- Bước đầu Học Phật
-17-
Tu
trong mọi hoàn cảnh
Có nhiều người nghĩ rằng, tu là
phần riêng của những kẻ rảnh rang nhàn hạ, những người thừa của thừa
tiền, còn mình làm đầu tắt mặt tối, cơm không đủ no áo không đủ
ấm, có thì giờ đâu mà nói chuyện tu. Hoặc có những người nghĩ, tu là
việc của những kẻ thiếu phước bần hàn, cô quả, tật nguyền, nhờ tu
họ được an ủi bớt khổ, còn ta phước nhiều của lắm, thân quyến đầy
đàn, đẹp đẽ sang trọng mà tu làm gì. Lại có người nghĩ, tu là việc
của những kẻ tội lỗi ác độc, bởi họ tạo nhiều tội lỗi nên phải
tu để chuộc tội, còn tôi hiền lành có làm gì hại ai đâu mà tu. Bởi
có những quan niệm này, nên người ta không màng không nghĩ đến tu. Họ
đâu biết rằng, mọi chúng ta trong tâm niệm có cả xấu lẫn tốt, nếu
thả nổi mặc tình niệm xấu hoành hành, là sống theo bản năng, mất hết
tư cách của con người và sẽ gây tội lỗi ngập trời. Ðể hạn chế
tâm niệm xấu, khiến nó tiêu mòn, khởi dậy tâm niệm tốt, khiến nó tăng
trưởng, đây là việc làm của người tu. Có giảm tâm niệm xấu, tăng tâm
niệm tốt, người này mới đủ tư cách con người và làm nhiều việc tốt
đẹp với mọi người chung quanh. Thế là, có hoàn cảnh nào mà chẳng nên
tu?
Có những
người bận lo sinh kế gia đình, tửng bưng sáng đã có mặt ở chợ, đến
sẩm tối mới về tới nhà, rồi lo ăn uống giặt giũ cho con cái là tối
mò, có rảnh lúc nào đâu mà tu? Nếu bảo những người này phải tụng
kinh, phải lần chuỗi niệm Phật, chắc hẳn không thế nào làm được.
Nhưng tu ở đây là, bỏ ý nghĩ xấu, nuôi dưỡng ý nghĩ tốt, bỏ lời nói
dữ, nói lời nói lành, dừng những hành động ác, tạo những hành động
thiện, có mất thì giờ chút nào mà tu không được. Trái lại, chính khi
buôn bán làm ăn ấy, chúng ta có ý nghĩ tốt, thốt lời nói lành, có hành
động thiện, người khách hàng mến thương, khiến khách mua hàng càng lúc
càng đông, việc làm ăn dễ phát đạt. Ví như cô bán hàng có khách đến
mua, giá món hàng một ngàn đồng, cô nói một ngàn hai, chờ khách trả một
ngàn là cô bán. Song trớ trêu, người khách không trả một ngàn, mà trả
ba trăm. Trường hợp này, nếu cô bán hàng không biết tu thì nổi giận
quát tháo ầm ĩ, gây ra cuộc cãi vã ồn ào. Ngược lại, cô bán hàng biết
tu, chỉ cần cười, nói nhẹ nhàng "trả chưa tới giá, bán không được".
Mọi việc êm ái, không ai thiệt thòi gì, mai kia người khách ấy còn có
thể đến gian hàng này mua hàng. Trước những cảnh bất như ý, chúng ta
biết kềm hãm sự nóng giận, biết lựa lời ôn hòa để đáp, biết giữ
thái độ bình tĩnh, là khéo tu. Ở giữa chợ, mỗi ngày sự bất như ý diễn
ra liên tục, nên tu hành là điều tối cần cho người sống trong hoàn cảnh
này. Vì thế người xưa nói: "Nhất tu thị, nhị tu sơn."
Nếu là người
nông phu làm nghề ruộng khi vác cuốc ra đồng, chúng ta nghĩ "cần mẫn
làm cho lúa trúng, để có cơm cho gia đình mình ăn, vơi ra giúp đồng bào
mình cùng có cơm ăn". Quan niệm ấy là ý nghĩ lành, đó là tu. Thấy
thửa ruộng bên cạnh tốt hơn ruộng mình, không có tâm đố kỵ, mà lòng
mừng thầm bạn mình được lúa trúng, gia đình ấm no..., mình gắng học
hỏi theo cách làm ăn ấy, đây là tâm niệm của người biết tu. Lại, khi
làm việc đắp bờ cuốc ruộng, trong tâm vừa nảy ra niệm xấu, ta liền
diệt trừ, trong tâm nảy ra niệm tốt, ta liền khơi dậy cho nó tăng trưởng,
ấy là tu, một cuốc là một câu niệm Phật, hoặc một cuốc tận kim cang
địa ấy là tu.
Là học
trò bận việc học hành, công phu tu không hề chướng ngại. Khi cắp sách
đi học, em nghĩ "ta cố gắng học cho giỏi, để mai kia giúp cha mẹ
khi tuổi già, có tài để góp công mình xây dựng quê hương tốt đẹp
hơn", đó là em tu. Thầy giáo, cô giáo nhọc sức giảng dạy bài vở,
em lắng nghe và cố học thuộc, vì thương sợ thầy cô buồn, đấy là em
biết tu. Bạn bè trong lớp có những trò học giỏi hơn em, em không ganh tỵ,
trái lại còn kính phục để bắt chước theo, ấy là tâm niệm người tu.
Người tu là người biết phục thiện, mỗi khi có lỗi lầm bị rầy, bị
phạt, biết lỗi sửa ngay, không oán hờn trách móc. Có những đứa học hành
thua kém và thiếu phương tiện hơn em, em thương mến hướng dẫn và giúp
đỡ nó, là em khéo tu. Xã hội ngày mai sáng sủa hơn, tốt đẹp hơn, chính
nhờ những mầm non biết tu.
TU TRONG CẢNH NGHÈO KHÓ
Chúng ta
nghèo tiền nghèo của chớ đâu có nghèo ý nghĩ, lời nói, hành động.
Chuyển hóa ý nghĩ xấu thành tốt, lời nói dữ thành hiền, hành động
ác thành thiện là tu. Việc này đâu đòi có tiền có của, nhàn rỗi mới
làm được. Chính trong cuộc sống vất vả nghèo nàn của chúng ta cần thiết
phải có nó. Như có người nghèo khó vất vả mà lòng tốt, lời nói hiền
hòa, hành động lương thiện, khiến mọi người thương mến giúp đỡ, nhờ
đó mọi khó khăn giảm bớt đi. Ngược lại, nếu ở trong cảnh khó khăn
mà ý ngang ngạnh, lời nói hung dữ, hành động bạo ngược, khiến ai nghe
thấy cũng ghét cũng lánh xa, nhờ điều gì họ cũng không giúp, thì khó khăn
lại càng khó khăn hơn. Hơn nữa, tâm hồn trong sáng, lời nói hiền hòa,
hành động thanh cao, dù chúng ta sống trong cảnh nghèo vẫn thấy êm đềm
hạnh phúc. Chồng biết nhường vợ, vợ biết kính chồng, con hiếu thuận
cha mẹ, cha mẹ thương yêu con cái, gọi là cuộc sống hạt muối cắn hai,
thật là lý tưởng biết bao.
TU TRONG CẢNH BỆNH HOẠN
Bình thường
người ta cho khi bệnh hoạn là chướng ngại tu hành, đây cũng là quan niệm
sai lầm về việc tu. Nếu thấy tụng kinh, tọa thiền mới là tu, khi bệnh
hoạn tụng kinh không nổi, tọa thiền không được, đó là chướng ngại
tu. Song tu cốt ngăn ngừa phiền não, chiến thắng vọng tưởng, dù có tụng
kinh tọa thiền, không tụng kinh tọa thiền đều tu được. Nếu có người
bệnh nặng không đi đứng được, nằm một chỗ, khi ấy nằm nhiếp tâm
niệm Phật, niệm chí tử, chẳng buồn nghĩ đến ai, lo việc gì, chỉ một
bề niệm Phật thôi. Ðây là tu đại tinh tấn theo pháp môn Tịnh độ, đâu
có chướng ngại gì. Hoặc có người bệnh, không niệm Phật mà thích
quán chiếu, liền quán thân này thấy nó là gốc khổ đau, là tướng vô
thường, là hiện tượng nhớp nhúa, là không có chủ, nương thân bệnh
quán chiếu tường tận như vậy, thấy được tướng thật của thân, đây
là pháp trí tuệ sẽ gần với Niết-bàn, là tu thiền. Khổ nỗi, người
Phật tử bình thường tinh tấn tu hành, gặp lúc bệnh hoạn lại thối
chuyển, sanh phiền não với con cháu, đây là việc đáng tiếc. Khi mạnh
chúng ta tu, để khi yếu bệnh có đủ đạo lực tiếp tục, vì lúc này
là lúc gần với tử thần, là phút chiến đấu cuối cùng, nếu ngang đây
mà dừng, mà hướng đi chiều khác, thật là một việc hoài công vô ích.
Bởi vậy nên, Phật tử chúng ta phải thấy khi bệnh là cơ hội tốt, dồn
hết tâm lực vào sự tu, chuyên tâm không lơi niệm, được vậy là gần với
Phật, gần Niết-bàn, mới mong thoát khỏi khổ luân hồi muôn kiếp.
TU TRONG CẢNH TẠI GIA
Có một số
Phật tử nghĩ rằng, ở tại gia phiền rộn khó tu, được xuất gia rảnh
rang tu hành mới giải thoát. Quan niệm này cũng không đúng. Nếu thấy tại
gia là nhiều việc, vào chùa chắc gì ít việc? Người xưa nói: "Ca-sa
vị trước hiềm đa sự, trước dĩ ca-sa sự cánh đa." (Ca-sa chưa mặc
than nhiều việc, được mặc ca-sa việc lại nhiều.) Câu này thật là chua
chát đối với người tu. Ðây quả là sợ ông táo gặp ông lò, chạy ô mồ
mắc ô mả. Chúng ta đâu không nghe quí thầy trụ trì thường than: "Trụ
trì làm dâu trăm họ." Thế là ít việc hay nhiều việc, phiền rộn
hay rảnh rang. Yếu điểm tu hành là hiểu đạo, vững lòng tin. Ðủ hai điểm
này, ở tại gia hay xuất gia đều tu được. Nếu không đủ hai điểm này,
dù ở chùa chưa chắc đã tu được. Chúng ta phải khéo linh động trong mọi
hoàn cảnh, đừng đòi hỏi phải cảnh thế ấy tu mới được. Sự đòi hỏi
đó là cái cớ để chúng ta không tu. Vì có những người không thể tạo
được hoàn cảnh như ý. Có những Phật tử nam cũng như nữ, con cái đầy
đàn đầy đống mà cứ nằng nặc đòi xuất gia, quăng đại cho người
ở nhà làm sao thì làm. Nếu thỏa mãn nguyện vọng, vào chùa một lúc, gặp
khi gia đình thiếu thốn, con cái nheo nhóc, nóng lòng rồi gởi ca-sa cho
chùa trở về nhà. Ðây là việc làm nông nổi.
CHỨNG MINH MỌI HOÀN CẢNH
ÐỀU TU ÐƯỢC
Ngày xưa,
đời Ðường ở Trung Hoa có gia đình ông Bàng Long Uẩn, vẫn làm cư sĩ tại
gia, mà tu đến được chỗ sanh tử tự tại. Trong giới học Phật từ
trước đến nay vẫn ngưỡng mộ công đức tu hành của gia đình ông. Như
trong bài sám tu Tịnh độ đã đọc buổi tối, có câu "in như thiền
định họ Bàng thuở xưa..." Ông Bàng Long Uẩn trước theo Nho học, sau
nghiên cứu Phật thấy thích thú, ông tìm đến tham vấn các thiền sư. Ban
đầu, ông đến hỏi Thiền sư Hy Thiên (Thạch Ðầu): "Người không
cùng muôn pháp làm bạn là người gì?" Hy Thiên liền bụm miệng ông.
Ngay đây ông được ngộ. Sau ông đến tham vấn Mã Tổ (Ðạo Nhất), cũng
đem câu ấy ra hỏi. Mã Tổ bảo: "Ông hớp một ngụm cạn hết sông
Tây Giang, ta sẽ vì ông nói." Ông càng tin sâu hơn.
Gia đìng
ông, hai ông bà và một con trai, một con gái. Ông cất nhà gần chân núi, mỗi
ngày chẻ tre đan sáo, cô con gái gánh ra chợ bán. Sống đạm bạc qua ngày
để tu hành. Một hôm, trong nhà cùng ngồi bàn việc đạo, ông nói:
"Nan nan nan, thập tạ du ma thọ thượng thang." (Khó khó khó, mười
tạ dầu mè trên cây vuốt.) Bà đáp: "Dị dị dị, bách thảo thượng
đầu Tổ sư ý." (Dễ dễ dễ, trên đầu trăm cỏ ý Tổ sư.) Cô con
gái tên Linh Chiếu đáp: "Dã bất dị, dã bất nan, cơ lai khiết phạn,
khốn lai thùy." (Cũng chẳng dễ, cũng chẳng khó, đói đến thì ăn mệt
ngủ khò.) Với cái nhìn của ông, thấy sự tu hành thật khó khăn vô kể,
giống như người trèo lên cây cao mà bị thoa dầu, trèo lên tuột xuống,
không có chỗ để bám. Trái lại, bà thấy việc tu rất dễ, vì nhìn ở
đâu cũng thấy ý Tổ sư tràn khắp. Cô Linh Chiếu dung hòa, không nói khó,
không nói dễ, khó dễ là hai bên, vượt qua hai bên (nhị kiến) tâm sẽ
thanh tịnh thản nhiên, khi ấy chỉ đói đến thì ăn, mệt đến thì ngủ.
Câu nói của cô Linh Chiếu dễ bị người sau hiểu lầm, người ta nghĩ rằng
tu thiền là đói ăn mệt ngủ, rồi sống theo bản năng, thật là tai họa,
chủ yếu cô nói là, khi nào tâm ta không còn mắc kẹt hai bên, khó dễ, tốt
xấu, hơn thua, hay dở..., mới đến chỗ đói ăn mệt ngủ.
Lại, ông
có làm bài kệ nói sự đoàn tụ của gia đình ông như sau:
Hữu nam bất
thú
Hữu nữ bất giá
Ðại gia đoàn biến đầu
Cộng thuyết vô sanh thoại.
Dịch:
Có con trai
không cưới vợ
Có con gái không gả chồng
Cả nhà cùng sum họp
Ðồng bàn lời vô sanh.
Về già, một
hôm ông lên ngựa giữa ngồi chuẩn bị tịch, bảo Linh Chiếu: "Con ra
sân xem đúng ngọ vô cho cha hay." Cô Linh Chiếu ra xem trở vào thưa:
"Gần đúng ngọ, mặt trời bị nguyệt thực, cha ra xem." Ông ra
sân xem, trở vào, thấy Linh Chiếu lên ngựa giữa ngồi kiết già tịch.
Ông nói: "Con gái ta lanh lợi quá!" Lo mai táng Linh Chiếu xong, ông
báo tin cho thân hữu hay sắp tịch. Hôm ấy bạn bè tụ hội, ông nằm gối
đầu trên đầu gối Châu Mục Công, nhắm mắt thị tịch. Tin này đến bà
Long Uẩn, bà ra đồng cho con trai hay, người con trai đang đánh trâu cày ruộng,
bà bảo: "Con ơi! Ông già vô tri và con bé ngu si đã bỏ mình đi rồi."
Người con trai thưa: "Vậy hở mẹ!" Liền đứng thẳng tịch. Bà
nói: "Thằng ngu si này cũng đi nữa." Bà lo mai táng con trai xong,
lên núi tịch. Ðây là hiện tượng sanh tử tự tại của gia đình ông
Bàng Long Uẩn. Ông Long Uẩn đan sáo, cô Linh Chiếu bán sáo ngoài chợ, con
trai ông cuốc cày ngoài ruộng, bà Long Uẩn ở nhà nấu cơm, đều tu hành
đắc lực đến sanh tử tự tại. Tại sao chúng ta lại đổ tại hoàn cảnh
này, hoàn cảnh nọ, tu không được?
Ðến đời
Trần ở Việt Nam, vua Trần Thánh Tông và Tuệ Trung Thượng sĩ, một ông
vua, một ông quan vẫn tu hành đắc lực. Chúng ta ôn lại câu chuyện sau đây.
Nhân ngày làm tuần cho Hoàng thái hậu, vua Thánh Tông thỉnh các bậc tôn
túc đến dự trai, trong đó có Tuệ Trung Thượng sĩ. Nhà vua yêu cầu các
Ngài trình bài kệ ngắn để thấy chỗ kiến giải của các ngài, qua nhiều
bài kệ, nhà vua không hài lòng bèn trao giấy bút cho Thượng sĩ. Thượng
sĩ viết một mạch:
Kiến giải
trình kiến giải
Tợ niết mục tác quái
Niết mục tác quái liễu
Minh minh thường tự tại.
Dịch:
Kiến giải
trình kiến giải
Như dụi mắt thấy quái
Dụi mắt thấy quái rồi
Rõ ràng thường tự tại.
Nhà vua đọc
xong, liền phê tiếp ở sau:
Minh minh thường
tự tại
Diệc niết mục tác quái
Kiến quái bất kiến quái
Kỳ quái tất tự hoại.
Dịch:
Rõ ràng thường
tự tại
Cũng dụi mắt thấy quái
Thấy quái chẳng thấy quái
Quái ấy ắt tự hoại.
Kiến giải
của chúng ta không thật, giống như dụi mắt trong hư không có những đốm
hoa. Khi con mắt bình thường trở lại thì những đốm hoa không còn. Những
đốm hoa mất đi, ấy là con mắt sáng. Tâm chúng ta bị kiến giải che mờ,
một khi kiến giải lặng mất, lúc ấy mới là tâm chân thật sáng suốt.
Vua Thánh Tông và Thượng sĩ chỗ thấy như nhau, khác nhau chỉ đối ngược
ý trước sau mà thôi. Thượng sĩ nói con mắt dụi thấy hoa đốm, khi hết
lòa con mắt trước đã sáng rỡ. Thánh Tông nói con mắt trước đã sáng
rõ, do dụi nên thấy hoa đốm, chính khi thấy hoa đốm, biết là không thật
thì hoa đốm tự mất, trở lại con mắt sáng như trước.
Vua Thánh
Tông đau nặng, Thượng sĩ biên thơ hỏi thăm. Vua trả lời bằng hai câu
thơ:
Viêm viêm
thử khí hạn thông thân
Vị tằng uyển ngã nương sanh khố.
Dịch:
Hừng hực
hơi nóng toát mồ hôi
Chiếc khố mẹ sanh chưa từng ướt.
Thượng sĩ
bệnh sơ sài, Ngài kê một giường gỗ nằm tại Dưỡng Chân Trang. Ngài nằm
nghiêng bên phải theo phép cát tường, mắt nhắm lại, người hầu và thê
thiếp khóc rống lên. Ngài mở mắt ngồi dậy, sai lấy nước rửa tay súc
miệng, liền quở nhẹ rằng:
"-Sống
chết là lẽ thường, buồn thảm luyến tiếc chi, làm não chân tánh
ta".
Nói xong,
Ngài nằm xuống yên lặng mà tịch.
Một ông
vua khi sắp chết, thấy thân tứ đại tan rã đau đớn, song còn một cái
chưa bao giờ tan rã, đây là "chiếc khố mẹ sanh". Một ông quan sống
trong cảnh thê thiếp tôi tớ đầy nhà, mà vẫn nhẹ nhàng thanh thản ra
đi, trước mọi người khóc than luyến tiếc. Nếu vì bận rộn khó tu, ai
bận rộn hơn một ông vua, nhất là ông vua vì dân vì nước trước cuộc
xâm lăng của phương Bắc. Ai bị ràng buộc hơn một ông quan, có đủ thê
thiếp tôi tớ đầy nhà. Những vị này tu được, chúng ta không còn lý do
gì thối thác khó tu.
Tóm lại,
chúng ta là con người chưa có ai toàn hảo, cần phải biết tu để chận
đứng những điều xấu dở xuất phát từ ba nghiệp của mình. Ðồng thời
chúng ta khéo nuôi dưỡng những hành động tốt đẹp từ thân miệng ý
phát ra. Dừng ác nuôi thiện là điều không thể thiếu, nơi con người muốn
vươn lên. Khước từ tu hành, là chúng ta khước từ sự tiến bộ, là khước
từ mọi đẹp đẽ cao quí, khước từ sự an vui hạnh phúc. Nếu ai quyết
chí vươn lên, muốn sống cuộc đời an lạc, muốn gia đình hạnh phúc, muốn
xứ sở huy hoàng, tu là chủ yếu thực hiện những điều mong muốn ấy.