- Phật Học Khái
Luận
- TT. Thích Chơn Thiện
- Tiết X
- Thất Giác Chi
Thất giác chi là: Niệm giác chi, Trạch
pháp giác chi, Tinh tấn giác chi, Hỷ giác chi, Khinh an giác chi, Định giác
chi và Xả giác chi.
Gọi là giác chi vì nó đưa người
tu tập đến giác ngộ.
Tương Ưng Bộ Kinh tập V (Sđd.,
1982, tr. 64) giải thích về các giác chi như sau:
- Cái gì là chánh niệm đối với
nội pháp và ngoại pháp, cái ấy gọi là Niệm giác chi.
- Cái gì là quan sát, là quyết trạch,
tư sát với trí tuệ, đối với các nội pháp và ngoại pháp, cái ấy là
Trạch pháp giác chi.
- Cái gì là thân tinh tấn,là tâm
tinh tấn, cái ấy là Tinh tấn giác chi.
- Cái gì là hỷ có tâm, có tứ và
hỷ không có tầm, không có tứ, cái ấy là Hỷ giác chi.
- Cái gì là thân khinh an và tâm
khinh an, cái ấy gọi là Khinh an giác chi.
- Cái gì là định có tầm, có tứ
và định không tầm, không tứ, cái ấy là Định giác chi.
- Cái gì là xả đối với nội pháp,
xả đối với ngoại pháp, cái ấy là Xả giác chi.
Tu Tập Thất Giác Chi
* "Như lý tác ý" là thức
ăn của Niệm giác chi, làm cho Niệm giác chi chưa sanh được sanh khởi, Niệm
giác chi đã sanh được viên mãn. (Tương Ưng V, Sđd., tr. 83*84).
* "Như lý tác ý" trên các
pháp thiện, bất thiện, liệt, thắng... là thức ăn cho Trạch pháp giác
chi, làm cho Trạch pháp giác chi chưa sanh được khởi, Trạch pháp giác chi
đã sanh được viên mãn. (Sđd., tr. 65).
* "Như lý tác ý" trên dõng
mãnh giới, tinh cần giới (Nikkhammadhàtu), làm cho sung mãn, là làm cho Tinh tấn
giác chi chưa sanh được sanh khởi, đã sanh được viên mãn. (Sđd., tr. 67).
* "Như lý tác ý" trên những
pháp làm trú xứ cho Hỷ giác chi, làm cho viên mãn. Đây là thức ăn khiến
cho Hỷ giác chi chưa sanh được sanh khởi, đã sanh được viên mãn. (Sđd.,
tr. 68).
* "Như lý tác ý" làm cho
thân khinh an được sung mãn: đây là thức ăn khiến cho Khinh an giác chi chưa
sanh được sanh khởi, đã sanh đi đến viên mãn. (Sđd., tr. 68).
* Nếu "Như lý tác ý" về
tịnh chỉ tưởng, bất loạn tưởng, làm cho sung mãn. Đây là thức ăn làm
cho Định giác chi chưa sanh được sanh khởi, Định giác chi đã sanh đi đến
viên mãn. (Sđd., tr. 68).
* Có các pháp là trú xứ cho Xả
giác chi. Chính ở đây, nếu Như lý tác ý làm cho sung mãn, thì ở đây là
món ăn khiến cho Xả giác chi chưa sanh được sanh khởi, giác chi đã sanh
được tu tập đi đến viên mãn. (Sđd., tr. 68).
Bảy giác chi trên luôn luôn cần
được tu tập, y cứ vào giới, an trú trên giới, nghĩa là tu tập Bảy
giác chi theo với viễn ly,ly tham và từ bỏ. (Theo Tương Ưng V, Sđd., 64).
Điều mà hành giả cần biết là
Thất giác chi được tu tập theo thứ lớp, cũng có thể tu tập độc lập
từng chi phần.
Do thân và tâm sống viễn ly, Niệm
giác chi tu tập để đi đến thành tựu. Hành giả trú chánh niệm như vậy,
với trí tuệ tư sát, quyết trạch, thành tựu được quán sát pháp ấy. Tại
đây, Trạch pháp giác chi bắt đầu phát sinh trong vị ấy. Trong khi tu tập
Trạch pháp giác chi, trong khi với trí tuệ quyết trạch, tư sát pháp ấy,
thì tinh tấn bắt đầu phát khởi. Trong khi hành giả tinh cần tu tập tinh
tấn giác chi hướng đến viên mãn thì Hỷ giác chi bắt đầu phát khởi.
Trong khi tu tập Hỷ giác chi, Hỷ giác chi đi đến viên mãn thì hành giả
có thân khinh an và tâm khinh an, Khinh an giác chi phát khởi. Trong khi tu tập
Khinh an giác chi đi đến viên mãn, thì hành giả có lạc, có lạc tâm sinh,
tâm trở nên định tỉnh, Định giác chi bắt đầu phát khởi. Trong khi tu
tập Định giác chi đi đến viên mãn, hành giả khéo trú xả nhìn sự vật,
Xả giác chi bắt đầu phát khởi. Nhờ tu tập Xả, xả giác chi đi đến
viên mãn. (Theo Tương Ưng V, Sđd., tr. 69-70).
Một lần Tôn giả Upavàna bảo:
"Vị Tỷ-kheo chỉ bắt đầu Niệm giác chi biết được tâm mình khéo
giải thoát, thụy miên hôn trầm được khéo nhổ sạch, trạo hối trong
mình được khéo điều phục, tinh tấn bắt đầu khởi, lấy giác chi ấy
làm đối tượng, vị Tỷ-kheo dụng tâm tác ý, giác chi ấy không thối thất".
(Sđd., tr. 69-70)
Tương tự như thế đối với Trạch
pháp, Tinh tấn, Hỷ, Khinh an, Định và Xả giác chi.
Về sự tu tập riêng từng giác
chi, Thế Tôn dạy:
"Ở đây, đối với vị Tỷ-kheo
tu tập Niệm giác chi liên hệ đến viễn ly, ly tham, đoạn diệt, hướng
đến từ bỏ, quảng đại, vô lượng, không sân, khát ái được đoạn tận.
Do khát ái được đoạn tận nên nghiệp được đoạn tận. Do nghiệp đoạn
tận nên khổ được đoạn tận". (Tương Ưng V. Sđd., 68, 69-70).
Tương tự đối với sáu giác chi
còn lại.
Con đường tu tập Thất giác chi
luôn luôn được vận dụng không rời khỏi tác ý viễn ly, ly tham, từ bỏ,
đoạn diệt tham ái để chứng Diệt đế. Trọng tâm của giải thoát là
đoạn tận khát ái. Khát ái được đoạn tận thì chấp thủ được đoạn
tận, vô minh được đoạn tận.
Chánh niệm luôn luôn là cơ sở tu
tập cho Tứ niệm xứ, Tứ như ý túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất giác chi và
Bát Chánh đạo, bởi vì chánh niệm dẫn đến chánh định, là cơ sở tựu
thành công việc đoạn trừ ái, thủ. Trên cơ sở định này, trí tuệ mới
được vận dụng hữu hiệu để dập tắt khát ái. Định như vậy là một
thành tựu cần thiết của quá trình tu tập để đoạn tận khổ đau. Vậy
nên, bản chất của con đường tu tập giải thoát của Phật giáo, mà thường
gọi là Đạo đế, là Thiền định.
Điểm đặc biệt của pháp môn tu
tập Thất giác chi liên hệ đến ly tham, từ bỏ... là chỉ cần tu tập một
giác chi cũng có thể đi đến kết quả thấy biết như thật, giải thoát
lậu hoặc khổ đau.
"Tu tập một giác chi đã có thể
thành tựu mục đích của đời sống phạm hạnh, huống nữa là tu tập cả
Thất giác chi". (Theo Tương Ưng V, Sđd., tr. 68, 69-70).
Tuy nhiên, trong quá trình tu tập,
tâm lý của hành giả luôn luôn được chuyển đổi, thường xuất hiện
dưới hình thái tích cực, tiêu cực khác nhau, nên việc đề khởi tu tập
Thất giác chi cần được hành giả vận dụng thiện xảo. Nguyên tắc của
tu tập để chuyển đổi tâm lý là nguyên tắc đối trị. Nguyên tắc đối
trị này là chỉ thực hiện hữu hiệu đúng vào lúc mà tâm lý cần được
đối trị tương ứng với pháp môn đối trị.
Chẳng hạn đối trị hôn trầm
thì vận dụng tầm tâm sở tư duy; quan sát đối trị với sân triền cái
thì quán từ bi... Ở Thất giác chi, khi tu tập, nếu tâm lý hành giả rơi
vào trạng thái mệt mỏi thụ động thì Hỷ giác chi, Trạch pháp giác chi,
Tinh tấn giác chi cần được vận dụng; bấy giờ nếu tu tập Xả, Khinh
an và Định giác chi thì sẽ không thích hợp, tâm của hành giả khó mà
phát khởi được. Trái lại, khi tâm lý hành giả dao động thì việc tu tập
Xả, khinh an, và Định giác chi là đúng lúc, thích ứng; bấy giờ, nếu tu
tập Trạch pháp, Tinh tấn và Hỷ giác chi thì lại không thích hợp.
Chỉ có Niệm giác chi là giác chi
đặc biệt mà hành giả có thể vận dụng tu tập trong bất cứ điều kiện
tâm lý nào. Điểm tu tập này vừa nói lên rằng Niệm giác chi (hoặc Tứ
niệm xứ) là pháp môn tu tập phù hợp với mọi căn cơ trong mọi thời. Tại
đây, chúng ta có thể rút ra được một bài học có ý nghĩa là có thể
chọn pháp môn tu tập Niệm giác chi hay Tứ niệm xứ như là pháp môn tu tập
thích hợp với quần chúng đủ mọi trình độ, căn cơ, mà không sợ có xảy
ra các phản tác dụng của tâm lý tu tập. Có thể gọi đây là pháp môn
tu tập hiền thiện nhất. Mật tông, Tịnh độ tông và Thiền Công án
không phải là pháp môn thích hợp với mọi căn cơ. Chỉ có Thiền của
Tứ niệm xứ và Niệm giác chi này mới thật sự là thích ứng với mọi
căn cơ.
Nếu pháp môn tu tập trái với căn
cơ thì có thể không đem lại kết quả, có khi còn gây thêm tác hại nữa.
Thế Tôn đã ví trường hợp tâm lý thụ động mà tu tập Xả, Khinh an và
Định giác chi như là nhen lên một ngọn lửa bằng cỏ ướt, củi ướt
ở giữa mưa gió; và ví trường hợp tâm lý dao động mà tu tập Hỷ, Tinh
tấn và Trạch pháp giác chi, như là dập tắt một ngọn lửa đang bốc cháy
bằng cách ném thêm vào cỏ khô, củi khô và thổi hơi vào. (Theo Tương
Ưng V, Sđd., 90-91)
Vật lý cũng như tâm lý, có những
luật tắc riêng của nó. Hành giả cần để tâm theo dõi chúng để áp dụng
pháp môn tu tập thích ứng, thiện xảo thì việc giải thoát mới hy vọng
có thể thành tựu ngay trên cuộc đời này.
Một điểm đặc biệt nữa của Thất
giác chi là pháp môn này có thể tu tập cùng với Tứ vô lượng tâm (từ,
bi, hỷ, xả). Khi tu tập mỗi giác chi liên hệ với tan rã, đoạn diệt, từ
bỏ, hành giả có thể trú tưởng bất tịnh hay tịnh trong tất cả các
pháp (dù pháp ấy là tịnh hay bất tịnh), hoặc trú xả, chánh niệm tỉnh
giác đối với tất cả pháp. Nếu tu tập Thất giác chi cùng với Từ
tâm, thì hành giả sẽ đạt được từ tâm giải thoát, trú vào đệ Tứ
Thiền sắc giới là cao nhất (đây thuộc về tâm giải thoát, khác với tuệ
giải thoát). Nếu tu tập Thất giác chi cùng với Bi tâm, thì hành giả trú
vào Không vô biên xứ là cao nhất (đây chỉ nói đến tâm giải thoát). Nếu
tu tập Thất giác chi cùng với Hỷ tâm, thì hành giả sẽ đạt tới Thức
vô biên xứ là cao nhất (đây chỉ đề cập tâm giải thoát). Nếu tu tập
Thất giác chi cùng với Xả tâm thì hành giả sẽ đạt tới Vô sở hữu xứ
là cao nhất (đây chỉ đề cập tâm giải thoát). (Theo Tương Ưng V, Sđd.,
tr. 123-125).
Thế là, nếu tu tập Thất giác chi
cùng với Tứ vô lượng tâm sẽ chắc chắn không rơi vào Phi tưởng phi
phi tưởng xứ thiên.
Kinh Trung Bộ I nói rằng, khi hành
giả ở Vô sở hữu xứ thiên muốn băng qua Phi tưởng hi phi tưởng xứ để
đến Diệt thọ tưởng định thì nên hành Tứ vô lượng tâm. Tại đây
có một phần khác biệt với sự trình bày ở Tương Ưng V ở trên, nhưng
điểm nhất quán quan trọng là nếu tu Tứ vô lượng tâm thì quyết định
không rơi vào Phi tưởng phi phi tưởng. Chúng ta cũng có thể nhận định rằng
các cảnh giới Thiền này là thuộc phần tâm giải thoát, nếu tại các cảnh
giới này hành giả vận dụng Thiền quán để trực tiếp đoạn trừ các
kiết sử, lậu hoặc, thì có thể vào thẳng Diệt thọ tưởng định và
đắc Chánh trí, Giải thoát.
Ngoài kết quả trên, tu tập Thất
giác chi được sung mãn thì sẽ được bảy kết quả, bảy lợi ích:
1. Ngay trong hiện tại có thể lập
tức thành tựu Chánh trí.
2. Nếu không thể, thì khi lâm chung thành tựu được Chánh trí.
3. Nếu không được như thế, thì khi lâm chung đoạn tận được năm hạ
phần kiết sử và chứng đắc Trung gian Bát-niết-bàn (Antaràparinibbàyi).
4. Nếu không được như thế thì khi lâm chung, sau khi đoạn tận năm hạ
phần kiết sử, chứng được Tổn hại Niết-bàn (Upahaccaparinibbàyi).
5. Nếu không như thế thì khi lâm chung, sau khi đoạn tận được năm hạ
phần kiết sử, sẽ chứng Vô hành Niết-bàn (asankhàraparinibbàyi).
6. Nếu không như thế thì khi lâm chung, sau khi đoạn tận được năm hạ
phần kiết sử, sẽ chứng Hữu hành Niết-bàn (Sankhàraparinibbàyi).
7. Nếu không như thế, thì khi lâm chung, sau khi đoạn tận năm hạ phần kiết
sử, hành giả sẽ là bậc Thượng lưu (Uddhasoto), đạt được Sắc cứu cánh
thiên.
(Theo Tương Ưng V, Sđd., tr. 71-72).
Một Nét Đặc Biệt Nổi Bật Của Thất Giác
Chi.
(Kinh Tương Ưng Bộ V, tiểu mục
về bệnh, tr. 82-83, bd. Thích Minh Châu, ghi rõ một số trường hợp Thất
giác chi đã giúp các bậc Thánh vô lậu vượt qua được các cơn trọng bệnh,
trong khi các pháp môn khác thì không).