- Bước đầu Học Phật
-27-
Học
Phật bằng cách nào?
Hỏi học Phật bằng cách nào,
tức là hỏi đến phương pháp học Phật. Ở thế gian môn học nào cũng có
phương pháp riêng của nó. Ví như môn toán học, người học trò trước
phải biết số, kế học thuộc cửu chương, học cách cộng trừ nhân
chia, lên nữa phải học công thức, phương trình v.v... Môn văn chương,
trước phải biết chữ cái, học ráp vần, viết chánh tả, học văn phạm,
tập cách làm văn v.v... Phương chi Phật pháp là môn học giác ngộ, mà
không có phương pháp riêng của nó hay sao?
Phương pháp
học Phật tức là ba môn tuệ học: Văn tuệ, Tư tuệ, và Tu tuệ.
Bởi vì muốn vào cửa giác ngộ không phải anh tướng trí tuệ thì không
sao vào được. Phật pháp là chân lý là những sự thật, nếu không có ngọn
đuốc trí tuệ soi sáng, làm sao chúng ta thấy mọi sự thật ở chung quanh,
không cần trí tuệ, chỉ dùng lòng tin đến với đạo Phật, để học Phật
pháp, thật là sai lầm lớn lao. Ðây là chứng bệnh trầm trọng của Phật
tử hiện thời. Cần chữa lành bệnh này, chúng ta phải ứng dụng triệt
để ba môn tuệ học vào công trình tu học Phật pháp.
Thế nào
là Văn tuệ?
Văn là
nghe, do nghe giáo lý Phật pháp trí tuệ mở sáng, gọi là Văn tuệ. Chúng
ta nghe Phật pháp qua lời giảng dạy của chư tăng, của thiện hữu tri thức
đã tu học trước ta. Những lời giảng dạy ấy xuất phát từ kinh điển
của Phật, trong đó chứa toàn lời lẽ chân chánh, chỉ bày mọi sự thật
cho chúng sanh. Càng nghe trí tuệ chúng ta càng sáng. Hoặc chúng ta trực tiếp
đọc kinh sách Phật, khiến mở mang trí tuệ cũng thuộc Văn tuệ. Chịu khó
nghe giảng dạy, ch?u khó nghiên cứu kinh sách Phật, đó là người biết từ
cửa Văn tuệ tiến thẳng vào ngôi nhà Phật pháp.
Thế nào
là Tư tuệ?
Tư là suy
xét phán đoán, do suy xét phán đoán những lời dạy trong Phật pháp, trí
tuệ càng tăng trưởng. Chúng ta được nghe lời chỉ dạy của thầy bạn,
dẫn từ trong kinh Phật ra, song nghe rồi tin liền là chưa đủ tư cách học
Phật. Buộc chúng ta phải dùng trí phán đoán xem đúng hay sai, nếu quả thật
đúng, từ đó chúng ta mới tin. có thế mới thực hành đúng câu "các
người phải tự thắp đuốc lên mà đi, thắp đuốc lên với chánh
pháp", trong kinh Pháp Cú. Chúng ta muốn mở mang trí tuệ, song tự mình
làm sao mở được, phải mồi ngọn đuốc trí tuệ của mình với ngọn
đuốc chánh pháp của Phật, trí tuệ mới phát sáng.
Mồi bằng
cách nào?
Ví như chúng
ta nghe vị Sư giảng rằng: "Tất cả thế gian đều là vô thường."
Sau đó phải dùng trí tuệ của mình phán đoán xem đúng hay không. Chúng ta
tự đặt câu hỏi: tất cả thế gian đều là vô thường, có sự vật
nào thoát ngoài luật lệ ấy chăng? Nếu có, câu nói này chưa phải chân
lý. Bằng không, mới thật đúng chân lý, chúng ta sẽ hoàn toàn tin. Thế rồi,
ta tự khảo sát :
Con người
có phải vô thường không? Từ ông bà đến cha mẹ chúng ta đều có sanh
ra, lớn lên, bệnh hoạn, già yếu rồi chết. Kể luôn cả ta, khi nào còn
nhỏ bé, lớn lên, bệnh hoạn, già yếu, rồi cũng sẽ chết. Trong gia đình
thân tộc chúng ta đã thế, ngoài xã hội cũng thế, cả nhân loại trên thế
giới cũng thế; ngàn xưa là thế, mãi sau này cũng thế. Quả là con người
vô thường.
Ðến những
sự vật, nào nhà cửa, bàn ghế, xe cộ... có bị vô thường không? Chính
cái nhà của mình, khi mới cất thì tốt đẹp lành lặn, qua vài ba năm thấy
cũ dần, đến năm mười năm thì hư sập. Cái bàn viết cũng thế, khi mới
đóng xem bóng loáng tốt đẹp, dùng mấy năm thấy đã cũ, tróc sơn khờn
mặt, rồi đây sẽ mục nát hư hoại. Chiếc xe đạp khi mới mua đem về mới
toanh, chạy được một năm vỏ đã rách, cổ lỏng, các con ốc lờn...
vài năm nữa sẽ hư. Thế là, nhà cửa, bàn ghế, xe cộ... những vật cần
dùng bên cạnh chúng ta thảy bị vô thường chi phối. Cho đến trăm ngàn vật
khác, nếu khảo sát đều thấy đồng một số phận như nhau.
Chúng ta có
thể kết luận rằng: "tất cả thế gian là vô thường", quả thật
là chân lý. Ta tin chắc lẽ này, dù có ai nói khác đi, cũng không làm lay
động được lòng tin của ta. Bởi lòng tin này đã được gạn lọc qua sàng
lý trí, nên nó vững chắc không dễ gì làm lung lay.
Lại một
thí dụ, chúng ta nghe vị Sư giảng lý luân hồi, bảo rằng: "Muôn vật
ở thế gian đều xoay quanh vòng luân hồi." Ta tự đặt câu hỏi: Tại
sao muôn vật đều luân hồi? Có vật nào không luân hồi chăng? Chúng ta bắt
đầu xét từ thực vật:
Cây cối
thành hình bắt nguồn từ hạt, hạt nẩy mầm tăng trưởng thành cây, nở
hoa, kết trái; trái sanh hạt, hạt lại nẩy mầm... lộn đi đảo lại không
cùng. Song đó là sự lộn đi đảo lại từ cây này sang cây khác, ngay bản
thân cây ấy có đảo lộn vậy không? Cũng lộn đi đảo lại như thế. Thân
cây hiện sống đây, do châm rễ hút đất nước... nuôi dưỡng mới được
sanh trưởng, dần dần thành đại thọ. Rễ hút đất nước nuôi dưỡng
thân cành lá, lá rụng biến thành phân đất, cành gãy mục cũng thành
phân đất, thân cây ngã mục cũng trở về đất nước. Thân cây nhờ đất
nước sanh trưởng, khi ngã mục lại trở về đất nước.
Nước do
ánh nắng bốc thành hơi, hơi lên cao gặp khí lạnh đọng lại, rơi xuống
thành nước; nước lại bốc hơi... mãi mãi không cùng.
To như quả
địa cầu vẫn quay tròn quanh cái trục, sáng rồi tối, tối lại sáng. Căn
cứ vào sự quay tròn của nó, người ta chia ra ngày giờ tháng năm, thời
tiết xuân hạ thu đông, xoay vần thế mãi không cùng.
Do sự khảo
sát trên, chúng ta khẳng định rằng "muôn vật ở thế gian đều xoay
quanh vòng luân hồi", là sự thật không còn gì phải nghi ngờ.
Trên đây tạm
cử vài thí dụ làm căn bản cho công cuộc suy xét phán đoán Phật pháp. Căn
cứ vào đây, chúng ta phán xét những lời Phật dạy, hoặc chư tăng dạy
trong những trường hợp khác. Có thế, mới phân biệt được chánh tà và
mới đúng tinh thần người học Phật.
Thế nào
là Tu Tuệ?
Sau khi phán
xét lời Phật dạy là đúng, chúng ta đem áp dụng trong cuộc sống hằng
ngày của mình, khiến chánh lý càng bày hiện sáng tỏ, là tu tuệ. Ví như,
đã biết rõ "tất cả thế gian là vô thường", chúng ta ứng dụng
sự vô thường vào đời sống của mình, trong những trường hợp như sau:
Ðã biết
rõ thế gian là vô thường, khi gặp vô thường đến với bản thân, với
gia đình ta, ta vẫn giữ bình tĩnh không hốt hoảng hãi sợ. Vì biết chắc
điều đó ở thế gian không ai tránh khỏi, sợ hãi kinh hoàng chỉ làm rối
thêm vô ích. Bởi không sợ nên tâm ta bình tĩnh sáng suốt, giải quyết mọi
việc một cách tốt đẹp. Chúng ta vẫn đủ sáng suốt để khuyên giải
cho những người đồng cảnh ngộ bớt đau kh?.
Biết rõ thế
gian là vô thường, mọi sự tranh giành danh lợi, tài sắc... lòng ta nguội
lạnh. Tranh giành những thứ tạm bợ ấy làm gì, để rồi chuốc khổ về
mình, gây đau khổ cho người, rốt cuộc chỉ thành việc mò trăng bắt bóng.
Lòng tham lam giành giật dục lạc thế gian, do đây dứt sạch.
Do thấy rõ
lẽ vô thường, chúng ta không thể ngồi yên chờ chết. Phải cố gắng
làm mọi việc lành, nếu cơn vô thường đến, chúng ta có muốn làm cũng
không sao làm được. Lại biết quí tiếc thời giờ, một ngày qua rồi
không tìm lại được, phải cấp bách nỗ lực làm lợi mình lợi người,
không thể chần chờ.
Ðó là ba
trường hợp do biết "thế gian vô thường", chúng ta khéo ứng dụng
tu hành trong cuộc sống hiện tại của mình. Bao nhiêu sự lợi ích tốt đẹp
sẽ theo đó mà tăng trưởng. Sự tu hành ấy, đi đôi với tâm trí tỉnh
táo sáng suốt, nên gọi là "Tu tuệ".
Ví dụ
khác, chúng ta nhận rõ "muôn vật luân hồi", liền ứng dụng lý
luân hồi vào cuộc sống của mình. Nếu phải luân hồi, chúng ta chọn
cái luân hồi nào tốt đẹp an ổn hơn. Ví như, biết các loài thảo mộc
từ hạt nẩy mầm, sanh trưởng thành cây, đơm hoa, kết quả; hạt lại nẩy
mầm... Chúng ta nên chọn lựa hạt tốt giống ngon đem ương, để sau này
kết quả ngon, cho ta và mọi người được thưởng thức vị ngon. Cũng thế,
trong vòng luân hồi bản thân ta cũng không thoát khỏi, ta cần tạo những
nhân tốt, nhân an vui, để mai kia có lăn lộn cũng lăn lộn trong chỗ tốt,
chỗ an vui.
Ðã biết
muôn vật luân hồi, chúng ta phải tìm xem nguyên nhân nào lôi cuốn vào
trong ấy. Biết rõ nguyên nhân rồi, phải tìm cách thoát ra ngoài vòng luân
hồi. Không đầu hàng khuất phục, để chịu lăn mãi trong luân hồi. Như
các nhà khoa học nghiên cứu biết sức hút của quả đất, sau đó tìm
cách chế phi thuyền đủ sức mạnh vượt ra ngoài vòng hút của quả đất,
đi thẳng vào quĩ đạo v.v... Biết luân hồi để tìm cách thoát ra, chính
là tinh thần "Tu tuệ".
Văn tuệ,
Tư tuệ rất cần thiết, song Tu tuệ lại càng quan trọng hơn. Nếu có văn
tuệ, tư tuệ mà thiếu tu tuệ thì chỉ là tuệ rỗng, không lợi ích thiết
thực cho đời sống con người. Nhờ tu tuệ mới thẩm định được giá
trị văn, tư ở trên và giúp cho văn, tư được kết quả viên mãn.
Vì thế, đức
Phật dạy hàng Phật tử đi chùa là cốt gặp Sư tăng, Sư ni, gặp Tăng ni
rồi cần phải thưa hỏi Phật pháp, thưa hỏi xong phải ghi nhớ, ghi nhớ
rồi cần phán xét, phán xét rồi phải tiến tu. Ðược vậy mới đúng
tinh thần Phật tử (Phỏng theo bài kinh Ma-ha-nam trong Tạp A-hàm). Bồ-tát
Quán Thế Âm cũng trình với Phật, thuở quá khứ lâu xa Ngài gặp Phật dạy
tu phương pháp văn, tư, tu được vào chánh định và cho hiệu là Quán Thế
Âm (Kinh Lăng Nghiêm). Chính trong giới Bồ-tát, Phật cũng dạy "dù ở
xa trăm ngàn dặm, nghe có người nói kinh luật, người mới thọ giới Bồ-tát
cũng phải mang kinh luật đến đó học (Kinh Phạm Võng). Quả nhiên đức
Phật không chấp nhận đệ tử tu hành tối dốt, phải đầy đủ ba môn
Tuệ học, mới xứng là đệ tử của Ngài.
Ba môn Tuệ
học này hoàn toàn thích hợp với tinh thần khoa học hiện nay. Bất luận
môn học nào, trước tiên học lý thuyết, kế phê bình lý thuyết, sau thí
nghiệm hay thực hành lý thuyết. Lý thuyết tức là văn tuệ, phê bình tức
là tư tuệ, thí nghiệm tức là tu tuệ. Có như vậy môn học mới tiến bộ
và phát minh những điều mới lạ.
Tuy nhiên, về
mục tiêu chánh yếu Phật học vẫn khác khoa học. Khoa học cốt phát minh
mọi sự thật của ngoại giới, chinh phục giành quyền làm chủ thiên
nhiên, bắt thiên nhiên làm theo ý muốn con người, để tạo vật chất dồi
dào sung túc cho nhân loại. Phật học xoay lại ngự trị bản thân mình, gạn
lọc đào thải những tâm thức nhơ xấu, kiến tạo một tâm hồn trong
sáng an vui tự tại. Bởi khoa học gây tạo điều kiện vật chất dồi dào,
nên con người dễ tranh đua giành giật kình chống lẫn nhau, Phật học cốt
xây dựng tâm hồn trong sáng, nên người biết tu theo, lòng sẽ mở rộng
thương yêu bảo bọc lẫn nhau.Vì thế, ba môn tuệ học đều đặt căn cứ
trên nguyên tắc "xem lại chính mình". Nắm vững nguyên
tắc này, đọc kinh sách Phật, chúng ta nhận định phán xét không bị sai
lẫn.