỗ nhau.

- Bọn các thầy ấy ở bên kia.

Chư Tỳ khưu thành Kosambì bị các người ấy đ?n chỉ mặt nói: Ðây là bọn Tỳ khưu Kosambì tạo ra sự chia rẽ, bất tuân lịnh bề trên. Các vị Tỳ khưu ấy không sao ngước mặt lên được vì quá hổ thẹn với lỗi lầm của mình. Liền đến quì dưới chân đức Thế Tôn xin sám hối tội lỗi đã làm vì tối mê.

Ðức Thế Tôn dạy: Nầy các thầy Tỳ khưu, các thầy làm một việc thật đáng chỉ trích nặng nề. Các người đã được xuất gia theo đấng Giác ngộ như Như Lai; trong khi các ngươi được Như Lai khuyên nhủ hãy hòa hợp nhau mà các ngươi không vâng theo. Khi xưa bực trí vâng lời dạy của cha mẹ khi chính mắt thấy cha mẹ bị người nghịch đem ra pháp trường xử tử. Sau được dịp trả thù nhưng không trả thù và không dám vi phạm lời giáo huấn của song thân, nhờ vậy sau được vợ lại được làm vua hai xứ. Rồi đức Thế Tôn thuyết Túc Sanh truyện của Dighàyu rằng: Nầy các thầy Tỳ khưu, ông Dighàyu khi thấy cha mẹ bị đem xử tử nơi pháp trường, mà vẫn không dám quên lời giáo huấn của cha mẹ là không nên lấy oan trái cột oan trái. Sau lại đức vua Brahmadatta biết liền nhường ngai vàng và gả công chúa cho được làm vua hai xứ. Còn các người là đệ tử của đấng Ðại Giác mà không thừa hành theo pháp giải thoát. Ðức Thế Tôn thuyết câu kệ:

PARE CA NA VIJÀNANTI
MAYAM ETTHA YAMÀMASE
YE CA TATTHA VIJÀNATI
TATO SAMMANTI MEDHAGÀ.

Nghĩa: Người khác không biết mình rằng: Chúng ta bị bầm dập giữa hàng Tăng chúng. Chỉ có người nào trong nhóm người ấy biết rằng: Sự thù oán vắng lặng vì sự hành động của người ấy.

Chú giải: Ý câu kệ nầy dạy rằng: Những người nào cố tạo ra sự chia rẽ vì những người ấy không bao giờ biết rằng: Chúng ta sẽ bị lụn bại hay phải đi đến gần tử thần. Chỉ có các bực trí thức biết rằng: Nếu chúng ta cãi vã nhau, chia rẽ nhau thì phải đi đến nơi tiêu diệt (tử thần). Khi người nhìn thấy lẽ phải như vậy nên hành hầu cho tâm được yên lặng, thì tức nhiên các sự gây gỗ cãi vã sẽ tiêu diệt vì sự hành động chân chánh của các vị trí thức ấy.

Hơn nữa, các người mà Như Lai đã dạy rằng: Nầy các thầy Tỳ khưu các thầy không nên cãi vã gây gỗ nhau, không nên chia rẽ nhau. Các thầy không vâng lời ta những người ấy là người khắc trong câu kệ.

 

 

CHUYỆN ASADISADÀNA (Bố thí không bố thí nào sánh bằng)

Lúc nọ, đức Thế Tôn ngự tại Kỳ Viên tịnh xá, đức vua Ba Tư Nặc vào hầu Phật và thỉnh Phật vào thành thọ thực. Luôn tiện đức vua muốn khoe sự bố thí của mình, nên cho mời dân chúng đến dự cuộc lễ bố thí của Ngài.

 

Dân chúng thấy sự cúng dường của đức vua thật là trọng thể, nên họ mới hội nhau lại để làm lễ cúng dường Phật bảo, khi ấy nhân dân đồng lòng thỉnh Ðức Phật và chư Tăng đến cúng dường và cũng không quên mời đức vua đến dự cuộc lễ. Ðức vua thấy dân chúng cúng dường còn có phần hơn mình, nên Ngài liền thỉnh đức Phật và chư Tăng vào cúng dường nơi thành nội và cũng mời dân chúng đi đến dự. Dân chúng thấy đức vua làm hơn mình nên đồng lòng hùn nhau làm cho hơn vua. Ðức vua và dân chúng thi nhau cúng dường như thế đến sáu lần không phân biệt được bên nào hơn bên nào cả. Lần thứ sáu dân chúng góp hết lực lượng của mình ra làm những vật gì trên thế gian nầy có, dân chúng đều đem ra dâng cúng hay chưng bày làm nhà vua kinh hoàng về sự bố thí của dân chúng. Nhưng phàm một vị Ðế vương không bao giờ chịu thua hàng dân giả. Nên khi Ngài về cung nằm suy nghĩ buồn cho mình là vị Ðế vương mà không thắng được dân.

Khi ấy bà Hoàng hậu Malikà là người rất thông minh hơn ai hết và là một người rất mạnh về đức tin. Khi thấy đức vua buồn nên bà hỏi: Tâu Ðại vương tại sao Ngài buồn bực nằm trằn trọc không yên giấc như vậy?

- Hậu không hay biết gì sao?

- Tâu Ðại vương, thần thiếp có biết chuyện gì đâu!

Ðức vua liền thuật lại những việc làm trong khi bố thí cho bà nghe.

Hoàng hậu liền tâu: Xin Hoàng thượng an lòng, đã là đấng chí tôn như Ðại vương, giàu sang, quyền hành mà lại đi thua dân chúng sao? Bệ hạ có từng nghe từ cổ chí kim vua có thua dân bao giờ đâu? Thiếp thần xin lo việc nầy cho Hoàng thượng.

Bà liền nghĩ đến việc bố thí thế nào mà dân chúng không sao làm nổi. Sự bố thí của bà nghĩ ấy là ASADISADÀNA có nghĩa là sự bố thí không có sự bố thí nào so sánh bằng.

Bà liền tâu rằng: Tâu Ðại vương, xin cho lập một cái trại bằng cây tươi, lợp bằng lụa. Cái trại ấy có thể ngồi chung quanh được năm trăm vị Ðại Ðức. Chư Ðại Ðức ngồi quanh cái rạp ấy. Lịnh Hoàng thượng truyền người làm năm trăm cây lọng bằng lụa cho đẹp, và chọn năm trăm con tượng trận để đứng sau lưng chư Ðại Ðức ôm lọng che cho chư Ðại Ðức. Rồi xuất vàng kho ra làm tám hay mười chiếc thuyền to bằng vàng để trong rạp lụa ấy. Phải chọn cho thật nhiều vị Công chúa, Quận chúa, và các vị ái nữ của hoàng thân quốc thích thật đẹp, chia ra làm nhiều nhóm, nhóm thì đâm giã những vật thơm, như trầm hay hoa thơm để lấy chất thơm, kẻ thì đem những chất thơm ấy để vào thuyền to đã làm bằng vàng trong rạp ấy, người thì múc nước lọc để vào thuyền vàng, người thì dùng chèo bằng trầm hương khuấy chất thơm nhóm thì đứng quạt hầu chư Ðại Ðức, người thì rải nước thơm ở thuyền vàng cho thơm cùng nơi trai Tăng ấy. Nếu nước và chất thơm ấy đã hết thì có người đem thêm để vào. Khi Ðại vương làm như vậy tất nhiên phải thắng vì nhân dân làm gì có tượng đến năm trăm thớt trong một ngày một buổi được, hơn nữa dân chúng làm sao có người đẹp như trong hoàng tộc để lo trong việc cúng dường, còn phải làm thuyền vàng v.v...

Ðức vua lấy làm vui mừng và khen: Hay lắm, hay lắm! Hậu giúp ta được việc, Hậu là người cứu tinh của ta. Rồi Ngài lập tức ra lịnh thi hành ngày cho kịp sự cúng dường ngày mai. Mọi việc đã xong trước sáng, nhưng chỉ còn thiếu một con tượng đứng ôm lọng thôi. Ðức vua lấy làm lo nên nói với Hoàng hậu rằng: Trẫm rất lo là thiếu một con tượng đứng ôm lọng cho một vị Ðại Ðức.

Bà Hoàng hậu hỏi: Tâu Ðại vương, vậy trong xứ này thiếu tượng sao?

 

- Tượng binh của trẫm nhiều lắm, nhưng chỉ chọn bốn trăm chín mươi chín con thuần thục có thể phục tùng ngồi ôm lọng được còn ngoài ra thì còn rất nhiều nhưng toàn là tượng hung hăng bất phục tùng khi phải ngồi lâu như vậy. Lại còn e nó trông thấy các vị Ðại Ðức nó giết liền.

- Tâu Ðại vương, thiếp thần có chỗ để cho tượng dữ ấy đứng hợp với tính tình của nó.

 

- Vậy trẫm phải xếp cho tượng ấy đứng sau vị Ðại Ðức nào?

- Thiếp thần nghĩ nên để đứng hầu Ngài Ðại Ðức Vô Não.

Ðức vua truyền y theo lời của Hoàng hậu mà thi hành. Lạ thay khi dẫn tượng đến ngồi ôm lọng sau đức Vô Não thì tượng ấy trở nên hiền hơn các tượng khác; tỏ vẻ rất dễ dạy và thuần hơn bao giờ hết. Dân chúng ai cũng biết tượng ấy là tượng hung dữ nhứt, khi đứng hầu Ngài Vô Não trở nên hiền làm mới nghĩ rằng: Tượng hung dữ nầy biết kinh sợ Ngài Ðại Ðức Vô Não.

Ðức vua cúng dường những vật thực thật là quí. Sau khi trai Tăng xong, đức vua mới bạch với đức Thế Tôn rằng: Bạch đức Thế Tôn, trẫm xin cúng dường tất cả mọi vật đã có trong cuộc lễ nầy đến Ngài, trừ ra vật nào không hợp pháp. (Ðây đức vua ngụ ý nói đến những vị Công chúa và thú như tượng, thì không hợp pháp).

 

Trong cuộc lễ ấy đức vua tiêu hết mười bốn kinh đồng vàng. Những vật vô giá là lọng, bảo tọa của Phật như làm bằng vàng nạm ngọc, của chư Tăng làm bằng vàng, ghế kê chân để bước lên bảo tọa cũng bằng vàng chạm trổ tinh vi, những món ấy đều dâng đến đức Thế Tôn.

Thật ra trong một đời của một vị Chánh đẳng Chánh giác chỉ có một lần bố thí như vậy thôi, vì sự cúng dường nầy không ai làm được lần thứ nhì. Nên có tên là Asadisadàna có nghĩa là sự bố thí không có sự bố thí nào sánh bằng.

 

Trong cuộc bố thí ấy có hai vị đại thần một vị tên là Kala và một tên là Junha có hai ý nghĩ khác nhau. Ông Kalà nghĩ: Hoàng gia sẽ đi tới chỗ bần cùng, một ngày xài hết mười bốn kinh đồng vàng như thế nầy làm sao chịu nổi, cho các Tỳ khưu nầy ăn no xong về chùa ngủ, chỉ hại là ngân khố hoàng gia bị khánh kiệt.

Còn ông Junha nghĩ: Thật ra, đức vua là người nên tán thưởng ca tụng, vì tất cả các vị Ðế vương không có vị nào có thể cúng dường trọng thể như Ngài được. Ðức vua không hồi hướng phước báu cho chúng sanh, nhưng ta nguyện xin chia phần phước báu ấy.

Sau khi cúng dường xong; đức vua liền lãnh lấy bát của đức Thế Tôn tỏ ý đợi lời cầu chúc của đức Phật.

Ðức Thế Tôn nghĩ: Ðức vua bố thí rất là trọng thể, ví như người khai thông một thác nước vĩ đại. Vậy trong hàng đại chúng có trong sạch với cuộc lễ nầy chăng? Ðức Thế Tôn mới thấy hai ý nghĩa của hai vị đại thần, Ngài nghĩ tiếp: Nếu ta chúc tụng cuộc lễ nầy thật xứng đáng thì ông Kàla lại tức giận vì ghen hờn mà chết, còn Junha sẽ đắc Tu-đà-hườn quả. Vì lòng thương hại ông đại thần Kàla nên Ngài chỉ cầu chúc sơ một câu kệ rồi ra về.

Khi về chùa tất cả các vị Tỳ khưu còn phàm hỏi Ðại Ðức Vô Não rằng: Nầy ông Vô Não, khi ông trông thấy tượng hung dữ đứng sau lưng ôm cây lọng ông không sợ sao?

- Không!

Các thầy Tỳ khưu ấy mới vào hầu Phật và bạch Phật rằng: Bạch đức Thế Tôn, ông Vô Não tỏ ra khoe mình là bực cao nhơn.

Ðức Thế Tôn dạy; Nầy các thầy Tỳ khưu, sự thật Vô Não không hề khiếp sợ bởi vì Tỳ khưu là con của Như Lai như bò chúa ở giữa đàn bò, nghĩa là vị Thánh nhơn không bao giờ kinh sợ gì cả. Ðức Thế Tôn liền thuyết câu kệ: Người can đảm cao quí đã tìm thấy được đặc ân cao thượng rồi, không rung động đã giác ngộ, Như Lai gọi là Sa môn.

 

Nói về đức vua sau khi đức Thế Tôn ra về lấy làm bực tức vì Ngài nghĩ: Ðức Thế Tôn không cầu chúc cho xứng đáng với sự cúng dường của ta giữa hàng đại chúng, Ngài chỉ nói một câu kệ. Ta sẽ không cúng dường cao quí đến Ngài nữa.

 

Mặc dầu tức giận nhưng đức vua cũng vào chùa để hỏi Phật; khi vào đến nơi bạch hỏi Phật: Bạch đức Thế Tôn trẫm đã cúng dường xứng đáng và hợp pháp hay không?

Ðức Thế Tôn hiểu tại sao đức vua hỏi vậy nên hỏi lại: Ðại vương có chuyện chi chăng?

Ðức vua không đáp câu hỏi lại nói: Ðức Thế Tôn không cầu chúc cuộc lễ của trẫm giữa hàng đại chúng một cách long trọng.

- Ðại vương cúng dường thật là tuyệt đối long trọng, sự bố thí của Ðại vương có tên là asadisadàna, sự bố thí nầy một đời của một đức Chánh đẳng Chánh giác chỉ có được một lần mà thôi, sự bố thí như thế chỉ có một người làm được mà thôi.

 

- Bạch đức Thế Tôn, nếu vậy vì nguyên nhân nào đức Thế Tôn không cầu chúc cho long trọng cho xứng với lòng kính thành và lễ vật cúng dường của trẫm?

- Như Lai xem lại thấy bộ thuộc của Ðại vương không trong sạch.

 

- Bạch đức Thế Tôn sự không trong sạch ấy như thế nào?

Ðức Thế Tôn liền thuật lại tâm của vị Ðại thần tên Kàla cho đức vua nghe. Rồi Ngài tỏ cho đức vua biết vì lòng Từ bi nên Ngài không muốn làm hại nhân mạng của một chúng sanh, thà là để đức vua bất bình đến vấn nạn Ngài.

Ðức vua nghe vậy cả giận mới gọi ông Ðại thần tên Kàla đến hỏi: Nầy Kàla ngươi có suy nghĩ như thế không?

- Tâu Ðại vương có như vậy.

- Trong khi trẫm cùng Hoàng hậu, Hoàng tử, Công chúa và cả quyến thuộc của trẫm không hề lấy của khanh ra bố thí, nghĩa là trẫm không hề bắt buộc khanh phải làm theo trẫm. Vậy nay, vật nào trẫm đã ban thưởng cho khanh, khanh được quyền mang những vật ấy ra đi khỏi x? của trẫm ngay bây giờ.

Ðức vua hạ chỉ đuổi ông Kàla ra khỏi xứ rồi Ngài liền dạy gọi ông Junha đến hỏi: Khanh có nghĩ như vậy chăng?

- Tâu Ðại vương có như vậy thật.

Ðức vua liền dạy: Lành thay, thiện thay, trẫm lấy làm trong sạch với khanh, trẫm thưởng khanh được quyền thay trẫm trị dân trong bảy ngày, được quyền xuất công khố hoàng gia ra làm việc thiện mà khanh muốn làm.

 

Rồi đức vua bạch Phật: Bạch đức Thế Tôn, xin Ngài hãy nhìn coi việc làm của kẻ tối mê. Trẫm làm phước như thế nầy mà dám chỉ trích trẫm.

Ðức Thế Tôn dạy: Ðúng vậy Ðại vương, lẽ cố nhiên người ngu dốt không hoan nghênh thỏa thích sự bố thí của kẻ khác, người ấy chỉ có một con đường đi là vào ác đạo ngày vị lai. Còn bực trí thức thì hằng hưởng ứng thoả thích với sự bố thí và tất cả các việc thiện mà người khác làm, người ấy chắc chắn được sanh về thiên đàng.

Ðức Thế Tôn liền dạy câu kệ:

NA VE KADA RIYA DEVALOKAM DANAM
BALAHAVE NAPPA SSANTI DANAM
DHIRO CADANAM ANUMODAMANO.
TENEVA SO HOTI SUKHI PA RATTHA

Nghĩa là: Người bỏn xẻn không thể đến thiên đàng được, kẻ ngu dốt không thể ca tụng sự bố thí, chỉ có bực trí thức thỏa thích hưởng ứng sự bố thí, vì vậy các vị ấy có sự an vui trong ngày vị lai.

Sau khi dứt thời pháp ông Ðại thần Junha đắc Tu-đà-huờn quả và thời pháp cũng đem lại rất nhiều hữu ích cho hàng đại chúng. Ông Ðại thần Junha được làm vua bảy ngày vì quả của sự thoả thích trong sự bố thí của người khác.

 

CHUYỆN ÔNG GARAHADINNA

Tại thành Thất La Phiệt có hai người bạn rất thân nhau là ông Sirigutta và Garahadinna. Hai người theo hai tôn giáo khác nhau, ông Sirigutta là người thiện nam trong Phật giáo. Còn ông Garahadinna là tín đồ của ngoại đạo gọi là Nigraítha .

 

Bọn Nigraítha bảo đệ tử là ông Garahadinna rằng: Người nên bảo bạn của người là Sirigutta rằng: Bạn hằng đến hầu ông Sa môn Cồ đàm làm gì, bạn có được lợi ích gì nơi ông ta chăng? Ngươi hãy cố gắng làm sao cho Sirigutta vào với bọn chúng ta, cúng dường cho chúng ta.

 

Ông Garahadinna nghe lời bọn ngoại đạo, nên thường khuyên bạn là ông Sirigutta hãy vào hầu và dâng cúng bọn ngoại đạo mãi, bất luận gặp nơi nào, đứng ngồi nơi đâu cũng nói bấy nhiêu ấy thôi. Ông thường nói: Bạn Sirigutta ơi, bạn hằng vào hầu ông Sa môn Cồ đàm, vậy bạn hãy thử vào hầu thầy chúng tôi một phen coi, bạn cúng dường cho Ngài bạn sẽ được phước báu cao thượng có phải là quí hơn không?

Phàm một người thiện nam đứng đắn thật không thể nào tin tưởng ngoại đạo được và cũng chẳng thích nghe lời ca tụng của ngoại đạo nhưng vì tình bạn buộc lòng phải nghe lời ấy mãi mãi cũng đâm ra chán tai, ông nghĩ rất nhiều về vấn đề bạn hằng kêu gọi, ngày nọ ông không còn chịu nổi nữa nên nói: Bạn Garahadinna ơi, hằng ngày bạn gặp tôi không nói gì hơn chỉ có bấy nhiêu đây hoài. Vậy xin bạn cho tôi biết: Quí vị Ðại Ðức thầy của bạn thông hiểu những gì?

 

- Ô trời ơi! Bạn đừng nói vậy chớ, những gì mà thầy tôi không biết thật là không có. Thầy tôi thông thấu quá khứ, hiện tại và vị lai, hiểu rõ sự hành động của thân, khẩu, ý, biết chuyện nên làm hay không nên làm, hoặc chuyện sẽ xảy đến hay không?

- Bạn ơi! Nếu thật vậy tại sao bạn không bảo cho tôi biết từ trước thật bạn quấy lắm. Vậy tôi sẽ biết tuệ giác của thầy bạn trong ngày mai. Vậy xin bạn thỉnh thầy bạn đến thọ thực nơi tư gia của tôi ngày mai nầy.

Ông Garahadinna lật đật đến chùa Nigraítha làm lễ xong mới nói, bạn tôi là Sirigutta xin kính thỉnh quí Ngài đến thọ thực nơi nhà bạn tôi sáng mai.

Bọn Nigraítha lấy làm vui mừng hỏi: Có thật Sirigutta nói với người như vậy không?

- Thưa quí Ngài, thật đúng như vậy.

Phận sự của ngươi đã kết quả mỹ mãn, kể từ khi mà Sirigutta trong sạch với chúng ta thì gọi là chúng ta được tài lợi vĩ đại rồi.

Ông Sirigutta là Trưởng giả nên nhà rất to rộng. Khi ông về nhà dạy người đào một con đường giữa nhà móc đất ra làm một cái hầm to, mới đem sình non trộn phân đổ vào hầm ấy, dưới hầm có đóng nọc cột dây, trên nọc ấy lót ván trải nệm gấm thật sang, chưng dọn đủ các vật thật xứng đáng một cuộc lễ long trọng. Không ai có thể biết dưới ấy là một hầm phẩn vĩ đại. Trên miệng hầm leo lên lót lá chuối thật trơn, ông bảo người nhà rằng: Khi nào bọn ngoại đạo ngồi, ông ra dấu lập tức kéo dây cho những cây nọc ấy ngã xuống những tấm ván ấy rớt ra, bọn ngoại đạo bị mất thăng bằng phải bị rớt xuống hầm phẩn thay vì ngồi trên đệm gấm.

 

Khi chuẩn bị chu đáo thì cũng vừa lúc ông Garahadinna đến hỏi ông Sirigutta rằng: Bạn đã chuẩn bị xong chưa?

Ông Sirigutta nói: Ðây bạn hãy xem tôi đã chuẩn bị như vầy đã xong rồi đây.

 

- Vậy vật cúng dường đâu không thấy?

Ông Sirigutta liền chỉ những vật đựng đồ cúng dường thật nhiều vật thực ngon ngọt chẳng thiếu chi. Ông Garahadinna thấy vậy lấy làm vừa lòng, trở về đưa năm trăm người ngoại đạo đến thọ thực.

Ông Sirigutta ra tận ngõ tiếp đón, đảnh lễ thật là cung kính xong ông phát nguyện trong tâm rằng: Tôi được nghe bạn tôi bảo rằng: Quý vị là đấng hiểu thông mọi việc trong tam giới cả quá khứ ,hiện tại và vị lai? Nếu quý Ngài hiểu rõ những gì trong nhà tôi thì xin đừng vào. Khi quý vị vào thì không có vật thực chi hết. Nếu quý vị không hiểu thông mà vào thì tôi sẽ làm cho quý vị rơi vào hầm phẩn. Phát nguyện xong, ông liền đứng dậy tránh đường cho những ông ngoại đạo vào, đồng thời ông cũng ra dấu cho người nhà biết để giựt dây. Khi đến nơi trải đệm gấm bọn ngoại đạo biết đây là chỗ của mình liền ngồi xuống.

Người nhà ông Sirigutta nói: Xin quý Ngài khoan ngồi.

- Tại sao?

- Thưa quí Ngài đợi chư vị vào hết đồng ngồi xuống một lượt đây là phong tục của nhà nầy như thế.

- Ngươi nói phải.

 

Khi đã vào đủ mặt người nhà ông Sirigutta nói: Xin quí vị đồng an tọa. Khi các người ấy an tọa xong người nhà ông Sirigutta liền kéo dây làm cho những cây nọc đỡ ván ngã; những tấm ván rơi ra, các ông ấy mất thăng bằng không thể gượng được nên té vọng đầu xuống hầm phẩn to. Ông Sirigutta liền lại đống các cửa hết, và người nhà cầm roi đứng nơi miệng hầm chỗ các ông ấy leo lên quất cho thật đau. Ðã bị rơi trong hầm phẩn, khi leo lên bị lá chuối trơn mà còn bị người cầm roi đợi đánh thật là một chuyện chưa hề có bao giờ, các vị ấy lấy làm hổ thẹn. Khi ông Sirigutta thấy đánh nhiều rồi ông cho mở cửa các ông ấy lật đật chạy về chùa.

 

Khi xong việc bọn ngoại đạo đến nhà ông Garahadinna than trách ông rằng: Ông đã làm một chuyện thật khổ cho chúng tôi. Xong bọn chúng mới thuật lại những gì đã xảy ra.

Ông Garahadinna lấy làm tức giận vì nghĩ rằng: Sirigutta làm cho ta xấu hổ vô cùng để người nhà đánh chư Ðại Ðức của ta, các Ngài là phước điền của ta mà làm vậy thật đáng giận.

 

Ông liền đội cáo trạng vào tận nhà vua kêu oan vì việc làm tai hại của ông Sirigutta , yêu cầu đức vua phải trừng phạt Sirigutta cho xứng tội. Ðức vua liền cho đòi Sirigutta vào chầu hỏi cho rõ nguyên nhân vì sao làm như vậy.

Ông Sirigutta vào chầu và tâu rằng: Tâu Ðại vương khi Ngài chưa rõ câu chuyện không nên phạt tôi.

- Không, ta phải xét rõ mới định tội.

- Tâu Ðại vương, vậy xin Ðại vương cứ hỏi.

- Vậy ngươi hãy khai những gì người đã làm và tại sao người hành động như vậy?

- Tâu Ðại vương, bạn tôi là Garahadinna, hằng bảo tôi rằng: Bạn ơi, v.v... (ông thuật lại những gì mà ông Garahadinna đã nói). Khi ông thuật xong liền tâu rằng: Tâu Ðại vương, nếu Ðại vương thấy tôi quấy thì tùy Ngài phạt, tôi không dám trái lịnh.

Ðức vua liền hỏi tiên cáo là ông Garahadinnna rằng: Theo lời khai của Sirigutta có đúng vậy không?

Garahadinna tâu: Tâu Ðại vương, sự thật là vậy.

Ðức vua liền phán: Ngươi sùng bái Nigraítha là người không thông hiểu như lời người nói, lại đi dối gạt người là đệ tử của đức Chánh đẳng Chánh giác rằng: Thầy của ngươi lão thông mọi sự việc. Ðây vì lời nói của ngươi làm hại ngươi chỉ có người là người đáng bị phạt thôi, còn Sirigutta vô tội.

Ông Garahadinna càng tức giận hơn, nên từ ấy đi hai người không hề gần nhau nữa. Chừng một tháng sau Garahadinna mới nghĩ: Nếu ta giận Sirigutta như vậy hoài thì có ích lợi chi cho ta, ta phải trả thù làm hại những thầy Tỳ khưu hằng đến thọ thực tại nhà Sirigutta. Nghĩ vậy nên Garahadinna mới đến nhà bạn giả lả và nói rằng: Lẽ cố nhiên, sự cãi vã nhau, gây gổ nhau giữa bạn bè và quyến thuộc là sự thường. Tại sao bạn lại không chuyện trò với tôi?

- Bạn ơi, sở dĩ tôi không trò chuyện với bạn, vì bạn không chơi với tôi. Vậy việc gì đã qua ta nên để nó qua đi. Chúng ta không nên để mất tình bạn.

Kể từ ngày ấy đi, hai người chơi thân với nhau như xưa. Ngày nọ Sirigutta bảo Garahadinna rằng: Bạn gần với bọn Nigrantha ấy đem lợi ích gì lại cho bạn? Bạn vào hầu đức Thế Tôn, hoặc cúng dường đến Ngài không lợi ích hơn hay sao?

Ðược nghe lời ấy dường như gãi đúng vào chỗ ngứa, nên Garahadinna hỏi: Vậy Thế Tôn của bạn hiểu những gì?

- Bạn chẳng nên hỏi câu ấy, không có gì trong tam giới mà đức Thế Tôn của tôi không thông hiểu. Ngài thông hiểu tất cả những nhân của quả khác nhau, hiểu rõ tâm của chúng sanh có bao nhiêu nhịp.

- Vậy mà tôi không hề hay biết chi hết, tại sao từ trước đến nay bạn không bảo cho tôi biết. Vậy xin thỉnh đức Thế Tôn đến thọ thực tại nhà tôi ngày mai nầy.

Ôg Sirigutta vào hầu Phật và bạch Phật rằng: Bạch đức Thế Tôn, Garahadinna là bạn của đệ tử, yêu cầu đệ tử thỉnh cầu đức Thế Tôn và chư Ðại Ðức đến thọ thực ở nhà y ngày mai nầy. Nhưng trước đây đệ tử có xử tệ với bọn ngoại đạo Nigraítha (xong ông thuật lại những gì ông đã làm). Ðệ tử không biết rằng: Garahadinna có trả cái hận mà đệ tử đã làm rồi chăng? Nếu Garahadinna cúng dường đến đức Thế Tôn bằng lòng trong sạch hay không, tùy theo đức Thế Tôn thông hiểu và nhận lời hay không?

Ðức Thế Tôn dùng tuệ giác quan sát thấy rằng: Garahadinna đào hầm sâu giữa nhà, trong đốt tám chục xe gỗ to thành than, đợi khi nào đức Thế Tôn và chư Tăng đứng trên sàn sẽ giựt dây cho sàn sập. Ðức Phật và chư Tăng rớt ngay vào hầm than đỏ. Ngài mới nghĩ thêm rằng: Khi ta đến nơi ấy ta sẽ đứng trên ngọn lửa hồng đang cháy dữ, những tấm ván ấy sẽ biến mất và hoa sen trong lửa đỏ hiện ra đỡ dưới chân Như Lai và các vị Tỳ khưu theo hầu Như Lai cũng đồng một thể, khi ấy Như Lai và chư Tăng cùng ngồi trên hoa sen nơi mà Garahadinna định là chỗ Như Lai ngự. Ðức Thế Tôn nhứt định làm như vậy nên Ngài nhận lời.

Sirigutta về cho bạn hay rằng: Ðức Thế Tôn đã nhận lời. Ông Garahadinna cũng làm in như ông Sirigutta thay vì để sình và phẩn ông lại cho đốt tám chục xe củi to. Ông ta tự nhủ: Ta sẽ cho Sirigutta thấy quả của việc làm của y.

 

Sáng sớm ông Sirigutta đến nhà bạn và hỏi: Bạn đã chuẩn bị xong hết chưa?

- Ô, hoàn toàn lắm bạn ơi.

 

Rồi ông dẫn ông Sirigutta đi coi chỗ dọn đồ ăn đủ thứ, nhưng trong những đồ vật ấy không có đồ ăn gì hết.

Sirigutta thấy sự chuẩn bị của bạn thật là chu đáo, ông rất hài lòng nên nói: Lành thay, thiện thay.

 

Thường khi, người trong thời ấy nghe đức Thế Tôn ngự đến nơi nào thuộc phạm vi của ngoại đạo thì cả dân chúng không phải tín đồ cũng đến nơi ấy, vì họ muốn thấy sự thắng bại của hai bên. Còn tín đồ đến nơi ấy vì muốn thấy đức Thế Tôn giáo hóa ngoại đạo và nghe pháp luôn.

Sáng ngày, đức Thế Tôn cùng năm trăm vị Ðại Ðức ngự đến nhà của Garahadinna. Ông Garahadinna ra tận nơi cổng đón tiếp đức Thế Tôn và đảnh lễ, rồi cũng phát nguyện y như ông Sirigutta đã làm.

Ðức Thế Tôn biết rõ, nhưng Ngài vẫn ngự vào như thường. Ông Garahadinna nói: Xin thỉnh Ngài đi vào ngã nầy. Bạch đức Thế Tôn, khi Ngài vào nhà tôi xin Ngài nên biết thể lệ theo gia đình tôi.

Ðức Thế Tôn hỏi: Vậy Như Lai phải làm sao?

 

- Phải đợi tất cả các vị ấy đồng vào một lượt. Thâm tâm của Garahadinna sợ vào từng vị một thì sẽ biết cơ mưu và chỉ rớt vào hầm một ít vị thôi.

- Thiện thay, thiện thay.

 

Rồi đức Thế Tôn cùng chư Tăng ngự vào. Khi vừa đến hầm lửa thì ông Garahadinna lại trở ra và nói: Xin Ngài tự tiện ngự vào nơi ấy.

 

Khi đức Thế Tôn để chân lên hầm lửa thì tấm ván ấy tiêu mất và trong hầm lửa đang cháy rực rỡ ấy mọc lên một cái hoa sen thật to đỡ chân đức Thế Tôn, Ngài ngự đi trên hoa sen đến nơi Ngài ngự. Năm trăm vị Ðại Ðức cũng đồng một thể như Phật.

Khi ấy ông Garahadinna thấy vậy kinh sợ vô cùng, ông cảm thấy chính ông đang bị lửa thiêu đốt nóng nảy vô cùng. Ông liền chạy đến nhà của ông Sirigutta nói: Bạn ơi, xin Ngài làm phước cứu tôi với (vì kinh sợ quá kêu bạn là Ngài).

Ông Sirigutta hỏi: Có chuyện chi vậy bạn?

- Trong nhà tôi không có món vật thực chi để cúng dường đến Phật bảo và Tăng bảo hết. Bây giờ làm sao đây?

- Vậy hôm qua nay bạn làm những gì?

- Tôi bảo người đào hầm đốt tám chục xe củi để đốt đức Phật và chư Tăng. Hoa sen thật to trong lửa hồng mọc lên đỡ chân các Ngài vào ngồi nơi trai Tăng. Giờ tôi phải làm sao đây?

- Hồi sáng bạn có chỉ cho tôi thấy nầy là vật thực cúng dường đã có đủ hết rồi không phải sao?

- Ðó toàn là đồ để gạt bạn thôi.

- Thôi vậy cũng chẳng sao, bạn hãy về xem lại trong những đồ mà bạn chỉ tôi ban sáng nói: Ðây là nồi cháo, nọ nồi cơm v.v... thì bạn sẽ thấy những gì bạn cho tôi biết buổi mai giờ có đủ hết.

 

Ông Garahadinna lật đật về giỡ nấp nồi và chén v.v... mà ông chưng để gạt ông Sirigutta ban sáng thì thấy có đầy những vật thực.

Ông Garahadinna thấy chuyện phi thường như vậy lấy làm lạ và sự trông sạch với Phật bảo và Tăng bảo phát sanh rất mạnh; làm cho ông nhẹ cả người hình như sắp bay bổng lên không trung.

 

Ông liền lo việc cúng dường đến đức Thế Tôn và chư Tăng với tất cả tấm lòng trong sạch và kính thành chưa bao giờ có trong tâm ông.

 

Sau khi thọ thực xong đức Thế Tôn thuyết chúng sanh nào không rõ được công đức của đệ tử của Như Lai và ân đức Phật pháp, vì thiếu tuệ nhãn, người mà thiếu tuệ nhãn gọi là kẻ mù. Người có trí tuệ gọi là người sáng mắt.

Ðức Thế Tôn thuyết câu kệ:

YATHÀ SANKARADHANASMIN
UJJHITASMIN MAHAPATHE
PADUMAN TATTHE JÀYETHA
SUCIGANDHAN MANORAMAM
EVAM SANKÀRA BHƯTESU.
ANDHABHƯTE PATHUJJANO
ATIROCATI PANNÀYA
SAMMÀSAMBUDDHA SÀVAKO.

Nghĩa: Hoa sen có mùi thơm sanh trong đống rác dơ ở bên vệ đường. Những hoa sen ấy, vẫn được người yêu chuộng. Cũng như những phạm nhơn là đống bùn nhơ, đệ tử Như Lai huy hoàng giữa đám phàm nhơn là người thiếu trí tuệ.

CHÚ GIẢI: Ðại ý câu kệ nầy đức Thế Tôn dạy: Hoa sen sanh trong bùn nhưng chẳng hôi tanh mùi bùn. Cũng như chư Thinh Văn đệ tử Phật cũng là con người có tấm thân bẩn thỉu cấu hợp bởi đất, nước, gió, lửa, ba mươi hai thể trược, nhưng các Ngài đã giải thoát vì nhờ có tuệ nhãn, nên không hề làm điều tội lỗi và vật nhơ của tinh thần, mặc dầu sống trong đời đầy sự ô trược là tội lỗi nhưng tâm rất là trong sạch không bợn nhơ phiền não.

Sau khi dứt thời pháp hai ông Sirigutta và Garahadinna đều đắc Tu-đà-hườn quả và cũng có rất nhiều người được đắc quả Thánh.

VIDUDABHA TRU DIỆT DÒNG THÍCH CA

Ngày nọ, đức vua Ba Tư Nặc ngự trên lầu trong hoàng cung ngó ra đường trông thấy chư Tỳ khưu đi đến nhà của ông Trưởng giả Cấp Cô Ðộc, nhà bà Visàkhà , nhà bà Suppavàsà để thọ thực. Ngài hỏi quan hầu rằng: Chư Ðại Ðức đi đâu nhiều như vậy?

Quan hầu tâu: Tâu Ðại vương, mỗi ngày ông Trưởng giả Cấp Cô Ðộc có thỉnh hai ngàn vị Tỳ khưu về nhà cúng dường, năm trăm vị về nhà ông Cula Anàthapindika , năm trăm vị về nhà bà Visàkhà , còn năm trăm vị về nhà bà Suppavàsà. Những nhà ấy trai Tăng như vậy hằng ngày.

Ðức vua nghe vậy phát tâm trong sạch với sự cúng dường của các nhà ấy, nên Ngài liền vào Kỳ Viên tịnh xá hầu Phật và xin thỉnh đức Thế Tôn và một ngàn vị Tỳ khưu đến hoàng cung đ? tự tay Ngài cúng dường trót bảy ngày. Ðến ngày thứ bảy, đức vua bạch với đức Thế Tôn rằng: Trẫm cầu xin đức Thế Tôn và năm trăm vị Ðại Ðức đến thọ thực nơi hoàng cung của trẫm hằng ngày.

Ðức Phật dạy: Tâu Ðại vương, vì theo lệ thường của một đấng Chánh đ?ng Chánh giác không bao giờ lãnh thọ thực vật cúng dường một nơi nào mãi mãi được. Vì rất có nhiều người mong ước đức Phật ngự đến nhà.

 

- Nếu vậy, xin đức Thế Tôn giao phận sự ấy cho một vị Ðại Ðức nào đến đây thọ thực cũng được.

Ðức Thế Tôn giao phận sự ấy lại cho Ðại đức Ananda. Vì vô ý nên đức vua không truyền cho người trong hoàng cung phải lo vật thực, trải chỗ ngồi để tiếp rước chư Tăng. Vì lẽ ấy nên đến ngày thứ tám là sự tiếp rước chư Tăng đã trở nên bê trễ, vì người trong hoàng cung không ai chịu khó thi hành nhiệm vụ khi không có lịnh vua, nói tóm lại phần lớn toàn là những bọn lười biếng vô trách nhiệm.

Vì lẽ ấy nên chư Tăng đến thọ thực nơi hoàng cung càng ngày càng giảm xuống, vì các Ngài không muốn vì miếng ăn mà phải bị trễ nải tu hành của mình. Các Ngài liền lần lần đi nơi khác khất thực. Ðến khi đức vua nhớ lại sự trai Tăng của Ngài, Ngài liền trở lại chỗ ấy thì chỉ còn vỏn vẹn có một mình Ðại Ðức Ananda thôi. Sở dĩ mà Ðại Ðức Ananda còn đến là vì Ngài là bực có đào tạo rất nhiều Ba la mật nên Ngài còn rán để giữ đức tin của thí chủ thôi. Ngài không nản chí ngã lòng mặc dầu Ngài không được người nơi ấy đối đãi nhã nhặn. Ngài phải đứng chờ thật lâu mới có một chỗ ngồi và đợi rất lâu mới có vật thực cúng dường. Khi đức vua nhớ đến và đến nơi ấy thì chỉ còn có một mình Ðại đức Ananda ngồi nơi ấy thôi.

 

Khi đức vua thấy có một mình Ðại Ðức liền tức giận hỏi: Chư Ðại đức không đến sao?

Có người đáp: Tâu Ðại vương, chỉ có một mình Ðại Ðức Ananda đến mà thôi.

Ngài lấy làm buồn phiền vì nghĩ rằng: Các vị Tỳ khưu bỏ không đến thọ thực như vậy thật là bất phải. Ngài liền đi thẳng vào Kỳ Viên tịnh xá bạch hỏi Phật: "Bạch đức Thế Tôn, trẫm có chuẩn bị vật thực đúng năm trăm khẩu phần để dâng cúng cho chư Tỳ khưu, nhưng chỉ có một mình Ðại Ðức Ananda đến thọ thực thôi. Năm trăm vị Tỳ khưu mà trẫm thỉnh ấy không đến thọ thực theo lời thỉnh cầu của trẫm. Vậy không biết vì lẽ gì?

Ðức Thế Tôn không nói gì đến cái quấy của chư Tăng mà cũng chẳng nói gì về việc bê trễ của người trong hoàng cung, Ngài chỉ dạy: Vì lẽ đệ tử của Như Lai không được thân thiện với Ðại vương nhiều, nên không đến. Khi ấy đức Thế Tôn dạy nhân của chư Tăng không đến. Rồi đức Thế Tôn nhóm chư Tỳ khưu lại dạy rằng:

- Nầy các thầy Tỳ khưu, gia đình nào có chín điều các thầy Tỳ khưu chưa đến không nên đến. Nếu vị nào đã thường đến với gia đình ấy không nên ngồi gần. (Ý nói không nên đến thường hay chẳng nên đến).

 

Chín điều ấy là:

1/ Người chủ nhà không đứng dậy tiếp rước niềm nỡ.
2/ Không lễ bái bằng cách cung kính.
3/ Không cho chỗ ngồi bằng cách vui vẻ.
4/ Che giấu những vật đã có.
5/ Khi có nhiều nhưng cho rất ít.
6/ Có đồ ngon cho đồ dở.
7/ Cho bằng cách không cung kính.
8/ Không đến gần để nghe pháp.
9/ Khi đang thuyết pháp giảng đạo tỏ vẻ không hài lòng.

Nầy các thầy Tỳ khưu gia đình nào có chín điều kể trên. Vị Tỳ khưu nào chưa đến gần đừng nên đến gần. Nếu đã đến gần rồi chẳng nên ngồi gần.

 

Nầy các thầy Tỳ khưu gia đình nào có chín điều các thầy Tỳ khưu chưa đến gần nên đến gần, nếu đã thân cận rồi nên thân cận hơn, chín điều ấy là chi? Chín điều ấy là: (Xin miễn kể ra đây xin quý vị hiểu trái với chín điều kể trên).

Tâu Ðại vương, đệ tử của Như Lai không thân cận với hoàng cung vì vậy nên không đến.

Ðức vua liền nghĩ: Vậy ta phải làm sao để ra người thân với các thầy Tỳ khưu? Chỉ có phương pháp là cưới con gái dòng Thích Ca về phong làm Hoàng hậu. Như vậy thì các thầy Tỳ khưu trẻ tuổi và Sa di sẽ là người thân của ta. Vì nghĩ muốn làm quyến thuộc với Phật nên Ngài đưa sứ thần đến xin cầu hôn với dòng Thích Ca. Ngài còn dặn sứ thần rằng: Phải hỏi kỹ coi có phải là công chúa không và là con của ai?

 

Khi sứ thần xứ Thất La Phiệt đến xin cầu hôn. Dòng Thích Ca liền họp lại bàn rằng: Nếu ta không bằng lòng thì chỉ chuốc lấy tai hại cho ta, nhưng trong vũ trụ nầy không ai có dòng trong sạch và cao quí như dòng Thích Ca của chúng ta. Vậy chúng ta phải làm sao đây?

Ông Mahànama có ý kiến: Tôi có một người con gái con của một phi tần tên là Vàsabhàkhattiyà, con gái ấy đẹp tuyệt đối, nết hạnh lại rất đoan trang. Chúng ta sẽ gả nàng cho vua Ba Tư Nặc.

Dòng Thích Ca đều tán thành ý kiến ấy.

Vị sứ thần hỏi: Vị công chúa ấy con của vị nào trong dòng Thích Ca?

- Vị Công chúa ấy là cháu nội của chú đức Thế Tôn tên là nàng Vàsabhàkhattiyà .

Vị sứ thần liền về trình những gì đã biết cho đức vua Ba Tư Nặc nghe.

Ðức vua dạy: Ðược vậy càng hay, nhưng xin quý vị nên quan tâm vì dòng Thích Ca có tiếng là khôn ngoan có thể trao con của một tỳ nữ cho ta cũng nên. Vậy nên coi cô ta có từng ẩm thực cùng mâm với cha cô không?

Các vị sứ thần trở lại rước dâu, nhưng trước khi rước dâu tâu với đức vua Mahànàma rằng: Hoàng thượng chúng tôi muốn được chứng kiến trong khi Hoàng thượng và Công chúa cùng ẩm thực.

Ðức vua Mahànàma đáp: Ðược chớ có sao. Rồi truyền trang điểm cho Công chúa thật đẹp và truyền đòi đến cùng ẩm thực với Ngài.

Các vị sứ thần xứ Savatthi thấy vậy nên tin chắc là con của đức vua Mahànàma , nên làm lễ rước lịnh bà về rất là long trọng. Khi đức vua trông thấy mặt công chúa Thích Ca lấy làm đẹp dạ, nên liền truyền làm lễ phong chức Chánh cung vô cùng trọng thể. Không lâu lịnh bà hạ sanh được một vị Hoàng nam. Ðến ngày đặt tên đức vua cho một vị Ðại thần vào tâu với Hoàng thái hậu rằng: Ðức vua đã có được một vị Hoàng tử. Vậy lịnh bà Hoàng thái hậu và quyến thuộc muốn đặt tên chi?

Vị Ðại thần vào tâu hỏi chuyện ấy lại là một vị quan già và hơi nặng tai. Khi Hoàng thái hậu được biết tin ấy bà liền phán rằng: Nàng Vàsabhàkhattiyà , khi chưa có con là một vị Hoàng phi được vua sủng ái hơn hết, phương chi hôm nay lại hạ sanh được một vị Hoàng Nam thì càng làm cho đức vua quý mến hơn lên không biết sao kể xiết.

Ðã lãng tai mà lại không dám hỏi lại cho kỹ khi mà nghe không rõ. Vì lẽ kính nể Hoàng thái hậu, ông nghe tiếng Vàsabhàkhattiyà ấy thành ra Vidudabha. Nên vào tâu rằng: Hoàng thái hậu đặt tên Thái tử là Vidudabha .

Ðức vua lấy làm lạ nhưng cũng chẳng hỏi lại vì Ngài nghĩ: Chắc đây là họ xưa của gia đình ta. Nên Ngài làm lễ đặt tên là Vidudabha. Ðức vua rất cưng yêu Thái tử, nên khi còn là trẻ con mà phong cho chức Soái. Vì Ngài nghĩ rằng: Làm như vậy chắc đức Thế Tôn rất hài lòng.

Ðến bảy tuổi Thái tử thấy các vị Hoàng tử hay các con vị hoàng thân khác có đồ chơi nào là hình tượng, ngựa v.v... ở bên nội hay bên ngoại gởi đến cho ,còn chính ông thì không thấy bên ngoại gởi gì đến cho. Nên mới hỏi mẹ rằng: Mẫu hậu, tại sao những trẻ con khác không phải con vua như con mà được người ta gởi đồ biếu còn con thì ngoại con không gởi gì cho con hết vậy?

Hoàng hậu đáp: Ngoại con là dòng Thích Ca cao sang vô cùng mà cũng ở rất xa, nên không gởi gì đến con.

Ðến mười sáu tuổi Thái tử Vidudabha nói với mẹ nữa rằng: Mẫu hậu con muốn về quê ngoại. Bà thường khuyên con không nên đi. Nhưng Thái tử nằn nằn đòi đi, bà không thể nào ngăn được. Nên phải cho đi, nhưng trước khi đi bà đã viết thư về cho dòng Thích Ca hay trước.

 

Sau khi xin phép Phụ vương được, ông liền dẫn theo nhiều quan quân ra đi thật là oai nghiêm và rất là long trọng.

Nói về dòng Thích Ca khi được thơ của bà Vàsabhàkhàttiya liền hội nhau lại bàn rằng: Trong dòng Hoàng tộc không ai đi lạy Thái tử Vidudabha được. Vậy phải cho các vị Hoàng tử và Công chúa nào nhỏ tuổi hơn Thái tử Vidudabha đi ở nơi khác để lánh mặt không chịu làm lễ con người phi tần.

 

Khi Thái tử Vidudabha đến ,thành Ca Tỳ La Vệ hội lại nơi nhà tiếp tân tiếp đón Thái tử rất nồng hậu. Khi ấy có một vị Trưởng lão đứng ra giới thiệu cho Vidudabha biết rằng đây là ông, bà, bác, chú, anh chị v.v... Khi người có vai lớn hơn thì Thái tử phải hành lễ nghiêm trang. Sau khi chào hỏi đủ mọi người Thái tử lấy làm lạ tại sao không có một người nào làm lễ mình? Liền hỏi: Không có ai làm lễ tôi sao?

 

- Con ơi, những em con có đứa thì phải đi học nơi xa xôi, có đứa phải đi công tác nơi biên cương, có đứa đi săn bắn chưa về.

Thái tử Vidudabha không biết nên tin bằng lời; và ở lại chơi tại thành Ca Tỳ La Vệ một lúc lại ra về. Khi ấy có một cung nhơn dùng sữa tươi rửa chỗ nằm ngồi của Thái tử Vidudabha và cằn nhằn rằng: Chỗ nầy là chỗ ngồi của con của phi tần là Vidudabha mà cũng mất công ta rửa.

Rất rủi là trong khi ấy có một vị quan hầu của Thái tử bỏ quên cây gươm nơi ấy nên trở lại mang đi. Vừa khi nghe câu nói ấy, ông mới hỏi và được biết sự thật do người cung nữ ấy nói. Ông liền đem chuyện ấy về nói với quan quân theo hầu nghe. Chuyện ấy trở nên chuyện rất quan trọng. Thái tử Vidudabha nghe lời ấy lấy làm tức giận nên nói rằng: Ta sẽ lấy máu nơi cổ của dòng Thích Ca rửa chỗ của họ ngồi hay đứng; sau khi ta được tức vị thay phụ vương trị dân.

Sau lại đức vua Ba Tư Nặc nghe được chuyện ấy lấy làm tức giận giáng bà Vàsabhà từ Chánh hậu xuống hàng tôi đòi. Giáng Thái tử Vidudabha từ Soái xuống hàng quân nhân mà bị cầm tù.

Ðôi ba ngày sau khi giáng cấp Hoàng hậu và Thái tử Ðức vua mới vào hầu đức Thế Tôn và bạch Phật rằng: Bạch đức Thế Tôn, quyến thuộc của Ngài gả con gái của phi tần cho trẫm. Vì vậy trẫm giáng nàng và con xuống hạng tôi đòi.

Ðức Thế Tôn không nói chi về việc giáng hay thưởng. Ngài nói: Tâu Ðại vương, dòng Thích Ca làm chuyện ấy thật quấy. Nếu đã nhận lời gả cho Ðại vương thì phải gả một vị Công chúa thật mới xứng đáng. Ðại vương, Như Lai xin bảo cho Ðại vương hiểu rõ điều nầy rằng: Nàng Vàsabhàkhattiya là con gái của đức vua Mahànàma và đã chánh thức làm lễ sính hôn với Ðại vương trước công chúng. Thái tử Vidùdabha có là do nơi dòng máu của Ðại vương. Sự thật họ mẹ không quan trọng mà chỗ quan trọng là do nơi họ cha. Vì vậy nên khi xưa các vị minh quân phong Chánh hậu cho một cô gái nghèo đi hái củi về bán và về sau con của cô ấy lại làm vua tại xứ Bàrànasì có danh là Katthavàhana .

Ðức vua nghe chuyện ấy hết tức giận, vì nghĩ rằng: Họ mẹ không quan trọng bằng họ cha. Ngài liền hạ chiếu tha cho hai mẹ con và được phục lại chức vụ cũ.

Ðức vua Ba Tư Nặc có một vị Tướng quốc cũng là bạn đồng môn tên là Bandula. Ông là người tài ba lỗi lạc có phần hơn cả nhà vua. Hơn nữa ông là người thanh liêm chánh trực. Vì vậy bọn gian thần ghét ông vì không thể ăn khoét của dân chúng hay gian lận của công khố. Dân chúng yêu thương ông như một ông cha hiền.

Vì ông là người có nhiều uy tín và dân chúng yêu thương nên bọn tham quan ô lại oán ghét ông. Nên mới kiếm chuyện tâu với đức vua Ba Tư Nặc rằng: Ông Tướng quốc ngoài thì lo lấy lòng dân trong thì lo họp với các quan tính đoạt ngai vàng. Lời ấy lâu ngày làm cho đức vua tin, vì vậy Ngài định giết Tướng quốc và các con của Ngài. Ðức vua không dám ra lịnh giết người vô tội, nên hạ chiếu sai Tướng quốc đem binh dẹp loạn biên cương, còn một mặt Ngài cho phục binh giữa đường chờ khi đêm tối xông vào bắt Tướng quốc và các con giết sạch. Chuyện ấy đã thành công, nhà vua nào biết vì vô tình đã giết bạn hiền mà cũng là một đại thần tài danh hơn người. Sau vì biết đã giết lầm người bạn lành nên đức vua lấy làm ân hận. Truyền trả quan chức lại và phong thưởng cho vợ Tướng quốc, nhưng bà từ chức và xin trở về quê vì bà là Công chúa dòng Licchavì xứ Vesàlì. Ðức vua thấy bà không nhận lời liền giao quyền ấy cho cháu ông Bandula là Dighakarayana lên làm Tướng quốc.

 

Mặc dầu được làm Tướng quốc thế cho bác nhưng lòng vẫn oán thù đức vua và cố tìm thế hại đức vua cho kỳ được.

Nói về đức vua Ba Tư Nặc từ khi biết mình giết lầm một đấng công thần và là bạn cùng thầy thì Ngài lấy làm ân hận không sao kể xiết, Ngài quên ăn mất ngủ, cả ngày chỉ nhớ bạn xưa; sức khỏe càng ngày càng kém.

 

Khi đức Thế Tôn ngự tại Medalupa tại xứ Saka. Ðức vua Ba Tư Nặc muốn đến yết kiến đức Thế Tôn, Ngài liền ngự đi bằng cách đại giá và Ngài đem cả gươm lịnh theo. Khi đến nơi Phật ngự, Ngài truyền đóng quân lại nơi xa chùa vì Ngài không muốn làm kinh động đức Thế Tôn và Tăng chúng. Ngài liền cởi đồ triều phục và gươm cùng ấn lịnh giao cho Tướng quốc còn Ngài thì vận thường phục vào hầu Phật.

Dịp may hiếm có, Tướng quốc nhân cơ hội ấy liền trao gươm và ấn lại cho Thái tử Vidudabha và kéo đại đội quân mã ra về chỉ để lại con ngựa và một nàng hầu cho nhà vua thôi. Sau khi hầu Phật ra, đức vua không còn thấy quân đội của mình chỉ còn có một con ngựa và một nàng hầu. Hỏi nàng hầu mới biết cớ sự. Ðức vua nghĩ: Thôi ta cũng có phương pháp trị chúng, ta phải nhờ cháu ta (là đức vua A Xà Thế) bắt Vidudabha. (Ðức vua A Xà Thế là một nhà vua giỏi về chiến trận nhứt trong thời ấy, đến đổi đức vua Ba Tư Nặc mấy lần đem binh vấn tội vẫn phải bị thua). Ðức vua cùng nàng hầu ra đi về thành Vương Xá, vì đi đường cực khổ thiếu thốn đủ mọi việc, nắng gió, khi đến cửa thành Vương Xá thì là cửa thành cũng vừa đóng, nên nhà vua phải nghỉ ở một cái nhà bên vệ đường thường gọi là Quá Nhai Ðình. Nhà vua vì mệt nhọc nên lâm bệnh, thăng hà trong đêm ấy. Sáng ngày nghe tiếng nàng hầu khóc kể: Ðại vương ơi, Ngài là đấng tối cao giàu sang quyền uy cao cả mà hôm nay thăng hà nơi cái chòi nhỏ như vầy.

Ðức vua A Xà Thế nghe tin ấy lật đật đến nơi thỉnh xác vào thành làm lễ hỏa táng thật là long trọng theo thể lệ của một vị Ðại vương.

Sau khi Thái tử Vidudabha về thành tức vị xong. Ðiều thứ nhứt mà nhớ đến là trả mối thù của dòng Thích Ca khinh khi là con người tỳ nữ. Liền truyền điểm đại đội hùng binh kéo đi đánh sứ Sakka. Trong tâm định phải tru diệt cho hết sạch dòng Thích Ca.

Ðồng thời, vua Vidudabha đem binh đi đánh dòng Thích Ca. Ðức Thế Tôn cũng biết. Ngài thấy tai nạn vĩ đại phải đến với dòng Thích Ca. Ngài nghĩ: Ta phải tìm phương cứu vãn tình thế này, không thì cả đôi bên đều bị tiêu diệt hết.

Sáng ngày hôm ấy đức Thế Tôn khất thực và thọ thực xong, Ngài dùng thần thông bay đi, ngự nơi cội cây không có nhánh lá chi hết nơi ranh giới của hai nước, Ngài ngự bên ranh giới xứ Sakka , bên biên giới bên kia cũng có một cây tàng lá sum suê.

Ðức vua Vidudabha ngự đến biên giới trông thấy đức Thế Tôn nên đến gần đảnh lễ xong bạch rằng: Bạch đức Thế Tôn, tại sao Ngài lại ngự dưới cội cây không có bóng mát trong khi trời nóng oi ả như thế nầy. Xin thỉnh Ngài ngự dưới cội cây dừng mé bên kia đường có bóng rất mát.

 

- Như Lai ngự nơi đây được rồi. Không có bóng nào mát bằng bóng mát là quyến thuộc.

Ðức vua Vidudabha nghe vậy biết ý nói của đức Thế Tôn, liền nghĩ rằng: Sở dĩ mà đức Thế Tôn ngự đến đây ngồi dưới cội cây không nhánh lá chi hết là Ngài muốn bảo vệ quyến thuộc. Ðức vua truyền lịnh thâu quân về thành.

Ðức Thế Tôn cũng ngự về Kỳ Viên tịnh xá. Ít lâu sau, đức vua Vidudabha lại nhớ đến chuyện cũ, liền truyền lịnh xuất chinh nữa. Nhưng lần nầy cũng như lần trước, nên Ngài lại thâu quân về. Lần thứ ba cũng thâu quân về vì gặp Phật. Nhưng đến lần thứ tư, đức Thế Tôn trông thấy không nên ngăn đón lại, vì nghiệp ấy rất là nặng, dòng Thích Ca phải chịu vậy. Vì dòng Thích Ca đã tạo từ quá khứ là dùng thuốc để thuốc cả một đầm cá, vì nghiệp ấy nên không thể cản ngăn được. Vì vậy nên đức Thế Tôn không đến nơi ấy nữa. Ðức vua Vidudabha liền xua binh đánh vào xứ Sakka và đánh đến thành Ca Tỳ La Vệ.

Dòng Thích Ca là dòng có tiếng giỏi về chiến trận và nhiều mưu trí, nhứt là bắn tên thì không ai bằng, vì bắn đã chuẩn mà tên đi thật mạnh. Nhưng từ khi đức Thế Tôn thành đạo về giáo hoá dòng Thích Ca, nên từ khi được thấm nhuần lẽ đạo, tất cả dòng Thích Ca ai ai cũng thọ trì tam qui và ngũ giới, nên những người ấy nhứt định không sát sanh mặc dầu người khác có giết cũng đành chịu vậy. Vì thế nên khi đức vua Vidudabha đem binh đến vây thành, dòng Thích Ca bắn rát quá không dám đến gần, vì tên ấy bay ngang qua tai qua mặt v.v...; chính vua Vidudabha cũng kinh sợ và nói với quan hầu rằng bọn Thích Ca hằng nói rằng: Ta không sát sanh, nhưng sao họ bắn rát quá, chúng ta chết mất đi thôi.

Vị quan ấy tâu: Tâu Ðại vương, Ngài hãy coi quan quân của ta có chết người nào không?

Ðức vua coi lại thì quan quân của mình không hao hớt một người nào, Ngài yên lòng liền ra lịnh tấn công và bảo chỉ được phép giết những người nào dòng Thích Ca, còn ngoài ra không nên giết người nào khác. Nhưng chỉ chừa ngoại tổ của Ngài là đức vua Mahànàma thôi.

Dòng Thích Ca thấy quân thù càng đến gần không còn bắn được nữa nên đành đứng xuôi tay cho người giết thôi. Có người lanh trí khi bị người hỏi ngươi là chi? Lấy cọng cỏ ngậm nói là cỏ, là rơm v.v... nhờ vậy mà khỏi chết. Nên dòng Thích Ca còn đến ngày hôm nay.

Vua Vidudabha truyền bắt ngoại tổ Ngài là đức Mahànàma đến để đem về thành Savatthi. Khi đem nhà vua đến ông ra lịnh đức vua Mahànàma phải cùng ăn cơm chung với Ngài. Lẽ cố nhiên, một vị Ðế vương thà là chết chớ không bao giờ chịu nhục, nên đức vua Mahànàma không chịu ăn chung với Vidudabha. Nên Ngài nói: Mình ta rất dơ bẩn vậy để ta đi tắm ở hồ kia xong lại dùng cơm.

- Ðược, ngoại tổ cứ tự tiện.

Ðức vua Mahànàma nghĩ: Nếu ta không ăn chung với đứa bé nầy thì chắc chắn nó sẽ giết ta; thà ta chết đi còn hơn. Nghĩ xong, Ngài liền xõa tóc ra dùng tóc cột vào hai ngón chân cái xong nhào xuống hồ tự tử. Ngài là người có nhiều công tu hành từ vô số kiếp và duyên lành của Ngài sẽ đắc A-la-hán quả kiếp nầy, nên Long vương hiện lên tiếp Ngài đem về cõi Long vương. Mười hai năm sau, Ngài trở lại trần thế và tu đắc A-la-hán quả, là một trong tám mươi vị đại đệ tử Phật.

Ðức vua Vidudabha đợi lâu không thấy ngoại tổ trở lại, truyền quan quân đốt đuốc tìm Ngài nhưng tìm không gặp. Ðức vua Vidudabha nghĩ: Chắc ngoại tổ ta đã trở về thành nội, Ngài liền truyền nhổ trại ra đi.

 

Khi đến sông Acìravatì thì trời vừa tối. Ngài truyền an dinh hạ trại, vì nghiệp tru diệt dòng Thích Ca quá nặng, bởi phần đông dòng Thích Ca là Thánh nhơn, đắc từ Tu-đà-hườn hay Tu đà hàm, nên những người háo sát giết càng nhiều tội càng nặng. Nên nghiệp khiến cho những người ấy nóng nảy xuống ngủ gần mé sông, còn những người ít sát hại lại lên ngủ ở triền núi. Ðến khuya nước thủy triều dâng lên mạnh, những người ngủ mê ở mé sông bị nước cuốn trôi đi và chết hết, trong những người ấy có cả đức vua Vidudabha .

Khi hàng đại chúng hay chuyện dòng Thích Ca bị tru diệt hội nhau lại bàn rằng: Thật là chuyện không hợp pháp dòng Thích Ca là dòng tu hành giữ giới sát thật thanh cao mà bị tai nạn vô cùng kinh khủng thật đáng nghi ngờ.

Ðức Thế Tôn nghe vậy mới dạy rằng: Nầy các thầy Tỳ khưu, sự bị tru diệt của dòng Thích Ca thật không thích đáng trong kiếp nầy, nhưng sự thật thì cái chết ấy là thích đáng với việc làm của những người ấy trong kiếp quá khứ. Vì những người ấy kiếp xưa làm nghề hạ bạc đem thuốc độc để vào ao hồ giết không biết bao nhiêu tôm cá.

Ngày khác, các vị Tỳ khưu hội lại nói đức vua Vidudabha tiêu diệt hết dòng Thích Ca khi đem binh về không tới thành mà đưa quân đi đến nơi tử địa là bụng cá và đại dương.

Ðức Thế Tôn ngự đến hỏi các thầy đang bàn về những gì đây?

Chư Tỳ khưu bạch lại những gì đang bàn đến.

Ðức Thế Tôn dạy rằng: Nầy các thầy Tỳ khưu, khi tâm con người chưa đến nơi cùng tột, thì tử thần lại đến sát hại ví như nước lũ tràn ngập hết nhà cửa vậy.

Rồi đức Thế Tôn thuyết câu kệ:

PUPPHÀNI HEVA PACINANTAM.
BYÀSATTAMANASSAN NARAM
SUTTAM GÀMAM MAHOGHOVA
MACCU ADAYA GACCHATI.

Nghĩa: Tử thần bắt người có tâm hằng phóng túng theo đề mục đang bẻ hoa, cũng như nước lũ trôi những ngôi nhà (mà chủ nhân) đang ngủ mê vậy.

CHÚ GIẢI: Ý nói con người tầm thường mê sa theo trần cảnh, tâm ấy hằng chạy theo đề mục (là các sự việc bên ngoài). Khi tử thần đến bắt đi cũng chẳng hay biết chi hết. Ví như người ngủ trong nhà mà không hay biết rằng nước lũ đã tràn đến và trôi đi mà cũng chẳng hay chi hết.

Sau khi dứt câu kệ có rất nhiều người đắc Tu-đà-hườn quả.


Lời Tựa | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13a | 13b | 13c | 14 | 15 | 16

 


Cập nhật: 1-5-2001

Trở về mục "Phật giáo năm Châu"

Đầu trang