- Bước đầu Học Phật
-18-
Hoa
sen trong bùn
Có lắm người xuất gia cũng như tại
gia cho rằng, chúng ta tu không thể nào giác ngộ thành Phật. Vì đức Phật
ra đời có những nhân duyên kỳ đặc, bản chất Ngài đã thánh sẵn rồi;
còn chúng ta nào là ham mê dục lạc, nào là tội lỗi đầy đầu, nào là
sanh nhằm thời mạt pháp căn cơ yếu kém ngu độn v.v... làm sao tu thành Phật
được? Ở đây chúng ta hãy nhìn Thái tử là một con người, thật là người
để lấy làm mẫu mực hướng theo tu hành.
THÁI TỬ TẤT-ÐẠT-ÐA
(Siddharta) - SỐNG TRONG HOÀNG CUNG
Khi là một
ông hoàng ở trong cung cấm, Thái tử bị mọi thứ dục lạc bủa vây: nào
là vợ đẹp, hầu xinh, Ngài có cả thảy ba bà vợ, bà Cu-tỳ-gia (Gapica),
bà Gia-du-đà-la (Yasodhara), bà Lộc giả (Urganica) và cung phi mỹ nữ. Nào
là đàn ngọt hát hay, cả ngày âm thanh dằng dặc không dừng nghỉ. Nào
là sự chiều chuộng của vua cha, xây cung điện thích hợp bốn mùa, tạo
cảnh vui thích không để Ngài có một phút đăm chiêu. Ðây là cảnh thiên
đàng ngay trong trần thế, Ngài vui hưởng cảnh này đến năm mười chín
tuổi.
THÁI TỬ ÐI TU VÀ THÀNH
PHẬT
Chỉ một lần
Thái tử trông thấy cảnh già, bệnh, chết của con người, Ngài khổ đau
trằn trọc. Tại sao người ta phải chấp nhận lớp người này sanh ra,
già, bệnh, chết, rồi lớp khác tiếp tục, cứ thế tiếp tục mãi không
có ngày cùng? Ngài cương quyết đập tan cái tiền lệ ấy. Vì thế, bao đêm
Ngài thức trắng, lòng Ngài băn khoăn đau xót giày vò, cốt tìm ra lối
thoát để cứu mình, cứu chúng sanh. Từ đây, sắc đẹp hát hay, trở
thành trơ trẽn tầm thường trước mắt Ngài. Thức ngon vị ngọt, trở
thành nhạt nhẽo chán ngán, khi chúng để vào miệng Ngài. Ngài ê chề
ngán ngẩm mọi thứ dục lạc tạm bợ trá hình. Ngài cương quyết rời hoàng
cung xuất gia tầm đạo. Mặc dù con đường này giăng trải trước mắt Ngài
muôn vàn nguy hiểm thập tử nhất sanh, Ngài chấp nhận phải dấn bước.
Thế là Ngài xuất gia lúc mười chín tuổi.
Bao nhiêu năm
lang thang trong rừng sâu học đạo, con người vương giả của Ngài đã pha
màu sương gió, đã từng trải mọi thứ đắng cay, song ý chí kiên cường
quả cảm của Ngài không suy giảm. Học đạo không thỏa mãn, Ngài nguyện
thực hành khổ hạnh tột cùng. Nhưng thân sắp hoại mà đạo chưa thấy,
Ngài phải sống trung hòa và đến dưới cội bồ-đề ngồi tu bốn mươi
chín ngày đêm liền ngộ đạo. Ngang đây, Ngài thành Phật hiệu là
Thích-ca Mâu-ni. Ðã qua rồi, con đường tầm đạo ngót mười một năm.
Sau khi Ngài
thành Phật, Ngài nhìn hồ sen thấy có những hoa đã nở tròn đầy, có những
hoa còn búp son trinh, có những hoa đang trụ hình trong nước, có những mầm
sen còn vùi trong bùn nhơ. Song tất cả đều có khả năng nở tròn khoe sắc,
nhả hương tinh khiết. Chúng đồng trong lòng đất nhớp nhúa vươn lên,
khi được hớp sương phơi nắng, chúng đều tròn đủ sắc hương như
nhau. Ngài thấy con người cũng thế, khi sanh ra và lớn lên trong vòng mê dục,
một phen tỉnh giác con người sẽ tiến lên bậc giác ngộ khó gì. Thế
là, Ngài lấy hoa sen để biểu trưng cuộc sống và giáo lý của Ngài. Kinh
Diệu Pháp Liên Hoa là hình ảnh cụ thể nhất.
PHẬT NGỒI TRÊN ÐÀI SEN
Chúng ta đọc
lịch sử Phật, ai cũng biết Bồ-tát đến cội bồ-đề trải cỏ làm
tòa ngồi, và thành đạo ngay dưới cội cây này. Hiện nay chúng ta thờ Phật
đúng theo tài liệu lịch sử, phải để Ngài ngồi trên tòa cỏ. Tại sao
ngày nay chùa nào thờ Phật cũng ngồi trên tòa sen? Ðây là để biểu
trưng con người của Ngài. Vì trước kia là ông hoàng, Ngài cũng nhiễm ô
ngũ dục, như mầm sen còn ở trong bùn. Khi Ngài vượt thành xuất gia là mầm
sen ra khỏi bùn, mà còn ở trong nước. Lúc Ngài ngồi tu ở dưới cội bồ-đề
và thành đạo là hoa sen ra khỏi nước nở tròn đầy hương thơm ngào ngạt.
Hoa sen lại tượng trưng cho sự bình đẳng giữa mọi người. Ðã là mầm
sen thì mầm sen nào cũng có khả năng vươn lên khỏi bùn, khỏi nước và
trổ hoa tươi thắm hương thơm ngạt ngào. Ðã là con người thì con người
nào cũng có khả năng thoát khỏi dục lạc ô nhiễm, thức tỉnh tu hành
và đạt thành đạo quả. Phật quả không phải của riêng một người nào,
mà của chung tất cả ai có ý chí thoát trần, có quyết tâm đạt đạo. Vì
vậy, Phật quả gọi là Vô thượng giác, là giác ngộ không ai trên, song
có người bằng; Phật cũng dùng hình ảnh hoa sen để nhắc nhở Phật tử,
ở giữa chốn ô nhiễm mà khéo vượt ra bằng trí tuệ sáng ngời của
mình.
Bài kệ
nói :
Như giữa
đống rác nhớp.
Quăng bỏ nơi bờ đầm
Chỗ ấy hoa sen nở.
Thơm sạch đẹp ý người.
Cũng vậy, giữa quần sanh.
Uế, nhiễm, mù, phàm tục
Ðệ tử bậc Chánh Giác.
Sáng ngời với trí tuệ. -- (Pháp cú câu 58-59)
Hoa sen mọc
chỗ nhớp nhúa mà thơm tho tươi đẹp, sống trong đời nhiễm nhơ mù tối,
người Phật tử chúng ta phải khéo dùng trí tuệ vượt ra để cứu mình,
và cứu người. Cái quí của hoa sen là sanh từ chốn bùn lầy mà tinh khiết,
cái cao cả của người tu là sống trong mọi dục lạc nhiễm ô mà vượt
ra an toàn siêu thoát. Hoa hường, hoa lan thơm hơn hoa sen, mà không được nhắc
tới, vì sanh ở chỗ đất sạch. Nếu Thái tử là người từ trên trời rơi
xuống mà đắc đạo thì không có giá trị gì. Chính trong vòng kềm tỏa của
dục trần, mà thoát được mới là bậc đại hùng.
CÁ NHẢY KHỎI LƯỚI
Ðời Tống
ở Trung Hoa có hai Thượng tọa Thâm và Minh. Hai vị có duyên sự cùng sang
đò qua sông Hoài. Ðang sang sông, thấy người bủa lưới đang kéo, có con
cá to nhảy khỏi lưới ra ngoài. Thượng tọa Thâm vỗ tay khen: "Hay
thay! Như Thiền sư." Thượng tọa Minh không đồng ý bảo: "Phải
ở ngoài lưới mới hay, đợi vào lưới rồi mới nhảy là muộn." Thượng
tọa Thâm nói: "Huynh Minh chưa hiểu." Ði hơn dặm đường, Thượng
tọa Minh bỗng nhận ra chỗ sai, liền sám hối.
Qua câu chuyện
trên, chúng ta thấy thế nào? Con cá trong lưới nhảy là hay, con cá thong
dong ngoài lưới là hay? Ðạo lý nhà Phật dạy, trong cảnh bủa vây của
phiền não mà thoát ra được mới thật là hay. Ðây mới thi thố được sức
mạnh phi thường của con người thoát tục. Nếu ở ngoài lưới nói gì nhảy,
không nhảy làm sao biết được sức mạnh của mình. Hơn nữa, bản thân
con người đầy đủ tam bành (tam độc), lục tặc (sáu giặc) lại sáu trần
dụ dỗ cuốn lôi, nếu không phải là bậc siêu quần bạt tụy làm sao thắng
trận giặc nội công ngoại kích này. Cùng là cá, bao nhiêu con khác bị lưới
cuốn không thể giãy vùng, cuối cùng bị người đánh cá bắt bỏ vào giỏ,
chỉ một con này nhảy vọt khỏi lưới, không đồng với người xuất trần
thoát tục là gì? Nếu chúng ta sanh ra đã là Thánh thì còn nói gì tu.
Chính vì chúng ta mang đầy đủ thói hư tật xấu trong mình, chứa đầy
tham sân si trong lòng, cho nên gặp cảnh thì nhiễm, trái ý thì sân, quẳng
chúng thoát ra, thật là điều khó khăn trăm phần, ai làm được điều đó,
đáng cho chúng ta chấp tay tán thán. Vì thế, Tuệ Trung Thượng Sĩ đã làm
bài kệ:
XUẤT TRẦN
Tằng vi vật
dục dịch lao khu
Bài lạc trần hiêu thế ngoại du
Tán thủ na biên siêu Phật Tổ
Nhất hồi đẩu tẩu nhất hồi hưu.
Dịch:
RA KHỎI
BỤI HỒNG
Ðã từng
ham muốn phải long đong
Ném quách mà ra khỏi bụi hồng
Buông thõng bờ kia lên Phật Tổ
Một lần phủi giũ một lần xong.
Bởi vì
chúng ta chạy theo vật dục nhân gian nên phải khổ sở gian nan. Nếu can đảm
ném phắt hết, vượt ra ngoài vòng trần lụy, quả là can đảm phi thường.
Có thể, mới buông thõng tay bước lên ngôi nhà Phật Tổ được. Song phải
mạnh dạn dứt khoát, một lần bỏ đi không thèm ngó lại. Chớ đừng học
thói nhầy nhụa, dùng dùng thẳng thẳng cắt không đứt, bứt không rời,
một chân bước tới hai chân bước lui, không làm nên trò trống gì, chỉ
chuốc trò cười cho hàng thức giả. Bởi vậy nên nhà thiền thường dùng
câu "giết người không ngó lại" là ý này. Phải can đảm dứt
khoát thì việc khó mấy cũng thành công.
TRẦN NHÂN TÔNG: ÔNG VUA,
TU SĨ
Vua Trần Nhân
Tông sanh năm 1258, lên ngôi vua năm hai mươi tuổi, xuất gia năm bốn mươi
mốt tuổi và năm mươi mốt tuổi tịch (1308). Suốt hai mươi năm, Ngài là
bậc nhân chủ lãnh đạo quốc gia giữ nước chăn dân, ngồi trên ngai
vàng sống trong cung ngọc, mọi thứ dục lạc đều dư thừa. Hai phen cầm
quân chống giặc xâm lăng, nhân mạng hy sinh rất lớn. Bổn phận giữ nước
chăn dân, Ngài làm đầy đủ. Năm bốn mươi mốt tuổi, Ngài nhường ngôi
cho con, đi xuất gia. Lúc nhỏ Ngài đã được vua cha và thầy là Tuệ Trung
Thượng sĩ chỉ dạy đạo lý thiền nhuần thấm sâu xa, nên khi xuất gia
Ngài không cần tầm học, chỉ thực hiện điều đã học được.
Trong mười
năm, là kẻ xuất gia Ngài mang hiệu Trúc Lâm Ðầu-đà, tích cực hoạt động
truyền bá chánh pháp. Trong giới xuất gia, Ngài giáo dục chúng Tăng, có khả
năng đảm đang giáo hội. Trong dân chúng, Ngài đem pháp Thập thiện giáo
hóa toàn dân, khiến Phật pháp mở rộng trong nhân gian. Công tác hoằng
truyền Phật pháp, giáo hóa nhân dân, Ngài làm suốt đời không dừng nghỉ.
Khi sắp tịch,
Ngài nằm tại Ngọa Vân am sai người gọi Bảo Sát đến. Ngày một tháng
mười một, đúng nửa đêm, sao sáng đầy trời, Ngài hỏi: Bây giờ là giờ
gì? Bảo Sát thưa: Giờ Tý. Ngài đưa tay ra hiệu mở cửa sổ để nhìn ra
ngoài, nói: Ðến giờ ta đi vậy. Bảo Sát hỏi: Tôn đức đi đâu bây giờ?
Ngài đọc lại bài kệ:
Nhất thiết
pháp bất sanh
Nhất thiết pháp bất diệt
Nhược năng như thị giải
Chư Phật thường hiện tiền
Hà khứ lai chi hữu?
Dịch:
Tất cả
pháp chẳng sanh
Tất cả pháp chẳng diệt
Nếu hiểu được như thế
Chư Phật thường hiện tiền
Nào có đi có lại?
Bảo Sát hỏi
thêm: Khi chẳng sanh chẳng diệt thì sao? Ngài khua tay nói: Thôi đừng nói
mê nữa. Rồi Ngài ngồi theo kiểu sư tử tọa mà tịch... (Tam Tổ thực lục).
Qua ba giai
đoạn trên, chúng ta thấy Ngài sống giai đoạn nào ra giai đoạn ấy. Lúc
làm vua thì quên mình giữ nước, hết dạ chăn dân. Khi đi tu, nhiệt tâm
vì đạo mài miệt tu hành, chẳng ngại nhọc nhằn hết tình với tăng tục.
Vì thế, trên đường đời Ngài thành công viên mãn, trên đường đạo thì
đạo quả viên thành. Chính thái độ dứt khoát tích cực, nên lãnh vực
nào Ngài cũng thành công. Ngài cũng hưởng dục lạc trong hoàng cung, cũng cầm
binh khiển tướng ngoài trận mạc, nếu nói là tội lỗi thì cũng tràn trề.
Song khi dứt khoát tiến tu thì cắt đứt mọi quá khứ, sống kham khổ tu
hành, nên lấy hiệu đầu-đà (khổ hạnh). Với ý chí cương quyết đó,
chỉ trong vòng mười năm, Ngài đã tiến đến chỗ sanh tử tự tại. Ðây
là tấm gương sáng rỡ để nhắc nhở chúng ta, không sợ mình trước mê
lầm tội lỗi, chỉ sợ xuất gia rồi mà thái độ vẫn mập mờ. Ngài là
con người thấy được đạo lý và sống được đạo lý. Chúng ta đọc bài
kệ kết thúc bài phú Cư Trần Lạc Ðạo của Ngài thì rõ:
Cư trần lạc
đạo thả tùy duyên
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên
Gia trung hữu bảo hưu tầm mích
Ðối cảnh vô tâm mạc vấn thiền.
Dịch:
Trong đời
vui đạo hãy tùy duyên
Ðói đến thì ăn mệt nghỉ liền
Nhà mình báu sẵn thôi tìm kiếm
Ðối cảnh không tâm, chớ hỏi thiền.
Sống ngay
trong lòng trần tục mà khéo biết đạo vẫn thấy an vui. Duyên cảnh đổi
thay tùy thời linh động, như khi đói thì ăn, khi mệt thì nghỉ, đừng cố
chấp cứng nhắc mà tự khổ đau. Phật đã sẵn nơi ta, khỏi phải nhọc
nhằn sang đông tìm tây. Cái khôn ngoan khéo léo của chúng ta là "đối
cảnh tâm không động", chính nơi đây là thiền rồi, còn thưa hỏi đâu
nữa. Người học đạo nhận thấy Phật đã sẵn nơi tâm mình, song muốn
Phật hiện thì tâm đừng chạy theo cảnh. Ðây là lối tu thật giản
đơn, thật cụ thể, mà người đời khó tin khó nhận. Người ta chỉ tin
Phật ở Tây phương, phải siêng năng lễ bái thì được phước, được
Phật rước về cõi Phật. Bởi vậy Tổ Lâm Tế nói: "Người ngu cười
ta, kẻ trí biết ta." Cười, vì thấy không tụng kinh lễ bái, chẳng
biết tu cái gì? Biết, vì thấy lối tu tế nhị cụ thể thiết thực,
không còn gì nghi ngờ. Một ông vua, xuất gia chỉ có mười năm mà đạt
đạo như vậy, thật đáng quí kính biết dường nào. Cho nên triều đình
tôn xưng Ngài là Ðiều Ngự Giác Hoàng.
THÁI TỬ TẤT-ÐẠT-ÐA
VÀ TRẦN NHÂN TÔNG
Thái tử
là ông hoàng chưa từng đối đầu với mọi việc khó khăn ở đời, chỉ
thấy cảnh già, bệnh, chết là phát tâm đi tu. Mục đích Ngài đi tu để
tìm phương pháp phá vỡ cái luật khắc nghiệt của kiếp con người mà
muôn thuở đã chấp nhận. Ngài phải trả cái giá rất đắt là, mười một
năm nằm gió phơi sương lang thang trong rừng núi, ăn uống sơ sài cho đến
kiệt sức. Đến khi giác
ngộ viên mãn phương pháp giải thoát sanh tử tuyên bố thành Phật. Ðây
là người khai mở con đường đạo giác ngộ giải thoát. Tức là Ngài đã
phá vỡ luật khắc nghiệt (già bệnh chết) chi phối mình và đem ra chỉ dạy
mọi người. Việc làm của Ngài là muôn thuở không hai.
Vua Trần
Nhân Tông là người kế thừa con đường của Phật đã vạch sẵn. Bởi kế
thừa nên công phu đơn giản và nhẹ nhàng, chỉ cần đem đuốc mình mồi
vào đuốc Phật là cháy sáng. Do đó đi tu Ngài không khổ công tầm đạo,
chỉ cần ứng dụng đạo đã sẵn vào việc tu hành là thành công. Tuy vậy
cũng không phải là việc dễ dàng, mặc dù có công thức chỉ rõ, muốn
ứng dụng công thức ấy phải gan góc cùng mình, phải mạnh tay chặt đứt
mọi xiềng vàng xích ngọc, phải hùng dũng nhảy vọt khỏi mấy lớp rào
tình cảm bịt bùng.
Hai Ngài đều
chôn mình trong cung vàng điện ngọc, bị bao vây bởi đám cung nữ phi tần,
bị phủ kín trong tiếng đàn ngọt hát hay, bị siết chặt bởi mùi thơm vị
quí. Song cả hai đều quả cảm thoát ra không chút đoái hoài luyến tiếc.
Do đó hai Ngài làm được việc khó làm, để lại cho đời tấm gương phi
phàm xuất chúng. Hai Ngài là hai mầm sen chôn sâu trong vũng bùn ngũ dục,
vươn lên khỏi nước nở tròn tươi thắm và tỏa ra mùi hương tinh anh
thanh khiết bủa khắp cả trần gian.
Qua những hình
ảnh trên, chúng ta có đủ kinh nghiệm trong việc tiến tu, không còn e dè
nghi ngại gì nữa. Bởi vì không có vị nào đã là thánh rồi thành thánh,
mà tất cả đều bị bao vây bởi phiền não dục trần. Cái đặc điểm của
các ngài là nhạy cảm sớm thức tỉnh và anh dũng khi cần thoát nó. Ðiều
đó chúng ta có thể học được, có ai thấy cảnh già bệnh chết mà chẳng
buồn, có ai không khí khái khi thốt ra những lời thề bán mạng. Chỉ cần
chúng ta triệt để ứng dụng cái nhạy cảm của mình để phát chí tu
hành, khéo xoay chuyển cái khí khái của mình vào con đường quyết tử cầu
đạo. Dám hạ quyết tâm trên đường hành đạo, chúng ta sẽ thu gặt được
kết quả chắc chắn không nghi. Chúng ta là những mầm sen phơi mình trên
bùn ngũ dục, thoát khỏi nó để vươn lên có khó gì? Chúng ta đâu có
cung vàng điện ngọc, đâu có cung phi mỹ nữ... mọi dục lạc tìm cầu rất
khó, nếu thoát nó thì hết sức nhẹ nhàng, chỉ cần một cái nhảy nhẹ
đã ra khỏi rồi, thế mà chúng ta cứ chần chừ không ưng nhảy. Ðây là
yếu điểm muôn kiếp chịu trầm luân của chúng ta.