- Phật Học Khái
Luận
- TT. Thích Chơn Thiện
- Tiết XIV
- Tứ Niệm Xứ
Trong ba mươi bảy phẩm trợ đạo.
Tứ niệm xứ được xếp ở đầu bảng. Ở phần giáo lý thuộc Thiền định
này, Bát Thánh đạo lại được giới thiệu đầu. Sự xếp đặt này dựa
vào ý nghĩa nền tảng của Bát Thánh đạo trong Đạo Thánh đế, như Thế
Tôn dạy:
"... Khéo tu tập Bát Thánh đạo,
làm sung mãn Bát Thánh đạo, thời Tứ niệm xứ được tu tập đi đến viên
mãn, Tứ như ý túc..., Ngũ căn..., Ngũ lực..., Thất giác chi..., được tu
tập đi đến viên mãn". (Tương Ưng V, Sđd. tr. 49-50)
Người viết lại muốn trình bày Tứ
niệm xứ sau rốt của phần giáo lý Thiền định để có một cái nhìn tổng
quan và rõ ràng về pháp môn này, pháp môn thường dễ bị ngộ nhận, như
có nhà nghiên cứu Phật học đã phát biểu rằng phần giáo lý của Phật
giáo bị hiểu lầm nhiều nhất chính là Thiền định (Walpola Rahula, trong
"What The Buddha Taught", Chương VII).
Qua phần giáo lý vừa trình bày,
có thể nói Đạo đế là con đường Thiền định dẫn đến giác ngộ tối
thượng. Cho nên, xem Thiền định như là một tông phái của Phật giáo là
một ngộ nhận đáng tiếc. Xa hơn nữa, xem Thiền định như là một pháp
môn chỉ đáp ứng thích hợp với một số căn cơ gọi là lợi căn là một
ngộ nhận đáng tiếc khác.
Lời phát biểu chính xác phải là:
Thiền định chính là Phật giáo và Phật giáo chính là Thiền định.
Chúng ta sẽ tuần tự khảo sát giáo lý Thiền định hay Tứ niệm xứ này.
Các kinh Nhập Tức Xuất Tức Niệm
(Ànàpanasatisuttam), Trung Bộ III - Hán tạng: Trị Ý Kinh, Đại I, 919, Kinh Thân
Hành Niệm; Niệm Thân Kinh (Kàyaga-tàsatisuttam) , Trung Bộ III - Trung A-hàm số
81, Đại I, 554c; Kinh Niệm Xứ (Satipathànasuttam), Trung Bộ I - Hán tạng: Niệm
Xứ Kinh, Đại I, 582b, Trung A-hàm số 98; Kinh Song Tầm (Dvedhàvitakka-suttam),
Trung Bộ I - Hán Tạng: Niệm Kinh, Đại I, 589d, Trung A-hàm số 102; Kinh An
Trú Lâm (Vitakkasanthàba suttam), Trung Bộ I - Hán tạng: Kinh Tăng Thượng Tâm,
Đại I, 158a, Trung A-hàm số 101, là các kinh căn bản đề cập đến Tứ niệm
xứ.
Những Lời Dạy Của Thế Tôn Về Tứ Niệm Xứ
Khi Thế Tôn vừa mới giác ngộ vô
thượng, tư tưởng này khởi lên nơi Thế Tôn:
"... Đây là con đường độc
nhất khiến chúng sanh được thanh tịnh, giúp vượt qua sầu, bi, chấm dứt
khổ ưu, chứng đạt chánh lý, chứng ngộ Niết-bàn: Tức là Tứ niệm xứ"
(Trung Bộ I; Tương Ưng V).
Các lời dạy khác của Thế Tôn về
Tứ niệm xứ tiêu biểu nhất là:
- "Để đoạn trừ ba lậu hoặc
(dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu), Tứ niệm xứ cần được tu tập".
(Sđd. tr. 200)
- "Này các Tỷ-kheo, các Ông sống
hãy hộ trì giới bổn... Rồi y cứ trên giới, an trú trên giới, hãy tu tập
Tứ niệm xứ". (Sđd. tr. 197)
- "Này các Tỷ-kheo, khi nào các
Ông được giới khéo thanh tịnh và chánh tri kiến, các Ông hãy y cứ trên
giới, tu tập Tứ niệm xứ theo ba cách: nhiệt tâm, chánh niệm tỉnh giác,
nhiếp phục tham ưu ở đời". (Sđd. tr. 148)
- "Định niệm hơi thở vô, hơi
thở ra là Thánh trú, là Phạm trú, là Như Lai trú". (Sđd. tr. 334-335)
- "Thế Tôn trong mùa mưa đã an
trú vào định niệm hơi thở vô, hơi thở ra. Các Tỷ-kheo hữu học tu tập
niệm hơi thở vô, hơi thở ra để đoạn tận lậu hoặc, các bậc
A-la-hán làm cho sung mãn niệm hơi thở vô, hơi thở ra để được hiện tại
lạc trú". (Tương Ứng V, tr. 334-335).
Nội Dung Tứ Niệm Xứ
Tứ niệm xứ là: thân niệm xứ,
thọ niệm xứ, tâm niệm xứ và pháp niệm xứ.
Thế Tôn dạy:
"Thế nào là Tứ niệm xứ?
Này các Tỷ-kheo, ở đây vị Tỷ-kheo sống quán thân nơi thân, tinh cần, tỉnh
giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán thọ nơi các
thọ, tinh cần, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời; sống
quán tâm nơi tâm, tinh cần, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu
ở đời; sống quán pháp nơi pháp, tinh cần, tỉnh giác, chánh niệm để
chế ngự tham ưu ở đời". (Trung Bộ I, tr. 57).
Thế Nào Là Quán Thân Ơ렎ơi Thân?
Có nhiều hình thức biểu hiện của
sự tu tập quán thân nơi thân.
- Hình thức thứ nhất: Ngồi kiết-già,
lưng thẳng, để niệm trước mặt, và theo dõi hơi thở vào, hơi thở ra,
hơi thở ra, vào dài ngắn thì biết là dài ngắn, giữ niệm tỉnh giác,
hành giả tập biết cảm giác toàn thân khi thở vô, thở ra ("Cảm
giác toàn thân, tôi sẽ thở vô... vị ấy tập") và tập nhiếp cho
thân an tịnh khi theo dõi hơi thở vào, ra và giữ niệm giác tỉnh, hay quán
tánh sanh khởi, tánh đoạn diệt trên thân, giữ tâm không chấp thủ, an
trú chánh niệm.
Như vậy là một hình thức quán
thân nơi thân. (Theo Sđd., tr. 57)
- Hình thức thứ hai: Khi hành giả
đi, đứng, nằm ngồi, làm việc, hành giả biết mình đang đi, đứng...,
đang làm việc và giữ chánh niệm tỉnh giác, không chấp trước bất cứ
vật gì ở trên đời.
- Hoặc hành giả quán sát thân
mình từ lòng bàn chân lên đến tóc (gồm có ba mươi hai thứ sai biệt),
biết thân chỉ là một chiếc túi bất tịnh đựng đủ ba mươi hai thứ bất
tịnh, nhưng vẫn giữ chánh niệm tỉnh giác, không nương tựa, chấp trước
một vật gì ở đời. Hoặc hành giả quán tánh sanh diệt trên thân và giữ
chánh niệm tỉnh giác. (Trung Bộ I, Sđd., tr. 58).
- Hoặc quán thân này do bốn đại
(địa, thủy, hỏa, phong) sanh, chỉ là do bốn đại cấu hợp thành, hoặc
quán tánh sanh diệt nơi thân, và giữ chánh niệm tỉnh giác, không chấp thủ,
nhiếp phục tham ưu.
- Hình thức thứ ba: Quán sát bất
tịnh nơi thân hoặc quán thi thể ở nghĩa địa với các tướng sình, thối,
dòi, vữa v.v... hoặc quán tánh sanh diệt nơi thân và giữ chánh niệm tỉnh
giác, nhiếp phục tham ưu, không nương tựa, chấp trước một vật gì ở
đời.
Như vậy là tu tập quán thân nơi
thân. (Theo Sđd., tr. 58).
Thế Nào Là Quán Thọ Ơ렎ơi Thọ?
Khi ở nơi thân và tâm khởi lên cảm
thọ lạc, khổ, hỷ, ưu, xả hay bất khổ bất lạc thì hành giả biết
là có cảm thọ khởi lên như vậy. Biết rằng đó là cảm thọ thuộc vật
chất hay không thuộc vật chất, là cảm thọ ở trong hay ở ngoài, và giữ
chánh niệm tỉnh giác, quán tánh sanh diệt của các thọ mà không khởi niệm
chấp trước nương tựa bất cứ một vật gì trên đời.
Như vậy là sống quán thọ nơi các
thọ. (Theo Trung Bộ I, Sđd., tr. 59).
Thế Nào Là Quán Tâm Ơ렎ơi Tâm?
Hành giả theo dõi tâm mình, biết rằng
tâm có tham khi tham tâm khởi lên, biết rằng tâm có sân khi tâm sân khởi,
biết rằng tâm có si, v.v... hay là tâm không có tham, không có sân, không
có si, biết rằng tâm đang quảng đại hay hẹp hòi, biết rằng tâm có định
hay không, hành giả quán sanh diệt của tâm và giữ chánh niệm tỉnh giác,
không chấp thủ một vật gì ở đời.
Như vậy là quán tâm ở nơi tâm.
(Sđd., tr. 59).
Thế Nào Là Quán Pháp Ơ렎ơi Các Pháp?
Hành giả theo dõi năm triền cái để
thấy rõ tâm mình đang vướng mắc ở triền cái nào. Hoặc quán tánh sanh
diệt của các triền cái. Hoặc quán pháp ở nơi Ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng,
hành, thức), quán Ngũ uẩn tập khởi, Ngũ uẩn đoạn diệt với chánh niệm,
tỉnh giác, nhiếp phục tham ưu, không chấp thủ.
Hoặc quán pháp trên Lục căn, Lục
trần, do duyên hợp của căn trần kiết sử (tham, sân) khởi, hành giả biết
các kiết sử khởi lên trong mình và giữ chánh niệm tỉnh giác.
Hoặc quán pháp trên Thất giác chi,
xem trong thân mình hiện đang có giác chi nào (hoặc đã sanh, hoặc chưa
sanh...) và giữ chánh niệm, tỉnh giác.
Hoặc quán pháp trên Tứ Thánh đế:
đây là Khổ, đây là Khổ tập, đây là Khổ diệt, đây là Khổ diệt đạo,
quán tánh sanh diệt của các pháp và giữ chánh niệm tỉnh giác, không chấp
trước bất cứ vật gì ở đời. Như thế là tu tập quán pháp ở nơi các
pháp.
Hoặc Tứ niệm xứ có thể trình
bày bằng cách tu tập theo dõi hơi thở vào, hơi thở ra với mười sáu đề
mục:
Thân niệm xứ:
1. Hơi thở vào dài, tôi rõ biết
hơi thở vào dài,
Hơi thở ra dài, tôi rõ biết hơi thở ra dài.
2. Hơi thở vào ngắn, tôi biết rõ
hơi thở vào ngắn,
Hơi thở ra ngắn, tôi biết rõ hơi thở ra ngắn.
3. Cảm giác thân hành, tôi sẽ thở
vô,
Cảm giác thân hành, tôi sẽ thở ra.
4. An tịnh thân hành, tôi sẽ thở
vô.
An tịnh thân hành, tôi sẽ thở ra.
Thọ niệm xứ:
5. Cảm giác hỷ thọ, tôi sẽ
thở vô / ra,
6. Cảm giác lạc thọ, tôi sẽ thở
vô / ra,
7. Cảm giác tâm hành, tôi sẽ thở
vô / ra,
8. An tịnh tâm hành, tôi sẽ thở
vô / ra.
Tâm niệm xứ:
9. Cảm giác về tâm, tôi sẽ thở
vô / ra,
10. Với tâm hân hoan, tôi sẽ thở
vô / ra,
11. Với tâm định tỉnh, tôi sẽ
thở vô / ra,
12. Với tâm giải thoát, tôi sẽ thở
vô / ra,
Pháp niệm xứ:
13. Quán vô thường, tôi sẽ thở
vô / ra,
14. Quán tan rã, tôi sẽ thở vô /
ra,
15. Quán hoại diệt, tôi sẽ thở
vô / ra,
16. Quán từ bỏ, tôi sẽ thở vô /
ra.
Tu Tập Tứ Niệm Xứ
Phần nói về nội dung của Tứ niệm
xứ đã hàm chứa những chỉ dẫn cơ bản nhất cho hành giả tu tập Thiền
định. Phần này đi sâu vào thực hiện, nên sẽ trình bày cụ thể hơn về
những bước đi tu tập Thiền định mà hành giả cần biết và hành.
Điều đơn giản thứ nhất là
thế ngồi kiết-già và sự điều hòa thân. Ngồi kiết-già là ngồi
xếp chéo chân theo thế hoa sen (có thể đặt chân phải lên chân trái trước,
hay ngược lại). Theo kinh nghiệm truyền thừa của việc tu tập Thiền, thế
để tay tốt nhất là đặt bàn tay phải trên bàn tay trái, hai bàn tay đặt
lên lòng bàn chân (nói vậy thôi, chứ nếu bạn đặt bàn tay trái trên
bàn tay phải cũng được, trường hợp với người cụt tay, không có một
trong hai bàn tay thì vẫn hành Thiền được và vẫn có kết quả như thường).
Giữ lưng thẳng đứng, đây là điều cần phải thực hiện. Miệng khép
kín, mắt thì khép nhẹ (có thể mở mắt, nhưng trong trường hợp này ta rất
dễ rơi vào tán loạn). Ta tập ngồi như thế này và theo dõi hơi thở vào,
ra cho đến khi nào ta ngồi được chừng 60 phút đến 90 phút mà nghe thân
nhiệt điều hòa, thân không đau, không mệt mỏi, thì bấy giờ có thể gọi
bước tu tập thân điều hòa tạm ổn (cần nhớ rằng khi ngồi, hai đầu
gối của ta phải sát nền ngồi, ta có thể dùng gối lót bàn tọa).
Điều đơn giản thứ hai là
điều hòa hơi thở. Ta vừa thở vào, ra vừa theo dõi hơi thở ấy.
Tập thế nào để hơi thở vào, ra rất là nhẹ nhàng, không động thành
tiếng và không ngạt (thở bằng mũi mà không phải bằng bụng, và hít
vào cho đến ngực hay sâu hơn một ít). Khi nào hơi thở vào, ra nhẹ nhàng
như có như không trong suốt khoảng thời gian ngồi đề cập ở trên (chừng
sáu mươi phút đến chín mươi phút) thì bấy giờ hơi thở tạm gọi là
được điều hòa - khi nào hành giả nhập Tứ Thiền thì hơi thở mới thực
sự điều hòa (hơi thở ngưng).
Điều đơn giản thứ ba là để
niệm trước mặt. Để niệm trước mặt là không để cho tâm, ý
mình chạy tán loạn theo các đối tượng (ở trong cũng như ở ngoài tâm)
một cách vô định, nghĩa là chỉ để tâm dừng lại ở một vùng trước
mặt mình. Vùng để tâm ấy là hơi thở vào ra, hoặc là ấn đường (ở
giữa hai chân mày), hoặc là nhân trung (ở dưới chót mũi), hoặc ở đầu
chót mũi, hoặc ở đơn điền, hoặc ở trong lòng bàn tay của hành giả,
hoặc một vùng diện tích nhỏ trước mặt trong tầm nhìn của mắt xuyên
qua đầu chót mũi.
Làm được thành thạo ba điều giản
đơn trên là ta mới chỉ đủ điều kiện thực hiện được điều mà Thế
Tôn dạy ở trong các Kinh là: "Vị Tỷ-kheo đi đến khu rừng, đi đến
gốc cây, hay đi đến căn nhà trống, và ngồi kiết già, lưng thẳng và an
trú chánh niệm trước mặt".
(Ngày xưa, chư vị Tỷ-kheo hành đạo
ở trong các cánh rừng nhỏ của Ấn Độ nên mới đi đến gốc cây, khu rừng,
căn nhà trống. Ngày nay chúng ta có thể đi vào Thiền đường, hoặc phòng
Thiền ở tư thất, hoặc ngay cả ở phòng nghỉ. Chúng ta không cần phải
bận tâm đến giờ khắc ngồi Thiền phải là Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu... hay mặt
hướng về phương Bắc, Đông, Tây, v.v...).
Tiếp theo, bước tu tập này mới
thực sự là trọng điểm: đấy là bước điều hòa tâm. Từ đây, hành
giả hẳn nhiên đi vào tu tập Tứ niệm xứ.
* Về Thân Niệm Xứ:
Theo dõi hơi thở vào, ra là tập niệm
lực và tập buộc tâm vào một đối tượng, việc theo dõi này tương đối
khá đơn giản. Nghe thân hành (đường hơi thở và cả toàn thân) thì đòi
hỏi sự theo dõi chăm chú hơn, một sự ngưng tâm mạnh hơn. Công việc
này cần phải tập công phu hơn sự theo dõi hơi thở chút đỉnh... Nhưng tập
nhiếp tâm và thân để thân hành an tịnh, để tất cả yếu tố động của
thân (hơi thở động, thân nhiệt nóng...) được nhiếp tịnh thì đòi hỏi
nỗ lực nhiều hơn. Nếu thân và hơi thở đã điều hòa thì hẳn nhiên
thân hành dễ an tịnh. Nói là an tịnh thân hành, nhưng khi tập thì tâm cần
phải được thu nhiếp lại, thân hành mới an tịnh, nếu tâm trạo cử,
dao động, hơi thở sẽ tức, thân dễ nóng lên và như thế thân hành khó
an tịnh. Do đó, ở đề mục cảm giác thân hành và an tịnh thân hành có
ghi thêm ba chữ "vị ấy tập".
Điều quan trọng nhất khi thực tập
thân hành niệm ấy là hành giả cần vận dụng tâm tu tập cho có kết quả
ba điểm trọng yếu này: "Tinh cần, chánh niệm tỉnh giác, và chế
ngự tham ưu ở đời".
Tinh cần sẽ xua đi khỏi tâm thức
những tâm lý mệt mỏi, thụ động, xua tan một phần hôn trầm. Chánh niệm
tỉnh giác là giữ tâm lý không rơi vào tham, không rơi vào sân, mà cũng không
rơi vào vô ký, tâm an trú trong sự thức tỉnh rằng các pháp là Vô ngã,
Vô thường và Khổ đau. Nhờ giác tỉnh Vô ngã mà tâm hành giả ngăn được
các tham ưu đã sanh, khiến chúng ngưng khởi, ngăn được các tham ưu chưa
sanh sẽ không sanh. Nhờ giác tỉnh các pháp hữu vi là Vô thường và đau
khổ mà tâm sanh nhàm chán, ly tham, nhờ đó mà các tham tâm và ưu tâm biến
mất. Đây là tâm lý loại trừ Năm triền cái để đi vào Thiền định, và
đi sâu vào Thiền định. Cái gọi là Thiền định (hay định) là chánh niệm
tỉnh giác ấy, mà không phải là các công phu ngồi hay thở. Chính từ sự
khác biệt cạn, sâu của mức độ giác tỉnh, ly tham mà xác định vị trí
của hành giả là phàm phu, hữu học hay vô học.
Do điểm quan trọng của hành Thiền
là ở chỗ nhiệt tâm, tinh cần, chánh niệm tỉnh giác, và nhiếp phục
tham ưu ở đời, mà không phải là do thế ngồi hay cách thở, nên hành giả
có thể hành Thiền trong khi đi, đứng, nằm, ngồi, ăn cơm, làm việc,
v.v... miễn rằng hành giả giữ được chánh niệm tỉnh giác.
Có những lúc tâm ý chìm xuống,
khó phát khởi tinh tấn, hành giả cần nhìn sâu vào vô thường của thân,
tâm mình và của cuộc sống, nhớ kỹ đời người chỉ sống qua hơi thở,
mong manh như hơi thở thì tự khắc tâm tinh tấn tu tập phát khởi.
Có những lúc tâm lý lại dao động,
tham tâm dấy khởi, dấy lên nhiều mơ ước cho tự thân thì bấy giờ
hành giả cần quán các bất tịnh của tự thân, của tha nhân và của cuộc
sống tham tâm sẽ chìm lãng, ly dục tâm hưng khởi.
Có những lúc tâm thức nặng nề,
những ưu tư về tự thân trở nên dao động, bất an, bấy giờ hành giả
quán ba mươi hai thứ của thân (từ lòng bàn chân lên đến tóc), quán thật
kỹ, nhìn nhiều lần như thế cho đến một lúc hành giả bỗng dưng nhận
ra cái ý nghĩa buồn cười của cái gọi là "tự ngã". Hành giả sẽ
bừng sáng luôn về cái vô nghĩa của những ưu tư cùng với những giấc mộng
xây dựng cho tự ngã hay xây dựng xung quanh tự ngã. Tại đây, hành giả sẽ
cảm thọ một cái gì hân hoan, nhẹ nhàng, thanh thản của tâm lý vừa gỡ
ra khỏi một số vướng mắc.
Bình thường, hành giả cũng có thể
quán ba mươi hai vật bất tịnh của thân ấy, hoặc quán Năm uẩn, hoặc Bốn
đại (hay Sáu đại), những yếu tố giả hợp nên cái gọi là tự ngã.
Hành giả tư duy trên cơ sở Mười hai nhân duyên để thấy rõ cái gọi
là thân và tâm của mình chỉ là giả tướng, chúng thực sự không phải
là mình, không phải là của mình và không phải là tự ngã của mình. Do
thấy như vậy mà rời khỏi các chấp trước vào sự vật, ly tham, ly sân;
nhờ ly tham mà giải thoát đến. Ở vị trí phàm phu thì nhờ ly dục mà
vào sơ Thiền; ở bốn Thiền Sắc giới, nhờ ly tham, ly thủ mà đắc Thánh
quả. Ở vị trí hữu học nhờ ly tham, ly thủ mà lìa vô minh, tận trừ
các lậu hoặc. Hành giả nên nghiêng nặng về quán Nhân duyên, Vô ngã, Vô
thường nơi thân Bốn đại, Năm uẩn, Mười hai xứ mà không nên đi sâu
vào quán bất tịnh, bởi lẽ tâm lý của người quán bất tịnh, do không
quán thiện xảo, có thể rơi vào chán nản, mệt mỏi mà gây ra nguy hiểm.
Một điều hành giả cần nhận thức
thật rõ trước khi đi sâu vào Thiền quán, hay đi sâu vào tu tập Thân niệm
xứ, là lời dạy của Thế Tôn không bao giờ trống rỗng, luôn luôn trong
đó có chuyên chở thực tại. Đừng có vì thấy hình thức trình bày các
đề mục của Tứ niệm xứ đơn giản mà ngờ vực hiệu quả của pháp
môn tu tập này. Hành giả hãy thực tập đúng lời Kinh dạy, thực tập
nhiều lần cho nhuần nhuyễn để chứng nghiệm các cảnh giới Thiền và
giải thoát theo công phu tu tập của mình.
Hành giả đừng bao giờ chờ đợi
những sản phẩm tương tượng của tư duy, những ảo giác của tu tập,
ngoại trừ tâm lý ly tham, ly sân và ly si. Hành giả cũng đừng mong đợi
quá nhiều ở một vị Sư hướng dẫn các phương pháp đối trị các vọng
tưởng, các ảo giác, bởi vì tự thân của pháp môn Tứ niệm xứ đã là
biện pháp đối trị đủ mọi thứ tâm bịnh rồi. Hành giả chỉ giữ quyết
tâm thực hành nghiêm túc Tứ niệm xứ, hay niệm hơi thở vào, hơi thở
ra, thì sớm hay muộn Thiền định và giải thoát quyết định sẽ đến với
hành giả.
Việc thực hành chỉ nghiêm túc khi
nào hành giả có cái nhìn ổn định về tự thân và cuộc đời. Đấy là
chánh kiến thấy rằng ham muốn sắc, thanh, hương, vị, xúc, ham muốn hiện
hữu hay vô hữu là lửa phiền não đốt cháy hạnh phúc an lạc của mình.
Thấy rõ như vậy hành giả mới xả bỏ ham muốn và mới an trú được
trong chánh niệm tỉnh giác. Chừng nào hành giả còn yêu ham muốn ấy, còn
ưa thích nó, thì chừng ấy lậu hoặc còn chảy mạnh trong dòng tâm của
hành giả và ngăn cản mọi thành tựu Thiền định của hành giả. Chỉ
có một ham muốn mà hành giả có thể nắm giữ, đó là ham muốn đốt cháy
hết các ham muốn kể trên.
Phần lớn các rối loạn của Thiền
định như là trạo cử, hôn trầm, các sợ hãi làm dao động tâm lý đều
bắt nguồn từ lòng ham muốn các trần và các cảm thọ. Cho đến khi nào
hành giả thấy lòng ham muốn các trần (và các cảm thọ) buông xuống như
một bức màn rũ xuống, thì cho đến khi ấy hành giả đầy hy vọng chờ
đợi các Thiền tâm. Nhưng cho đến khi nào lòng ham muốn ấy còn được
nuôi dưỡng, thì cho đến khi ấy hành giả dù có nỗ lực thế nào cũng
chỉ chờ đợi Thiền định đến trong vô vọng.
* Về Thọ Niệm Xứ:
Tương tự công phu tu tập Thân niệm
xứ, hành giả theo dõi các cảm thọ lạc, khổ, phi khổ phi lạc khởi lên
trong tự thân, nó khởi lên như thế nào thì ghi nhận như thế ấy và
không để cho tâm lý dao động vì tham khởi, sân khởi hay si khởi. Biết
và phân tích các cảm thọ theo cái nhìn duyên sinh để giác tỉnh đi ra khỏi
các tham ái và chấp thủ.
Cảm thọ khởi lên là do các nhân
duyên sinh (do xúc mà có thọ), và diệt đi cũng do duyên diệt. Nó là không
thật. Nó sinh diệt ở ngoài sự kiểm soát của hành giả nên không thể
xem nó là của hành giả, là chính hành giả hay là tự ngã của hành giả.
Giác tỉnh như vậy thì các tham ái và chấp thủ lắng dịu dần cho đến
tắt hẳn.
* Về Tâm Niệm Xứ:
Mức độ lắng tâm của hành giả
theo dõi các tâm hành thì sâu hơn là mức độ lắng tâm theo dõi các thân
hành. Mức độ lắng lòng để theo dõi các tâm niệm có tham, sân, si hay
không có tham, sân, si lại tế nhị hơn và trầm lắng hơn. Ở đây, trí tuệ
(chánh kiến và chánh tư duy) làm việc nhiều hơn và do đó phát triển mạnh
hơn.
Giác tỉnh trước các diễn biến của
tâm lý bên trong chính là công việc hành xả, loại trừ các chấp thủ trước
về các sự vật ở bên trong cũng như ở bên ngoài. Càng giác tỉnh, không
chấp trước thì tâm càng đi sâu vào định và tuệ. Ngược lại, càng nắm
giữ, hay phản ứng trước các sự kiện sinh diệt của tâm lý thì lại
càng làm cho tâm dao động, rời khỏi định xả, nhất tâm. Ngay cả khi
tâm lý trú trong các Thiền cảnh (định), hành giả cũng chỉ ghi nhận là
tâm thuộc định, và giác tỉnh ngay rằng đây là pháp hữu vi, do duyên tu
tập mà sinh, và rời khỏi các chấp trước vào các Thiền cảnh ấy. Tâm
giác tỉnh này nổi bật sắc thái tuệ giác và giải thoát.
* Về Pháp Niệm Xứ:
Hành giả phân tích, quán sát Năm
triền cái đang sinh diệt ở trong mình: chúng do duyên sinh và do duyên diệt.
Do nhân duyên nào mà các triền cái sinh thì cũng do nhân duyên ấy mà đoạn
diệt các triền cái. Hoặc quán thân Năm uẩn này: Năm uẩn tập khởi,
Năm uẩn đoạn diệt và con đường đưa đến Năm uẩn đoạn diệt. Thấy
Năm uẩn là giả tướng, không phải là của ta, không phải là ta, không phải
là tự ngã của ta để lìa chấp thủ ngã và pháp. Đây là thấy trong Thiền
quán, theo dõi các quá trình tâm và vật lý, mà không phải thấy từ sự
phân tích của tư duy.
Vì Năm uẩn là Vô ngã, nên khi lạc
thọ, khổ thọ đến, liền thấy Vô ngã tính, duyên sinh tính của nó mà
không chấp thủ khổ, lạc, không đắm lạc và không ưu về khổ.
Tương tự, nhìn sâu Sáu xúc xứ
hay Mười hai xứ để thấy rằng Sáu nội xứ và Sáu ngoại xứ không phải
là kiết sử, chúng không trói buộc hành giả, mà chỉ có tham hay sân là
kiết sử. Mắt và sắc không phải là kiết sử, nhưng khi mắt tiếp xúc với
sắc trần thì tham ái khởi lên, tham ái mới là cái trói buộc hành giả
trong khổ đau sinh tử. Hành giả liền giác tỉnh đi ra khỏi tham ái, hoặc
phải tác quán tưởng bất tịnh nơi sắc và mắt, hoặc phải thấy giả tướng
của sắc và mắt để khởi lên giác tỉnh.
Hoặc quán pháp qua Thất giác chi,
xem trong tâm hành giả hiện đang có hay chưa có giác chi nào. Giác chi nào
đã có thì tiếp tục làm cho sung mãn, nhuần nhuyễn; giác chi nào chưa có
thì tu tập, làm cho phát khởi. Căn bản là hành giả vẫn giữ chánh niệm
tỉnh giác. Từ chánh niệm tỉnh giác mà các giác chi kia phát khởi và khi
các giác chi phát khởi, hành giả vẫn trú chánh niệm tỉnh giác. Thành thử,
khi các Thiền tâm (hỷ, khinh an, xả, định) xuất hiện thì tuệ giác có mặt
ở đó như là "linh hồn" của các Thiền tâm, và như là chính
chánh niệm tỉnh giác đó (tuệ giác chính là nội dung của chánh niệm tỉnh
giác).
Hoặc quán pháp qua Tứ Thánh đế,
hành giả thấy rõ Khổ, thấy rõ Khổ tập, Khổ diệt và Khổ diệt đạo,
thấy rõ tánh sinh và diệt của các pháp, trong khi quán như vậy, hành giả
giữ chánh niệm, tỉnh giác.
* * *
Đến đây, hành giả đã thấy rõ,
trên suốt lộ trình tu tập của Đạo đế hay là trên con đường Thiền
định, chánh niệm tỉnh giác là yếu tố tâm thức trọng yếu nhất; nó
có mặt từ bước đi đầu tiên cho đến bước đi cuối cùng.
Về việc tu tập mười sáu đề mục
của niệm hơi thở vào hơi thở ra thì có nhiều cấp độ, từ khởi đầu
cho đến cao điểm.
Cấp độ một:
Hành giả chỉ nói thầm mười sáu
đề mục ấy và theo dõi hơi thở vào ra, thế nào để cho câu nói thầm
nhịp nhàng theo đoạn đường của hơi thở ra vào ấy. Dĩ nhiên hành giả
phải ngồi đúng theo thế kiết-già. Hành giả có thể nói thầm mỗi đề
mục hai, ba hay nhiều hơn ba lần, tùy theo thời gian hành giả ngồi trong mỗi
thời tu tập. Một thời gia sau (có thể là một tuần, hai tuần, một
tháng hay hai tháng) cho đến khi hành giả tập thành thạo như thế và cảm
thấy vừa đủ, không muốn tập tiếp như thế nữa, thì hành giả bước
qua tập cấp độ hai.
Cấp độ hai:
Hành giả không phải nói thầm mười
sáu đề mục nữa, mà theo dõi thân và tâm theo nội dung của mười sáu đề
mục ấy, vừa theo dõi hơi thở vào ra. Trong suốt thời gian ngồi tịnh
này, hành giả luôn luôn cố giữ niệm ở trong mười sáu đề mục, đừng
để niệm chạy lạc ra ngoài, cũng đừng để mình rơi vào hôn trầm, thụy
miên hoặc vô ký. Làm như vậy thì hành giả vừa nỗ lực để loại bỏ
hôn trầm, thụy miên, vừa loại bỏ trạo cử và vừa ngăn không để cho
các dục niệm, sân niệm, vọng niệm khởi lên. Làm như vậy là hành giả
tập lắng dần tâm, kiểm soát tâm và làm chủ tâm. Hành giả tập cho đến
độ tương đối thuần thục, cho đến khi vừa thuần thục, vừa không muốn
đi xa thêm về lối tập này nữa thì hành giả bước qua thực tập cấp
độ ba.
Cấp độ ba:
Ở cấp độ này, hành giả cần đạt
đến độ hơi thở tương đối điều hòa đã, rồi mới đi vào. Hành giả
vẫn tiếp tục theo dõi hơi thở, xem hơi thở như là đối tượng chính để
buộc tâm, vừa theo dõi thân hành, biết rõ đường hơi thở vào ra và cảm
giác của toàn thân, chỉ biết rõ và giữ chánh niệm tỉnh giác. Ở đề
mục thứ tư (an tịnh thân hành), hành giả có thể thực tập dừng lại
ở đó với thời gian lâu hơn thời gian của đề mục số một, hai và ba.
Tại đây hành giả khởi tâm tinh cần, nỗ lực để nhiếp an thân hành. Từ
đề mục số năm (cảm giác hỷ thọ...) cho đến đề mục số mười hai
(với tâm giải thoát...) hành giả cũng hành nhiếp tâm tương tự thế nào
để hướng đến nội dung của các đề mục này. Với đề mục số mười
ba, mười bốn, mười lăm, và mười sáu, trong cấp độ ba này, hành giả
chỉ khởi tưởng mà thôi, chưa vội khởi quán. Nếu hành giả cảm thấy
muốn nhiếp tâm nhiều hơn là theo dõi hơi thở, thì hành giả có thể chỉ
thỉnh thoảng theo dõi hơi thở vào ra để điều hòa hơi thở mà thôi. Điểm
thực hành quan trọng ở đây vẫn là giữ chánh niệm tỉnh giác, nhiệt
tâm tinh cần và nhiếp phục tham ưu.
Tất cả nỗ lực theo dõi hơi thở
và nhiếp tâm ở cả ba cấp độ này (một, hai và ba) đều là nỗ lực tu
tập niệm lực, hành Thiền chỉ.
Cấp độ bốn:
Hành giả tập buộc niệm vào đối
tượng tu sâu hơn, tập khởi niệm (hay làm cho mạnh) nhiệt tâm tinh cần bằng
nhiều cách, chẳng hạn nghĩ đến vô thường của thân, tâm mình và của
mọi hiện tượng của cuộc sống để khởi niệm tinh cần, nhiệt tâm. Sự
nhiệt tâm tu, và sức mạnh tinh cần, tinh cần lực mạnh sẽ giúp hành giả
đối trị hôn trầm và trạo cử (đặc biệt là đối trị hôn trầm) hữu
hiệu hơn. Bấy giờ là lúc hành giả đang tu tập định lực hành Thiền
chỉ.
Cấp độ năm:
Hành giả vẫn tiếp tục hành trì
ở cấp độ bốn, ở khoảng thời gian đầu của thời ngồi Thiền (chừng
ba mươi phút đầu hay bốn mươi phút đầu). Tiếp theo hành giả tập hành
Thiền quán để trực tiếp đối trị Năm triền cái (trạo cử, hôn trầm,
dục, sân và nghi). Phần tác quán như thế nào để đối trị Năm triền cái
này sẽ được trình bày riêng ở phần tiếp theo, trong tiết này.
Cấp độ sáu:
Hành giả thực tập cho nhuần nhuyễn
về khởi quán và trú quán trong nghĩa vô thường tan rã, hoại diệt, và từ
bỏ (đề mục mười ba, mười bốn, mười lăm và mười sáu). Đây là bước
đầu tập Thiền quán. Ở cấp độ sáu này, hành giả tập xen kẻ Thiền
chỉ và Thiền quán, tùy theo tâm lý thích ứng của hành giả từng thời,
ngồi Thiền thích hợp với chỉ hay quán. Hễ tâm nghiêng về trạo cử
thì hành Thiền chỉ, hễ tâm rơi vào thụ động thì hành Thiền quán. Điểm
chủ yếu ở đây không phải là chỉ hay quán, mà là đối trị hữu hiệu
hôn trầm và trạo cử, giữ tâm quân bình ở chánh niệm tỉnh giác.
* * *
Trong sáu cấp độ này, hành giả cần
nhận thức thật rõ các điểm dưới đây:
1. Tuy là phương tiện trình bày
làm sáu cấp độ trên, nhưng trên thực tế không thể đánh giá cấp độ
nào là tu tập vào Thiền chỉ và Thiền quán sâu hơn các cấp độ kia. Vào
sâu Thiền chỉ và Thiền quán là căn cứ vào hiệu quả mà hành giả đạt
được ở tinh cần lực, ở mức độ chánh niệm tỉnh giác và ở mức độ
nhiếp phục các tham ưu ở đời. Sau khi thực hành đến cấp độ sáu,
hành giả có thể trở lại hành từng cấp độ, từ cấp độ một đến
cấp độ năm (hoặc gồm cả cấp độ sáu), nhưng bấy giờ hành giả
hành với kinh nghiệm mới, với tư thế của tâm thức mình với mức độ
chánh niệm tỉnh giác sâu hơn, bền hơn, vững hơn, và dĩ nhiên hành giả
sẽ đạt được kết quả mới, khả quan hơn công phu tu tập trước.
2. Nếu tâm lý, căn cơ của hành giả
ít thích hợp, hay khó thích hợp với Thiền quán, thì hành giả chỉ cần
hành chuyên cấp độ một hoặc cấp độ hai mà thôi. Điểm trọng yếu
ở đây vẫn là ở nhiệt tâm tinh cần, chánh niệm tỉnh giác, và nhiếp
phục tham ưu ở đời.
3. Về các cảm thọ hỷ, cảm thọ
lạc, hân hoan tâm khởi lên không phải do hành giả phải làm gì khác để
cho chúng khởi lên, cũng không phải hành giả phải thở như thế nào và
ngồi tịnh trong thời gian bao lâu đó để chúng khởi lên, cũng không phải
hành ở cấp độ nào đó chúng mới khởi lên, mà chúng khởi lên là khởi
lên từ niệm lực, từ chánh niệm tỉnh giác của hành giả. Quan trọng
là tu tập xây dựng niệm lực này. Hành giả cần biết kiên nhẫn chờ đợi
bắt đầu từ khi nhận ra con đường mình đang thực tập Tứ niệm xứ này
là đúng, tin tưởng vào pháp môn này và có thể quyết tâm tu tập pháp
môn này. Chỉ cần hành nhiều lần cho thật nhuần nhuyễn, và chờ đợi.
4. Hành giả hành Thiền quán, khi chưa
đắc định chỉ có tác dụng là để quân bình tâm lý, để đối trị với
các tâm lý thụ động và để đối trị dục tâm, sân tâm và si tâm ở cấp
độ thô thiển. Nếu hành giả nặng về Quán thì dễ rơi vào trạo cử; nếu
nặng về Chỉ thì dễ rơi vào hôn trầm. Hẳn là trong lúc Thiền quán,
tâm thức của hành giả có thể khởi tín, hỷ, hân hoan và cả lạc, nhưng
thường thì hành giả khó trú lâu trong hỷ và lạc này, nghĩa là vẫn khó
đắc định cho đến khi Năm triền cái thực sự bị đẩy lui hẳn.
Khi hành giả đã đắc định rồi,
tối thiểu là Sơ thiền, thì hành giả có thể hành quán như mình muốn.
Bây giờ, hành giả dễ nhận ra mình phải làm gì khi ngồi Thiền. Thế
Tôn dạy, cho đến Tứ thiền thì việc hành Thiền quán mới thực sự hữu
hiệu trong việc đoạn trừ các lậu hoặc. Ngoài các căn cơ đặc biệt có
trí tuệ bén, các căn cơ khác chỉ nên hành Thiền quán có giới hạn để
đi vào Nhị thiền, Tam thiền và Tứ thiền. Dù hành chỉ hay hành quán thì
cơ sở trú tâm của hành giả vẫn là chánh niệm tỉnh giác.
5. Pháp môn Tứ niệm xứ hay niệm
hơi thở vào, hơi thở ra là pháp môn tu tập trên căn bản niệm lực nên
phù hợp với mọi căn cơ trong mọi thời, hành giả đừng khởi nghi tâm.
Mọi căn cơ đều có thể hành niệm hơi thở vào, hơi thở ra theo mười sáu
đề mục trên, trên căn bản nhiệt tâm tinh cần, chánh niệm tỉnh giác,
và nhiếp phục tham ưu ở đời, và đều có thể đi vào định sớm hay muộn.
6. Hành giả cần biết rõ ràng khi
cảm giác hỷ thọ chưa khởi lên thì cần tu tập nhiếp phục các triền
cái để hỷ thọ khởi lên, nhưng khi các triền cái lắng xuống thì bấy
giờ hỷ tâm trở thành yếu tố động gây nên trạo cử. Hành giả cần
nhiếp tâm chánh niệm tỉnh giác để một mặt ngăn trạo cử, một mặt
nhiếp niệm để đi vào lạc thọ. Khi hỷ thọ chìm lắng để lại lạc
thọ một mình thì bấy giờ lạc thọ trở nên động và đưa tâm vào trạo
cử (ở cấp độ nhẹ hơn), bấy giờ hành giả cần chánh niệm tiếp tục
nhiếp tâm an tịnh và trú xả.
Tâm hân hoan cũng thế, thoạt đầu
thì cần có tâm hân hoan để dễ vào định, nhưng sau khi hân hoan khởi
thì tâm lý ấy trở nên động ở một cấp độ khác, bấy giờ cần phải
nhiếp tâm tịnh chi. Khi trú tâm ở tịnh chỉ lâu thì có thể đi vào tâm
lý của hôn trầm thụ động (ở cấp độ nhẹ khác), bấy giờ hành giả
cần giác tỉnh đi ra, và trú niệm ở xả, giải thoát.
Chúng ta có thể hình dung các điều
vừa trình bày ở điểm nhận thức thứ sáu này bằng ví dụ mà trước
đây đã đề cập:
Thầy giáo (hay cô giáo) dùng tiếng
gõ bảng để làm cho các tiếng ồn ào của học sinh trong lớp lặng im, bởi
vì đó là hiệu lệnh của thầy cô giáo bảo im. Nhưng khi học sinh đã im
lặng, các tiếng nói chuyện ồn ào đã dứt, thì bấy giờ tiếng gõ bảng
lại gây ồn ào nếu thầy giáo, cô giáo tiếp tục gõ bảng. Tác dụng của
tiếng gõ bảng là để làm im lặng các tiếng ồn khác trong lớp. Khi tiếng
ồn đã lặng, thì tiếng gõ bảng cũng cần dừng lại.
Cũng thế, khi làm cho tâm hân hoan
khởi (hay hỷ tâm, lạc tâm khởi) là để loại bỏ các tâm lý thụ động,
hôn trầm, sân hận. Khi các tâm lý thụ động, hôn trầm, sân hận lắng rồi
thì hành giả cần nhiếp niệm ngay vào chánh niệm tỉnh giác để đối trị
tham ái.
Các đề mục từ số năm đến số
mười hai nói lên cho chúng ta ý nghĩa đó. Hành như vậy là hành Thiền một
cách thiện xảo, sẽ có kết quả tốt.
7. Các vọng tâm, động tâm và cả
hôn trầm thụy miên, ngoài những gì đã tạo ra trước khi tu, được sinh
khởi do các nhân duyên, các nhân duyên này là tất cả những gì ở đằng
trước hành giả (cả trong và ngoài thân tâm), chúng hoàn toàn mới mẻ, sẽ
kết hợp với nhau để làm dấy lên những vọng niệm. Do đó hành giả cần
hành Thiền chỉ, Thiền quán và chánh niệm tỉnh giác cho nhuần nhuyễn, cần
hành nhiều lần để chế ngự hữu hiệu các vọng tâm ấy. Thường tỉnh
giác đi ra (hay làm chủ) mọi cảm thọ, mọi dục niệm. Ở đây Giới bổn
sẽ giúp hành giả ngăn chặn được nhiều vọng tâm và phiền não mới chưa
sinh.
Khi mà các tâm lý trói buộc cũ chìm
lặn, khi mà các tâm lý mới không có điều kiện để dấy khởi, thì
hành giả dễ đi sâu vào định. Tại đây hiện rõ địa bàn hoạt động
của hành giả là đương niệm. Đương niệm luôn luôn cần được chế ngự
bởi chánh niệm tỉnh giác, bởi tác ý như thật. Công việc theo dõi và
làm chủ đương niệm là công việc chánh của người tu Thiền định, nó
cần được thực hiện trong mọi oai nghi và trong mọi thời. Nhận rõ điều
này, hành giả sẽ thông suốt được mọi cấp độ và hình thức tu tập.
8. Khi hành giả tu tập đến mức
độ thường giác tỉnh, đoạn trừ hoàn toàn lòng khát ái và chấp thủ
thì mọi vọng niệm không có lý do để tồn tại hay để sinh khởi. Bấy
giờ hành giả đã làm trọn hết những gì cần phải làm, từ đây trở về
sau không có gì để làm nữa, hành giả được gọi là bậc vô học, đã
đoạn tận lậu hoặc, giải thoát xong ngay trong hiện tại.
Đến đây, chúng ta thấy rõ rằng
tuy nói là hành Thiền định nhưng trên thực tế chúng ta kết hợp nhuần
nhuyễn giới, định và tuệ trong công phu tu tập này.
Để công phu tu tập ấy có kết quả
tốt, chúng ta cần hiểu rõ các phương thức trừ Ngũ cái và phương thức
chọn đối tượng tu tập Thiền quán.
Phương Thức Đối Trị Ngũ Cái
Ngũ cái là năm thứ ngăn che tâm
hành giả, cản trở hành giả đi vào Thiền định. Đó là trạo cử, hôn
trầm, dục, sân và nghi.
- Về trạo
cử:
Khi hành giả không thể dừng tâm
vào một đối tượng đã chọn, các niệm tưởng cứ chạy dài từ đối
tượng này qua đối tượng khác, thì đó là trạng thái tâm lý trạo cử.
Mỗi khi rơi vào trạo cử, hành giả cần phải có những việc cần phải
làm để đối trị:
- Cần dừng lại tư duy, đem niệm
về theo dõi hơi thở vào, hơi thở ra cho đến khi tâm lý頡n tịnh vừa đủ.
- Hoặc đem niệm về trú trên một
điểm thích hợp như để niệm ở đơn điền, ở lòng bàn tay v.v... để
niệm trước một hình ảnh Thế Tôn, hình ảnh Tổ sư, v.v... cho đến lúc
lòng lắng tỉnh vừa đủ (hình ảnh hiện ra trong tâm tưởng).
- Hoặc giữ niệm trú ở giác tỉnh,
chánh niệm.
Trạo cử có nhiều mức độ thô,
tế khác nhau. Cách đối trị trạo cử vừa trình bày là để đối trị các
trạo cử thô. Trạo cử tế là các trạo cử của các bậc hữu học, là
lòng lo lắng, dao động vì mong đoạn trừ các kiết sư còn lại. Đối với
các trạo cử tế nhị này, Thế Tôn dạy cần hành Thất giác chi nhiều lượt
cho nhuần nhuyễn để đối trị.
- Về hôn trầm,
thụy miên:
Trạng thái tâm lý mê mê, buồn ngủ,
hay ngủ khi ngồi Thiền gọi là hôn trầm thụy miên. Để đối trị với
hôn trầm thụy miên, hành giả cần áp dụng một số biện pháp:
- Với trạng thái mê ngủ, hành giả
cần ngưng lại sự theo dõi hơi thở hay tư duy, và để tâm trên đỉnh đầu
một chốc cho đến khi tỉnh ngủ hẳn. Đây là biện pháp thông thường đối
với cơn hôn trầm nhẹ.
- Một số biện pháp đối trị hôn
trầm tiếp theo đây là những biện pháp Thế Tôn dạy Tôn giả Mục-kiền-liên,
tám ngày trước khi Tôn giả đắc A-la-hán quả (Tăng Chi IV, tr. 67-68);
1. Khi trú có tưởng và thụy miên
xâm nhập thì chớ có tác ý đến tưởng ấy, chớ có tưởng nhiều đến
tưởng ấy. Do làm như vậy thụy miên được loại bỏ.
2. Nếu làm như vậy mà thụy miên
không được đoạn diệt, thì tư duy quán các pháp như đã được nghe, đã
được học thuộc lòng, thụy miên sẽ tan đi.
3. Nếu làm như vậy mà không có kết
quả, thì đọc tụng pháp như đã được nghe, được học thuộc lòng, thụy
miên sẽ mất.
4. Nếu làm như vậy mà không dứt
được thụy miên, thì hãy kéo hai lỗ tai và lấy tay xoa bóp tay chân, thụy
miên sẽ bị đoạn trừ.
5. Nếu làm như vậy mà không tiêu
diệt được thụy miên, thì hãy rời khỏi tư thế ngồi Thiền, đứng dậy
lấy nước chùi mắt, nhìn về phía chân trời và nhìn lên các vì sao lấp
lánh, thụy miên sẽ tiêu tan.
6. Nếu làm như vậy mà không có kết
quả, thì hãy tác ý tưởng ánh sáng và trú tâm vào tưởng ban ngày. Như vậy,
với tâm mở rộng, không hạn chế, tu tập cho tâm được chói sáng, thụy
miên sẽ được đoạn trừ.
7. Nếu làm như vậy mà không loại
trừ được thụy miên, thì hãy để tâm trên chỗ kinh hành, các tưởng
trước mặt và sau lưng với các căn hướng nội, ý không hướng ngoại,
thụy miên sẽ bị loại trừ.
8. Làm cho đến như vậy mà nếu
không loại trừ được thụy miên, thì hãy nằm theo dáng nằm con sư tử,
nghiêng về phía hông bên phải, hai chân gác lên nhau, chánh niệm tỉnh
giác tác ý tưởng thức dậy, và tưởng thức dậy thật mau, đừng chú
tâm đến các lạc của nằm ngủ, thụy miên sẽ đi đến chỗ bị đoạn
trừ.
- Về dục
triền cái:
Dục triền cái ở đây nhấn mạnh
đến lòng dục về các sắc, thanh, hương, vị và xúc. Để đối trị dục
này, hành giả làm một trong ba (hay cả ba) việc sau đây:
- Thường quán Vô thường và Vô
ngã trong các pháp (Năm uẩn), do giác tỉnh Vô thường mà ly dục. Nếu nhận
ra rằng tự thân mình có thể chết bất cứ lúc nào, vì bất cứ lý do
nào, có thể mắc trọng bệnh vì bất cứ lý do nào, bất cứ lúc nào;
tình đời, tình người mong manh vô thường, v.v... thì lòng dục sẽ dịu vơi
đi hoặc có thể được buông xả.
- Hoặc quán cái nguy hiểm của đối
tượng dục, nó có thể đem lại những khổ đau nhức nhối trong hiện tại
và tương lai; từ Thiền quán này tâm có thể rời xa ngũ dục lạc, có khi
ly tham hoàn toàn.
- Hoặc nghĩ đến cái hạnh phúc
thanh thoát của Thiền định, do muốn đi vào Thiền định mà buông xả dục
ái.
- Về sân
triền cái:
Đấy là sự nóng giận, sân hận
mà hành giả cần làm lắng dịu lại, hay dập tắt đi.
- Để đối trị sân, cần thực
hành từ bi quán; khi tâm từ bi sinh thì sân diệt.
- Hoặc quán những khổ đau trong bệnh
viện và ở ngoài đời, từ tâm cũng xuất hiện; từ tâm này sẽ dập tắt
sân tâm.
- Hoặc quán những nguy hiểm của
sân tâm, những hậu quả do sân tâm đem lại như: sẽ bị đọa vào súc
sanh, sẽ tái sanh với dung sắc xấu xí, sẽ bị các hoạn họa trong hiện
tại, thân tướng hiện tại sẽ xấu đi, v.v... thì sân cũng có thể bị
đoạn trừ, hoặc lắng dịu.
- Hoặc tư duy thế nào để hỷ tâm
sinh, hân hoan sinh thì sân cũng bị diệt (hỷ tâm và từ tâm là tâm lý đối
ngược với sân tâm).
- Về nghi
triền cái:
Nghi tâm thường gây ra các tâm lý
bất ổn, thiếu quyết định, loạn động. Có nhiều vấn đề của nghi mà
hành giả cần ổn định trước khi tu tập Thiền định.
Pháp môn Tứ niệm xứ, đặc biệt
là pháp niệm hơi thở vào, hơi thở ra (với Tứ niệm xứ thì chỉ tránh
quán bất tịnh) là pháp môn hiền thiện mà Thế Tôn đã dạy. Pháp môn
này không dẫn hành giả đến điên loạn. Hành giả tu tập có nghĩa là tập
điều hòa thân, điều hòa hơi thở, điều hòa tâm, giữ chánh niệm tỉnh
giác, và chỉ hành với nỗ lực vừa phải, thì với tất cả công việc
đó xét ra không có tác động tai hại đến hệ thống thần kinh gì cả,
ngược lại còn tạo điều kiện tốt cho toàn bộ thân thể làm việc.
Hành giả cần dứt khoát rằng Thiền định này không bao giờ gây ra tình
trạng điên loạn hay rối loạn.
Có người cho rằng Thiền định là
pháp môn tu tập chỉ dành cho căn cơ đặc biệt, nghĩa là không phải dành
cho mình, rồi không khởi quyết tâm tu tập. Thực ra, Thiền định thích hợp
với mọi căn cơ, không trừ một ai. Có bốn mươi đối tượng tu Thiền dành
cho sáu hạng căn cơ của nhân loại, theo sự trình bày của Nikàya, A-hàm
và Bát-nhã. Điều này nói rõ là Thiền định thích hợp với mọi người.
Có người nghi ngờ Thiền chỉ là
giáo lý của một bộ phái Phật giáo, chưa hẳn nó là giáo lý chính truyền.
Ta phải ổn định nhận thức rằng, Thiền là con đường độc nhất đi
đến giải thoát như Thế Tôn dạy. Đạo đế là con đường tu tập qua
Thiền định như đã được trình bày ở Tứ Thánh đế.
Hoặc giả, có người thấy Tứ niệm
xứ hay niệm hơi thở vào, hơi thở ra giản dị quá mà đâm ra nghi ngờ khả
năng dắt dẫn đến định và giải thoát của pháp môn này. Thực tế, Thiền
định không đòi hỏi ta làm thêm điều gì ngoài nhiệt tâm tinh cần,
chánh niệm tỉnh giác, và nhiếp phục tham ưu ở đời. Qua ba yêu cầu
đó, theo dõi hơi thở vào, hơi thở ra đã là công việc quá nhiều, bởi
Thiền định chỉ đề nghị chúng ta biết buông xả những tạp niệm, ác
niệm, những tâm lý thụ động, tháo động, những thứ có quá nhiều và
quá thừa ở trong thân tâm chúng ta. Thực hiện sự buông xả ấy là thực
hiện Thiền định.
Sau khi được định Sơ thiền, Nhị
thiền, Tam thiền, ta còn tiếp tục từ giả chúng để trú tâm vào Tứ thiền.
Ở Tứ thiền, hành giả còn phải giác tỉnh để tiếp tục buông xa tận
gốc các tham tâm, sân tâm và si tâm nữa. Vấn đề không phải là thêm mà
là bớt việc. Chỉ cần một niệm lực từ sự tu tập giản dị ấy phát
sinh thì các sức mạnh tâm lý khác như tư duy, tinh tấn, hỷ, lạc, định...
sẽ từ niệm lực ấy dấy khởi. Bí mật và khó khăn của việc hành Thiền
định và cũng là bí mật của cuộc đời và của giải thoát, là chính
lòng dục của ta. Nếu nhận thức rõ cái nguy hiểm tối thượng của lòng
dục, ta nhất tâm buông xả nó, thì đối với Thiền định ta sẽ không
còn có bao nhiêu công việc để làm nữa, ta sẽ nhận ra ngay con đường tu
tập giản dị ấy là kỳ diệu và độc nhất.
Sau lòng dục ấy, trở ngại còn lại
sau cùng, chính là mối nghi ngờ trên của ta. Mối nghi ngờ ấy là sản phẩm
của tư duy quá phức tạp và thiếu cơ sở thực tại của ta. Nếu ta quan
niệm phải có những khó khăn trong tu tập Thiền định mới hợp lý, thì
việc buông bỏ lòng dục kia, và sự chế ngự tư duy kia chính là những
khó khăn nhất mà ta đang mong chờ. Đấy là hai thứ gây nên vạn nỗi rối
loạn, khổ đau cho con người. Tại đây ta cần minh định rõ ràng với tự
thân rằng, Thiền định là loại bỏ dục vọng và mọi tà tư duy, mà
không bao giờ với dục vọng và với tà tư duy ấy ta có thể nỗ lực đi
đến Thiền định cả.
Nếu ổn định được tất cả các
nghi ngờ có thể có ở trên, thì ta có thể bắt đầu đi vào tu tập Thiền
với lòng đầy thanh thản, tin tưởng và đầy hân hoan, ta sẽ có nhiều hy
vọng hơn bao giờ cả trong việc mở bung cánh cửa đi vào các cảnh giới
Thiền.
Nếu ta không có nhận thức như vậy
và đi vào tu tập như vậy thì tất cả công phu tu tập Thiền định của
ta chỉ còn lại hơi thở, những ảo giác và những mong chờ vô vọng.
Đối Trị Các A믠Giác A믠Tưởng...
Trong thời gian đầu tu tập Thiền
định, hành giả do công phu hành chưa điều hòa được thân, hơi thở và
tâm, thường phát sinh nhiều hiện tượng ảo giác, ảo tưởng như: cảm
thấy ngứa ngáy, nghe có kiến bò trong mình, trên mặt, tưởng thân mình
đang bị nghiêng (sự thật thì không), cảm giác có vòng ánh sáng, người
lâng nhẹ muốn bay nổi lên, nghe ran ở ngực, thái dương, v.v...
Hành giả đừng băn khoăn đi tìm
biện pháp đối trị từng loại các ảo giác này. Cứ mặc nhiên theo dõi
hơi thở đều đặn, tập cho hơi thở điều hòa và thân ngồi nhuyễn, hai
đầu gối sát xuống sàn tọa, chỉ ghi nhận có các hiện tượng ấy xảy
ra mà không lo, không sợ, không rộn ràng, không hân hoan; nhìn các hiện tượng
khơi lên như nhìn hơi thở vào ra. Nhiếp niệm vào hơi thở và cố đi ra
khỏi các tưởng mà khi trú niệm vào tưởng này thì xảy ra các ảo giác
ấy. Sau một thời gian tu tập ổn định thân, hơi thở và tâm khá hơn thì
các hiện tượng ấy tự tiêu. Hành giả phải ý thức rõ ràng Thiền
không liên hệ gì đến các thứ ảo giác ấy. Khi mà hành giả tập được
khá tốt về ba phương diện nhiệt tâm tính cần, chánh niệm tỉnh giác
và rời khỏi các tham ưu, thì hành giả lập tức chấm dứt được các
ảo giác, ảo tưởng, loạn tưởng ấy.
Có nhiều lúc hành giả nhận thấy
nước miếng ra nhiều ở trong miệng và thường bị ho ướt, trường hợp
này cũng đừng bận tâm, chỉ vì trạo cử bắt đầu phát khởi khi hành
giả đang nhiếp niệm. Hãy tinh cần nhiếp niệm an tịnh trở lại đối
tượng đang theo dõi thì hiện tượng này sẽ lặn đi; tập nhiếp như vậy
nhiều lần thì hiện tượng ho ướt này cũng mất đi.
Các hiện tượng ảo giác trong khi
tu tập xảy đến khác nhau ở từng người, cũng có một số hiện tượng
giống nhau. Tất cả các hiện tượng ấn đều có chung một phương cách
đối trị hoàn toàn hữu hiệu, đó chính là pháp môn niệm hơi thở vào hơi
thở ra ấy. Thế Tôn đã dạy pháp môn này để đối trị với mọi thứ
vọng niệm của hành giả, giúp hành giả đi vào chánh niệm tỉnh giác và
nhiếp phục tham ưu. Đừng nghi ngờ gì nữa! Hành giả hãy tiếp tục nhiệt
tâm tu tập cho nhuần nhuyễn hơn, mặt khác, quên đi các thứ ảo giác,
thì hành giả sẽ đi ra khỏi các hiện tượng ảo giác và các lệch lạc
trong tu tập không khó.
Một cách tổng quát, dù là trong
lúc ngồi Thiền, dù là trong mộng hay dù là trong khi làm việc, lúc thức,
hành giả hãy tu tập nhiếp niệm tỉnh giác trước mọi chuyện xảy đến,
và cả sau khi mọi chuyện xảy đến. Lúc nào tâm lý của ta có mặt các
Thiền chi (tầm, tứ, hỷ, lạc và nhất tâm) thì ta đang ở Sơ thiền; lúc
nào có mặt hỷ, lạc, nhất tâm là ta trú Nhị thiền; lúc nào có mặt lạc
và nhất tâm là trú Tam thiền; lúc nào có mặt xả và nhất tâm là trú Tứ
thiền. Tâm không có mặt các Thiền chi ấy là ta chưa vào định (các Thiền
Vô sắc đều có mặt xa và nhất tâm).
Đối Tượng Tu Tập Thiền Quán
Theo truyền thống tu tập của
Nikàya và A-hàm, có bốn mươi đối tượng tu tập Thiền quán:
- Mười đối tượng liên hệ đến
các vật có tướng trạng như: đất, nước, gió, lửa, vật có màu xanh,
vàng, đỏ, trắng, ánh sáng và không gian.
- Mười đối tượng về xác chết
như: sình, biến sắc, rã, chảy nước, bị cắt đứt đoạn, bị xé nát,
bị bung rời từng mảnh, không còn nguyên hình thể, đẫm máu, bị dòi
rúc rỉa, thi hài chỉ còn xương.
- Mười đối tượng suy niệm như:
Phật, Pháp, Tăng, bố thí, giới, chư Thiên, Niết-bàn, chết, thân, hơi thở
vào ra.
- Bốn Thiền Vô sắc: Không vô
biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, và Phi tưởng phi phi tưởng
xứ.
- Bốn vô lượng tâm: Từ, bi, hỷ,
xả.
- Một đối tượng về tưởng
(sannà): Tưởng về khía cạnh nguy hiểm của bốn loại thức ăn: đoàn thực,
tư niệm thực, thức thực và Thiền duyệt thực.
- Một đối tượng thuộc phân
tích luận giải: Phân tích tứ đại, lục đại.
Bốn mươi đối tượng tu trên đây
dành cho sáu loại căn cơ khác nhau. Mỗi loại căn cơ thích hợp với một
số đối tượng riêng biệt. Sáu căn cơ khác biệt của người tu là:
- Tham ái (ràga carita) - Si (moha
carita) - sân (dosa carita).
- Nặng về đức tin (saddhà carita).
- Nặng về biện giải (buddhi
carita).
- Nặng tính phóng đãng (vitakka
carita).
Mỗi căn tánh có thể kéo dài suốt
một đời người, cũng có thể kéo dài trong một giai đoạn. Do theo dõi,
quán sát tự thân, hành giả biết mình thuộc loại căn tánh nào, và do đó
chọn được đối tượng tu tập hữu hiệu. Nguyên tắc chọn đối tượng
quán tưởng là nguyên tắc đối trị: nếu tánh thuộc sân thì đối tượng
quán là từ; nếu tánh tham sắc thì đối tượng quán là bất tịnh tướng;
nếu tánh thuộc si, tà kiến thì đối tượng quán là quán Mười hai nhân
duyên, v.v...
* Về mười đối tượng tu đầu
(địa, thủy, hỏa, phong...): căn bản của pháp quán mười đối tượng
này là giữ tâm an trú trên đối tượng, không để cho vọng tưởng khởi
động, không để buông lung trí tuệ. Ví dụ như đối với yếu tố đất,
hành giả quán sát những gì trong cơ thể mình thuộc địa đại, và những
gì ở thế giới bên ngoài thuộc địa đại, biết rằng tất cả những gì
thuộc địa đại đều không phải là mình, không phải của mình, không phải
là tự ngã.
Sau khi nhìn như thật yếu tố đất
như thế, hành giả khởi niệm nhàm chán, không chấp thủ nó, không đắm
trước nó.
Tương tự đối với chín đối tượng
kia.
Nhìn các đối tượng trên như thế,
có nghĩa là không bao giờ hành giả nghĩ "tôi là", "tôi đã
là", hay "tôi sẽ là" (địa, thủy, hoả, phong, không, thức,
v.v...). Không nghĩ như thế là đi ra khỏi các vọng tưởng, chấp thủ ngã.
Đấy là những gì mà kinh Kim Cang nói "Ưng vô sở trú nhi sanh kỳ
tâm", phương cách để hàng phục vọng tưởng.
* Về Quán Các Tướng Bất Tịnh:
Việc quán tử thi cần đối mặt với
các xác chết ở nghĩa địa, như thời xưa ở Ấn Độ, thì mới có kết
quả tốt. Ngày nay đối tượng quán ấy không còn phổ biến. Hành giả chỉ
thỉnh thoảng tưởng đến các tử thi để làm lắng xuống lòng tham ái sắc
hầu để đi vào Thiền định. Đừng thường xuyên quán bất tịnh; trường
hợp quán thường xuyên này có thể bị phản tác dụng, tâm lý hành giả
có thể trở nên chán nản, tuyệt vọng làm trở ngại sự phát triển nỗ
lực ly tham.
* Về Các Đối Tượng Suy Niệm
(Ư飠Niệm):
- Phật: Niệm về thập hiệu
Như Lai. Niệm về tự tánh giác ngộ.
- Pháp: Niệm về giáo pháp Như
Lai khéo thuyết giảng đưa người qua biển khổ. Niệm về tự tánh sáng
suốt.
- Tăng: Niệm về phẩm hạnh
của các bậc Thánh hữu học và vô học. Niệm về tự tánh thanh tịnh.
- Giới: Suy nghĩ về phẩm hạnh
của mình, về sự kiểm soát sáu căn.
- Thí: Niệm về tánh khoan hồng,
bao dung của tự thân.
- Thiên: Niệm về những đức
tính đem lại kết quả sinh Thiên.
- Niết-bàn: Suy niệm về sự
chấm dứt khổ đau, về tham, sân, si diệt.
- Chết: Nghĩ đến cái chết,
rằng có thể đến với mình bất cứ lúc nào, để thấy vô thường mà tấn
tu. Nghĩ đến cái chết để lòng bình tĩnh trước cuộc vô thường của
đời sống.
- Thân: Tương tự như niệm về
thân đã được trình bày ở Tứ niệm xứ.
- Niệm hơi thở vào hơi thở ra:
Như đã được trình bày.
- Bốn Thiền Vô sắc: Chỉ
đi vào bốn đối tượng vô sắc khi nào hành giả đã vào Tứ thiền Sắc
giới. Nhờ có tâm nhu nhuyến của Tứ thiền thì việc dẫn tâm vào bốn
Vô sắc mới hiệu quả.
- Tứ vô lượng tâm: Chỉ có
hai kinh ở Nikàya (Trung Bộ Kinh) đề cập đến việc tu Thiền quán Tứ vô
lượng tâm để vượt từ Vô sở hữu xứ định băng qua Phi tưởng phi
phi tưởng, đi thẳng vào Diệt thọ tưởng định. Tương Ưng Bộ Kinh V thì
ghép việc tu tập Tứ vô lượng tâm với việc tu tập Thất giác chi.
- Tưởng: Tưởng đến các
nguy hiểm, nguy hại của bốn loại thức ăn (đoàn thực, tứ niệm thực,
thức thực và Thiền duyệt thực) để ly tham.
- Phân tích luận giải: Phân
tích Năm uẩn, Phân tích Sáu giới, Phân tích Mười hai nhân duyên... để
thấy rõ giả tướng mà buông xả sự chấp trước thế giới sinh diệt...
Đối với các đối tượng tu Thiền
quán kể trên, có người chủ trương rằng chỉ hành Thiền quán sau khi đắc
Tứ thiền Sắc giới; cũng có người cho rằng trước khi vào Tứ thiền,
chỉ nên hành Thiền chỉ. Quan niệm như thế là giới hạn, hẹp hòi và
có phần lệch lạc.
Từ Tứ thiền thì pháp Quán có
tác dụng lớn hơn, nhờ Thiền định ấy mà tuệ giác của hành giả có
thể sinh khởi đủ để đốt cháy các lậu hoặc tham, sân và vô minh. Nhưng
thực ra, trước khi vào Sơ thiền, hành giả vẫn nên hành Thiền quán để
đối trị dục, tham; từ Sơ thiền đến Tam thiền, Thiền quán giúp hành
giả giác tỉnh mạnh để đi ra khỏi Sơ, Nhị và Tam thiền để vào Tứ
thiền. Ở Vô sở hữu xứ, Thiền quán Tứ vô lượng tâm giúp hành giả vượt
qua khỏi Phi tưởng phi phi tưởng, đi thẳng vào Diệt thọ tưởng định.
Điểm khó nhất trong tu tập Thiền
quán là chọn đối tượng tu thích hợp với căn cơ của hành giả, và đề
khởi Thiền quán đúng lúc để vận dụng thiện xảo cùng với Thiền chi.
Những Sự Hỗ Trợ Cho Việc Ngồi Thiền, Hành
Thiền
Để cho việc ngồi Thiền, hành Thiền
có kết quả tốt, hành giả cần lưu ý đến một số công việc phải
làm để hỗ trợ cho việc hành Thiền chỉ và Thiền quán:
- Hành giả nên xếp đặt cuộc sống
thế nào để giữ mình trong một nếp sống điều hòa, điều độ ăn uống,
làm việc, nghỉ ngơi và tu tập. Nếp sống này giữ hành giả trong một
tâm lý quân bình, thuận lợi cho việc tu tập phát triển tâm.
- Các việc lễ sám, các niệm khởi
sám giúp đưa tâm lý hành giả trở về chỗ an tịnh, xóa đi nhiều dao động
của thân và tâm. Khi tâm an tịnh, ít dao động, ít bị ngăn che thì hành
giả dễ dàng đi vào các canh giới Thiền hơn.
- Kham nhẫn là đức tính giúp hành
giả nhiếp niệm về an tịnh dễ dàng, loại bỏ được nhiều sân tâm, đóng
góp hữu ích cho việc tựu thành công phu Thiền định, xả niệm.
- Khiêm tốn là một đức tính
khác để loại bỏ các chấp ngã, kiêu mạn, giúp hành giả dễ đi vào
chánh niệm tỉnh giác, loại bỏ được nhiều yếu tố gây ra trạo cử,
vô minh.
- Làm các công việc vừa kể là đã
xả bỏ một phần lớn các động tâm, ác tâm, sân tâm và hại tâm.
Khi vào ngồi Thiền, hành giả tiếp
tục xả dần các vọng động của thân và tâm. Động lắng có nghĩa là tịnh
sinh, định sinh. Ví như bóng tối tan, có nghĩa là ánh sáng hiện. Không thể
có công phu nào để làm sinh định cả. Tất cả công phu chỉ là việc
làm lắng vọng động, làm chìm vọng động, tan vọng động.
Về thân, hành giả ngồi kiết-già
với lưng thẳng đứng, để niệm trên một đối tượng trước mặt và
giữ thân thế nào ở trong tư thế nghỉ ngơi, các cơ hoàn toàn được buông
thả. Nếu các cơ căng thì thân nhiệt sẽ nóng lên làm mất sự an tịnh của
thân hành, gây động hơi thở và động niệm.
Về tâm, chú chánh niệm tỉnh giác
vốn đã là công phu xả các vọng niệm. Hành giả tiếp tục hành xả
tích cực các sân tâm, dục tâm theo các phương thức đã trình bày ở phần
trước.
Ngoài các thời ngồi Thiền, hành
giả thực hành về tưởng Vô ngã, Vô thường và Khổ đau của các pháp,
đặc biệt là Vô thường. Hành giả hãy đặt niềm tin mãnh liệt vào đối
tượng Thiền quán này. Đây là đối tượng siêu tuyệt nhất của Thiền
quán. Thế Tôn dạy: "Thấy rõ Ba pháp ấn này (có nghĩa là thấy
duyên sinh) là thấy pháp; thấy pháp là thấy Phật".
Các kinh Nikàya, A-hàm và các kinh Đại
thừa (Bắc tạng) thường nhấn mạnh đến Ba pháp ấn này. Điển hình là
kinh Kim Cương. Sau khi chỉ rõ thật nghĩa Bát-nhã của các pháp, kinh đã kết
thúc bằng bài kệ dạy hành giả quán sát cái tướng Vô thường, không thật
của các pháp như là phương pháp hành trì để thể nhập thật lý
Bát-nhã ấy. Kệ dạy:
"Nhứt thiết hữu vi pháp
Như mộng huyễn, bào ảnh,
Như lộ, diệc như điển,
Ưng tác như thị quán".
(Hết thảy các pháp hữu vi, là như
mộng huyễn, đấy là nghĩa không thật. Như bọt nước, như sương mai,
như ánh chớp, đấy là nghĩa Vô thường).
Nhờ thấy rõ tướng Vô thường,
tướng Khổ đau, hành giả ly tham. Từ ly tham giải thoát phát khởi, và tuệ
giải thoát sinh. Chính tuệ giác giải thoát này thấy rõ thật tướng Bát-nhã.
Hành giả không thể đi theo ngỏ đường nào khác. Không thể vào thật tướng
mà không từ bỏ tham ái, chấp thủ và vô minh.
Thấy trực tiếp Vô thường, hay thắng
tri Vô thường không phải là việc dễ dàng. Nếu sinh vào địa ngục, ngạ
quỷ, súc sanh thì vì si mê nặng nề mà không thấy được, và vì quá khổ
đau mà không tu được. Nếu sinh về các cung trời, thì vì quá sung sướng
mà khó hành tinh tấn, nhẫn nhục; vì thọ mạng quá dài và ít bị đổi
thay nên khó thấy Vô thường, Vì thế, khi Thế Tôn nói "Vô thường"
thì chư Thiên nghe mà rung động tâm thức. Kinh Tương Ưng II đã diễn đạt
tuệ giác chứng ngộ Vô thường của Thế Tôn như là một đại thần lực,
đại uy lực của Thế Tôn làm chấn động chư Thiên. Được làm người
chưa hẳn dễ giác ngộ Vô thường, vì tham ái và sân hận thường che khuất
tâm tánh. Cả đến khi nghe nói đến Vô thường, nghe giảng giải Vô thường,
con người chưa dễ gì khởi tín tâm, mà còn sinh lắm nghi ngờ về hiệu
quả đưa đến giải thoát của nó: người ta tưởng tượng ra chân lý, hoặc
là hoàn toàn ở ngoài cuộc đời, hoặc chân lý phải được đạt đến bằng
sự chịu đựng hành khổ của một nghìn thứ khổ đau,v.v...
Được sanh làm người đã vô cùng
khó, mà được gặp Phật pháp lại càng khó khăn hơn. Gặp Pháp mà hiểu
đúng nghĩa Vô ngã, Vô thường, Khổ đau còn khó hơn nữa. Hiểu được
nghĩa ấy của Pháp để phát khởi lòng tin mà tu tập đúng Pháp thì quả
thật vô vàn khó khăn. Đấy là chưa nói đến việc chứng ngộ Pháp. Nếu
hành giả quan niệm đi đến chân lý là khó khăn thì đấy là nghĩa khó khăn
cần được hiểu đúng đắn: khó khăn cần vượt qua, và không phải là
không thể vượt qua.
Tư duy về "Vô thường" ấy
là hành Thiền quán trong đời sống hàng ngày. Đấy là hành Thiền định
trong bốn oai nghi.
Nếu ngoài thời gian ngồi Thiền
mà hành giả không hành Thiền quán Vô thường ấy thì kết quả hành Thiền
sẽ đến muộn.
Ngay sau khi Thế Tôn thị tịch, Tôn
giả Anurudha, người đứng ra lo việc hỏa thiêu Xá-lợi, đã nói lên lời
cảm thán này, đáng cho chúng ta trầm tư:
"Không phải thở ra vào,
Chính tâm trú chánh định,
Không tham ái tịch tịnh
Tu sĩ hướng diệt độ..." (Kinh Đại Niết-bàn).
(Bấy giờ Tôn giả đã đắc Tam
minh).
Con đường hành Thiền định chính
thống là pháp tu Tứ niệm xứ, hay niệm hơi thở vào hơi thở ra. Mỗi bước
đi tu tập là mỗi bước đi ra khỏi một số phiền não, và đi vào các
thoải mái của thân và của tâm. Hành giả đi từng bước đi tin tưởng vào
hạnh phúc, để lại sau lưng những thất vọng, mộng mị và bóng tối của
cuộc đời. Đấy là con đường đi vào chân lý tự do và hạnh phúc, niềm
khát vọng muôn thuở của con người. Lịch sử của nhân loại là lịch sử
đi tìm kiếm chân lý, tự do và hạnh phúc đó. Nhưng nhân loại hầu như vẫn
mãi ở trên con đường, và mơ màng trong sự tìm kiếm của chính mình. Ôn
Như Hầu, nhà thơ của thế kỷ 18 của thi đàn Việt Nam, đã cảm thán:
"Mờ mờ nhân ảnh như người
đi đêm" (Cung Oán Ngâm Khúc).
Còn sự tìm kiếm là còn lý do để
phát triển và tồn tại của các tư tưởng hệ. Chừng nào nhân loại tỉnh
ngộ, quay về với Tứ niệm xứ, chừng đó nhân loại sẽ ngưng ngay vai trò
của triết lý, khép lại cánh cửa tư tưởng hệ. Tại đây, nếu giả định
rằng con người chấp nhận Thiền định là con đường dẫn đến hạnh phúc
và chân lý, thì sẽ liền xóa đi mọi cuộc bút chiến, mọi tranh chấp tư
tưởng, mọi cuộc chiến đẫm máu và mọi sự phung phí quá nhiều tài sản
và nhân mạng, và sẽ mở ra được một phương trời mới đầy sáng sủa,
đầy nhân tính và đầy an lạc cho đời.
Tứ niệm xứ là niềm tin lớn nhất
của thế kỷ hai mươi và của những thế kỷ tiếp theo, trong việc xây dựng
con người và xã hội rất người.
Thiền Chỉ Và Thiền Quán
Trong Thiền định Phật giáo có hai
hình thức mà hành giả vận dụng khi tu tập Thiền gọi là Thiền chỉ và
Thiền quán.
"Thiền chỉ" dịch từ chữ
Samatha (Pàli), và "Thiền quán" dịch từ chữ Vipassana
(Pàli).
Nếu ta đừng suy nghĩ hay tư duy, để
tâm theo dõi hơi thở vào ra, hay để tâm dừng trú trên một đối tượng,
với chánh niệm tỉnh giác, thì đây gọi là Thiền chỉ.
Nếu ta theo dõi một đối tượng và
phân tích hay tư duy trên đối tượng ấy, dù đối tượng ấy là hơi thở
hay Năm triền cái, Năm uẩn, Mười hai giới, Bốn đại, Thất giác chi hay
Tứ Thánh đế, thì đấy là ta đang hành Thiền quán. Đặc biệt là ta cần
để tư duy hoạt động trên cơ sở sự thật Duyên khởi (hay Duyên sinh, hoặc
Khổ, Vô thường - Vô ngã). Nếu ta tư duy mênh mang, không phân tích sự vật
theo Duyên sinh, thì đấy chỉ là tư duy mà không phải là Thiền quán. Thiền
quán luôn luôn bao hàm ý nghĩa của Chánh tư duy.
Có nhiều người chủ trương ròng
tu Thiền chỉ hay ròng tu Thiền quán. Chủ trương như vậy là đi vào hai
thái cực, có tính cố chấp, và không đem lại kết quả thật tốt cho việc
tu tập Thiền định.
Trong Ba mươi bảy phẩm trợ đạo,
Tứ niệm xứ, Tứ Như ý túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất giác chi và Bát
Thánh đạo đều có đủ cả Thiền chỉ và Thiền quán.
Về Tứ niệm xứ: niệm thân, niệm
thọ, niệm tâm và niệm pháp - đặc biệt là về niệm - đều có công phu
Chỉ và Quán. Nói thật đúng về Tứ niệm xứ thì phải nói rằng đây
là pháp môn rất quân bình về Chỉ và Quán.
Theo dõi các đối tượng và trú
tâm trên các đối tượng là thuộc Thiền chỉ. Quán tánh sanh diệt của
thân, thọ, tâm và pháp là thuộc về Thiền quán.
(Ở đây, "Quán" có nghĩa
là "Nhìn", nhìn thấy rõ tướng Duyên khởi của các hiện hữu,
nhìn có tác ý phân tích hiện hữu theo sự thật Duyên khởi, hay là phân
tích các hiện hữu theo sự thật Duyên khởi.)
Về Tứ như ý túc, tâm định là
thuộc Thiền chỉ, tư duy định là thuộc Thiền quán.
Niệm trong Ngũ căn, Ngũ lực và Niệm
trong Thất giác chi chính là Tứ niệm xứ, do đó có đủ Chỉ và Quán.
Chánh tư duy của Bát Thánh đạo là thuộc Thiền quán.
Chánh niệm chính là Tứ niệm xứ,
có đủ Chỉ và Quán.
Thông thường, Chỉ thì thuộc tỉnh,
Quán thuộc động. Pháp tu tập Thiền định của Phật giáo là một quá
trình chuyển đổi tâm lý dựa trên nguyên tắc đối trị. Mỗi khi tâm lý
thụ động, hôn trầm thì hành giả cần vận dụng tầm và tứ tâm sở,
hay vận dụng Thiền quán để đối trị. Khi tâm lý quá năng động hay trạo
cử, thì hành giả vận dụng Thiền chỉ để đối trị. Việc đối trị
giữ ở mức "trung đạo", vừa phải. Nếu Thiền quán quá mức
thì ngay sau khi dẹp hôn trầm xong, hành giả sẽ rơi vào trạo cử; nếu
Thiền chỉ quá mức thì ngay sau khi đối trị trạo cử xong, hành giả sẽ
rơi vào hôn trầm. Biết tỉnh giác tu tập Chỉ và Quán song chiếu, đúng
thời và đúng độ là thiện xảo.
Bắt đầu vào ngồi Thiền, nếu
hành giả thấy tâm lý nghiêng về năng động thì nên hành Thiền chỉ trước,
nếu tâm lý nghiêng về thụ động thì hành Thiền quán trước. Nếu tâm
lý quân bình thì có thể đề khởi Chỉ hoặc Quán. Lúc nào hành giả nghi
ngờ, không thấy rõ tâm mình nặng về động hay tĩnh, thì cứ hành niệm
hơi thở vào, hơi thở ra.
Khi dạy về tu tập Thất giác chi,
Thế Tôn dạy tu Trạch pháp giác chi, Tinh tấn giác chi và Hỷ giác chi khi
tâm lý thụ động; tu Khinh an giác chi, Định giác chi và Xả giác chi khi
tâm lý năng động. Niệm giác chi thì tu tập thích ứng với mọi trạng
thái tâm lý của hành giả.
Khi hành giả vào được Tứ thiền,
bấy giờ việc hành Thiền quán được vận dụng thường xuyên không phải
để đối trị tâm lý thụ động, mà là để trừ tham ái và chấp thủ,
trừ các kiết sử, lậu hoặc.
Khi lậu hoặc đã được hoàn toàn
đoạn trừ, thì việc hành trì Thiền không phải là để đối trị các
tâm lý năng động hay trạo cử, mà là để được hiện tại lạc trú, để
được thân khỏe và mắt khỏe.
Cũng có một số căn tính của
hành giả thích hợp với Thiền chỉ hơn là Thiền quán, một số thích hợp
với Thiền quán hơn Thiền chỉ. Trong trường hợp này, hành giả sẽ nặng
về Chỉ, hoặc Quán. Tuy nhiên, cả hai Chỉ và Quán luôn luôn cần được
phối hợp trong việc tu tập Thiền định để dễ đi sâu vào Thiền định
hơn. Giản dị nhất, hành giả chỉ cần nhớ rằng, Quán đề khởi lúc tỉnh,
và Chỉ đề khởi lúc động. Chỉ có chánh niệm tỉnh giác loại bỏ tham
ưu là cần có mặt thường xuyên.
Thiền Cảnh Và Thiền Tâm
Nỗ lực đầu tiên của người tu
tập Thiền định là chuyển đổi Năm triền cái thành Năm Thiền tâm (tầm,
tứ, hỷ, lạc, và nhất tâm - xả).
Khi trạo cử mất thì lạc sinh, và
ngược lại. Khi dục lặn thì xả và nhất tâm sinh, và ngược lại. Khi sân
dịu thì hỷ sinh và ngược lại. Khi nghi triền cái mất thì Tứ tâm sở
khởi và ngược lại. Tầm, tứ, hỷ, lạc và nhất tâm là năm Thiền tâm
(hay Thiền chi) của Sơ thiền. Khi hành giả nhiếp tầm và tứ chỉ còn lại
hỷ, lạc, và nhất tâm, thì liền vào cảnh giới của Nhị thiền. Khi hỷ
Thiền chi được nhiếp thì hành giả vào Tam thiền với sự có mặt của
lạc, và nhất tâm. Từ bỏ lạc, hành giả chỉ còn lại Thiền xả và nhất
tâm thì bấy giờ hành giả vào cảnh giới Tứ thiền.
Thiền chi xả và nhất tâm tiếp tục
làm cơ sở để tu tập Tứ không định (bốn Thiền của Vô sắc giới). Tại
đây nếu hành giả vận dụng tâm nhuần nhuyễn của Tứ thiền vào tưởng:
"Không gian là vô biên", thì sẽ đắc Không vô biên xứ; nếu tiếp
tục rời khỏi tưởng không gian vô biên mà vào tưởng "Thức là vô
biên" thì hành giả sẽ vào Thức vô biên xứ; nếu tiếp tục rời khỏi
tưởng thức là vô biên và trú niệm vào tưởng "Không có gì cả"
(hay không có gì để có), thì hành giả sẽ đắc Vô sở hữu xứ; nếu rời
Vô sở hữu xứ tưởng, trú niệm vào tưởng "Không có tưởng cũng không
phải không có tưởng" thì hành giả sẽ đắc Phi tưởng phi phi tưởng
xứ.
Nếu tại Phi tương phi phi tưởng xứ,
hành giả đủ tỉnh giác thấy rõ nguy hiểm của cõi Thiền này mà nhiếp
niệm đi ra khỏi Phi tưởng phi phi tưởng, thì hành giả sẽ vào được Diệt
thọ tưởng định. Đây là cảnh giới Thiền định cao nhất. Tại đây,
các lậu hoặc tham, sân, si được hoàn toàn đoạn trừ, và chánh trí giải
thoát phát khởi biết rằng đã giải thoát.
Đặc biệt Nikàya và A-hàm thường
chỉ dạy hành giả tu tập đến Tứ thiền Sắc giới và từ đó tu tập
Thiền quán để đoạn tận lậu hoặc. Thỉnh thoảng trong hai tạng Kinh này
đề cập việc lẫn tránh vào Phi tưởng phi phi tưởng xứ định, bởi vì,
ở cảnh giới Thiền này, ý thức hoạt động yếu ớt nên việc giác tỉnh
và vận dụng Thiền quán khó thực hiện. Tương tự như thế đối với cảnh
giới Vô tưởng của Tứ thiền, hành giả cần thường xuyên cảnh giác để
tránh rơi vào hai cảnh giới Thiền ấy. Tại Vô sở hữu xứ định, Nikàya
và A-hàm dạy hành Tứ vô lượng tâm (từ, bi, hỷ, xả) để băng ngang qua
Phi tưởng phi phi tưởng mà vào Diệt thọ tưởng định.
Khi hành giả chưa tận trừ các lậu
hoặc thì việc trú tâm vào các cảnh Thiền sắc giới và Vô sắc giới của
hành giả biểu hiện khác nhau. Nhưng, sau khi đã đoạn trừ hết lậu hoặc
thì với xả niệm và nhất tâm, dù trú ở cảnh giới Thiền nào, hành giả
đều là thật trú vào Không tánh. (Kinh Tiểu Không, Trung Bộ Kinh III).
Việc vào một cảnh giới Thiền,
an trú trong cảnh giới Thiền ấy và đi ra khỏi cảnh giới Thiền ấy biểu
hiện công phu thiện xảo khác nhau giữa các hành giả. Có người thiện xảo
vào Thiền mà không thiện xảo trú và ra Thiền; có người thiện xảo trú
Thiền mà không thiện xảo vào và ra Thiền; có người thiện xảo cả ba
việc vào, trú và ra. Tất cả đòi hỏi công phu thực tập Thiền định mà
không thể có sẵn ở Giới hay Tuệ. (Theo Tương Ưng III, Tương Ưng Thiền),
Cũng vì có sự kiện thiện xảo về
Thiền định và thiện xảo về trí tuệ đoạn trừ các lậu hoặc khác
nhau, nên hàng đệ tử của Thế Tôn chứng đắc nhiều cấp độ khác
nhau: có những vị có tâm giải thoát mạnh mà nhẹ về tuệ giải thoát;
có những vị mạnh về tuệ giải thoát mà nhẹ về tâm giải thoát.
Với những vị đệ tử tu tập nhuần
nhuyễn về định thì có tâm giải thoát cao và chứng đắc được Thiên
nhĩ thông, Tha tâm thông và Thần túc thông. Đây là kết quả của Thiền
chỉ. Với những vị nương vào các định đã chứng đắc tu tập nhuần
nhuyễn Thiền quán thì sẽ đưa đến chứng đắc Túc mệnh thông, Thiên
nhãn thông và Lậu tận thông. Ba thông này còn được gọi là Ba minh.
Cũng có nhiều vị đệ tử do nhờ
có công phu tu tập Thiền định từ các kiếp trước, nay chỉ tu Thiền quán
mà đoạn trừ hết các lậu hoặc và đắc A-la-hán quả. Quả vị A-la-hán
này gọi là A-la-hán khô (hay Khô đầu A-la-hán). Các vị này
thì nhẹ về định. Tuy nhiên, nếu cần, các vị chỉ cần nhiếp tâm trong
thời gian ngắn thì sẽ dễ dàng chứng đắc các cảnh giới Thiền muốn
chứng đắc.
- * * *
- Con Đường Thiền Định
Mà Thế Tôn Đi Qua
- (Tăng Chi III-A, 411-419).
Trước khi giác ngộ, Thế Tôn nhận
thấy con đường xuất ly là an tịnh, nhưng lại không cảm thấy phấn khởi.
Khi Thế Tôn suy nghĩ đến cùng về sự nguy hiểm của các dục thì sự hứng
khởi của tâm xuất ly khởi sinh, và tâm của Thế Tôn thấy "Đây là
an tịnh". Sau đó Thế Tôn an trú Sơ thiền. Trong khi trú Sơ thiền thì
các tưởng đi đôi với dục vẫn có mặt; bấy giờ các tưởng này trở
thành bệnh hoạn, nó cũng gây ra đau khổ.
Thế Tôn liền ngưng tầm và tứ,
và chứng Nhị thiền; nhưng Thế Tôn lại không thấy hứng khởi và giải
thoát. Sau đó, Thế Tôn suy nghĩ đến cùng về sự nguy hiểm của tầm và
tứ thì Thế Tôn liền thấy hứng khởi, giải thoát, biết "Đây là an
tịnh". Nhưng khi trú Nhị thiền thì các tưởng cùng đi với tầm, tứ
vẫn có mặt; bấy giờ chính các tưởng này là bệnh.
Thế Tôn liền rời khỏi hỷ và chứng
đắc Tam thiền. Thoạt đầu Thế Tôn không cảm thấy hứng khởi và giải
thoát của Tam thiền, Ngài liền suy tư đến cùng sự nguy hiểm của hỷ
thì Thế Tôn liền cảm thấy hứng khởi, an tịnh và giải thoát, biết rằng
"Đây là an tịnh". Sau một thời gian trú Tam thiền, các tưởng đi
đôi với hỷ vẫn xuất hiện; bấy giờ chính các tưởng này là bệnh.
Thế Tôn liền từ bỏ hỷ, từ bỏ
lạc và chứng đắc Thiền thứ tư. Buổi đầu trú ở Thiền này, Thế
Tôn không cảm thấy hứng khởi, an trú hay giải thoát. Sau đó, Thế Tôn tư
duy đến sung mãn về sự nguy hiểm của lạc thì Ngài cảm thấy hứng khởi,
an tịnh và giải thoát của xả niệm trú (Tứ thiền), biết rằng "Đây
là an tịnh". Trong khi an trú Tư thiền, xả lạc, xả khổ, thì các tưởng
đi đôi với xả lạc vẫn hiện hành; bấy giờ đối với Ngài, các tưởng
này là bệnh.
Rồi Thế Tôn đi ra khỏi các Sắc
tưởng, chấm dứt hoàn toàn các Sắc tưởng, không tác ý đến các tưởng
sai biệt. Bấy giờ Thế Tôn chứng đắc "Không vô biên xứ định".
Vào lúc đầu của sự chứng đắc Thiền cảnh này, Thế Tôn không cảm thấy
hứng khởi, và không có giải thoát đối với Thiền này, Thế Tôn liền
suy nghĩ đến nguy hiểm của các Sắc, thấy nguy hiểm này đến cùng độ
thì Thế Tôn liền cảm thấy hứng khởi, an tịnh và giải thoát đối với
Không vô biên xứ, biết rằng "Đây là an tịnh". Sau một thời
gian an trú trong Không vô biên xứ định, các tưởng cùng đi với các Sắc
vẫn còn hiện hữu. Thế Tôn thấy đây là chứng bệnh,như là khổ đau phát
khởi ở người đang sung sướng.
Thế Tôn lại từ bỏ hoàn toàn
Không vô biên xứ định và chứng đắc "Thức vô biên xứ định"
(Thức là vô biên). Vào lúc ban đầu của sự chứng đắc này, Thế Tôn
không cảm thấy hứng khởi, không cảm thấy an tịnh và giải thoát đối
với Thức vô biên xứ. Ngài bèn tư duy đến sự nguy hiểm của Không vô
biên xứ định, thấy được sự sung mãn về sự nguy hiểm này, Ngài liền
thấy hứng khởi, an tịnh và giải thoát đối với Thức vô biên xứ định.
Sau một thời gian trú trong Thức vô biên xứ định, các tưởng về Không
vô biên xứ vẫn hiện hành, đây là chứng bệnh đối với Ngài, như là nỗi
khổ đau khởi lên giữa lúc đang sung sướng.
Thế Tôn lại từ bỏ hoàn toàn Thức
vô biên xứ định và đạt được "Vô sở hữu xứ định" (biết
rằng không có gì cả). Vào lúc ban đầu của sự chứng đắc thiền này,
Ngài không cảm thấy phấn khởi, an tịnh và giải thoát, Ngài bèn tư duy
đến sự nguy hiểm của Thức vô biên xứ định cho đến khi thấy sung mãn
sự nguy hiểm của cảnh giới Thiền đó, Ngài mới cảm thấy hứng khởi,
an tịnh và giải thoát đối với Vô sở hữu xứ. Sau một thời gian an
trú trong Thiền Vô sở hữu xứ này, các tưởng về Thức vô biên xứ vẫn
hiện hành như là hiện hành của khổ đau đối với người đang sung sướng.
Với Ngài, đây là một chứng bệnh cần được loại bỏ.
Thế Tôn lại ra đi, ra đi nữa. Ngài
từ bỏ hoàn toàn, chấm dứt hoàn toàn tưởng Vô sở hữu, và chứng đắc
"Phi tưởng phi phi tưởng xứ định". Dù biết rằng "Đây là
an tịnh", nhưng lúc đầu Ngài vẫn không thấy hứng khởi, không an tịnh
hay không giải thoát đối với Thiền này. Ngài chuyển qua tư duy về sự
nguy hiểm của Vô sở hữu cho đến khi thấy sung mãn sự nguy hiểm này
thì sự cảm nhận hứng khởi, an tịnh và giải thoát đối với "Phi
tưởng phi phi tưởng định" đến với Ngài. Sau một thời gian trú Phi
tưởng phi phi tưởng, các tưởng có mặt của Vô sở hữu lại khởi lên
như là khổ đau khởi lên với người đang sung sướng. Đối với Ngài, đây
là một chứng bệnh cần được đoạn trừ.
Rồi Thế Tôn lại ra đi nữa, từ
bỏ hoàn toàn Phi tưởng phi phi tưởng định và chứng đắc "Diệt thọ
tưởng định". Dù có biết rằng "Đây là an tịnh", trong buổi
đầu chứng đắc Thiền này, Thế Tôn vẫn không có hứng khởi, an trú và
giải thoát đối với Thiền ấy. Ngài bèn suy nghĩ đến nguy hiểm của Phi
tưởng phi phi tưởng xứ định, cho đến khi thấy rõ sự sung mãn của sự
nguy hiểm ấy, Ngài thưởng thức được lợi ích của Diệt thọ tưởng
định với tâm hứng khởi, an trú và giải thoát. Thế Tôn thấy "Đây
là an tịnh, thật an tịnh". Sau một thời gian an trú ở Diệt thọ tưởng
định, với trí tuệ Thế Tôn thấy rằng, tất cả các lậu hoặc đều
đi đến tận diệt.
Sau khi thuận thứ và nghịch thứ
chứng đắc, an trú và xuất khởi nhuần nhuyễn chín cảnh giới Thiền
trên, Thế Tôn mới tuyên bố Ngài đã chứng đắc "Vô Thượng Chánh
Đẳng Chánh Giác".
Trên đây là lộ trình tu chứng
chín cảnh giới định của Thế Tôn. Đấy là lộ trình liên tục ra đi,
liên tục từ bỏ những gì chứng đắc, liên tục giác tỉnh, biết rằng
các Thiền định (từ Sơ thiền đến Phi tưởng phi phi tưởng định) là
các pháp do nhân duyên sinh, là hữu vi, là vô thường, là khổ đau, liên tục
khởi lên ưu tâm tìm vào giải thoát chân thực. Ưu tâm ở đây lại là cần
thiết để không bị dính mắc, đắm trước vào các Thiền cảnh, là sức
mạnh của sự từ bỏ hết thảy các pháp bị tác thành. Ưu tâm ở đây
chính là sự có mặt của tuệ giác, của khả năng thấy sự vật như thật.
Chúng ta có thể rút ra từ kinh nghiệm
của Thế Tôn một bài học vô vàn quý giá rằng: nếu hành giả luôn luôn
giữ chánh niệm tỉnh giác trên ý nghĩa như thật của các pháp hữu vi:
Vô ngã, Vô thường, Khổ đau thì hành giả sẽ vượt nhanh qua được các
cảnh giới Thiền định, dễ dàng xuất khởi khỏi các Thiền cảnh để
hướng về "Diệt thọ tưởng định", nơi mà các lậu hoặc sẽ
hoàn toàn được đoạn trừ, các cảm thọ lạc, khổ và các tưởng đi đến
các cảm thọ lạc, khổ sẽ hoàn toàn được tịnh chỉ. Chúng ta cũng có
thể rút ra một bài học kỳ diệu khác rằng: tinh hoa của việc tu tập
Thiền nằm ở chỗ an trú trong chánh niệm về Khổ, Vô thường, Vô ngã của
các pháp để xả ly tham ái và chấp thủ. Sự giải thoát khổ đau có mặt
ngay trong sự xả ly đó.
Sự từ bỏ đến ngay sau khi thấy
rõ sự nguy hiểm của những gì đang ràng buộc chúng ta, đang trói buộc
tâm thức chúng ta; sự chứng đắc một cảnh giới Thiền định cao hơn lại
đến ngay sau sự từ bỏ cảnh giới đang là; sự an trú cảnh giới chứng
đắc là kết quả của sự thấy sâu sắc cái nguy hiểm của cảnh giới vừa
đi ra. Cứ thế, lộ trình tu tập giải thoát là sự trải qua của những
quá trình thấy rõ khía cạnh vô thường, nguy hiểm và khổ đau của các
pháp, và sự từ bỏ những gì được làm ra, được tác thành. Hành giả
không mệt mỏi, đi những bước đi đầy giác tỉnh, hứng khởi, an tịnh
và giải thoát. Con đường phải đi này là con đường Thiền định chính
thống của Phật giáo. Khác đi là đường đi của ngoại đạo.
Từ bỏ, hay buông xả trong Thiền
định của Phật giáo đồng nghĩa với sự an trú trong chánh niệm tỉnh
giác và đồng nghĩa với an tịnh, giải thoát của Thiền định. Nói khác
đi, buông xả là buông xả tham ái và chấp trước mọi pháp được tác
thành, được làm ra.
Nếu có ai chủ trương giữ tâm
Không (hay Không tâm) khi tu tập Thiền định của đạo Phật, thì phải hiểu
tâm Không chính là chánh niệm tỉnh giác rời xa mọi tham ái, chấp trước
ở đời. Hành giả hành Thiền định Phật giáo thì không có mơ màng
chờ đợi gì ở cách thở hay thế ngồi hoặc bất cứ một kỹ thuật tu
tập nào, ngoại trừ việc hàng phục chính vọng tâm của mình.
Chúng ta phải trở về con đường Thiền định của Thế Tôn. Chân lý và
con đường về chân lý chỉ được sáng ở dưới cội Bồ-đề, mà không
phải là những nơi nào khác. Tại đó, chân lý sẽ rực sáng một lần và
sẽ rực sáng mãi mãi. Đấy là nơi quy hướng của những ai tự nhận mình
là Phật tử, dù đang ở phương hướng nào trên trái đất. Tại đấy, rực
sáng hào quang của Duyên khởi và Tứ niệm xứ, và hào quang đó vẫn còn
tỏa sáng ở mốc điểm phân ranh giữa sanh tử và giải thoát, giữa con
đường chánh và con đường tà.
Hướng về Duyên khởi và Tứ niệm
xứ là thắp sáng giáo lý của Thế Tôn giữa cuộc đời này. Chúng ta hãy
lắng nghe lời dạy sau đây của Thế Tôn về nhơn duyên của diệu pháp
không được tồn tại lâu dài, hay được tồn tại lâu dài:
"Này Bà-la-môn, do Bốn niệm
xứ không được tu tập, không được làm cho sung mãn sau khi Như Lai nhập
diệt, nên diệu pháp không tồn tại lâu dài. Do Bốn niệm xứ được tu tập,
được làm cho sung mãn,này Bà-la-môn, sau khi Như Lai nhập diệt, diệu pháp
được tồn tại lâu dài". (Tương Ưng V, tr. 183).
Cho đến đây, chúng ta có một kết
luận rõ ràng là vấn đề chủ yếu của một giáo hội Tăng-già hưng thịnh
và Phật giáo hưng thịnh hay tồn tại, chính là vấn đề học hỏi Phật
pháp và tu tập Giới, Định, Tuệ của các Phật tử xuất gia cũng như tại
gia. Các vấn đề khác chỉ là thứ yếu. Thời đại của một xã hội Phật
giáo hưng thịnh như dưới thời vua A-dục (Asoka) phải là thời đại mà
quần chúng Phật tử học hỏi nhiều về giáo lý và thực hành giáo lý,
đặc biệt là Thiền định (Tứ niệm xứ).
Cho đến khi nào mà các Thiền viện
được phát triển Thiền định mạnh hơn các lãnh vực gọi là "tín
ngưỡng" của Phật giáo, thì cho đến khi ấy, chúng ta mới có niềm
tin lạc quan rằng Phật giáo hưng thịnh, hay đang đi vào hưng thịnh.
Phải chăng cần chuyển công phu thực
hành Tứ niệm xứ thành buổi công phu sáng hay chiều của hàng xuất gia,
và thành công phu thay thời công phu Tịnh độ của hàng Phật tử tại gia
để diệu pháp tồn tại lâu dài hơn ở đời?
Đó là câu hỏi mà người Phật tử
cần trầm tư ở cuối phần tìm hiểu giáo lý Tứ niệm xứ./.