Trang tiếng Anh

      Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt

   

...... ... .  . .  .  .
Lịch Sử Ðức Phật Tổ Cồ Ðàm
Maha Thongkham Medhivongs

THIÊN THỨ MƯỜI BA (b)

NHỮNG CHUYỆN LẠ XẢY RA TRONG BỐN MƯƠI LĂM NĂM
TRUYỀN ÐẠO CỦA ÐỨC PHẬT TỔ CỒ ÐÀM (tt)

-ooOoo-

THẮNG NGƯỜI NGOẠI ÐẠO TÊN SUNDARÌ

Sau khi Thành đạo, Phật giáo phổ biến trong nhân gian một cách mau chóng và sâu rộng, tất cả các hạng người từ vua chúa, hàng quí phái, các bậc Trưởng giả đến hạng cùng đinh đều hồi đầu hướng thiện. Vì vậy mà làm cho bọn tà kiến ngoại đạo phải bị lui lần vào nơi bị bế tắc vì không người sùng bái kính nể như xưa.

Các vị Tổ sư của các giáo phái trong thời kỳ ấy lấy làm căm tức Phật giáo nhứt là đức Thế Tôn, nên hội lại nghiên cứu kế hoạch làm cho mất uy tín của Phật. Những người có mặt tại hội ấy có cô Sundarì (đọc là SUN ÐA RI) là người đẹp nhứt và thông minh nhứt, nên được bọn ngoại đạo giao phó trách nhiệm làm cho mất uy tín của Phật.

 

Cô lại đi theo dấu chơn của cô Cincà. Nhưng bọn ngoại đạo đã bị nếm mùi thất bại nên kỳ nầy khôn hơn là: thuê bọn côn đồ giết cô Sundarì rồi đem thây vùi ở đống hoa của tín đồ cúng dường bữa trước gần bên tư thất của Phật ngự. Khi cô ra vào chùa bọn ngoại đ?o làm như không hay biết chi hết đến khi bọn chúng giết cô Sundarì vùi vào đống hoa xong, bọn chúng truy hô lên là mất cô Sundarì. Sau khi tìm thấy trong đống hoa héo bọn chúng liền vào tâu cho đức vua xứ Thất La Phiệt và xin đức vua trừng trị đức Phật.

Khi bọn ngoại đạo đem tử thi vào thành và đem chuyện ấy truyền rao mọi nơi để bêu xấu Ðức Phật rằng: Vì Ông Cồ Ðàm thầm vụng yêu đương cô Sundarì , khi biết chuyện đổ bể ra nên giết cô để diệt khẩu, nay đã tìm thấy nơi đống bông cũ gần bên tư thất của thầy Cồ Ðàm.

 

Khi ấy đức vua nghe bọn ngoại đạo đem chuyện ấy nói mọi nơi, Ngài liền cho mật thám phải đi dò thăm cho ra sự thật. Người thành Thất La Phiệt, ngoại trừ các bực Thánh nhơn thì ai ai cũng lấy làm chán nản mất đức tin với đức Thế Tôn.

Còn chư Tỳ khưu còn là phàm nhơn lấy làm bất bình vào bạch Phật chuyện ấy. Ðức Thế Tôn liền dạy: Nầy chư Tỳ khưu, các thầy đừng phiền trách hàng đại chúng, người nào nói xấu kẻ vô tội, người ấy sẽ thọ lấy cái quả của mình đã làm. Rồi Ngài dạy câu kệ:

ABHMTAVADINIRIYAM UPETI YO
PÀPAM KATVÀNA KAROMICCAHAM
UBHOPI TE PECCA SAMÀBHÀVANTI
NIHÌNAKAMMÀ MANUJA PURATTHATI.

Nghĩa: Người nói xấu kẻ khác bằng lời nói dối khi nói không thật, người ấy phải bị đọa vào địa ngục. Hơn nữa, người nào làm việc chẳng lành, lại che giấu tội ấy bằng lời nói rằng: Tôi không có làm tội lỗi đê hèn ấy, rồi cố che không cho ai biết. Hai hạng người ấy sau khi từ bỏ cõi đời nầy sẽ bị thọ khổ trong bốn đường ác đạo. Người không làm việc ác, hằng ngày làm lợi ích cho người đời, người ấy sẽ thoát khỏi ác đ?o và sẽ được hưởng quả cao thượng trong đời nầy và vị lai.

Sau khi dứt câu kệ có rất nhiều vị đắc Thánh quả.

Ðồng thời ấy, mật thám của đức vua đã bắt gặp được bọn côn đồ giết nàng Sundarì đang uống rượu say cãi nhau rằng: Bộ chỉ có một mình ngươi là người giết cô Sundarì sao? Chúng ta đồng làm chuyện ấy thì phải được hưởng đồng đều.

Mật thám liền bắt hết bọn ấy đưa về thành để đức vua phán xét. Khi về đến đức vua phán hỏi: Phải bọn ngươi giết cô Sundarì không? Bọn côn đồ thú thật mọi việc. Ðức vua liền hạ chiếu bắt hết bọn ngoại đạo đã chủ mưu chuyện ấy, tùy theo tội nặng nhẹ mà xử.

Khi ấy đức Thế Tôn mới thuyết cho chư Tỳ khưu nghe rằng: Nầy các thầy Tỳ khưu, không phải chỉ có kiếp nầy nàng Sundarì nói dối và nói xấu Như Lai mà thôi đâu. Cô ấy đã từng nói xấu Như Lai kiếp quá khứ rồi.

Chư Tỳ khưu thỉnh cầu đức Thế Tôn dạy Túc Sanh Truyện ấy.

Ðức Thế Tôn dạy: Trong kiếp quá khứ có nhà vua tên Brahamadatta trị vì xứ Bàrànasì. Khi ấy đức đại Bồ Tát sanh vào gia đình của vị Ðại thần. Sau khi cha quá vãng đức Bồ Tát được thay cha kế vị.

Khi ấy đức vua có một bà Hoàng hậu, đức vua lấy làm yêu thương. Lúc nọ, có loạn ở biên cương, quan quân không dẹp nổi, nên đức vua phải thân chinh. Trước khi đi Ngài cho Hoàng hậu hay và bảo phải ở lại xem việc trào chánh thay Ngài. Hoàng hậu nằn nằn đòi theo, nhưng không được đức vua chấp thuận. Lịnh bà liền yêu cầu đức vua phải cho quan hầu về cho tin luôn luôn, đức vua nhận lời. Khi đi mỗi do tuần đều cho về một vị quan hầu để cho bà hay nhà vua đã đi đến nơi nào và bình yên.

Mỗi vị quan hầu về cho tin, đều được lệnh bà chiếu cố một đêm với bà. Từ kinh thành đến nơi nổi loạn xa ba mươi hai do tuần, nghĩa là có ba mươi hai vị quan hầu về cho bà hay và bà đã chiếu cố ba mươi hai vị.

Sau khi dẹp xong loạn quân đức vua hồi trào. Cũng mỗi do tuần đều cho một vị về cho Hoàng hậu biết tin. Ba mươi hai vị ấy cũng được bà chiếu cố mỗi vị một đêm với bà. Tính cả thảy là sáu mươi bốn vị gần với bà trong khi đức vua dẹp loạn.

Khi về đến thành đức vua còn ở ngoài thành để cho quan hầu đưa tin vào cho vị Ðại thần ở trào (là đức Bồ Tát) biết để lo chuẩn bị tiếp đón Ngài. Ðức Bồ Tát liền vào hoàng cung báo tin ấy cho Hoàng hậu hay.

Khi bà trông thấy vị Ðại thần trẻ tuổi đẹp trai thì bà ưng ý, bà liền tỏ vẻ yêu đương, nhưng đức Bồ Tát cương quyết phản đối chuyện đê tiện ấy. Bà cho biết sáu mươi bốn vị quan kia đã làm như lời bà, mặc dầu vậy đức Bồ Tát cực lực phản đối. Bà lấy làm tức giận sanh oán thù. Bà liền nghĩ ra kế là vu cáo Ngài. Bà liền xé y trang cào mặt mày trầy.

Ðức vua ngự vào thành đến hoàng cung thăm bà trước nhứt, thấy tình trạng của bà như vậy phán hỏi, bà liền vu oan rằng: Ðã bị vị Ðại thần ấy cưỡng dâm nhưng bà không bằng lòng nên bị đánh đập như vậy. Ðức vua lấy làm tức giận truyền đem Ðại thần ra xử tử.

Nhưng đã là đức Bồ Tát thì trí tuệ hơn người nên Ngài liền thuật lại câu chuyện Hoàng hậu hành động đê hèn như vậy có cả sáu mươi bốn vị quan làm bằng. Ðức Bồ Tát liền dạy đức vua phải hành động cho đúng là một vị minh quân, và phải có ngũ giới nhứt là phải có pháp không tây vị.

Sau khi thuyết pháp xong đức Bồ Tát xin xuất gia vào ở rừng Tuyết Lãnh.

Sau khi thuyết Túc Sanh Truyện xong Ngài dạy rằng: Vị đại Bồ Tát trong ấy chính là Như Lai hôm nay, bà Hoàng hậu trong khi ấy chính là cô Sundarì trong kiếp nầy. Ananda đức vua trong kiếp ấy.

 

HÓA ÐỘ NGOẠI ÐẠO SACCAKA

SÀCCAM VIHÀYA MATISACCAKAVÀDAKETUM
VÀDÀBHIROPITAMANAM ATIANTABHMTAM
PANNAPAVÌPAJALITO JITAVÀ MUNINDO
TANTEJASÀ BHAVATU TE JAYAMANGALÀNI.

Nghĩa: Ðức Phật sáng suốt nhờ ngọn đèn tuệ. Ngài đã cảm thắng ngoại đạo tên Saccaka là kẻ không ngay thật. Chỉ ưa thích sự nâng cao lời nói mình như người dựng cột phướn, kẻ rất si mê, chẳng khác người mù. Do nhờ Phật lực nầy, xin cho sự hạnh phúc phát sanh đến người.

CHUYỆN TÍCH

Khi đức Thế Tôn ngự tại Kutagàrasàlà ở rừng Mahàvana gần thành Vesàlì. Trong khi ấy có con của một người Nigraítha tên là Saccaka ở trong thành Vesàlì. Saccaka là người rất có tài biện luận. Khi đến vấn đạo một vị giáo chủ nào thì vị ấy không sao trả lời câu hỏi của y được. Thật là một người rất thông minh giỏi về việc vấn nạn người. Người thời ấy đặt tên y là Ðại Trí Thức.

Saccaka thường tự hào khoe khoang tài mình giữa nơi hội họp rằng: Ta chưa từng gặp bậc Sa môn hay Bà la môn hoặc các vị Tổ sư của một đạo giáo nào tự xưng là A-la-hán hiểu thông mọi sự việc để ta được vấn nạn cho mãn nguyện.

Chỉ có những người bị ta vấn nạn trước công chúng mồ hôi chảy ướt cả châu thân vì thẹn là không trả lời được câu hỏi của ta. Sự thật khi mà ta đã vấn nạn góc cột hoặc vật vô tri giác nó cũng kinh sợ run rẩy lên.

Nhờ chút tài mọn chưa gặp người đối đáp nên tên ngoại đạo Saccaka tự kiêu, tự đắc, ngạo mạn càng ngày càng nặng, khinh khi tất cả các bực trưởng lão và các bực xuất gia.

Khi ấy có nhiều vua chúa, các quan cùng các nhà quí phái đưa con đến xin học với y. Khi ấy y tự xưng cho mình là Giáo sư tên là Disàpamokkha (có nghĩa là vị Giáo sư giỏi nhứt trong một châu).

Bịnh ngạo mạn tự kiêu càng ngày càng nặng, nên ngày nọ y mới nghĩ rằng: Ta là người học nhiều hiểu rộng, lão thông kinh sử, trên đoạt thiên văn dưới thông địa lý. Sự hiểu biết của ta càng ngày càng thêm nhiều, ngày nào đây bụng ta không còn có chỗ chứa nổi nữa nó sẽ nổ tung ra. Vậy ta phải làm một cái niền để niền cái bụng lại để cho nó khỏi nổ tung ra. Tôi (soạn giả) dịch đến đây lấy làm lạ cho bực gọi là Ðại trí thức mà nghĩ chuyện trẻ con như vậy. Nhưng tôi không dám bỏ đoạn nầy vì trong kinh nói sao tôi thuật y vậy.

Tất cả người trong thời kỳ ấy lấy làm lạ và xôn xao bàn tính về cái bụng niền bằng cái niền sắt của người ngoại đạo Saccaka ấy. Tiếng đồn đại đến các lân quốc.

Tên tuổi của Saccaka không ai không biết và không ai không ca tụng kính nể. Vì vậy mà bịnh của y càng ngày càng trầm trọng. Nếu y nghe rằng: Nơi nào có các vị trí thức là Sa môn hay Bà la môn hoặc ai chẳng hạn, không nề đàng xa hay cực nhọc y thân hành đến vấn nạn.

Ðồng thời ấy Hồng danh của đức Ðại Giác cũng đang phổ biến sâu rộng trong thế gian. Pháp bảo của Ngài chiếu ánh sáng huy hoàng tất cả mọi nơi đều sùng bái và tu theo giáo lý của Ngài nhiều không kể xiết. Hầu như thời kỳ ấy không một ai không biết Phật là vị đại Sa môn Cồ Ðàm. Vị Chánh đẳng Chánh giác, đấng Ðại Giác, đấng Ðại Từ Bi, đấng Phổ độ những người bất kham v.v... Saccaka nghe tin ấy lấy làm bất mãn vì y muốn rằng: Tiếng Ðại trí thức độc quyền một mình y thôi. Nên y có ý định sẽ tìm Phật để vấn nạn, làm cho Phật không còn thanh danh và mất hết uy tín trong thế gian nầy.

Ngày nọ, Ðại Ðức Assaji (vị Ðại Ðức mà Ngài Xá Lợi Phất gặp đầu tiên và do Ngài thuyết pháp nên đắc Tu-đà-hườn) đang đi khất thực trong thành Vesàlì. Saccaka trông thấy Ðại Ðức từ xa đi đến gần Ngài và hỏi: Thưa thầy, ông Sa môn Cồ Ðàm hằng giáo hóa hàng đệ tử những gì?

Ngài Ðại Ðức đáp: Nầy Aggivesana , đức Thế Tôn hằng dạy chư đệ tử nhiều pháp môn không sao kể hết được, nhưng có thể tóm lại là: Sắc không thường. Thọ không thường. Tưởng không thường. Hành không thường. Thức không thường. Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức không thường là không phải của ta gọi là Vô Ngã. Ðây là lời giáo hóa của đức Bổn Sư.

Khi nghe xong trở về nơi cư ngụ, gọi tất cả học trò lại đưa vấn đề đã hỏi ngài Ðại Ðức ra bàn cãi nhau và mọi người nơi ấy đều có quyền đưa ý kiến ra. Sở dĩ mà Saccaka làm như vậy vì muốn tìm ra tất cả ý kiến mọi người cho thật chu đáo đến vấn nạn Phật. Khi mọi người đều đưa ý kiến và Saccaka đã thu lượm được rất nhiều ý kiến, y chắc rằng đã chu đáo hoàn toàn rồi. Vì y đã chọn lọc những ý kiến hay rồi.

Saccaka liền tìm đến Ðại Ðức Assaji hỏi Ngài: Nầy ông Assaji , ông xuất gia đây có lợi ích chi cho ông?

- Nầy Saccaka , bần đạo xuất gia hầu được sự ích lợi là giải thoát.

 

- Nầy ông Assaji ơi, lời nói đây thật là chuyện vô ích, mà việc làm của ông là nhân đi đến nơi địa ngục, không phải là lối đi đến nơi an lạc đâu. Từ kiếp này đến kiếp sau xin ông đừng bao giờ nói đến tiếng nầy nữa, lời ấy thật là lời không nên nói. Thật là lời đáng ghê tởm. Ông hãy nghe lời ta đây, ông hãy về chỗ của ông Cồ Ðàm đang ở và ta cũng dẫn năm trăm đệ tử ta đến nơi ấy.

Ông liền gọi năm trăm đệ tử đắc ý của ông nhứt là năm trăm vị hoàng thân vua Licchavì xứ Vesàlì , đến nơi Phật ngự.

Theo thường lệ của đức Ðại Giác thì hằng ngày sáng sớm thường dùng tuệ giác xem coi chúng sanh nào có duyên lành với Ngài để Ngài đi tế độ. Sáng hôm ấy đức Thế Tôn thấy Saccaka đã đi sâu vào lưới giác ngộ của Ngài, ông ấy sẽ bỏ lòng tự cao tự đại, xuất gia theo Phật giáo. Sau khi thoát sanh được sanh về cõi trời, sau khi Như Lai nhập diệt, ông nầy sẽ là người đem Phật giáo truyền bá tại Tích Lan. Saccaka sẽ sanh vào gia đình Bà la môn, là người có trí tuệ không ai có gì đo lường được, có lòng trong sạch với Phật giáo, xuất gia theo vị Ðại Ðức tên là Moggalliputta đắc A-la-hán quả. Vậy Như Lai nên quá độ cho được Saccaka nầy. Nên đến sáng ngày đức Thế Tôn đắp y mang bát vào thành Vesàlì khất thực, sau khi khất thực xong đức Thế Tôn không dẫn chư Tỳ khưu về chùa mà lại dẫn lại ngự dưới một cội cây ở nơi rừng Mahàvana và thọ thực nơi ấy.

Saccaka cũng dẫn đệ tử vào rừng Mahàvana gặp đức Thế Tôn đang ngự nơi ấy. Y liền đến gần tính vấn nạn Phật nhưng khi đến gần lấy làm kinh sợ nên tỏ vẻ kính trọng chớ không hách dịch như gặp các vị khác. Ông ta liền hỏi:

- Nầy ông đại Sa môn, thật là hân hạnh được gặp ông hôm nay. Tôi được nghe danh tiếng của ông vang rền như cồn, vì vậy nên tôi cố tìm ông hầu luận đàm pháp lý với ông.

- Nầy Saccaka , nếu ngươi muốn hỏi ta bao nhiêu và những gì thì cứ hỏi tự tiện hỏi. Như Lai rất vui lòng giải đáp những gì thắc mắc của ngươi.

- Nầy ông Cồ Ðàm, ông hằng giáo hóa tín đồ những gì? Và những lời chỉ giáo ấy phần nhiều là gì?

- Nầy Aggivesana , Như Lai hằng dạy hàng đệ tử như vầy, những lời dạy c?a ta phần nhiều là Sắc không thường, Thọ, Tưởng, Hành, Thức không thường. Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức không phải là ta, không phải của ta. Các pháp đều không phải là ta, không phải của ta. Như Lai hằng dạy hàng đệ tử như vậy.

- Nầy ông Sa môn Cồ Ðàm, tất cả các thứ giống đều mọc lên tươi tốt đều nhờ vào quả địa cầu, lớn lên cũng nhờ quả địa cầu. Cũng ví như tất cả những hành vi và các việc làm của ta cũng nhờ quả địa cầu, nghĩa là vì có quả địa cầu thì ta mới có chỗ ở mà hành sự; điều nầy ta muốn đề cập đến là vì nhờ có Sắc là của ta, Thọ là của ta, Tưởng là của ta, Hành là của ta, Thức là của ta. Nhờ ta ở trong Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức mới có hưởng được tất cả mọi sự việc khoái lạc trong đời.

- Nầy Aggivesana , ngươi nói như vậy có phải ý ngươi muốn nói như vậy: Sắc là của thân ta, Thọ, Tưởng, Hành, Thức đều là của thân ta có phải vậy không?

- Phải vậy, mà tất cả những người có mặt nơi đây cũng đồng ý với ta như vậy.

- Nầy Aggivesana , nay ngươi đến đây để đưa ra ý kiến chắc của ngươi là: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức chắc là của thân ta. Những vật ấy đều ở dưới quyền sử dụng của bản thân ta. Giờ đây nếu thật Sắc ấy là của bản thân ngươi thật. Vậy ngươi hãy bảo Sắc của ngươi rằng: Sắc thân của ta không được phép già. Nếu Sắc thân ấy vâng lời ngươi thật nghĩa là không già. Khi ấy Như Lai xin tin theo ngươi rằng: Sắc là của ta. Sẽ lo săn sóc và bồi bổ cho thân nầy, mà cũng hết lòng thương mến nó. Ngươi nên bảo tóc của ngươi rằng: Tóc hãy đen hoài đừng bạc. Răng hãy ở mãi mãi với ta đừng rụng. Thử coi những vật ấy có vâng lời ngươi chăng? Thật ra nếu ngươi có khẩn cầu van xin tới đâu đi nữa, Sắc ấy cũng chẳng bao giờ vâng lời ngươi, nó sẽ từ từ thay đổi theo thời gian và theo ý nó.

Vậy nay ta hỏi ngươi: Sắc ấy có phải là của ta chăng? Vậy từ đây đi ngươi hãy bỏ ý định: Các Sắc là của ta.

Saccaka không thể trả lời được nên cảm thấy hổ thẹn vô cùng. Vì quá hổ thẹn nên không đủ sáng suốt để đối đáp, nên ngồi lặng thinh. Ðức Thế Tôn hỏi lần thứ nhì đến lần thứ ba mà Saccaka cũng vẫn lặng thinh không trả lời được.

Phàm một vị Chánh đẳng Chánh giác không bao giờ hỏi ai đến bốn lần, nếu đến lần thứ tư thì người ấy sẽ bị chết liền tại chỗ. Khi đức Thế Tôn hỏi đến lần thứ ba vài phút sau, có Dạ xoa tên là Vajirapàni hiện ra tay cầm cây côn to, hào quang cây côn ấy chiếu lòa cả mắt, đứng trên không trung hét to lên rằng: Nầy Saccaka , nếu ngươi mà câu nệ và tự cao không trả lời câu hỏi của đức Thế Tôn để làm cho ý nghĩa đầy đủ, ta sẽ đập nát đầu ngươi ra. Vì đức Ðại Giác không hề hỏi ai đến ba lần, mà nay đã hỏi ngươi ba lần rồi, đến lần thứ tư ta không dung tha ngươi được. Vì trước mặt đức Ðại Từ Bi nên ta đã dung cho ngươi đến câu thứ ba rồi không còn dung câu thứ tư được.

Nơi ấy chỉ có đức Thế Tôn trông thấy Dạ xoa bằng Thiên nhãn của Ngài, còn Saccaka trông thấy vì Dạ xoa muốn cho Saccaka thấy. Saccaka thấy hình dung kỳ dị hung ác của Dạ xoa đã kinh khủng lắm rồi mà còn bị đe dọa rằng sẽ đập nát đầu nữa nên Saccaka liền cuối lạy đức Thế Tôn và nói:

- Bạch đức Thế Tôn, Ngài là nơi nương nhờ của tôi. Bạch Ngài, xin Ngài cứ hỏi tôi xin đáp lời Ngài.

- Nầy Saccaka , ngươi là kẻ ngoan cố, chấp rằng: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức là của ta, là ta, là vật dưới quyền sở hữu của ta có phải vậy chăng? Hay là không phải?

- Bạch Ngài, Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức thật không phải ta. Không phải của ta. Không dưới quyền sở hữu của ta. Không thể rầy la nó được.

 

Khi ấy đức Thế Tôn liền dạy rằng:

- Pháp nào không thường là vật đem khổ não đến ta, nếu vật nào đem khổ não đến thì vật ấy không phải của ta, mà cũng chẳng phải là ta, ba pháp ấy gọi là Vô thường, Khổ não và Vô ngã. Ðức Thế Tôn còn dạy nhiều pháp khác nữa.

Ðức Thế Tôn muốn nhắc cho Saccaka có thêm trí nhớ và trí tuệ nên Ngài dạy rằng:

- Nầy Saccaka , người trong thế gian nầy khó mà gặp được đấng Ðại Giác, có khi người phải luân hồi hằng trăm ngàn đại kiếp cũng không gặp được đức Chánh đẳng Chánh giác. Hiện nay ngươi là người có đào tạo nhiều duyên lành để dành trong vô số kiếp nên mới gặp được Như Lai.

Khi ấy, Saccaka cảm thấy lòng trong sạch kính thành với Phật bảo. Ông mới nói: Bạch Ngài Cồ Ðàm, chúng tôi những người có mặt nơi đây, toàn là những kẻ si mê, tà kiến, cố ý đến để vấn nạn Ngài, thâm tâm chúng tôi muốn vấn nạn Ngài, không cho Ngài có lối thoát, bắt buộc Ngài phải kính phục chúng tôi. Trái lại Ngài là đấng Ðại Từ Bi, dập tắt được tà kiến của chúng tôi bằng Pháp bảo, ví như người bị rắn độc cắn đang bị nộc hành thật là khổ sở, nhờ người đem thuốc đến chữa cho lành mạnh; người cho thuốc ấy chính là Ngài vậy. Hiện giờ tôi được sáng suốt cũng nhờ Pháp bảo của Ngài soi đường, đã ra khỏi vòng tà kiến. Tôi có thể làm cho tâm tôi được an vui. Ngài là vị đưa sự an vui tiến hóa vĩnh viễn cho chúng tôi. Tôi xin thỉnh cầu đức Thế Tôn và chư Tỳ khưu đến thọ thực nơi tư gia tôi sáng mai nầy. Saccaka biết đức Thế Tôn nhận lời nên gọi năm trăm đệ tử ra về và bảo rằng:

- Mai nầy các ngươi hãy đến tư gia ta để làm lễ trai Tăng đấy nghe.

Sáng ngày, đức Thế Tôn và chư Tăng đến thọ thực tại nhà của Saccaka. Saccaka lấy làm vui mừng được đức Thế Tôn đến trai Tăng. Nên ông lo lắng hết sức chu đáo. Khi trai Tăng xong ông liền bạch Phật rằng:

- Bạch hoá đức Thế Tôn, Ngài là người ban bố sự an vui và hạnh phúc cho tôi. Xin Ngài nhận tôi là người tín đồ Phật giáo.

Ðức Thế Tôn dạy:

- Nầy Saccaka , ngươi làm phước lần nầy gọi là làm phước vĩ đại đúng theo pháp Ba la mật, kiếp sau ngươi sẽ diệt tận tham ái, sân hận, si mê không đi vào ác đạo nữa.

THU PHỤC LONG VƯƠNG NANDOPANANDA

NANDOPANANDABHUJÀGAM VIBUDHAMMA- HIDDHIM
PUTTENA THERABHUJAGENA DAMÀPAYANTO.
IDDHMPADESAVIDHINÀ JITAVÀ MUNINDO
TANTEJASÀ BHAVATU TE JAYAMAÍGALÀNI.

Nghĩa: Ðức Phật dạy Ðại Ðức Mục Kiền Liên biến làm Long Vương để thu phục rồng chúa Nanh Ðô Pá Nanh Ðá (NANDOPANANDA) là rồng tà kiến có nhiều thần thông. Nhờ dạy Ðại Ðức Mục Kiền Liên mà đức Chánh Biến Tri thâu phục được rồng chúa ấy. Do nhờ Phật lực nầy, xin cho sự hạnh phúc phát sanh đến người.

CHUYỆN TÍCH

 

Lúc nọ đức Thế Tôn ngự tại Kỳ Viên tịnh xá của Trưởng giả Cấp Cô Ðộc tại thành Thất La Phiệt. Khi ấy ông Trưởng giả vào thỉnh cầu đức Thế Tôn và năm trăm vị Ðại Ðức đến thọ thực nơi nhà của ông sáng hôm sau. Ðức Thế Tôn nhận lời bằng cách lặng thinh.

 

Phận sự của đấng Ðại Giác là đến canh chót Ngài dùng tuệ nhãn xem coi chúng sanh nào có duyên với Ngài sáng hôm ấy để Ngài đi hóa độ. Ngày ấy, Ngài trông thấy Long vương Nandopananda là rồng rất hung ác nhưng lại có duyên lành với Ngài. Ðức Thế Tôn nghĩ: Vậy trong hàng đệ tử vị nào là người có thể hóa độ Long vương nầy thay Như Lai. Ðức Thế Tôn thấy Ngài Ðại Ðức Mục Kiền Liên là người có duyên thâu phục Long vương.

Sáng ngày, đức Thế Tôn dạy Ðại Ðức Ananda cho năm trăm vị Ðại Ðức biết rằng: Ðức Thế Tôn ngự lên cõi trời. Các vị liền tụ lại đông đủ để cùng đi theo đức Thế Tôn.

Ðồng thời, Long vương Nandopananda dẫn cung phi mỹ nữ ra nơi đồng trống, hiện ra một tòa lầu thật nguy nga đồ sộ. Toà lầu ấy trang điểm bằng các thứ ngọc quí thật là đẹp. Long vương truyền dọn yến ăn uống vui chơi.

Ðức Thế Tôn dẫn chư Ðại Ðức đến nhà ông Trưởng giả Cấp Cô Ðộc để thọ thực, thay vì Ngài đi thẳng đến nhà ông Trưởng giả, trái lại Ngài dẫn chư Tăng bay lên cõi trời Ðạo Lợi mà lại bay qua lâu đài của Long vương đang ăn uống vui chơi. Trước khi đi đức Thế Tôn dùng thần thông làm cho hào quang chiếu sáng và Ngài phát nguyện rằng: Xin cho chư Thiên và nhân loại cùng tất cả các loài có thức tánh đều trông thấy Như Lai và chư Tăng ngự đi lên trên cõi trời. Khi phát nguyện xong Ngài dẫn chư Tăng bay đi trên không như người đi trên bộ, ai ai cũng trông thấy rõ ràng.

 

Trong khi đức Phật và chư Tăng đang bay đi, Long vương lại trông thấy, lấy làm tức giận và rất ghét, nghĩ rằng: Bọn Sa môn nầy thật là dại dột, không biết kính nể oai thần, không biết khiếp sợ ta. Nếu họ muốn đi đến cõi Ðạo Lợi thì cứ đi, nhưng xin đừng bay ngang qua đầu ta, nếu bay ngang qua đầu ta, thì ta sẽ gây sự với bọn ấy liền. Chắc chắn rằng: Khi bọn ấy bay ngang qua đầu ta thì cát bụi dưới chân bọn ấy sẽ rớt lên đầu ta và vật thực của ta. Vậy trước hết ta phải đón đường chúng không cho chúng đi ngang qua đây.

Nghĩ xong, Long vương liền dùng mình quấn lấy núi Tu Di cao tám muôn bốn ngàn do tuần, rộng một muôn do tuần bằng cái đuôi, còn đầu thì che mất cõi Ðạo Lợi ngoài ra Long vương còn làm cho mây bay khói tỏa mịt mù tối đen làm cho không thấy đường đi.

Ðại Ðức Ratthapàla thấy bỗng dưng thiên ám địa hôn như vậy, nên đến gần Phật và bạch hỏi.

Ðức Thế Tôn đáp: Có chuyện lạ như vậy là do nơi Long vương tên Nandopananda đang giận dữ muốn làm hại Như Lai và đang nguyền rủa Như Lai thậm tệ, đang dùng đuôi quấn núi Tu Di và đầu che án cõi Ðạo Lợi làm cho trời tối không thấy chi hết.

Ðại Ðức Ratthapàla nghe vậy liền xin Ðức Thế Tôn cho phép Ngài dùng thần thông để thâu phục Long vương tà kiến ấy. Ðức Thế Tôn không nhậm lời. Lần lượt đến tám mươi vị đại đệ tử đến xin kể có cả Ðại Ðức Xá Lợi Phất nhưng không vị nào được Ngài ban cho đặc ân ấy. Sau cùng đến Ngài Mục Kiền Liên, đức Thế Tôn mới nhậm lời.

Sau khi nhậm lời xong Ngài liền dạy: Như Lai cho phép ngươi đi độ Long vương. Như Lai cầu chúc ngươi thắng và thâu phục được Long vương ấy. Ðức Thế Tôn ngồi trên hư không có chư Thánh Tăng đứng hầu, để xem Ðại Ðức Mục Kiền Liên thâu phục Long vương.

Ðại Ðức thấy Long vương biến hình to như vậy Ngài nghĩ rằng: Long vương nghĩ rằng, biến thân hình như vầy là to lớn lắm rồi, vì Tu Di sơn vương là núi to nhất mà y còn quấn bảy lần. Y định rằng: Không còn có nhân vật nào lớn bằng. Vì vậy nên dám cả gan muốn giết đấng Ðại Giác. Ta phải làm cho Long vương mất hết tâm thâm độc nầy, bỏ lòng tà kiến. Ngài liền hóa ra Long vương lớn gấp đôi Long vương Nandopananda và quấn bên trên mình của Long vương ấy và siết chặt vào làm cho Long vương Nandopananda bị ép chặt vào núi Tu Di, còn đầu của Ngài Ðại Ðức hóa Long vương to hơn đầu Long vương Nandopananda hằng trăm lần. Thân hình Long vương mà Ðại Ðức hóa ra quấn Long vương Nandopananda mười bốn lần. Long vương Nandopananda lấy làm khổ sở vì bị một sức mạnh lớn hơn hằng triệu lần quấn và ép vào Tu Di sơn, hình như xương bị gãy ra từng đoạn; không thể thở được thì làm sao cử động được.

Không còn chịu đựng với sự khổ sở ấy nữa nên Long vương liền thu hết tàn lực thổi ra một làn khói độc. Ðại Ðức biết rõ Long vương nầy có một chất độc vô cùng tai hại, có thể làm chết hết nhân loại và cỏ cây không thể sống được nếu không bị cháy tiêu tức khắc. Ngài liền dùng thần thông thâu hết chất độc đến đổi ngọn cỏ ở kề bên cũng không bị rung động. Khi thấy đã dùng đến hơi độc vô cùng nguy hiểm mà không làm gì được Ðại Ðức, Long vương liền hóa lửa để đốt Ngài. Ðại Ðức liền dùng ngay thiền định về chất lửa đẩy lui lửa của Long vương mà còn làm cho Long vương bị nóng nảy không sao chịu nổi. Thân hình Long vương bị lửa của bản thân mình hóa ra bao bọc coi như là một cây lửa cao tám muôn bốn ngàn do tuần vậy.

Long vương Nandopananda mới nghĩ rằng: Người nầy tên gì? Từ đâu đến? Thần thông cao đệ nhứt, hơn cả ta. Vậy ta nên hỏi xem cho biết. Long vương mới hỏi: Ông tên chi? Từ đâu đến? Xin ông cho tôi biết.

- Bần đạo là đệ tử chánh thức tay trái của đức Giác Ngộ tên là Mục Kiền Liên.

- Bạch Ðại Ðức, Ngài là vị Sa môn, tại sao Ngài lại nỡ hành hạ tôi như thế nầy. Ðây thật là việc mà Ngài là bực Sa môn không bao giờ nên làm.

 

- Nầy Long vương, chính tâm bần Tăng không hề vì sân hận hay chút giận hờn gì làm cho ngươi khổ, hay làm hại nhân vật. Nhưng bần đạo đến đây vì tâm từ bi muốn giáo hoá Long vương đấy thôi, thâm tâm bần Tăng chỉ muốn đưa Ðại vương ra khỏi nơi tội lỗi tà kiến, để đi theo con đường chân chánh là Bát chánh đạo. Vậy Ðại vương không nên phiền trách bần đạo.

- Bạch Ðại Ðức, Ngài muốn vậy và làm như thế nầy thật là bất phải, vì Ngài làm khổ tôi. Vì vậy nên tôi cho rằng: Ngài không có hạnh kiểm như chư vị Sa môn khác.

Ðại Ðức nghe Long vương nói vậy Ngài liền hiện ra một vị Tỳ khưu, rồi Ngài dạy rằng: Nầy Long vương Nandopananda , ngươi nên biết rằng: Mặc dầu ngươi là Long vương nhưng vẫn còn trong hạng thú; ngươi lại có sự dễ duôi quá đáng, không phân biệt tội phước mà cũng chẳng hiểu tội phước, và lợi ích hiện tại và vị lai gì hết. Ngươi không biết ân đức Tam bảo hơn cả mẹ cha. Vậy ngươi có nên dùng lời đê tiện chưởi rủa mắng nhiếc một bực Ðại Từ Bi như đức Chánh đẳng Chánh giác hay không? Nầy Long vương, tâm ngươi thật là tâm si mê tột độ. Nếu chân của đức Từ Bi mà chạm đến đầu của ngươi là vạn hạnh cho ngươi lắm rồi. Ngươi có biết tất cả chư Thiên, Phạm Thiên đều mong được có dịp để đảnh lễ và cúng dường hay nghe lời giáo hóa của Ngài, cũng mong được cúi đầu làm lễ vi trần dưới chân Ngài nhưng vẫn còn khó có dịp may như vậy thay. Hơn nữa chúng sanh trong tam giới khó mà gặp được đức Ðại Giác, có khi sanh lại nhiều muôn ngàn kiếp cũng chưa có dịp may để gặp bực Ðại Giác, dầu cho dấu chân của Ngài cũng khó trông thấy. Còn ngươi là vị Long vương thuộc về một trong bốn đường ác mà còn là con vật tà kiến lại dám chưởi mắng vị Chánh đẳng Chánh giác, là vị Thiên Nhơn Sư, ngươi dễ duôi khinh thường vị Chánh đẳng Chánh giác, đây cũng do nơi nghiệp chướng của ngươi thật nặng nề.

Nói xong Ngài liền đi kinh hành trong lỗ tai mặt của Long vương ra lỗ tai trái. Ði vào lỗ mũi bên nầy ra mũi bên kia, Long vương bị Ngài đi kinh hành như vậy lấy làm khó chịu liền nói: Ðại Ðức, lẽ cố nhiên của một vị Sa môn hằng hành theo chánh pháp là Từ Bi. Còn Ðại Ðức thì không có lòng từ bi thương hại tôi. Ngài đã nói rằng: Ngài chẳng giận hờn phiền hà tôi. Nhưng tại sao Ngài hành hạ tôi như thế nầy. Lời nói và việc làm của Ngài không đi đôi nhau chăng? Nói xong Long vương liền hả miệng ra.

Ðại Ðức Mục Kiền Liên nghe vậy nghĩ rằng: Hôm nay ta đã nhứt định giáo hóa Long vương nầy phải bỏ tà kiến, nên Ngài nói: Nầy Long vương, chính ngươi không biết kính trọng các bực Sa môn, Bà la môn là các bực hành chân chánh theo chánh pháp. Sở dĩ bần Tăng phải hành ngươi như thế nầy vì ngươi có tâm rất là hung ác sân hận, làm hại người. Giờ đây ngươi lại còn có ý định nhai ta, nhưng trái lại ta không hề có ý muốn làm hại ngươi. Vậy ngươi nên tỏ ra ngươi là kẻ biết ân người như ta là người đến giáo hóa ngươi. Ngươi nói rằng: Ta hành hạ ngươi, thật ra ta làm cho ngươi khổ như vầy cũng chưa xứng tội ngươi. Ta có ý muốn gieo duyên lành với ngươi, muốn cho ngươi trông thấy lợi ích cao cả trong ngày vị lai. Nói xong, Ðại Ðức liền đi ngay vào miệng Long vương đang hả răng bén như gươm đang sẵn sàng để nhai Ngài. Long vương không thể nào nhai Ngài được và để Ngài tự do đi kinh hành trong miệng, trong bụng.

Ðức Thế Tôn biết rõ trong lòng Long vương đã kinh sợ Ðại Ðức lắm rồi. Ngài liền gọi Ðại Ðức rằng: Mục Kiền Liên, con đừng quên rằng: Long vương nầy có rất nhiều thần thông.

Ðại Ðức đáp: Bạch đức Thế Tôn, đệ tử đã có công rèn luyện bốn phép nguyện vọng pháp mầu, không thể dễ duôi lười biếng bỏ qua công phu ấy thì đệ tử có sợ gì Long vương Nandopananda nầy. Dầu cho có hằng muôn, ngàn Long vương như thế nầy đệ tử cũng có thể thu phục để bỏ dữ về lành được. Xin đức Ðại Từ Phụ đừng quan tâm chi.

Long vương nghĩ: Vị Sa môn nầy đã nói rằng: Không hề có tí giận hờn nào về ta, nếu Ngài không giận hờn gì ta thiệt thì xin Ngài hãy ra; không nên đi kinh hành trong bụng ta như vầy.

Chỉ suy nghĩ thầm trong tâm như vậy mà Ngài Ðại Ðức biết rõ, Ngài liền hiện ra đứng ngay trước mặt của Long vương.

Long vương thấy Ngài hiện ra trước mặt, liền nghĩ: Vị Sa môn nầy thần thông cao thượng, hơi thở ta có thể tiêu tan một quả núi đá. Vậy sao ta không dùng hơi thở ta mà giết ông ta cho rồi. Nghĩ xong Long vương liền gom hết hơi lại thở một cái thật mạnh ngay vào người của Ngài Ðại Ðức, sức gió ấy độc và mạnh hơn cả bão tố, nếu không do nơi oai đức của Ngài thì núi rừng nơi ấy đều tiêu hoại hết. Vì biết tâm Long vương hung ác nên khi ấy Ngài Ðại Ðức đã dùng thần thông chế ngự được hơi độc ấy, mặc dầu chéo y của Ngài cũng chẳng hề rung động.

Long vương thấy hơi thở của mình vô cùng dũng mãnh mà không làm gì Ngài Ðại Ðức được thì lấy làm kinh sợ và nghĩ: Thật thầy Sa môn nầy thần thông vô lượng vô biên; nếu ta cố tranh tài với Ngài thì chắc lấy tai hại cho mình thôi. Vậy thượng kế là trốn càng mau càng hay. Nghĩ xong liền bỏ chạy thật lẹ.

Ðại Ðức thấy Long vương tháo ra bỏ chạy thật lẹ, Ngài liền biến ra một giống chim rất là hung dữ thường bắt rồng ăn đó là chim đại bàng Kim sí điểu; chim nầy to lớn khác thường, một cái đập cánh bay xa hằng mấy chục do tuần. Tiếng đập cánh của đại bàng Kim sí điểu như sấm nổ lưng trời làm cho Long vương kinh sợ không cùng liền thu hình nhỏ lại để chun vào kẹt đá cho dễ nhưng đại bàng khôn hơn vỗ cánh quạt tảng đá bay ra rất xa. Làm Long vương không biết trốn tránh nơi nào; liền hiện lại nguyên hình, rồi hoá ra một thanh niên tuấn tú, quì xuống đảnh lễ Ngài Ðại Ðức van xin Ngài rằng: Xin Ðại Ðức mở lòng từ bi tha tội lỗi; Tôi xin phát nguyện qui y hướng thiện. Tôi là kẻ tà kiến không hiểu Ngài là bực Thánh nhơn. Xin Ngài thương hại tôi như cha mẹ thương con còn trẻ dại lầm lỗi. Xin Ngài tha thứ cho.

Ðại Ðức liền đưa Long vương đến nơi Phật ngự. Long vương thấy đức Thế Tôn cùng chư Thánh Tăng ngự trên hư không rất lấy làm kinh sợ, đảnh lễ xong rồi bạch Phật rằng: Bạch đức đại Từ Bi Ngài là đấng Tế độ chúng sanh. Tôi là kẻ tà kiến hung ác lầm đường tội ác không hiểu đâu chánh đâu tà. Hiện giờ tâm tôi đã giác ngộ trông thấy rõ thiện, ác. Từ hôm nay tôi xin cúng dường thân nầy đến Tam bảo.

Ðức Thế Tôn liền truyền Tam qui và Ngũ giới cho Long vương, và dạy nên hành thêm thiện pháp, giúp đỡ quyến thuộc, nhẫn nại từ bi v.v...

 

Rồi đức Thế Tôn mới dẫn chư Tăng đến nhà Trưởng giả Cấp Cô Ðộc thọ thực. Sau khi thọ thực xong đức Thế Tôn thuật lại chuyện Ðại Ðức Mục Kiền Liên dùng thần thông thu phục Long vương Nandopananda. Trưởng giả nghe câu chuyện ấy lấy làm trong sạch với chư Tăng; ông xin cúng dường bảy ngày liền cho năm trăm vị Thánh Tăng.

Khi ấy đức Thế Tôn mới dạy: Trong thế gian nầy không có vị đệ tử nào có thần thông bằng Mục Kiền Liên.

Kể từ ngày ấy đi Ðại Ðức được liệt vào hàng đại đệ tử giỏi nhứt về thần thông.

-ooOoo-

 

HÓA ÐỘ PHẠM THIÊN TÀ KIẾN PHAKÀ

DUGGÀHADITTHIBHUJAGENA SUDATTHA- HATTHAM
BHRAHMAM VISUDDHIJUTIMIDDHIBA KÀBHID- HÀNAM.
NÀNÀGADENA VIDHINÀ JITAVÀ MUNINDO
TANTEJASÀ BHAVATU TE JAYAMANGALÀNI.

Nghĩa: Ðức Phật cảm thắng Phạm Thiên tên Bá Ca (Phakà) người tự cho mình là cao thượng vì đức trong sạch có thần thông và chấp hẳn tà kiến. Ðức Chánh Biến Tri đã cảm thắng được vị Ðại Phạm Thiên ấy. Do nhờ Phật lực nầy, xin cho sự hạnh phúc phát sanh đến người.

CHUYỆN TÍCH

 

Lúc nọ đức Ðại Giác ngự tại Kỳ Viên tịnh xá của Trưởng giả Cấp Cô Ðộc gần thành Thất La Phiệt. Ngài gọi chư Tỳ khưu Tăng đến và dạy rằng: Nầy các thầy Tỳ khưu, có lúc nọ Như Lai ngự dưới cội cây to tại rừng Subhavana. Khi ấy tâm của vị Phạm Thiên tên là Bá Ca sanh tà kiến nghĩ rằng: Không có già, không có chết, cũng không có Niết Bàn. Nầy chư Tỳ khưu khi ấy Như Lai hiểu rõ ý nghĩ của vị Phạm Thiên, đứng lên, trong nháy mắt Như Lai ở trong cõi Phạm Thiên, cũng ví như người duỗi tay ra và co vào.

Khi Phạm Thiên Bá Ca thấy Như Lai từ xa ngự đến; liền tỏ lời thỉnh cầu Như Lai ngự vào tòa lầu đài của y. Xong mới bày tỏ ý tưởng, và sự tin tưởng của ông ta.

Khi ấy Như Lai liền dạy rằng: Nầy Phạm Thiên, ta lấy làm kinh sợ dùm ngươi, vì ngươi đã bị vô minh che ám, làm tối mê, nói lời tà kiến. Những vật gì không thường ngươi cho là thường, vật gì bị hư hại ngươi lại cho là bền vững. Hơn nữa ngươi lại có ý kiến si mê lầm lẫn rằng: Vật nầy không già, không chết, không thay đổi, không sanh. Ngươi lại nói: Vật gì rất cao quí là nhân diệt khổ, vật ấy không bao giờ có. Nầy Bá Ca những lời của người nói toàn là lời tà kiến. Vì nguyên nhân bởi Ma vương theo bên ngươi và tìm thế phá hoại đời ngươi. (Ma vương nơi đây đức Thế Tôn ngụ ý dạy là Phiền não Ma vương).

Nầy các thầy Tỳ khưu, Như Lai biết rõ rằng: Ma vương đã ngự trị trong tâm của Phạm Thiên tên Bá Ca, nên Phạm Thiên Bá Ca mới nói với Như Lai như vậy. Khi ấy Như Lai liền dạy rằng: Nầy Ma vương, ngươi là hạng ác quỉ. Chắc ngươi tưởng rằng: Như Lai không biết: ngươi đang tàng ẩn trong thâm tâm của Phạm Thiên Bá Ca để làm cho Phạm Thiên Bá Ca phải bị dưới quyền sai khiến của ngươi. Ngươi lầm tưởng rằng: Ngươi là thiện nhân, Như Lai là đấng tối cao trong tam giới không ở dưới quyền kiểm soát của ngươi. Như Lai đã tạo ra Trí tuệ Ba la mật đến bờ cao thượng. Nầy các thầy Tỳ khưu khi Như Lai dạy như vậy Phạm Thiện Bá Ca mới nói với Như Lai rằng: Nầy người giải thoát kia, không có vật gì hoàn toàn an vui giải thoát khỏi bốn cái khổ vĩ đại đâu.

Như Lai liền dạy rằng: Như Lai đã biết rằng: Ngươi có thần thông quảng đại. Rồi Như Lai bảo cho Phạm Thiên biết rằng: Trí tuệ của Như Lai có thể hiểu thông những gì trong tam giới mà không có nhân vật nào hiểu rõ được. Như Lai có trí tuệ hiểu rõ quả của chúng sanh thọ hưởng đã làm trong kiếp trước và đời vị lai, Như Lai biết rõ việc trong tam thế của tất cả chúng sanh như hiểu rõ có bao nhiêu nước của đại dương. Như Lai là đấng có trí tuệ vô lượng vô biên hơn tất cả nhân vật trong tam giới. Như Lai được hồng danh là đấng Cao thư?ng hơn tất cả chư Thiên, Phạm Thiên và nhân loại bởi Như Lai là đấng có trí tuệ vô lượng vô biên.

Phạm Thiên liền nói: Nầy người tìm cõi chết kia ơi, người đến khoe với ta rằng: Thấy rõ quả tội phước của chúng sanh, ta vẫn chưa tin, vậy ông không nên nói lời ấy với ta nữa, ông là người tà kiến đáng lẽ ra phải bị đọa vào địa ngục.

Như Lai liền bảo rằng: Nầy Phạm Thiên, ngươi dùng câu ấy nói với Như Lai có ích chi cho ngươi. Tất cả chư Phật quá khứ hằng có tâm từ bi thuyết pháp độ tín đồ đắc đạo quả nhiều không số kể. Như Lai cũng thuyết pháp độ đời như các vị quá khứ. Nầy Phạm Thiên, ngươi không nên theo về tà kiến. Không phải tà kiến chỉ xấu không thôi mà nó lại là nguyên nhân làm hại cho người làm những điều tội ác. Nầy Phạm Thiên, ngươi hằng tự khoe mình là bực có thần thông quảng đại không ai bằng. Vậy ngươi hãy tàng hình cho ta xem ta mới khen ngươi.

Phạm Thiên tàng hình liền, nhưng đức Thế Tôn dùng thần thông không cho y dùng phép ấy được. Khi Ngài để cho ông ta tàng hình được Ngài lại chỉ chỗ của ông ta đang ẩn trú nơi đầu non góc núi nào cũng như là ở ngay trước mắt Ngài. Phạm Thiên tức mình liền hóa ra một hột cát ở giữa đại dương. Ðức Thế Tôn liền lượm hột cát ấy lên để trong lòng bàn tay. Thật tam giới rộng lớn vô lượng vô biên nơi nào Phạm Thiên cũng có thể đến được. Nhưng không có chỗ nào khả dĩ gọi là trốn khỏi đức Thế Tôn được. Phạm Thiên Bá Ca lấy làm hổ thẹn mới trở vào ngồi trong lầu của ông ta. Khi đức Thế Tôn vừa ngự đến thì chư Phạm Thiên hàng chánh kiến liền rủ nhau đến nơi Phật ngự để nghe đức Thế Tôn thuyết pháp độ ông Phạm Thiên tà kiến ấy, khi thấy ông Phạm Thiên Bá Ca không còn lối nào thoát khỏi Tuệ giác Phật, nên đồng hoan hô đức Thế Tôn và cười chê vị Phạm Thiên tà kiến kia.

Phạm Thiên Bá Ca không thể chịu được lời cười chê của các vị Phạm Thiên khác, nên ông lại nói với đức Phật rằng: Nầy ông Sa môn, vậy ông hãy tàng hình đi, nếu ông tránh khỏi mắt ta thì ta khen ông.

Nói dứt tiếng thì đức Thế Tôn biến mất liền, chẳng những là ông Phạm Thiên tà kiến ấy không thấy mà tất cả chư Phạm Thiên có mặt nơi ấy cũng không ai trông thấy cả. Khi ấy các vị Phạm Thiên đều nghe tiếng đức Thế Tôn thuyết pháp ở giữa đám Phạm Thiên mà không sao thấy người. Thuyết xong thời pháp Ngài liền hiện ra cho chư Phạm Thiên thấy.

Lại bị thất bại một lần nữa nên ông Phạm Thiên Bá Ca cả thẹn đi một nơi xa các vị Phạm Thiên khác. Ðức Thế Tôn nghĩ: Phạm Thiên Bá Ca là người có thần thông hơn cả các vị khác, mà tìm nơi ngồi yên như thế nầy, chắc chắn y buồn phiền lắm, vậy ta phải làm sao hóa độ cho được. Rồi đức Thế Tôn liền cố tình thuyết pháp những chuyện tích của ông Phạm Thiên Bá Ca đã làm khi xưa mà chính bản thân ông ta cũng không nhớ và biết được, nhờ đức Thế Tôn nhắc nên ông được nhớ thêm năm trăm kiếp trước kiếp ấy, đến cùng năm trăm kiếp ấy ông không còn biết được thêm. Ðức Thế Tôn lại nhắc cho ông ta nhớ thêm một kiếp nữa là làm cho ông nhớ thêm được năm trăm kiếp nữa. Ðức Thế Tôn hành động như thế nhiều lần làm cho Phạm Thiên ấy cảm phục trí tuệ vô lượng vô biên của đấng Ðại Giác và ông ta tin chắc rằng: Ông ta không thể nào bằng đức Thế Tôn được. Ông phát tâm trong sạch và kính mến đức Thế Tôn nên ông bạch Phật rằng: Bạch đức Thế Tôn, Ngài là đấng Ðại Từ Bi nên Ngài mới ngự đến cõi Phạm Thiên nầy, dùng hào quang của Ngài sáng bao trùm cả cõi Phạm Thiên, Ngài lại còn dùng ánh sáng giải thoát là Pháp bảo đem tiền tích của tôi ra nhắc tôi. Nhờ nơi ấy mà làm cho trí tuệ tôi phát sanh, suy nghĩ thấy vô số kiếp luân hồi của tôi từ trước. Thật đức Thế Tôn là đấng siêu việt cao cả nhứt trong tam thế. Tôi đã phá được lưới vô minh và tà kiến.

 

Khi đức Thế Tôn biết rằng: Phạm Thiên Bá Ca đã diệt được tà kiến nên Ngài thuyết: Nầy Phạm Thiên, Như Lai là đấng cao cả, trưởng thượng hơn hết trong tam giới nầy, là đấng mà chúng sanh nương nhờ được. Hơn ấy nữa tâm của Như Lai không hề rung động và bão tố. Rồi đức Thế Tôn thuyết Tứ Diệu Ðế.

Sau khi dứt thời pháp có một muôn vị Phạm Thiên đắc đạo quả và phát tâm trong sạch với Tam bảo.

Riêng Ma vương cảm thấy rất hổ thẹn vì nghĩ rằng: Nếu như thế nầy thì nền móng của ta sắp bị sụp đổ. Vậy ta phải nhập vào làm cho vị Phạm Thiên nầy chống lại với ông Sa môn Cồ Ðàm. Nghĩ xong Ma vương liền nhập vào cho vị Phạm Thiên. Vị Ðại Phạm Thiên ấy liền nói: Thưa ông Sa môn Cồ Ðàm, Ngài đem pháp Tứ Diệu Ðế ra dạy tín đồ chắc chắn sẽ không đem gì lợi ích lại cho đệ tử ông đâu. Vì họ sẽ bị đọa vào bốn đường ác để chịu khổ thôi. Vậy từ đây Ngài đừng bao giờ đem lý thuyết ra dạy đời nữa. Tất cả Phạm Thiên có mặt nơi đây đều là nhờ cúng dường thần lửa, nên được sanh vào cõi nầy.

Ðức Thế Tôn lại dạy vị Ðại Phạm Thiên ấy một lần nữa và cho Ma vương biết rằng: Nên chuẩn bị trốn đi là vừa.

Phạm Thiên Bá Ca hết lòng trong sạch vâng giữ hành theo lời Phật dạy, hành theo Vô thường, Khổ não, Vô ngã, nghĩa là dùng Minh sát tuệ nhớ đến những pháp ấy không dám dễ duôi, và hết lòng ca tụng công đức Tam bảo.

Ðức Thế Tôn biết các vị Phạm Thiên ấy không còn tà kiến nữa nên Ngài trở về cõi đời.

Ðây tôi (tác giả) sưu tầm tám tích nầy để phối hợp tám câu kệ ngôn trong kinh tụng của Ngài Ðại Ðức Hộ Tông. Và chỉ thêm hầu quí vị thấy rằng: Ðây là những chuyện lạ trong thời kỳ Phật còn tại thế và bốn mươi lăm năm thuyết pháp của Ngài gặp những chuyện rắc rối như quí Ngài đã thấy.

 

CHUYỆN ÐỨC VUA SUPPABUDDHA (THIỆN GIÁC)

Khi đức Thế Tôn ngự tại chùa Nigrodha ở kinh đô Ca Tỳ La Vệ. Ðức vua Suppabuddha (Tàu dịch Thiện Giác) cột oan trái với Phật rằng: Sĩ Ðạt Ta bỏ con gái ta là Gia Du Ðà La đi xuất gia, con trai ta là Ðề Bà Ðạt Ða cũng xuất gia theo, Sĩ Ðạt Ta cũng chẳng ngó ngàng gì tới, trái lại còn oán thù ghét bỏ con ta.

Ngày kia ông nghĩ rằng: Ta sẽ không cho Sĩ Ðạt Ta đi thọ thực nơi nhà thí chủ thỉnh cầu đến để cúng dường. Ngài liền truyền quân lấy chướng ngại vật bít đường không cho đức Thế Tôn ngự đi thọ thực. Còn Ngài thì ngự nơi giữa đường uống nước.

 

Khi đức Thế Tôn và chư Tăng ngự đến nơi ấy không đi tới được, có người đến tâu với Ngài rằng: Có đức Thế Tôn ngự đến ngang qua nơi nầy.

Ngài bảo: Các người hãy trở lại và bảo cho Thái tử Sĩ Ðạt Ta biết rằng: Sĩ Ðạt Ta không lớn hơn ta, nên ta không nhường đường cho Sĩ Ðạt Ta.

Mặc dầu những người ấy hết lòng van xin cầu khẩn, Ngài cũng nhứt định không bao giờ nhường đường cho đức Thế Tôn ngự qua. Ngài ngồi tự nhiên và uống trà.

Ðức Thế Tôn bị chận đường nên không đi được, Ngài liền ngự trở về. Ðức vua Thiện Giác thấy đức Thế Tôn trở về Ngài liền cho mật vụ của Ngài theo và dạy rằng: Ngươi hãy theo dò coi Sa môn Cồ Ðàm có nói gì về việc ta cản đường không và trở lại cho ta biết.

 

Khi đức Thế Tôn ngự trở về Ngài không hề nói lời nào nhưng chỉ mỉm cười thôi. Ðức Ananda lấy làm lạ vì vị Chánh đẳng Chánh giác không bao giờ cười vì vui hay tỏ vẻ buồn. Nên Ngài liền hỏi đức Thế Tôn: Bạch đức Thế Tôn có chuyện chi lạ mà Ngài mỉm cười.

 

- Nầy Ananda , ngươi có thấy đức vua Thiện Giác chớ?

- Bạch Ngài, có thấy.

- Ngài chận đường của một đ?ng Giác Ngộ như Như Lai, Ngài sẽ bị đất rút chết tại nơi chân thang lầu của Ngài vào ngày thứ bảy kể từ ngày hôm nay. (Nghĩa là bỏ hôm nay còn sáu ngày nữa).

Mật thám của nhà vua nghe vậy liền về báo cho Ngài biết. Ðức vua nghe vậy mới phán rằng: Lẽ thường, nếu cháu ta nói điều nào thì chắc chắn là không sai chạy, vậy lần nầy ta phải làm sao cho cháu ta thành ra kẻ nói dối mới được. Nó nói ta bị đất rút tại chân cầu thang. Vậy thì kể từ hôm nay tới ngày thứ bảy ta sẽ không xuống nơi chân cầu thang; thì làm gì có chuyện ấy. Ðến khi quá bảy ngày thì ta lại bêu xấu chuyện nầy.

Ðức vua liền truyền đem những vật mà Ngài thường cần dùng hết lên từng lầu thứ bảy, rồi Ngài ngự trên từng lầu ấy, xong Ngài dạy đem thang lầu đi nơi khác; Ngài định không có thang thì Ngài không thể quên mà xuống đất được. Nơi cửa phòng Ngài để một đô vật thật tài; và mỗi từng lầu đều có để đô vật ở nơi ấy. Ngài dạy rằng: Khi nào thấy ta ra cửa nên đẩy vào, và khi nào ta đến thang lầu nên ném ta vào, hay ta xuống tới từng dưới thì các ngươi hãy ném ta lên. Sự sắp đặt của Ngài thật chu đáo, thời gian lặng lẽ qua sáu ngày rồi không có chuyện gì xảy ra.

Ðức Thế Tôn nghe sự canh phòng cẩn mật của nhà vua Ngài mới thuyết rằng: Nầy các thầy Tỳ khưu, đức vua Thiện Giác ở trên từng lầu bảy như vậy cũng còn chưa đủ, dầu cho Ngài có ngự trên tảng đá giữa hư không, hay ngồi trên hư không, hoặc đi thuyền ra giữa đại dương hay là ngồi trong hòm kín.

Một khi mà đức Chánh đẳng Chánh giác đã nói thì lời nói ấy không bao giờ sai chạy. Ðức vua sẽ bị đất rút như lời của Như Lai đã tiên tri. Ðức Thế Tôn liền thuyết câu kệ:

NA ANTALIKKHE NA SAMUDDAMAJJHE
NA PABBATÀNAM VIVARAM PAVISSA
NA VIJJATI SO JAGATIPPADESO
YATTHATTHITO MUCCEYYA PAPAKAMMA.

Nghĩa: Người ở trong hư không không tránh khỏi tử thần. Người giữa đại dương cũng chẳng tránh khỏi tử thần. Người vào ẩn trong hang núi cũng chẳng tránh khỏi tử thần. Trong vũ trụ nầy không có nơi nào có thể tránh khỏi tay tử thần được.

 

Chú giải: Ý câu nầy đức Phật dạy người mà muốn trốn tử thần nơi nào trong tam giới nầy đều không thể thoát khỏi. Sau khi dứt câu kệ có rất nhiều vị đắc Tu-đà-hườn quả.

Ðến ngày thứ bảy, bỗng dưng con ngựa của đức vua Thiện Giác lại sút chuồng. Con ngựa nầy hung dữ như sư tử khi sút chuồng ra gặp ai cắn nầy, ngoại trừ đức vua ra thì không còn ai trị nó được. Khi ấy đức vua đang ngự trên từng lầu thứ bảy, nghe tiếng huyên náo ở dưới, Ngài mới ngự ra nơi hành lang để xem coi chuyện gì. Quan hầu cho Ngài biết rằng: Ngựa sút chuồng đang cắn giết người.

Ðức vua nghe vậy lật đật chạy ra cửa xuống lầu để bắt ngựa. Những đô vật mà Ngài cắt để canh Ngài, thầy Ngài ra liền ôm lấy Ngài liệng xuống từng lầu sáu thay vì đẩy vào phòng. Các đô vật từng lầu sáu lại ôm Ngài thảy xuống từng lầu năm nhưng họ nghĩ rằng: Thảy trở lên lầu bảy. Cứ tuần tự như vậy đức vua tới từng dưới hết và nơi chân cầu thang là nấm mộ của Ngài.

Ngài bị đất rút và chết lại sanh vào A tỳ địa ngục là do nơi nghiệp của Ngài là cản đường không cho Phật đi thọ thực.

GIẢNG HÒA QUYẾN THUỘC

Lúc nọ lúa sắp chín mà trời hạn làm cho hai nước dòng Thích Ca và dòng Koliya (họ ngoại của đức Thế Tôn) lấy làm lo ngại cho số phận ruộng lúa của mình. Nên hội cả hai nước lại để nghị định sử dụng nước của con sông Rohinì. Giòng sông nầy là ranh giới của hai nước.

Người dòng Koliya nói: Sông Rohinì đã nhỏ lại nhằm lúc hạn hán nên nước rất là ít, nếu đem chia ra làm hai bên thì không bên nào được nước đủ để cung cấp cho ruộng lúa. Vậy xin quí vị nhường nước ấy cho chúng tôi.

Dòng Thích Ca nói: Nếu vậy thì vựa lúa của qúi quốc sẽ đầy, còn chúng tôi thì có gì. Vậy xin qúi vị nhường nước ấy lại cho chúng tôi.

- Chúng tôi không thể nào nhường được.

- Chúng tôi cũng vậy.

Hai bên cãi nhau bằng lời hết sức không phân được nên dùng đến võ lực. Dòng Koliya mới nói: Bọn chúng bây đem những đứa trẻ con xứ Ca Tỳ La Vệ đến đây, cái bọn lấy em gái mình làm vợ, bọn ấy ví như bầy chó rừng. Tượng binh, xa binh, mã binh, và khí cụ của bọn ấy có làm gì được chúng ta.

Còn những người dòng Thích Ca thì nói rằng: Các người nên về gọi những đứa bị bịnh cùi mà người ta đã ruồng bỏ; những kẻ ấy sống cách cô đơn không nơi nương tựa, sống trong bọng cây như những con thú ở hang thì tượng binh, xa binh, mã binh và khí giới của bọn ấy lại làm gì được chúng ta.

(Quí vị muốn biết tại sao hai bên chưởi mắng nhau như vậy xin xem Tiểu sử Thái tử Sĩ Ðạt Ta cùng một tác giả).

 

Những người đã gây sự với nhau toàn là quan quân chớ không có một vị hoàng tộc nào nơi đây. Khi trở về, những người ấy thuật lại những câu chưởi nhau làm cho hai dòng có tình quyến thuộc nóng giận.

Bên dòng Thích Ca hội nhau lại bàn với nhau rằng: Chúng ta phải tỏ cho họ biết rằng: Tài của những người lấy em gái làm vợ ra thế nào? Rồi truyền chuẩn bị quân mã chỉnh tề kéo ra nơi bờ sông Rohinì .

Dòng Koliya cùng hội nhau lại và bảo nhau rằng: Chúng ta phải cho bọn nầy biết uy lực của những kẻ ở trong bọng cây ra sao? Rồi cũng đưa binh mã ra trận nơi mé sông Rohinì .

Sáng ngày hôm ấy, đức Thế Tôn dùng tuệ nhãn xem coi chúng sanh nào có duyên để Ngài tế độ. Ngài thấy quyến thuộc bên cha và mẹ Ngài sắp đánh nhau. Ngài liền nghĩ nếu ta không đến nơi ấy thì cả hai bên đều bị tiêu hoại. Ðức Thế Tôn liền ngự đi trên hư không và đến nơi con sông Rohinì là nơi hai bên đã giàn mặt trận sáp chiến với nhau. Ngài liền ngự trên hư không nơi giữa con sông Rohinì .

Cả hai dòng Thích Ca cũng như Koliya đều trông thấy đức Thế Tôn ngự trên không giữa lòng sông thì lấy làm hổ thẹn nên lật đật để đồ giết người xuống.

Khi ấy đức Thế Tôn mới phán hỏi rằng: Tâu nhị vị Ðại vương, chẳng hay quí vị tranh giành chi nơi đây?

Một trong những vị hai bên đều bạch Phật: Bạch đức Thế Tôn chúng tôi không biết.

Ðức Thế Tôn hỏi: Vậy ai là người biết rõ nguyên nhân chuyện nầy.

Hai vị chúa tể của hai dòng liền bắt đầu điều tra thì mới biết rõ rằng: Sở dĩ mà có trận giặc nầy nguyên lai là giành nước ở con sông Rohinì .

 

Khi ấy mới bạch với đức Thế Tôn: Bạch đức Thế Tôn nguyên lai vì nước con sông Rohinì mà ra.

- Tâu Ðại vương, vậy nước có giá trị tới bực nào?

 

- Bạch đức Thế Tôn nước ấy có giá trị rất ít.

- Tâu Ðại vương, vậy dòng hoàng tộc có giá trị tới độ nào?

 

- Bạch đức Thế Tôn đã gọi là dòng hoàng tộc thì giá trị vô lượng vô biên.

Nếu vậy quí vị vịn vào nước kia giá trị rất nhỏ mà lại làm cho hàng hoàng tộc giá trị vô lượng vô biên kia phải tiêu diệt chăng?

Tất cả quyến thuộc hai bên lấy làm thẹn không ai trả lời. Ðức Thế Tôn liền gọi quyến thuộc cả hai bên lại mà dạy rằng: Tâu chư Ðại vương, tại sao quí vị làm những chuyện hồ đồ như thế nầy. Nếu không có Như Lai thì tức nhiên con sông Rohinì nầy sẽ đẫm máu trong ngày hôm nay rồi. Thật quí vị làm việc không nên làm. Quí vị là người nhiều oan trái. Còn Như Lai là người vô oan trái. Quí vị là người đa mang nhiều phiền não, nên bị phiền não ấy thiêu đốt nóng nảy đau khổ, còn Như Lai là người mát mẻ thanh tịnh vì không bận mọi việc nhứt là không còn phiền não. Quí vị là người còn ham mê theo ngũ trần. Như Lai lại là người không còn tí mến tiếc những nhơ bẩn ấy. Ðức Thế Tôn thuyết câu kệ:

SUSUKHAM VATAJIVÀMA
VERINESU AVERINO
VERINESU MANUSSESU
VIHÀRÀM AAVERINO v.v...

 

Nghĩa: Khi tất cả mọi người có oan trái ta không có. Khi mọi người đều có oan trái ta không có gọi là ta sống an vui.

 

Khi mọi người bị đau khổ ta không có (bị đau khổ). Khi mọi người bị đau khổ, ta không có gọi là ta sống an vui.

 

Khi tất cả mọi người đều tìm kiếm (sự khoái lạc của trần dục) ta không có (tìm kiếm trần dục) gọi là ta sống an vui.

 

Chú thích: Ý câu Phật ngôn nầy dạy người có oan trái, bị đau khổ, chạy theo tìm kiếm Tài, Sắc, Lợi, Danh. Những điều ấy hằng đem lại sự khổ đau trong luân hồi của con người. Ta là người không có những điều ấy nên ta sống một đời nhàn hạ an vui không buồn rầu đau khổ vì được hay mất những vật ấy.

 

Sau khi dứt thời pháp có nhiều người đắc Tu-đà-hườn quả. Xin nhắc quí vị thấy: Khi ta thấy có kim thân Phật đứng hai tay xòe ra và đưa ra trước, hay tay dựng đứng lên, đó là hình hiện tượng đức Thế Tôn khuyên quyến thuộc tại con sông Rohinì .

 

MA VƯƠNG

Khi đức Thế Tôn ngự tại làng Bà la môn tên Paĩcasàlà. Ngày nọ Ngài thấy có năm trăm cô thiếu nữ có duyên đắc quả Tu-đà-hườn, nhân muốn độ năm trăm cô ấy nên đức Thế Tôn ở lại nơi ấy. Theo thường lệ, đến ngày lễ năm trăm cô ấy xuống tắm ở sông rồi mới trở về làng. Cũng trong ngày ấy, đức Thế Tôn ngự đến khất thực trong làng ấy.

 

Ma vương thấy Phật đi khất thực, muốn phá Phật nên nhập vào tất cả người trong làng làm cho họ không để bát cho Phật dầu một muỗng cơm. Ma vương liền đến cổng làng đợi đức Thế Tôn ra về, hiện ra nói với đức Thế Tôn rằng: Nầy ông Sa môn, ông không được vá cơm nào sao?

 

- Nầy Ma vương tâm dẫy đầy tội lỗi kia, chẳng phải chính ngươi làm cho người không dâng cúng cho Như Lai sao?

- Thưa ông Cồ Ðàm, vậy xin mời ông trở lại.

 

Sự thật thâm tâm của Ma vương định rằng: Nếu thầy Cồ Ðàm trở vào, ta sẽ nhập vào những người trong xóm ngạo báng ông ta.

 

Vừa khi ấy năm trăm cô thiếu nữ ấy cũng vừa về đến cổng làng. Trông thấy đức Thế Tôn liền đảnh lễ rồi đứng nép vào một nơi phải lẽ.

Ma vương nói: Thưa ông Cồ Ðàm, khi mà ông được cơm ít thì ông sẽ bị đói, cái ấy nó sẽ hành hạ khó chịu lắm.

Ðức Thế Tôn liền dạy rằng: Nầy Ma vương tâm đầy tội ác kia, mặc dầu hôm nay ta chẳng có được một hột cơm; nhưng ta cũng vẫn được an vui vì quả của phỉ lạc cũng ví như Phạm Thiên ở cõi Phạm Thiên. (Không biết đói khổ vì vật thực).

Ðức Thế Tôn liền thuyết câu kệ:

SUSUKHAM VATA JÌVAMA
YESAM NO NATTHI KÌNCANAM
PITIPHAKKHA BHAVISAMA
DEVA ABHASSARAM YATHA.

 

Nghĩa: Ta không có sự rung động (vì các sự việc) thì sống cách an nhàn. Ta có phỉ lạc là vật thực cũng như Phạm Thiên ở cõi Phạm Thiên tên Abhassara vậy.

 

Chú giải: Khi tâm không rung động vì còn phiền não, thì sống nơi nào cũng an nhàn sống với phỉ lạc như Phạm Thiên không cần vật thực.

 

Dứt thời pháp năm trăm cô thiếu nữ đắc Tu-đà-hườn quả. Ma vương hổ thẹn trốn đi.

TIỀN KIẾP CỦA ÐỨC PHẬT

Trước kia xứ Vesàlì rất thịnh vượng, đến lúc nọ hạn hán làm ruộng thất mùa lúa cao gạo kém, nhân dân nghèo đói; kẻ nghèo không chịu nổi sự đói rét nên chết, người chưa chết đem những người đã chết bỏ trong bãi tha ma. Nạn đói kém gió rét càng kéo dài, người chết càng nhiều đến đổi không ai chôn ai được, vì vậy nên trong những thôn xóm làng mạc vì người người chết quá nhiều không ai chôn nên mùi hôi thúi rất khó chịu. Nhân cơ hội ấy A tu la, Ngạ quỉ đến ăn những tử thi hôi thúi ấy hiện ra làm cho người kinh sợ bỏ trốn đi xứ khác làm ăn, và nhân vì sự hôi thúi ấy khiến sanh ra bịnh ôn dịch. Khi ấy trong thành Vesàlì có ba điều tai hại mà nhân dân lấy làm kinh sợ là: Ðói kém, Bịnh tật,và ma quỉ khuấy quá.

Dân chúng còn sống sót hay ở nơi xa hơn liền hội lại để vấn nạn nhà vua. Khi ấy thỉnh nhà vua lâm trào xong, nhân dân hỏi: Tâu Ðại vương nay ba điều kinh khủng đã sanh trong thành nầy. Trước đây bảy triều đại không có sự kinh khủng như thế nầy bao giờ. Ðến triều đại của Ðại vương lại phát sanh. Nếu Ðại vương là vị minh quân hành đúng theo thiện pháp thì không khi nào có sự kinh khủng như thế nầy được.

Ðức vua liền truyền cho hội hết tất cả các quan và các vị bô lão lại nơi tiếp dân của nhà vua xong. Ðức vua liền dạy: Nay những điều kinh khủng đã sanh làm khổ cho nhân dân vậy chư hiền khanh cùng các vị bô lão hãy rán nghiên cứu coi trẫm có làm điều gì phi pháp mà trời hành dân lành như thế nầy chăng? Chư hiền khanh và quí vị nên thật tình trình bày cho trẫm rõ.

Khi ấy các quan cùng các vị bô lão cố hết sức tìm coi nhà vua có phạm vào những điều tối quan trọng nào chăng, không hề thấy dầu một lỗi rất nhỏ của nhà vua, nên mới tâu rằng: Tâu Ðại vương, chúng thần đã tìm hết, nhưng không thấy Ðại vương có lỗi gì. Thật ra Ngài là người vô tội.

Rồi các quan và các vị bô lão mới bàn với nhau rằng: Vậy tại sao tai nạn kinh khủng lại đến với chúng ta như vầy. Trong nhóm các vị ấy có người có ý kiến là: Phải tế thần. Có vị nói: Phải tế thần lửa. Có người bảo: Phải làm lễ cầu xin với các đấng Thiên thần. Có người bảo: Phải thỉnh sáu vị Tổ sư của sáu tôn giáo lớn nhất đến đây. Khi các Ngài đến là tai qua nạn khỏi vì các vị ấy là người có đức hạnh cao thượng. Có người nói: Hiện nay đã có đức Chánh đẳng Chánh giác trong thế gian nầy rồi. Ngài là đấng có oai đức vô lượng vô biên, Ngài là Thiên Nhơn Sư, ngài là đấng Ðại từ bi, Ngài là đấng cứu độ nhơn sanh thoát khỏi trầm luân. Nếu mà Ngài ngự đến đây, tức nhiên những tai nạn kinh khủng thảy đều phải tiêu diệt.

 

Phần đông các quan và các vị bô lão đều tán thành ý kiến của người ấy. Rồi hỏi nhau rằng: Ai biết hiện giờ đấng Ðại Từ Bi cứu khổ cứu nạn ấy đang ngự ở đâu?

Khi ấy lại cận ngày nhập hạ, và đức Thế Tôn đã thuyết pháp độ được đức Bình Sa Vương đang ngự tại Trúc Lâm tịnh xá. Trong nhóm ấy có vị hoàng thân xứ Vesàlì và ông Mahàlì là vị đắc Tu-đà-hườn quả một lượt với đức Bình Sa Vương.

 

Khi ấy đức vua xứ Vesàlì và các quan cùng các vị bô lão đồng ý là cử ông Mahàlì là vị quan Ðại thần đem chiếu thỉnh cầu đức Thế Tôn với những lễ vật quí báu. Ðức vua dạy, trước hết phải vào chầu đức vua Bình Sa Vương trước cho Ngài biết rằng đến thỉnh đức Thế Tôn xong rồi hãy vào thỉnh đức Thế Tôn.

 

Hai vị vâng chiếu chỉ ra đi. Khi đến Vương Xá thành vào triều kiến đức vua Bình Sa Vương và bày tỏ tự sự. Ðức vua Bình Sa Vương liền phán: Vậy quí Ngài hãy tùy tiện vào hầu Phật và thỉnh cầu Ngài.

Hai vị liền vào hầu Phật và bạch: Bạch hoá đức Ðại Từ Bi, ba điều tai nạn kinh khủng đã phát sanh tại thành Vesàlì. Quốc vương của chúng tôi cùng triều thần và dân chúng đồng lòng ngưỡng cầu thỉnh đức Thế Tôn ngự đến cứu độ chúng tôi. Khi đức Thế Tôn ngự đến thì tất nhiên tất cả nạn tai kinh khủng thảy đều tiêu diệt.

Khi Ngài nghe lời thỉnh cầu ấy, Ngài liền dùng trí tuệ quan sát coi và Ngài thấy rõ rằng: Khi ta thuyết bài kinh Rattanasutta tại thành Vesàlì thì oai đức bài kinh ấy sẽ phổ biến sâu rộng đến cả muôn ngàn người hưởng hương vị của Thánh quả và tai nạn kinh khủng ấy sẽ tiêu diệt. Ðức Thế Tôn liền nhận yêu cầu.

Ðức vua Bình Sa Vương hay tin đức Thế Tôn nhận lời ngự đến xứ Vesàlì , Ngài liền ra lịnh truyền cho dân chúng biết và chính mình Ngài vào hầu đức Thế Tôn và bạch hỏi rằng: Bạch đức Thế Tôn, Ngài đã nhận lời thỉnh cầu ngự đến thành Vesàlì rồi phải chăng?

- Tâu Ðại Vương, phải vậy.

 

- Nếu vậy xin đức Thế Tôn đình chỉ lại. Rồi Ngài về truyền lịnh phải sửa chữa đường cho thật bằng thẳng từ Vương Xá thành đến bờ sông Ganga là năm do tuần; mỗi một do tuần đều có nhà mát để đức Thế Tôn nghỉ và thọ thực; và cũng cho dân chúng hay biết ngày giờ nào đức Thế Tôn ngự đến đâu, để dân chúng tiếp đón rất trọng thể. Trên đường đi của đức Thế Tôn phải trải bông đủ năm màu và rất thơm mà phải cao cho tới đầu gối. Hai bên đường phải treo cờ phướn làm cho mát cả đường. Mỗi một vị Tỳ khưu đều có một cây lọng một tầng che. Còn đức Thế Tôn thì phải che lọng hai từng. Ðức Thế Tôn ngự tới bờ sông Ganga là đúng năm ngày. Ðức vua Bình Sa Vương đã trang bị thuyền rất đẹp ở bên bờ sông bên nầy. Ngài liền cho quan hầu cho tin đức vua Licchavì hay tin và chuẩn bị tiếp rước đức Thế Tôn.

Dân thành Vesàlì cùng đức vua và cả hoàng tộc hội nhau lại bàn về bố thí của đức vua Bình Sa Vương, và định phải làm cao hơn gấp đôi. Liền truyền cho nhân dân làm đường rộng từ bờ sông Ganga đi ba do tuần đến thành Vesàlì. Làm cây lọng có bốn tầng dành che cho đức Phật, còn lọng hai tầng che cho chư Tăng.

 

Khi thuyền cập bến, đức vua Bình Sa Vương, Ngài truyền kéo màn từ thuyền đến bờ không cho nắng r?i vào thân hình đức Thế Tôn và chư Tỳ khưu, chung quanh tấm màn che nắng đều kết hoa lạ thơm. Bảo tọa để Phật ngự làm bằng vàng và nạm bảy thứ ngọc quí. Ðức Thế Tôn ngự trên bảo tọa có chư Thánh Tăng ngồi hầu chung quanh. Khi đức vua Bình Sa Vương đưa đức Thế Tôn xuống thuyền, Ngài lần đi xuống nước, khi nước sâu tới cổ đức vua mới bạch đức Thế Tôn rằng: Bạch đức Thế Tôn, trẫm sẽ ở đợi đức Thế Tôn nơi nầy đến khi đức Thế Tôn trở lại. Rồi Ngài mới truyền cho thủy thủ chèo thuyền đi.

 

Thuyền đi đến một do tuần mới đến ranh giới hai nước Ma Kiệt Ðà và Vesàlì. Vua và hoàng tộc cùng dân chúng xứ Vesàlì tiếp rước rất trọng thể. Ðức vua bận đồ triều phục đi lần xuống nước khi nước tới cổ đến bên thuyền đức vua đỡ mũi thuyền từ từ dìu vào bờ, chính Ngài đỡ cây đòn dài. Khi đức Thế Tôn vừa đứng dậy để bước đến be thuyền thì trời kéo mây đen kịch, tiếp theo là trận mưa xối xả. Ðã lâu không mưa nên trận mưa nầy là trận mưa đầu tiên thật to, có nơi nước ngập tới bắp vế tới lưng quần. Những tử thi vô chủ bị nước lũ trôi xuống sông Ganga chảy ra biển cả. Ðất được thấm nước mùi hôi thúi hết hẳn.

Ðức vua Licchavì truyền dừng bước khi đi hết một do tuần; vì nơi ấy có chỗ để đức Thế Tôn an tọa và nhà vua cùng hoàng tộc với dân chúng cúng dường Phật bảo và Tăng bảo vật thực. Từ bờ sông Ganga đến thành Vesàlì phải đi ba ngày đường. Ðức vua cùng dân chúng làm lễ cúng dường thật là long trọng gấp đôi đức vua Bình Sa vương đã cúng dường.

Thiên vương Ðế Thích và nhiều chư Thiên đến nơi Phật ngự hầu Phật. Vì Thiên vương Ðế Thích và các vị chư Thiên đức trọng đến hầu Phật, nên loài Ngạ quỉ, A tu la lấy làm kinh sợ bỏ trốn hết không dám ở gần.

Ðến chiều lại, đức Thế Tôn ngự nơi cửa thành Vesàlì gọi Ðại Ðức Ananda đến dạy rằng: Ananda nầy, ngươi nên học thuộc lòng bài kinh tên RATTANASUTTA nầy, rồi cùng đi với một vị Hoàng thân Licchavì , đọc bài kinh quanh thành Vesàlì ba vòng.

Ðại Ðức Ananda học xong bài kinh của đức Thế Tôn dạy, lấy bát của đức Thế Tôn để đầy nước xong đứng tại cửa thành Vesàlì niệm tưởng đến công đức Phật. Kể từ khi phát nguyện thành bực Chánh đẳng Chánh giác là tu theo mười pháp ba la mật. Mười pháp ba la mật đến bờ trên và mười pháp ba la mật đến bờ cao thượng.

 

Năm pháp Ðại thí là: 1/Thí con. 2/ Thí vợ. 3/ Thí của. 4/ Thí thân thể. 5/ Thí sanh mạng.

Ba pháp Hành là: 1/ Hành cho lợi kỷ. 2/ Hành cho lợi tha. 3/ Hành hầu chứng quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Tư cách giáng sanh vào lòng mẹ trong kiếp chót. Tư cách ra đời. Tư cách xuất gia. Tư cách tu khổ hạnh. Tư cách cảm thắng Ma vương dưới cội Bồ đề. Tư cách chứng quả Chánh Biến Tri trên Bồ đoàn. Tư cách Chuyển Pháp Luân và chín pháp Thánh là (bốn Ðạo, bốn Quả và một Niết Bàn). Khi quán tưởng xong rồi Ðại Ðức Ananda mới vào thành đi cả ba vòng thành đọc kinh Rattanasutta trọn cả đêm. Nước thánh của Ðại Ðức Ananda rải làm cho kinh động bọn ma quái. Bọn ấy khi bị nước thánh của đức Ananda vừa đọc ba câu đầu là Yànidha Bhưtàni samàkatàni là không thể nào ở lại nơi ấy được đồng cùng nhau chạy trốn. Nước thánh mà Ðại Ðức Ananda rải ra xem như là những tràng ngọc trắng trong thật là xinh đẹp, trong khi ấy những người bịnh chưa chết đều được lành mạnh.

Dân chúng trong thành lo tạo ra Tăng đường để trai Tăng giữa kinh thành. Tại Tăng đường có treo những hoa thơm để cúng dường đức Thế Tôn và chư Thánh Tăng. Ðức Thế Tôn ngự giữa Tăng đường có chư Tăng ngồi hầu và có nhà vua cùng hoàng tộc với dân chúng thật là cảnh trang nghiêm, những vết tích chết chóc và sự kinh khủng hãi hùng tiêu diệt hết. Ðức Thiên Vương Ðế Thích và các vị chư Thiên ngự trên không trung. Ðại Ðức Ananda đọc kinh Rattanasutta ấy cả đêm không nghỉ. Ðến sáng ngày mới vào hầu Phật.

Khi ấy dân chúng và hoàng tộc cùng nhà vua mới cúng dường vật thực cho chư Thánh Tăng có đức Thế Tôn làm tọa chủ. Ðức Thế Tôn cũng thuyết bài kinh Rattanasutta như Ðại Ðức Ananda đọc khi đêm. Ðức Thế Tôn ngự tại thành Vesàlì bảy ngày, Ngài cũng vẫn thuyết bài kinh Rattanasutta luôn cả bảy ngày. Ngài biết rằng: Sự tai hại hãi hùng trong thành Vesàlì đã hết. Nên Ngài liền kiếu từ đức vua trở về Vương Xá thành. Ðức vua cùng dân chúng tiễn đưa Ngài thật là long trọng. Khi đến bờ sông Ganga, đức vua Licchavì và dân chúng cầu xin đức Thế Tôn ngự tại bờ sông để cúng dường thêm ba ngày nữa.

Các vị Long vương ở bờ sông Ganga thấy sự cúng dường của hai vị vua trọng thể như vậy mới nghĩ rằng: Người đ?i làm lễ cúng dường đến Như Lai thật là trọng thể. Vậy chúng ta phải làm gì đây? Chư Long vương liền hóa ra ba thứ thuyền là một thứ bằng vàng, một thứ bằng bạc và một thứ bằng ngọc. Trên mỗi chiếc đều có bảo tọa, ghe bằng thứ gì thì bảo tọa cũng bằng thứ ấy. Trên thuyền trang điểm bằng hoa sen đủ năm màu tươi đẹp lạ thường. Rồi đến thỉnh cầu đức Thế Tôn ngự trên thuyền của mình để trở về Vương Xá thành.

Khi ấy, người và chư Thiên cùng Long vương tranh nhau làm lễ cúng dường đến chư Tăng và đức Thế Tôn thật là trọng hậu. Chư Thiên Phạm Thiên đến nơi đang bố thí dựng cờ phướn lợp trời. Cờ và phướn cao tận hư không, thật là một cảnh huy hoàng trang nghiêm không từng có bao giờ.

Sau cùng vì lòng từ bi đức Thế Tôn liền ngự lên một chiếc thuyền bằng ngọc của Long vương hiện ra. Còn mỗi vị Tỳ khưu cũng đi trên một chiếc tùy thích của mình. Long vương liền đưa đức Thế Tôn và chư Ðại Ðức Tăng về cõi Long vương cúng dường rất trọng thể. Sau cùng, đưa về nơi đức vua Bình Sa Vương đang chờ đón. Khi ấy, cũng có chư Thiên đợi tiếp rước về Vương Xá thành. Thật là một chuyến đi vô cùng long trọng.

 

Khi về đến Vương Xá thành thì ngày hôm sau chư Tỳ khưu còn phàm mới hội nhau nơi pháp đường để bàn về chuyến đi lạ lùng và oai đức của đức Thế Tôn làm cho ba điều tai hại kinh khủng tiêu diệt. Vì sự trong sạch với Phật bảo, mà hai vị Quốc vương làm ra con đường dài hằng tám do tuần theo ven bờ sông Ganga rất bằng thẳng.

 

Khi các vị đang bàn tán về việc ấy thì đức Thế Tôn đã ngự đến và hỏi các Ngài đang bàn về việc gì? Các Ngài bạch đang bàn về việc tiếp rước long trọng và sự cúng dường của chư Thiên, Long vương, thật oai đức của Phật bảo vô lượng vô biên.

Ðức Thế Tôn dạy rằng: Nầy các thầy Tỳ khưu, sự cúng dường trọng thể như vậy, không phải do nơi oai đức của Phật bảo hoặc Long vương hay chư Thiên mà lại do nơi một quả bố thí rất nhỏ riêng của cá nhân Như Lai trong kiếp quá khứ mà thôi.

Ðức Thế Tôn dạy câu nầy không phải ý muốn phỉ báng Phật bảo, nhưng Ngài muốn chỉ quả của sự cúng dường với tâm trong sạch. Khi ấy chư Tỳ khưu yêu cầu đức Thế Tôn thuyết Túc Sanh Truyện.

Ðức Thế Tôn dạy: Trong kiếp quá khứ, tại xứ Takkasilà có một gia đình của thầy Bà la môn tên là Sankha có một người con trai tên là Susima. Khi người con ấy được mười sáu tuổi thưa với cha rằng Thưa cha, con muốn xin cha cho phép con đi đến xứ Bàrànasì để học phép mầu.

- Con ơi, cha có một người bạn chí thân là vị Bà la môn rất thông về pháp mà con muốn học, ông ta cũng ở xứ Bàrànasì ; vậy con đến học với ông ta.

Người con vâng lời cha đi đến thành Bàrànasì vào hầu người bạn của cha. Khi ông Bà la môn biết là con của bạn cũ. Ông hết lòng săn sóc và dạy thật là chu đáo. Cậu Susima thật là thông minh phi phàm, học mau hiểu và hiểu rất chu đáo. Khi cậu học không bao lâu kinh luật và tất cả mọi việc đều lão thông. Cậu cảm thấy không được rốt ráo còn lắm chỗ nghi ngờ liền vào hầu thầy và thưa rằng: Thưa thầy, con đã học thuộc hết cả rồi, nhưng con cảm thấy hình như chưa hoàn toàn tới nơi tới chốn, ý con muốn nói chưa đoạt được hết lý lẽ trong lời mà con đã học.

Ông thầy bảo: Con ơi, chính thầy cũng như con, không hiểu rõ hết lý của lời dạy ấy.

- Thưa thầy, có chắc rằng: Trong vũ trụ nầy cũng không còn ai thông hiểu nữa chăng?

 

- Con ơi, chỉ có những ông đạo sĩ ở trong rừng Isipatana mới là bực thông suốt những lời kinh mà con đã học. Con nên đến nơi ấy hỏi coi.

 

Cậu Susima liền đến rừng Isipatana vào hầu chư Phật Ðộc Giác và hỏi những sự nghi ngờ rằng: Thưa chư Ðại Ðức, Ngài có thông hiểu những điều nầy chăng?

Chư Ðộc Giác Phật dạy: Chúng ta thông hiểu ráo rốt mọi sự việc.

- Vậy cúi xin Ngài từ bi chỉ dạy cho tôi.

- Rất tiếc là chúng ta không thể dạy người không xuất gia.

 

Cậu Susima liền chịu xuất gia để học những sự mình đang nghi ngờ. Xuất gia không bao lâu ông cũng đắc quả Bích Chi Phật (là Ðộc Giác Phật). Nhưng tuổi thọ Ngài không được trường thọ nên lại nhập diệt trước khi về giáo hóa cha già.

Nói về ông Bà la môn Sankha nhớ con nên đến thành Bàrànasì để thăm con. Khi ấy người bạn mới cho biết là con ông muốn hiểu thông triệt để những sự nghi ngờ mà từ xưa đến nay chưa có vị Tổ sư nào giải nổi, nên đã đến rừng Isipatana học với các vị đạo sĩ. Ông Bà la môn Sankha lật đật đến nơi ấy để thăm con. Nhưng khi đến nơi chư Ðộc Giác Phật cho hay rằng: Con ông đã nhập diệt và có dựng phù đồ thờ để dân chúng đến cúng dường. Ông Bà la môn lấy làm đau khổ vì mất đứa con yêu quí. Ông đến nơi chân phù đồ (là Tháp) nhổ cỏ dại, cởi lấy khăn choàng của mình ra đi hốt cát trắng sạch đem lại trải nơi chân phù đồ, bẻ hoa thơm đến trải lên cúng dường, lấy vải làm lọng che phù đồ và làm phướn treo quanh phù đồ, rồi ông mới ra về.

Khi nhắc qua chuyện quá khứ, Ngài lại dạy rằng: Nầy các thầy Tỳ khưu, Ông Bà la môn tên Sankha ấy chính là Như Lai hiện tại đây. Như Lai đã nhổ cỏ dại ở chân phù đồ của đức Ðộc Giác Phật; do nhờ phước báu ấy nên đường đi của Như Lai được dọn bằng phẳng. Quả của sự cúng dường hoa thơm nên được trải hoa thơm theo đường đi. Làm lọng che phù đồ và phướn nên được có lọng và phướn che mát theo đường đi và chư Thiên cũng đem đến cúng dường rất trọng thể.

Nầy các thầy Tỳ khưu, sự cúng dường và vật cúng dường mà các ông đã thấy không phải do nơi oai đức của Phật bảo mà do nơi sự cúng dường của Như Lai khi là vị đại Bồ Tát.

Ðức Thế Tôn liền dạy câu kệ:

MITTASUKHU PARICCAGA
PASSE CE VIPULMA SUKHAM.
CAJE MATTASUKHAM DHIRO.
SAMPASSAM VIPULAM SUKHAM.

Nghĩa: Nếu bực trí thức trông thấy sự an vui vĩ đại vì sự dứt bỏ sự an vui vừa phải. Dứt bỏ sự an vui vừa phải sẽ được an vui cao quí.

Chú giải: Ý nói bực trí thức khi nhận thấy mình cúng dường của cải mà mình đã có tùy theo sức mình trong kiếp hiện tại nầy thì sẽ được an vui cao quí ngày vị lai, ý nói cúng dường vừa phải là đồ cúng dường ấy tùy theo của mình đã có chớ không phải đem hết của cải đã có ra cúng.

Sau khi dứt thời pháp có rất nhiều vị đắc Tu-đà-hườn quả.


Lời Tựa | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13a | 13b | 13c | 14 | 15 | 16

 


Cập nhật: 1-5-2001

Trở về mục "Phật giáo năm Châu"

Đầu trang