- Bước đầu Học Phật
-21-
Cốt
lõi của đạo Phật
Chủ yếu đạo Phật là chỉ dạy
chúng sanh giải thoát mọi khổ đau. Song lâu đài giải thoát phải xây dựng
trên một nền tảng giác ngộ. Trước phải giác ngộ nhiên hậu mới giải
thoát, như nói "biết đúng mới làm đúng". Giác ngộ Giải thoát
theo liền bên nhau không thể tách rời được. Cầu Giải thoát mà trước
không Giác ngộ là sự mong cầu viển vông thiếu thực tế. Như người mắc
bệnh ghiền á phiện muốn bỏ, mà không ý thức tai hại do ghiền á phiện
gây ra, chạy cầu thầy bùa, thầy pháp xin bùa phép uống để khỏi ghiền,
là xa vời không thực tế. Muốn bỏ bệnh ghiền á phiện, chính người
ấy phải nhận thức rõ ràng tai hại của bệnh ghiền, đồng thời lập
chí cương quyết bỏ á phiện, dù bị cơn ghiền hành hạ thế mấy, liều
chết hẳn không tái phạm. Có thế, người ấy khả dĩ thành công việc bỏ
ghiền á phiện. Mọi khổ đau trong đời sống con người đều do hành động
xấu xa của con người chuốc lấy. Muốn giải thoát mọi đau khổ, con người
phải Giác ngộ, cương quyết đập tan mọi nguyên nhân sanh ra đau khổ. Nhân
đau khổ đã nát thì quả khổ đau đâu còn. Vì thế, Giác ngộ Giải
thoát là "Cốt Lõi Ðạo Phật".
GIÁC NGỘ ÐAU KHỔ
Thuở còn
làm Thái tử, sau khi chứng kiến sự sanh già bệnh chết của con người,
ngài Tất-đạt-đa quyết tâm xuất gia tầm đạo. Sau khi đã đạt đạo,
ngài thấy rõ trong mọi đau khổ chỉ luân hồi sanh tử là cái khổ to lớn
dai dẳng hơn cả. Cho nên, ngót bốn mươi chín năm Ngài thuyết pháp cốt
chỉ rõ con đường Giải thoát Sanh tử Luân hồi cho chúng sanh. Ðồng thời
Ngài cũng phương tiện vạch bày phương pháp giảm thiểu đau khổ cho những
chúng sanh chưa đủ khả năng thoát khỏi luân hồi.
GIÁC NGỘ LÝ NGHIỆP DẪN
Chúng sanh
si mê tạo nghiệp, sức nghiệp lôi kéo chúng sanh đi vào luân hồi sanh tử.
Do nghiệp dẫn dắt chúng sanh mãi trèo lên tuột xuống trong sáu nẻo luân
hồi. Có khi chúng ta vui cười ở cõi trời, có khi la hét ở cõi a-tu-la,
có lúc nửa cười, nửa mếu ở cõi người, lại có khi kêu la thảm thiết
ở địa ngục, có lúc thất thểu đói khát ở ngạ quỉ, có khi ngu si sống
theo bản năng ở súc sanh. Ðang lúc bị nghiệp dẫn, chúng ta cũng có gặp
những cảnh vui, song cái vui ấy chỉ trá hình của đau khổ. Vì là cái vui
mỏng manh tạm bợ, rốt cuộc đều tan biến theo thời gian. Nghiệp là
hành động tạo tác của con người hoặc nói khác, nghiệp là động lực
thúc đẩy lôi kéo chúng sanh đến nơi thọ quả. Cụ thể hơn, nghiệp là
sức bảo tồn mạng sống hiện tại của con người. Do hành động tạo tác
nhiều lần, thành thói quen, có sức mạnh lôi cuốn con người đi theo thói
quen là nghiệp. Ban đầu ta làm chủ tạo nghiệp, nghiệp thành, làm chủ
chi phối lại chúng ta. Như người khi mới tập uống rượu và sau khi đã
ghiền rượu. Nghiệp dẫn dắt chúng ta lang thang trong sáu nẻo luân hồi đều
do cái sở tập của mình mà nên. Sự sống là động, ngừng mọi hoạt động
trong thân thì chết. Như mũi tên rời dây cung bay bổng trong không là do sức
đẩy, sức đẩy mãn thì mũi tên phải rơi. Sự sống của thân chúng ta đều
do sức nghiệp, nhờ gió nghiệp thu hút tứ đại bên ngoài vào thân, cũng
do gió nghiệp tống tứ đại phế thải trong thân ra ngoài, gió nghiệp dừng
thì thân này phải hoại. Có bài tụng:
Ðem vào nhờ
gió nghiệp
Tống ra cũng gió đưa
Sự hô hấp tuần hoàn
Tất cả đều do gió.
Một phen gió nghiệp dừng
Thân này như khúc gỗ.
Thế nên, sự
tồn tại của thân hiện nay và sự tiếp nối của thân mai sau đều do
nghiệp. Còn nghiệp là còn sự sống và tiếp nối sự sống. Nghiệp chủ
động trong vòng sanh tử của chúng sanh.
Nghiệp có
nhiều thứ, nói đơn giản chỉ có hai thứ thuộc ba lớp khác nhau: thiện
nghiệp, ác nghiệp, tích lũy nghiệp, cận tử nghiệp, định nghiệp, bất
định nghiệp. Những hành động lành tạo thành thói quen là thiện nghiệp,
sẽ dẫn dắt sanh trong các cõi lành. Những hành động dữ tạo thành thói
quen là ác nghiệp, sẽ lôi cuốn vào các cõi dữ. Trong lục đạo luân hồi,
tùy nghiệp lành cao thấp sẽ sanh trong ba đường lành: người, a-tu-la, trời.
Nghiệp dữ tùy nặng nhẹ sẽ sanh trong ba đường dữ: địa ngục, ngạ quỉ,
súc sanh. Vì thế, lành dữ đều do nghiệp, nghiệp lại chính là hành động
hằng ngày của chúng ta. Muốn tương lai vui hay khổ đều do ta quyết định.
Chính chúng ta là người làm chủ vận mạng của chúng ta, không ai khác có
thể đem vui khổ lại cho chúng ta, kể cả đức Phật. Chúng ta là người
định đo?t số phận của mình ngay trong hiện tại và vị lai.
Hằng ngày
chúng ta gây tạo nghiệp lành hay dữ tích lũy thành sức mạnh, dẫn dắt
chúng ta đến chỗ tương ứng thọ sanh, gọi là tích lũy nghiệp. Thuở Phật
tại thế, Thích-ma-ha-nam đến bạch Phật: Hằng ngày con giữ năm giới tu
thập thiện... nếu đi đường gặp cọp dữ, voi dữ hại, khi ấy chết
con sẽ sanh về đâu? Ðức Phật đáp: Như cây to đang nghiêng hẳn về một
chiều, bị người cưa sẽ ngã về đâu? Ðây là hiệu năng của tích lũy
nghiệp. Chúng ta sắp chết mà nghiệp thiện, ác chưa nghiêng hẳn bên nào,
khi ấy tâm niệm thiện dấy mạnh, hoặc tâm niệm ác dấy mạnh liền theo
đó thọ sanh, là cận tử nghiệp. Người ta thường quan trọng giờ phút
lâm chung là vì thế. Trợ niệm bằng cách nhắc lại giáo pháp mà người
sắp chết đã nghe, cho họ dễ tỉnh giác, hoặc tụng kinh niệm Phật theo
sở thích hằng ngày của họ, khiến thêm sức mạnh để họ đi theo con
đường đã chọn. Thân miệng ý cộng tác tạo nghiệp lành hay nghiệp dữ,
kết quả tất yếu phải thọ báo lành hay dữ là định nghiệp. Thân miệng
riêng lẻ tạo nghiệp lành hay dữ, kết quả có thể thay đổi được là
bất định nghiệp. Ví như có người ý thù ghét, miệng chửi, tay đánh một
đối phương, sau đó họ ăn năn đến xin lỗi, đối phương dù có tâm lượng
rộng rãi đến đâu thử hỏi có tha thứ dễ dàng chăng? Ngược lại, có
người vô tình hoặc lầm lẫn chửi hay đánh kẻ khác, sau đó anh biết lỗi
đến xin lỗi, chắc chắn nạn nhân kia tha thứ chẳng khó.
GIÁC NGỘ TU NGHIỆP THIỆN
Biết thân
miệng ý là chỗ xuất phát nghiệp, người phát tâm qui y Tam Bảo, trước
tiên phải giữ năm giới. Trong năm giới không sát sanh, không trộm cướp,
không tà dâm là ba điều thiện của thân; không nói dối, không uống rượu
là hai điều thiện của miệng. Chỉ tu năm điều thiện này là đủ cung cách
một người tốt trong xã hội hiện tại, và sẽ làm người tốt ở vị
lai. Giữ trọn năm giới là đóng cửa ba đường ác (địa ngục, ngạ quỉ,
súc sanh), không bao giờ ta bước chân đến ba chỗ này. Thế nên, Phật chế
năm giới là phương tiện giảm thiểu đau khổ cho con người trong hiện tại
và vị lai.
Nếu giữ
trọn mười điều thiện sẽ được sanh lên cõi trời, là con đường lành
cao nhất trong sáu đường. Giữ mười điều thiện là tu đủ ba nghiệp:
nơi thân không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm; nơi miệng không
nói dối, không nói hai lưỡi (nói lật lọng), không nói hung dữ, không
nói thêu dệt; nơi ý bớt tham, bớt sân, không tà kiến. Tà kiến là nhận
định lệch lạc không đúng lẽ thật, gốc từ si mê mà ra. Phật dạy:
"Thấy đúng nhân quả là chánh kiến, thấy sai nhân quả là tà kiến."
Ba nghiệp biết tu thiện là tạo nguồn an lạc hiện tại và mai sau.
Ngược lại,
ba nghiệp tạo đầy đủ mười điều ác là nhân của địa ngục. Ð?a ngục
là đường khổ nhất trong sáu đường luân hồi. Ðâu đợi xuống địa
ngục mới khổ, ngay trong cuộc sống hiện tại này, nếu người làm đủ
mười điều ác, sẽ thấy một đời hoàn toàn đau khổ. Chúng ta thử
nhìn người ưa sát sanh, trộm cướp, tà dâm, nói dối, nói hai lưỡi, nói
thêu dệt, tham lam, sân hận, tà kiến có lúc nào họ được yên ổn đâu.
Dù họ ở địa vị thế nào trong xã hội, bản thân và tâm hồn họ vẫn
đen tối và đau khổ dài dài.
Phật dạy
người Phật tử tu thập thiện cốt để đầy đủ phước đức, đời
sau sanh ra sẽ được thỏa mãn mọi nhu cầu trong cõi dục giới này. Song
đây chưa phải là lối tu giải thoát, đau khổ cứu kính, cần tiến lên
những bậc trên nữa mới hoàn toàn giải thoát đau khổ. Tuy nhiên, trên
đường tu, trước giữ năm giới, kế tu thập thiện là cơ bản là hai nấc
thang đầu trên cây thang giải thoát. Thiếu nó, người tu sẽ chới với không
thể tiến lên được.
GIÁC NGỘ DỨT NGHIỆP
Sanh tử gốc
do nghiệp dẫn, muốn hết sanh tử phải hết nghiệp. Nghiệp phát xuất từ
thân miệng ý, song chủ động là ý. Ý có nghĩ lành dữ, thân miệng mới
tạo nghiệp lành dữ. Ý lặng rồi thì thân miệng đâu còn cơ sở tạo
nghiệp. Như chiếc xe lăn bánh chạy trên đường, gốc từ cháy xăng nổ máy,
muốn xe dừng thì phải hãm xăng tắt máy. Cái chủ động đã dừng, các bộ
phận bị động cũng dừng. Người tu quyết giải thoát luân hồi, sanh tử
phải chận đứng ý nghiệp. Khi nào ý nghiệp vắng bặt rồi, chắc chắn
mình thoát ly sanh tử. Phương tiện dừng ý nghiệp: Phật dạy có nhiều lối,
gọi là những pháp môn tu. Pháp môn tu thiền, pháp môn tu tịnh độ... Mỗi
pháp môn đều nhằm đập chết con khỉ ý thức. Tu thiền phải được định,
niệm phật phải nhất tâm. Ðã định thì ý thức đâu còn hoạt động,
nhất tâm thì con khỉ ý đã chết lịm rồi. Vì thế tu thiền đến diệt
tận định thì nhập Niết-bàn (vô sanh), niệm Phật đến nhất tâm bất
loạn thì thấy Phật A-di-đà đến đón về cực lạc. Nhập Niết-bàn thì
không còn sanh tử, về cực lạc thì hết luân hồi trong lục đạo. Ðược
về Cực lạc (vui tột) hay nhập Niết-bàn (vô sanh) mới thật là giải
thoát khổ đau hoàn toàn miên viễn. Ðây là chỗ đức Phật Thích-ca nhằm
hướng dẫn chúng sanh đạt đến.
Muốn niệm
Phật được nhất tâm phải tin chắc về sự, hoặc nhận thực về lý.
Tin chắc về sự, là tin có cõi cực lạc, có đức Phật A-di-đà tiếp dẫn,
tin mình niệm Phật sẽ được vãng sanh. Nhận thực về lý, là nhận rõ
tâm tịnh thì độ tịnh. Phật A-di-đà là tánh giác của mình, phương pháp
niệm Phật là một cách lóng lặng cho tâm mình thanh tịnh, có câu "Tự
tánh Di-đà, duy tâm Tịnh Ðộ". Ðã đủ lòng tin hay nhận thực ấy rồi,
hành giả bắt đầu thực hành bằng niệm danh hiệu đức Phật A-di-đà.
Miệng niệm lỗ tai lắng nghe, phải nghe rõ ràng từng tiếng niệm của
mình, dù niệm thầm cũng vậy. Niệm có chuỗi cũng tốt, không chuỗi cũng
được. Cốt yếu cột tâm trong sáu chữ Di-đà, không cho tâm phóng chạy
ra ngoài. Ban đầu niệm Phật có thời khóa hay có số chuỗi, sau quen rồi
trong bốn oai nghi, trong mọi hoạt động đều nhớ niệm Phật. Chỉ ngoài
giờ ngủ ra, tất cả giờ đều là giờ niệm Phật. Người niệm Phật
tin về sự, sau thời niệm Phật đều phát nguyện hồi hướng sanh về cực
lạc. Cõi cực lạc là mục tiêu qui hướng tuyệt đối của người này.
Ðức Phật di-đà sẽ đến đón họ trước giờ lâm chung, khẳng định
như vậy. Người niệm Phật nhận thực về lý, hướng thẳng về tâm
thanh tịnh của mình. Như nói "Trì Thành Nguyệt Hiện", hồ nước
đào xong, nước hồ lóng trong thì mặt trăng hiện. Nước hồ trong là tâm
thanh tịnh, bóng trăng hiện là tánh giác hiện bày. Tánh giác là Phật Di-đà,
tâm thanh tịnh là cực lạc. Tin về sự là hướng ra ngoài, nhận thực về
lý là nhắm thẳng tâm mình. Tuy sự lý trong ngoài có khác, song trên phương
diện thực hành chủ yếu được nhất tâm. Nhất tâm là mục đích duy nhất
của phương pháp niệm Phật. Dù tin sự hay hiểu lý mà niệm Phật không
nhất tâm thì cũng chẳng đến đâu.
Muốn tu thiền
được định tùy trình độ sai khác cũng có nhiều lối tu khác nhau. Tổng
quát có hai lối, thiền tiệm thứ và thiền đốn ngộ.
THIỀN TIỆM THỨ
Thiền tiệm
thứ là lối tu thiền theo thứ lớp tuần tự tiến lên, có đề mục, có
phương pháp, ứng dụng tu pháp này xong, tiến lên pháp khác, có sở chứng
sở đắc từ thấp đến cao. Như lối tu quán tứ niệm xứ, minh sát tuệ
(Xem sách Thiền Nguyên Thủy). Hoặc tu lối Lục diệu pháp môn. Ðây
là sáu cửa mầu nhiệm tiến vào thiền.
Ban đầu là
Sổ tức, là lối đếm hơi thở. Hít hơi vào cùng, đếm một, thở
ra sạch đếm hai. Hoặc cả hai hơi vô hơi ra đếm một, chú tâm vào hơi
thở vô và ra đến đâu đều biết, nhớ số từ một đến mười không
cho lộn. Ðến mười đếm lại một, nếu giữa chừng quên số cũng đếm
trở lại một. Cột tâm theo hơi thở và số, vừa dấy nghĩ liền kéo lại
với số và hơi thở. Chú ý đừng cố đem hơi xuống rún sanh mệt. Hơi vừa
dài vừa nhẹ là tốt. Ðến bao giờ ngồi thiền cả giờ mà chỉ nhớ số
và hơi thở là thành công.
Sang Tùy
tức là theo hơi thở. Ðến đây bỏ không đếm số chỉ duyên theo hơi
thở ra vào, chú tâm theo hơi thở vô đến đâu biết rõ đến đó, ra đến
đâu theo đến đấy. Tâm cột với hơi thở, vừa có nghĩ khác kéo lại hơi
thở. Theo sát hơi thở không phút giây lơi lỏng, cho đến khi chỉ còn biết
hơi thở ra vào không nghĩ gì khác là xong phần tùy tức.
Tu Chỉ:
Dừng tâm ở mũi xem hơi thở ra vào, như người gác cổng nhận diện từng
người khách ra vào không sai sót. Trụ tâm ở mũi lâu sanh hôn trầm liền
khởi quán.
Tu Quán:
Quán hơi thở ra vào là tướng vô thường mỏng manh tạm bợ. Mạng sống
lại nương hơi thở mà còn thì mạng sống cũng mong manh tạm bợ. Quả thật
mạng sống chỉ trong khoảng hơi thở ra vào, thở ra mà không hít vào là
chết, có gì là chắc chắn lâu dài. Thấy được lẽ thật này là thấy
Ðạo. Hoặc quán hơi thở vào do phổi phồng lên, hơi thở ra do phổi xẹp
xuống. Khi phổi phồng lên, thì mũi hít không khí vào, phổi xẹp xuống
thì đẩy không khí ra. Bên ngoài có không khí, bên trong có phổi, hợp với
tâm lý tác động thành sự thở. Sự thở không tự có, đủ duyên mới
có, đã do duyên thì hơi thở không thật. Sự thở đã không thật, mạng sống
lại nương theo hơi thở mà có thì mạng sống cũng không thật. Quán rõ thấy
mạng sống như huyễn hóa là thành công.
Tu Hoàn:
Quán nhiều sanh động, nên xoay lại tìm xem tâm năng quán này ở đâu? Tìm
đáo để, không thấy nó thì năng sở tự yên lặng.
Tu Tịnh:
chỗ năng sở yên lặng này là tâm thanh tịnh. Giờ ngồi thiền xả hết vọng
niệm chỉ còn một tâm thanh tịnh là tu tịnh. Tâm thanh tịnh bền bỉ lâu
dài là xong xuôi phần tu Lục diệu pháp môn (cần đọc quyển Lục Diệu
Pháp Môn của Trí Khải Ðại Sư).
THIỀN ÐỐN NGỘ
Thiền đốn
ngộ là lối tu trực ngộ bản tâm, gọi là kiến tánh khởi tu. Không có
đề mục, không có phương pháp, không có sở chứng sở đắc, chỉ mê là
chúng sanh, ngộ là Phật nên nói "Kiến tánh thành Phật". Lối tu
này không tu mà tu, không chứng mà chứng. Bởi vì khi hành giả trực nhận
bản tâm, biết rõ nơi mình có cái không sanh không diệt, mà từ thuở nào
mãi chạy theo cái tâm sanh diệt tạo nghiệp luân hồi. Ngang đây biết rõ
bộ mặt sanh diệt của nó, không chạy theo nữa, khi nó dấy lên không cho
nối tiếp, không khởi thì lặng yên đừng dấy niệm. Tổ Lâm Tế nói:
"Ðã khởi chớ tiếp nối, chưa khởi chẳng cần dấy khởi, còn hơn
ông hành cước mười năm." Cổ Ðức cũng nói: "Chớ sợ niệm khởi
chỉ sợ giác chậm." Thiền sư Vô Nghiệp suốt đời chỉ dùng một
câu "chớ vọng tưởng" trả lời tất cả câu hỏi của thiền
khách.
Có người
bảo lối tu này là "Tảo niệm" (quét sạch niệm), song khi ngồi
thiền quét, lúc tiếp duyên, xúc cảnh thâu lại. Cứ quét rồi thâu đến
bao giờ mới hết niệm? Ðúng thế, nếu người tu chỉ biết quét khi ngồi
thiền, lúc ra ngoài thì thâu lại, thật là gian nan cho lối tu này. Song ở
đây không phải vậy, khi ngồi thiền không theo niệm, lúc ra ngoài thấy
các pháp đều duyên hợp hư dối như huyễn hóa không có một pháp đáng lưu
tâm, thì làm gì có thâu, ví như người đi chợ, cô ta dạo qua các cửa
hàng chen chúc với bao nhiêu người qua lại trên đường phố, nhưng không
có vật gì và người nào đáng cho cô để ý. Về đến nhà, người nhà hỏi:
đi chợ có thấy gì không? Cô đáp: không. Có phải thật không thấy gì chăng?
Hẳn không phải thế, chỉ không có gì quan trọng đáng cô chú ý nên nói
không thấy gì. Khi tiếp duyên xúc cảnh, hành giả thấy rõ các pháp như
huyễn hóa, tự nhiên không có gì đáng để thâu. Bên trong có bao nhiêu vọng
tưởng dấy lên đều không tiếp tục, lâu ngày tự hết.
Lại có người
bảo "không theo niệm" nhẹ nhàng quá, nếu người tọa thiền bị
hôn trầm nặng nề làm sao đuổi được? Nếu khi hôn trầm nặng nề,
hành giả chấn chỉnh thân, mở mắt sáng mà không hết, nên khởi niệm
tìm xem hôn trầm này xuất phát từ chỗ nào? Tức là đặt câu hỏi:
"Hôn trầm xuất phát từ chỗ nào?" Theo dõi lùng tìm nó thì hôn
trầm sẽ tan. Khi gặp tán loạn mãnh liệt cũng thế. Hành giả nên đặt câu
hỏi: "Vọng tưởng này xuất phát từ chỗ nào?" Tìm kiếm nó một
lúc sẽ hết. Khi hôn trầm tan, vọng tưởng lặng liền trở lại lối tu
"không theo niệm" như trước.
Lối tu này
cụ thể hóa bằng mười bức họa "Chăn Trâu Thiền Tông". Mã Tổ
hỏi Thiền sư Thạch Củng: Ông làm gì đây? Sư đáp: Con chăn trâu. Mã Tổ
hỏi: Chăn như thế nào? Sư đáp: Mỗi khi nó chạy vào ruộng lúa thì lôi
mũi kéo lại. Mã Tổ bảo: Thế là ông chăn giỏi, chỉ chăn giữ không cho
trâu xâm phạm mạ của người là biết chăn trâu. Con trâu là tâm, chạy
loạn vào lúa mạ là vọng khởi theo sáu trần, dừng lại không theo là
lôi mũi kéo về. Cứ thế mãi, giờ ngồi thiền chăn, giờ làm công tác chăn,
giờ dạo chơi, tiếp khách cũng chăn... không lơi lỏng. Thế nên nói, hái
rau, chặt củi, nấu cơm, đều là thiền. Chăn cho đến khi trâu không còn,
người chăn cũng mất, đây là hoàn toàn an định. Thiền sư Lương Giới tìm
đến am tranh Hòa thượng Ẩn Sơn hỏi: Hòa thượng ở đây làm gì? Ẩn Sơn
đáp: Tôi thấy hai con trâu báng lộn nhau, chạy ùm xuống sông, đến nay không
có tin tức. Sư đắp y đảnh lễ. Ðây là mục thứ tám trong mười mục
chăn trâu nhà thiền, trâu và chăn đều vắng bặt chỉ còn một vòng tròn
trắng. Ðến đây ý nghiệp yên lặng không còn lôi kéo vào luân hồi sanh
tử nữa. Nếu hàng Nhị thừa đến đây là nhập Niết-bàn, vì đã dứt sạch
nghiệp sanh tử.
GIÁC NGỘ PHÁP THÂN
Dứt sạch
nghiệp mới gọi là hết sanh tử, chưa phải thành Phật. Về các kinh
A-hàm đến đây là chứng Niết-bàn (Vô Sanh) của A-la-hán. Kinh Pháp Hoa Phật
bảo là Hóa thành không phải Bảo sở, về Thiền tông gọi đây là đất
Vô sanh, là Tử thủy (nước chết) là đầu sào trăm trượng, cần phải
vượt qua mới được. Căn cứ vào mười mục chăn trâu nhà Thiền, chỗ
này mới là mục thứ tám chăn và trâu đều mất. Phải tiến lên mục thứ
chín là lá rụng về cội, nước chảy về nguồn mới được, mục này gọi
là nhập Phật giới hay nhập Pháp thân. Cần vượt lên mục thứ mười là
buông lỏng tay vào chợ hay nhập ma giới, mới vuông tròn công đức thành
Phật. Dứt sạch nghiệp mới thoát khỏi đau khổ trong sanh tử cho chính
mình, song chưa đạt Pháp thân, chưa viên mãn công đức cứu khổ chúng
sanh, cần phải hòa quang đồng trần làm lợi ích tất cả chúng sanh mới
vẹn tròn công đức thành Phật.
THẦM NGỘ LÀ ÐỦ LÒNG
TIN
Có người
nghĩ, hành giả chưa trực ngộ bản tâm tu thiền đốn ngộ được chăng?
Trực ngộ bản tâm là chủ yếu của người tu thiền đốn ngộ. Song có
người chưa ngộ mà đủ lòng tin, tu vẫn được. Xem kinh, đọc luận, hỏi
đạo, nghe giảng... thầm nhận mình có bản tâm bất sanh bất diệt, khẳng
định không nghi ngờ, người này tu thiền đốn ngộ được. Thiền sư Pháp
Thường đến hỏi Mã Tổ: Thế nào là Phật? Mã Tổ đáp: Tức tâm là Phật.
Sư thầm nhận, đến núi Ðại Mai cất am tu. Sau Mã Tổ nghe, sai vị Tăng
đến thăm dò. Tăng đến hỏi Sư: Hòa thượng gặp Mã Tổ, được cái gì
về ở núi này? Sư đáp: Mã Tổ nói với tôi: tức tâm là Phật, tôi bèn
đến ở núi này. Tăng thưa: Gần đây Mã Tổ lại nói "Phi tâm phi Phật."
Sư bảo: Ông già mê hoặc người, chưa có ngày xong, mặc ông phi tâm phi Phật,
tôi chỉ biết tức tâm là Phật. Vị Tăng trở về thuật lại Mã Tổ. Mã
Tổ nói với đại chúng: Ðại chúng, trái mai đã chín. Ðây là tin nhận
mình có bản tâm chân thật một cách chắc chắn là tu thiền đốn ngộ
hay chăn trâu được.
Hoặc giả
nhận rõ vọng tưởng hư dối như sương như khói, không theo, không bị nó
dẫn, đến khi nó tan biến hoàn toàn, chân tâm hiển lộ. Ngài Huệ Khả
sau khi được Tổ Ðạt-ma nhận làm môn đồ, Ngài hỏi Tổ: Tâm con chưa
an, xin Thầy dạy con phương pháp an tâm? Tổ Ðạt-ma nhìn thẳng vào mặt bảo:
Ðem tâm ra ta an cho. Ngài sửng sốt lặng tìm liền đáp: Con tìm tâm không
được. Tổ Ðạt-ma bảo: Ta đã an tâm cho ông. Ngài Huệ Khả liền biết
lối vào. Bình nhật chúng ta thấy tâm tưởng lăng xăng, khi nhìn lại thì
mất bóng bặt dạng. Thế là nó hư dối không thật. Biết rõ nó hư dối
thì nó không còn khả năng lôi cuốn dẫn dắt chúng ta nữa. Không chạy
theo không bị dẫn, chẳng an là gì? An tâm là nhìn thẳng bộ mặt hư dối
của nó, nó tự tan biến, còn gì nữa mà động. Thời gian sau, ngài Huệ
Khả thưa Tổ Ðạt-ma: Nay con bặt hết các duyên. Tổ Ðạt-ma bảo: Coi chừng
rơi vào đoạn diệt. Ngài Huệ Khả thưa: Không rơi. Tổ Ðạt-ma hỏi: Thế
nào không rơi? Ngài Huệ Khả thưa: Rõ ràng thường biết, nói không thể
đến. Tổ Ðạt-ma nói: Ðây là chỗ truyền của chư Phật, chớ có hoài
nghi. Thế là, từ nhận biết tâm bất an là hư dối, ngài Huệ Khả chăn nó
đến lúc không còn tâm dạng là: "bặt hết các duyên" chỉ còn lại
cái: "rõ ràng thường biết" là chỗ chư Phật truyền nhau.
Có nhiều
người học đạo đã thầm nhận mình có cái chân thật sẵn đủ, hoặc
biết rõ vọng tâm hư dối, mà vẫn chưa đủ lòng tin để tiến tu, họ cứ
đòi phải ngộ mới tu được. Quả thật họ đang đuổi theo cái ảo ảnh
của danh từ ngộ. Ðâu biết rằng tin chắc không nghi là đã thầm ngộ.
KẾT THÚC
Trên tiến
trình tu tập từ phàm phu đến Phật quả thật là thăm thẳm gian truân.
Song vì ý thức được sự đau khổ trong kiếp mê lầm, sự đọa đầy
trong vòng lục đạo, chúng ta phải nỗ lực tiến tu. Nhờ thắp sáng ngọn
đuốc trí tuệ, chúng ta mới thấy đường để tháo gỡ những gút mắc của
muôn ngàn sợi dây nghiệp báo. Gỡ sạch những vòng dây nghiệp báo rồi,
chúng ta được thảnh thơi, tự tại. Song, thân bằng quyến thuộc ta, đồng
bào, đồng loại ta, đang bị chúng bủa vây bao phủ, đành lòng nào chúng
ta lại ngó lơ. Thế là, vén áo xăn quần, chúng ta lao mình vào cõi trần
ai để dìu dắt nhân loại thoát khỏi vòng khổ ải. Ðây là hình ảnh Thiền
sư vai mang chiếc đãy, tay cầm bầu rượu, kết bè họp bạn với đám người
đầu đường xó chợ. Ðem ánh sáng hòa lẫn với bụi bặm, quả là "đầu
tro mặt đất" lang thang. Có thế mới tròn bản nguyện đại bi, mới
đủ công đức giải thoát chúng sanh ra khỏi sông mê bể khổ. Cứu mình,
độ người được viên mãn, đều đặt gọn trên nền tảng giác ngộ giải
thoát của đạo Phật.