- Bước đầu Học Phật
-23-
Thấy
thân giả dối có phải quan niệm chán đời không?
Ða số người nghe trong kinh Phật nói
"xem thân như huyễn hóa" cho là tâm trạng bi quan, yếm thế. Trái lại,
nhà Phật thấy thân như huyễn hóa là sức mạnh để làm lợi ích chúng
sanh. Như nói "Bồ-tát lấy thân như huyễn độ chúng hữu tình như huyễn",
bởi Bồ-tát thấy thân hình không thật nên sẵn sàng lăn xả vào làm việc
lợi ích chúng sanh, dù gặp khó khăn nguy hiểm cũng không ngán sợ, vì
thân như huyễn có mất cũng không gì quan trọng. Thấy chúng hữu tình như
huyễn nên độ chúng sanh mà không chấp nhân ngã. Thấy thân như huyễn,
khiến người ta mạnh mẽ lên, không còn hãi sợ, trước vạn vật biến
thiên mà tâm hồn mình vẫn an nhiên tự tại... Ta hãy nghe bài kệ của Thiền
sư Vạn Hạnh:
Thân như
điện ảnh hữu hoàn vô,
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô.
Nhậm vận thạnh suy vô bố úy,
Thạnh suy như lộ thảo đầu phô.
Dịch:
Thân như bóng
chớp có rồi không
Cây cỏ xuân tươi, thu đượm hồng
Mặc cuộc thạnh suy không sợ hãi
Thạnh suy như cỏ hạt sương đông.
Biết bao lời
Phật, ý tổ trong các kinh, luận thấy thân như huyễn đạt tinh thần vô
úy như thế.
THẤY THÂN HUYỄN HÓA LÀ
ÐÚNG LẼ THẬT
Phật giáo
nói thân này do tứ đại hòa hợp thành nên không chắc thật bền lâu. Tứ
đại là đất, nước, gió, lửa, bốn thứ này bủa khắp trời đất vạn
vật nên nói là đại. Chất cứng trong thân là đất, chất ướt là nước,
chất động là gió, chất ấm là lửa. Bốn chất này thiếu một thì thân
phải hoại. Song bốn chất này luôn luôn thù địch chống đối nhau. Lửa
không ưa nước, đất không ưa gió, ngược lại cũng thế. Khi lửa thạnh
hơn nước sanh nóng bức đau đầu; gió thạnh hơn đất sanh nhọc nhằn
đau nhức. Chúng hằng chống đối nhau, nên lúc nào thân này cũng sẵn sàng
bệnh hoạn hay chực tan rã. Ta khéo điều hòa thì thân còn an ổn, không
khéo chúng sẽ băng hoại. Sự băng hoại của thân thật bất định, một
mạch máu bể, một cái sẩy chân, một luồng gió độc, một viên đạn
xuyên qua... là mất mạng. Sự hòa hợp của tứ đại thật là khó khăn không
bảo đảm lâu dài, vì chúng mang bản chất thù địch nhau. Như bốn người
thù địch nhau chung làm một công tác, nếu thiếu một trong bốn người thì
công tác phải đổ vỡ. Thử hỏi, chúng ta dám bảo đảm bốn người này
hòa hợp lâu dài chăng? Và công tác họ đang làm có thể thành tựu viên
mãn không? Thật không ai dám hứa điều đó hết, vì thấy rõ tính chất
thù địch của chúng. Sự hòa hợp của bốn kẻ thù, dù ai ngu tối mấy cũng
biết rất tạm bợ mỏng manh. Thế thì, nói thân tạm bợ hư dối là nói
đúng sự thật không còn nghi ngờ gì nữa.
Chẳng những
sự hòa hợp của chúng rất tạm bợ mỏng manh, chính khi đang hòa hợp,
chúng cần phải vay mượn tứ đại bên ngoài hỗ trợ mới được tồn tại.
Sự vay mượn tứ đại bên ngoài bị thiếu hay ngưng trệ, nguy cơ tan vỡ
xuất hiện ngay. Lỗ mũi chúng ta đang hít thở là mượn gió, miệng ta uống
nước, ăn cơm là mượn nước, mượn đất và lửa. Sự vay mượn ấy
được thuận chiều ổn thỏa thì thân an vui khỏe mạnh. Sự vay mượn bị
trở ngại khó khăn là thân đau đớn nguy kịch. Quả thật cuộc sống an
vui hạnh phúc là do sự vay mượn và tống trả một cách an ổn điều hòa,
ngược lại là sự sống bất hạnh. Sự sống còn là nhờ vay mượn, làm
sao dám nói thân này là thật, là lâu dài?
Thế mà người
đời bị si mê nhiều kiếp, cứ nghĩ thân này là thật, là lâu bền, là của
ta. Thậm chí đất nước gió lửa bên ngoài là của thiên nhiên trời đất,
mà một khi mượn vào xài, liền chấp của mình. Như lỗ mũi vừa mượn
không khí đem vào chưa đến một phút, thở trả ra liền nói hơi của tôi.
Nước, đất cũng chấp như vậy. Một vật gì vừa qua thân này đều nói
là của tôi, không ngờ cái tôi này cũng vay mượn nốt. Bao nhiêu đó đủ
thấy, cái si mê chấp ngã của chúng ta thật quá nặng nề. Vì chấp ngã
nên mù quáng, không thấy lẽ thật. Bởi vậy nên nghe nói thân này như huyễn
hóa liền hằn học chống đối ngay.
Nếu thân
này là thật, phải có bảo đảm tồn tại trong thời gian bao lâu. Quả thật
không dám bảo đảm, làm sao nói thân này là thật được. Có người ra chợ
mua hàng, thấy món hàng vừa ý muốn mua, song còn ngại đồ giả. Chàng ta
hỏi cô bán hàng: Ðây là đồ thật hay đồ giả? Cô bán hàng đáp: Ðồ
thật! Tôi bảo đảm ông đồ tốt lâu bền... có thật mới dám bảo đảm,
nếu giả đâu dám bảo đảm, trừ kẻ bướng. Thân này đã không, có ai
dám bảo đảm, nói giả dối là hợp lý còn gì nghi ngờ. Song nói giả dối
hay huyễn hóa để chỉ sự có mặt của nó rất tạm bợ không lâu bền,
không chủ tể, chớ chẳng phải không ngơ, không có gì hết. Có người bảo
đạo Phật nói thân như huyễn hóa, tại sao các người tu theo Phật vẫn
ăn, vẫn mặc v.v... và v.v...? Biết thân huyễn hóa là thấy nó có một
cách tạm bợ ngắn ngủi, dễ tan hoại, chẳng phải là không, sự ăn mặc
đối với nó là lẽ thường có gì phải nghi. Thấy được lẽ thật tạm
bợ của thân này, chúng ta phá được cái chấp ngã sai lầm vô lý, dừng
tay, không tạo nghiệp ác, đem lại sự cảm thông tương trợ lẫn nhau, để
được chút an vui trong cuộc đời tạm bợ.
THẤY THÂN HUYỄN HÓA ÐỂ
TRỪ TAM ÐỘC
Tham, sân,
si là ba con rắn độc sát hại người không thể kể xiết. Chẳng những
chúng giết hại người trong đời này, mà còn gây họa ương không biết
bao nhiêu kiếp nữa. Còn tham sân si là con người còn đau khổ. Thấy thân
như huyễn hóa là lối nhìn đúng như thật bằng con mắt trí tuệ. Con mắt
trí tuệ mở sáng thì si mê tan biến là phá được si. Si đã tan thì tham
theo đó mà dừng. Tham hết thì sân không còn lý do trỗi dậy. Bởi si mê
nên thân duyên hợp hư dối ta tưởng lầm là chân thật quí báu. Do tưởng
thân thật quí, nên sanh lòng tham muốn thu góp mọi nhu cầu mà thân yêu
thích. Sự thu góp bị ngăn trở liền nổi sân lên. Thế là, từ si khởi
tham, từ tham sanh sân, tạo nghiệp gây khổ cho mình cho người. Hành giả
biết rõ cội gốc của tam độc là si mê dùng cây xẻng trí tuệ bứng
tung gốc si mê lên. Gốc si mê đã trôùc thì thân tham và cành lá sân cũng
đổ ngã theo, cây tam độc ngang đây sẽ khô khan rã mục. Quả là chúng ta
đã tháo được cây chốt cửa giải thoát. Bài kinh Bát-nhã bổ khuyết cho
tất cả thời khóa tu tập chủ yếu là ở chỗ này. Chúng ta tu theo đạo
Phật là đi trên con đường giác ngộ, nếu không thắp sáng ngọn đuốc
trí tuệ thì mục đích giác ngộ ắt phải xa vời. Kinh Pháp Cú Phật dạy
"các ông tự thắp đuốc lên mà đi, thắp lên với chánh pháp".
Trong mười hai nhân duyên, bắt đầu từ vô minh. Từ vô minh tiếp nối đến
sanh tử là lưu chuyển. Vô minh diệt cho đến sanh tử diệt là hoàn diệt.
Do vô minh dẫn mãi đi trong luân hồi sanh tử. Vô minh là tên khác của si
mê. Chúng ta đã thấy đích thực bộ mặt ác độc của hắn rồi, không
ra tay tiêu diệt hắn, biết bao giờ chúng ta mới hết khổ. Vì thế, hành
giả thẳng tay trừng trị đích đáng kẻ ác độc này, với cây kiếm trí
tuệ cầm sẵn trong tay. Bất cứ nơi chốn nào, thời gian nào, hành giả hằng
lia kiếm trí tuệ, bọn quân si mê ngã rạp không còn một đứa dám xáp lại
gần là thắng trận, trên đường tiến đến thành giác ngộ. Ngược lại,
là kẻ bại trận không thể cứu.
THẤY THÂN HUYỄN HÓA ÐẠT
ÐẾN KHÔNG HUYỄN HÓA
Lý do không
bi quan của đạo Phật là thấy thân huyễn hóa để đạt đến không huyễn
hóa. Không phải như những kẻ phàm phu tục tử, có lúc nhàn hạ ngồi
yên suy gẫm cuộc đời, thấy nó ngắn ngủi tạm bợ đâm ra chán chường
kinh hoảng. Thấy cuộc sống đi vào ngõ cụt, họ ê chề chán ngán có khi
liều mình tự tử. Hành giả dùng trí tuệ quán sát thấy thân đúng lẽ
thật, nó hư dối tạm bợ không có gì đáng quí. Song lại có cái chân thật
tàng ẩn trong ấy, chỉ có người đạt đạo mới thấy được. Ta hãy
nghe ba câu trong bài ca Chứng Ðạo của Thiền sư Huyền Giác:
Huyễn hóa
không thân tức pháp thân
Pháp thân giác liễu vô nhất vật
Bản nguyên tự tánh Thiên Chân Phật.
Ngay trong
thân không thật huyễn hóa này tức là pháp thân. Giác ngộ pháp thân thấy
không có một hình tướng sự vật gì. Pháp thân này cũng gọi là bản
nguyên, tự tánh, Thiên Chân Phật.
Pháp thân
là tên khác của tâm thể lặng lẽ, tràn đầy trong sáng của mọi chúng
ta. Nó không có hình tướng nên không bị vô thường, không dấy động nên
không sanh diệt, hằng trong sáng nên chẳng phải không ngơ. Vì chúng ta quen
nhìn cái gì cũng theo hình tướng, theo dấy động mới cho là có, ngược lại
bảo là không.
Ðể sáng tỏ
ý này, chúng ta nghe lời đối đáp của Thiền sư Hoài Nhượng với Lục Tổ.
Sư đến Tào Khê, Lục Tổ hỏi: Ở đâu đến? Sư thưa: Ở Tung Sơn đến.
Tổ hỏi: Vật gì đến? Sư thưa: Nói in tuồng một vật tức không trúng.
Tổ hỏi: Lại có tu chứng chăng? Sư thưa: Tu chứng tức chẳng không, nhiễm
ô tức chẳng được. Tổ bảo: Chính cái không nhiễm ô này là chỗ hộ
niệm của chư Phật, ngươi đã như thế, ta cũng như thế.
Tâm thể lặng
lẽ tràn đầy trong sáng có sẵn trong mọi người, nên nói là bản nguyên,
là tự tánh. Tại vì vọng tưởng dấy khởi liên miên, khiến chúng ta chỉ
thấy vọng tưởng, không thấy được tâm thể này. Bởi chỉ thấy vọng
tưởng nên chấp nhận vọng tưởng làm tâm mình, hài lòng ngang đây, cam
chịu nó lôi chạy trong lục đạo luân hồi. Mỗi vọng tưởng dấy lên,
hay mỗi niệm khởi, đã cắt xén tâm thể tràn đầy thành những mảnh vụn.
Những mảnh vụn này tung tóe lên che khuất tâm thể lặng lẽ tràn đầy
trong sáng. Như mặt biển lặng lẽ tràn đầy trong sáng, một cơn gió mạnh
thổi qua, những lượn sóng trỗi dậy nối tiếp, đã cắt xén mặt biển
phẳng lì thành vô lượng mảnh vụn, đang săn đuổi nhau. Khi này, người
ta nhìn không còn thấy mặt biển phẳng, chỉ thấy bao nhiêu lượn sóng gầm
thét rượt bắt nhau.
Sóng đã dậy
làm sao dừng? Chỉ khi nào gió lặng. Sóng tâm muốn dừng chỉ khi nào gió
nghiệp lặng. Vọng tưởng dấy lên đều có đối tượng. Ngã và pháp là
đối tượng chủ yếu của vọng tưởng. Nghĩ cái gì? Nghĩ về ta, về
người hay vạn vật. Thấy thân duyên hợp như huyễn, cảnh duyên hợp như
huyễn là vô hiệu hóa gió nghiệp. Ðã biết thân cảnh hư dối còn gì phải
bận lòng, đối tượng đã phá vỡ thì vọng niệm không còn chỗ tựa để
phát sanh. Thế là gió nghiệp lặng, sóng vọng niệm từ từ im bặt, chỉ
còn mặt biển tâm lặng lẽ tràn đầy trong sáng như xưa. Công tác quan trọng
của người tu là trí tuệ Bát-nhã, nhờ nó chúng ta mới phá được mê lầm
muôn kiếp. Nó góp công lớn lao trong việc đem lại an bình cho tâm thể.
Vọng niệm
dấy khởi là loạn động, sanh diệt, là cắt xén vụn vặt, là che phủ
ngàu đục. Có vọng niệm thì không thể thấy được tâm thể lặng lẽ
tràn đầy trong sáng. Vì thế, mọi người đều có tâm thể lặng lẽ
tràn đầy trong sáng mà ít người nhận ra. Ðã không nhận ra, dù tu hành cũng
không tin mình thành Phật. Ðây là nguyên nhân lui sụt của đa số người
tu. Nghe trong kinh nói có chân tâm, Phật tánh, tri kiến Phật..., thực tế
không bao giờ họ nhận thấy mặt mày của nó. Tu lâu rồi, họ xoay ra lo cất
chùa to, tổ chức lễ lớn... lấy đó làm Phật sự, việc giác ngộ giải
thoát xem như vô phần. Muốn thấy chân tâm, Phật tánh, trước tiên chúng
ta phải dừng vọng niệm. Vọng niệm đã dừng thì tâm thể lặng lẽ
tràn đầy trong sáng hiện tiền, chẳng cần cầu mong trông đợi cũng tự
thấy. Song vọng niệm không phải dễ dừng, nó đã thành một dòng sanh diệt
liên tục trong chúng ta. Ðể chận đứng nó, trước tiên chúng ta phải đập
nát đối tượng chủ yếu làm cơ sở phát sanh của nó là ngã và pháp.
Dùng trí Bát-nhã thấy ngã pháp như huyễn hóa, là chiếc búa thần đập
tan đối tượng chủ yếu của vọng niệm. Ðối tượng đã đổ vỡ thì
vọng niệm còn nương đâu phát sanh. Thế là, nhờ trí tuệ Bát-nhã thấy
ngã pháp như huyễn hóa, hành giả đạt đến tâm thể chân thật không huyễn
hóa.
BI TRÍ TRÒN ÐỦ
Trí tuệ
khai phát, hành giả tháo gỡ lần những mối rối bòng bong trong tâm tư. Ðến
khi mọi việc suôn sẻ, trí giác tròn sáng là xong phần tự giác. Phần
giác tha do tâm từ bi thúc đẩy, đến lúc viên mãn thì công phu hành giả
mới được tròn đủ. Khi thực hiện giác tha, hành giả phải chuẩn bị
thế nào? Tâm từ bi là ban vui cứu khổ. Chúng sanh có nhiều loại khổ,
không ngoài hai thứ, khổ về vật chất, khổ về tinh thần. Khổ về vật
chất tuy cấp bách song không trầm kha miên viễn bằng khổ về tinh thần.
Thể hiện lòng từ bi bằng hành động bố thí, trong ba thứ bố thí, tài
thí là đứng đầu. Vì thích ứng với nhu cầu cấp bách vật chất, nên
phải thực hiện tài thí trước. Người đang đói rét mà mời đi nghe pháp
là việc làm của kẻ dại khờ. Trước nhất, chúng ta phải cho họ có cơm
ăn, cả áo mặc, sau mới hướng dẫn về đạo lý thâm sâu. Do đó, pháp
thí Phật đặt sau tài thí. Phật tử muốn cứu người thoát khỏi cái khổ
trầm kha, miên viễn của tinh thần, trước phải lo giúp đỡ người giảm
bớt cái khổ về vật chất. Vì thế, tuy thấy thân như huyễn hóa, các
pháp như huyễn hóa, chúng ta vẫn phải cần cù lao động làm ra nhiều tài
sản của cải để giúp những người cần giúp, nhiên hậu mới đem chánh
pháp hướng dẫn giáo hóa họ. Thấy thân như huyễn, các pháp như huyễn,
để rồi nhìn cảnh ngắm trăng nhịp đùi ngâm thơ, là người không có
lòng từ bi, không hiểu thấu ý nghĩa Phật dạy. Hoặc gặp ai cũng cố gắng
khai mở trí Bát-nhã cho họ, mà không đếm xỉa gì bản thân người đang
no hay đói, là kẻ thuyết pháp chẳng hợp thời cơ. Vì muốn cứu cái khổ
trầm kha miên viễn tinh thần của mọi người, chúng ta phải cố gắng nỗ
lực cứu cái khổ cấp bách vật chất cho họ trước đã. Ðược vậy, sự
tự giác giác tha, chúng ta mới tròn đủ. Tự giác là trí, giác tha là bi,
đạo Phật chủ yếu đưa người đến giác ngộ, nên bi trí đều cùng một
chữ giác.
KẺ SI MÊ, NGƯỜI TRÍ TUỆ CAN ÐẢM HY SINH
Kẻ si mê
can đảm hy sinh không ngoài ba yếu tố chính là tham lam, sân hận, si mê.
Vì tham danh, tham lợi, tham sắc..., họ can đảm hy sinh, vì đam mê không
mãn ý, họ can đảm hy sinh, vì nóng giận hận thù, họ can đảm hy sinh. Sự
can đảm hy sinh của họ do động lực bên ngoài thúc đẩy. Họ can đảm
trong cái sợ sệt, hy sinh trong cái liều lĩnh. Người đời muốn lợi dụng
lòng can đảm, hy sinh của họ, bèn cám dỗ bằng danh lợi, kích động bằng
hận thù, xây dựng bằng lý tưởng. Bởi không tự chủ được, họ phải
làm theo cái gì mà người khác muốn họ làm. Cuộc sống của họ xem ra rất
ngang dọc anh hùng, song là cái anh hùng của người khác tạo nên. Họ hy
sinh trong cái tự cao, ngã mạn, hoặc trong nhắm mắt đánh liều.
Người trí
tuệ can đảm hy sinh do nhận chân lẽ thật, vì lòng từ bi cứu khổ chúng
sanh. Khi thấy rõ thân này duyên hợp như huyễn, chúng sanh không biết chấp
là thật, gặp cảnh khổ liền kinh hoàng, hoảng sợ. Người trí tuệ thấy
thế dám hy sinh thân mình để đem sự an vui cho người. Ðôi mắt trí tuệ
với lòng từ bi, người trí tuệ can đảm hy sinh giúp người, cứu vật,
không do động lực nào khác thúc đẩy. Nói can đảm hy sinh, mà thật
không có gì đáng hy sinh. Bởi thấy thân như huyễn hóa, sự còn mất có
đáng gì, gọi là hy sinh. Cho nên, hy sinh cho mọi người, vẫn không thấy
có mình hy sinh, đây là tâm hồn Bồ-tát. Bồ-tát thấy chúng sanh khổ coi
như mình khổ, xả thân mình giải khổ cho người là việc làm dễ dàng thường
nhật của Bồ-tát.
KẾT THÚC
Qua những
lý do trên, chúng ta được quyền khẳng định rằng thấy thân giả dối
là đúng lẽ thật, là diệt trừ tam độc, là giải thoát sanh tử, là
tích cực vì người, là can đảm hy sinh, không phải là quan niệm bi quan yếm
thế. Mọi khổ đau, mọi hèn nhát, phát nguồn từ bản ngã khổng lồ.
Phá tan được bản ngã này, có sự lợi ích nào chẳng dám làm, sự đau
khổ nào mà chẳng dám cứu, sự hiểm nguy nào mà chẳng xông vào. Bồ-tát
Ðịa Tạng đâu không nói "ta không vào địa ngục, ai vào địa ngục".
Có phải chăng là một sức mạnh vô biên, khi thấy thân không thật. Chỉ
trừ bọn phàm phu, sau khi trà dư tửu hậu, ngồi suy gẫm cuộc đời, thấy
kiếp sống mỏng manh cuộc đời tạm bợ, nảy sanh ra quan niệm chán đời.
Với cái nhìn của bọn người này, không dính dáng gì với trí tuệ
Bát-nhã. Trí tuệ Bát-nhã không rời từ bi. Bi trí viên mãn mới tròn Phật
quả.