- Phật Học Khái
Luận
- TT. Thích Chơn Thiện
- Tiết IV
- Nhân Quả
- Nhận Xét Tổng Quát
- Các hiện tượng tâm lý và vật
lý chuyển biến liên tục. Phật giáo gọi sự chuyển biến không dừng nghỉ
đó là "vô thường". Nho giáo gọi là "dịch biến".
Héraclite, một triết gia Hy Lạp thời cổ đại, thì nói lên hình ảnh cuộc
đời trôi chảy "Chúng ta không thể bước xuống hai lần nơi cùng một
dòng nước".
- Hiện tượng giới luôn luôn trôi
chảy theo một quy luật gọi là nhân quả. Ví như mưa là kết quả, mây
là nguyên nhân; mây là kết quả, hơi nước là nguyên nhân, v.v... Vấn đề
tìm hiểu của chúng ta là về sự có mặt của con người. Theo Phật giáo,
con người hiện tại vẫn là kết quả của nguyên nhân quá khứ. Sự tương
quan nhân quả ấy xãy ra thế nào?
- Trong vấn đề Nhân quả của con
người, có một vấn đề khác được đặt ra, đó là Nghiệp (Karma,
Kamma). Nghiệp là hành động tác ý, một hành động không có tác ý
thì chỉ là hành động, mà không gọi là Nghiệp.
- Ở con người, yếu tố tâm lý
và ý chí tác động mạnh trên điều kiện sống, trên sự biểu hiện của
nghiệp quả. Yếu tố này được điều động bởi tà kiến, hay bởi
chánh tri kiến, do đó việc khảo sát nhân quả trở nên phức tạp hơn.
- Nhân và quả trong giáo lý Phật
giáo đều là pháp duyên sinh, chúng vô ngã; chúng luôn luôn cần được nhìn
dưới ánh sáng của Duyên khởi.
- Nói đến nhân quả là nói đến
tương quan; nói đến nghiệp là nói đến thiện và ác. Phật giáo không dừng
lại ở điểm "Không làm các việc ác, chỉ làm các việc lành",
mà còn đi xa hơn nữa đến chỗ "Tâm ý thanh tịnh, giải thoát",
nghĩa là thoát ly sự trói buộc của nhân quả. Thiện, ác chỉ là vấn đề
luân lý của đạo Phật, giải thoát sinh tử khổ đau mới là mục đích của
Phật giáo.
- Tham ái (tanhà) là động cơ chính
của Nghiệp, của nhân quả. Như thế, giới hạn của việc khảo sát
nhân quả là ở vùng có tham ái và tập khí của tham ái. Không có gì
để nói đến nhân quả ở vùng hoàn toàn đoạn diệt tham ái.
- Chủ trương của Phật giáo là
khích lệ con người vận dụng tuệ giác và ý chí của mình để đoạn diệt
Nghiệp, để thoát ly hoàn toàn vòng ràng buộc của nhân quả. Các hành động
thoát ly nghiệp là các hành động vô tham, vô sân, vô si, hay gọi là các hành
động duy tác (Kriyà hay Kiriyà) của bậc Thánh.
Dựa vào một số nhận xét tiêu biểu
trên, ta đi vào khảo sát nhân quả của Phật giáo để tránh rơi vào các
ngộ nhận đáng tiếc của ngoại đạo.
Ý Nghĩa Nhân Quả của Phật Giáo
Nhân là nguyên nhân, quả là kết
quả.
Trong thế giới tương quan của hiện
tượng, mỗi hiện hữu đều có nguyên nhân của nó. Nguyên nhân của sự
có mặt của các hiện hữu gọi là quả.
Tương quan nhân quả của các hiện
hữu trong hiện tượng giới là tương quan vòng tròn (hay xoắn ốc). Mỗi
hiện tượng vừa là kết quả vừa là nguyên nhân. Tương quan nhân quả
này chính là tương quan Duyên sinh đã được trình bày ở giáo lý Duyên khởi.
Mỗi hiện hữu có một nguyên nhân chính (trực tiếp) và các nguyên nhân
phụ (nguyên nhân xa hơn). Nguyên nhân chính gọi là nhân, nguyên nhân phụ gọi
là duyên. Nhân quả, do đó, nói đủ là nhân-duyên-quả. Từ nhân đến
quả còn có các yếu tố duyên ảnh hưởng.
Trong tương quan nhân quả này, một
nhân không thể đưa đến quả, hay một quả không thể chỉ có một nhân;
và nhân, quả thường ở trong một đẳng loại, không có sự lẫn lộn đẳng
loại. Vì dụ, con gà thì chỉ đẻ ra trứng gà, mà không thể có sự kiện
con gà đẻ ra trứng vịt. Hoặc giả, trứng gà chỉ nở ra con gà và không
nở ra con vịt.
Từ nhân đi đến quả có các yếu
tố duyên xen vào, nên quả tuy cùng đẳng loại với nhân nhưng vẫn khác với
nhân. Cũng không nhứt thiết một nhân đòi hỏi đưa đến quả. Tùy thuộc
vào sự can thiệp mạnh hay yếu của các duyên ở trung gian, thuận chiều
hay nghịch chiều phát triển của nhân mà quả có thể hình thành sớm, muộn
hay không thể hình thành. Khi quả hình thành, thì việc đón nhận tùy thuộc
vào điều kiện tâm lý của người đón nhận. Với người không chấp thủ
thì quả dị thục mất hết ảnh hưởng tác động, nó có cũng như không.
Nhân quả chỉ được đề cập khi
có mặt tương quan. Tương quan chỉ có mặt khi có ý niệm phân biệt. Ở nơi
nào có mặt của xả niệm, của niệm vô phân biệt, hay ở thực tại như
thật, thì nhân quả không được đề cập đến, không thuộc phần được
khảo sát ở đây.
Phân Loại Nhân Quả
Thời gian từ nhân đến quả khác
nhau ở các loại nhân khác nhau và ở các người tạo nghiệp khác nhau.
Tùy theo cách nhìn, các nhà nghiên cứu Phật học sắp đặt sự phân loại
khác nhau.
Phân loại
1:
Có loại nhân mà thời gian từ
nhân đến quả rất nhanh, gọi là nhân quả đồng thời. Như ăn thì
liền no, sân vừa khởi thì liền có phiền não. Một cú đấm vừa phát ra
thì liền có một cú đấm trả lại, v.v...
Có loại có một khoảng thời gian
ở giữa nhân và quả; một loại gọi là hiện báo, nghĩa là nghiệp
nhân trong đời này đưa đến quả báo trong đời này; một loại gọi là sinh
báo, tạo nhân ở đời này nhưng đến đời sau mới nhận quả; một
loại gọi là hậu báo, tạo nhân ở đời này nhưng đến các đời
sau mới thọ báo.
Nhân quả ba thời này thường được
xếp vào loại nhân quả xác định (gọi là định nghiệp). Cũng có
một số trường hợp ảnh hưởng trung gian của các duyên rất mạnh đưa
nghiệp quả đến chỗ khác, khó xác định thời gian và chủng loại. Loại
nghiệp quả này gọi là loại bất định nghiệp. Ba thời nhân quả
giúp cho chúng ta cắt nghĩa rõ ràng sự khác biệt giữa người này và người
khác, cắt nghĩa rõ trường hợp ở ác mà được may mắn, ở lành mà chẳng
may...
Tuy nhiên, không phải vì thế mà sự
phân loại trên có thể gói gọn mọi trường hợp nhân quả. Có trường hợp
do yếu tố tâm lý và tuệ giác can thiệp mạnh vào quá trình biểu hiện của
nghiệp quả, nghiệp quả có thể không đến, hoặc đến với đẳng loại
khác hẳn với nghiệp nhân. Như trường hợp làm mười ác nghiệp mà đời
sau được sanh thiên, làm mười thiện nghiệp mà đời sau lại đọa địa
ngục, do có sự can thiệp của "cận tử nghiệp" (lúc chết
có chánh kiến hay tà kiến..) (Kinh Đại Nghiệp Phân Biệt, Trung Bộ III).
Có trường hợp làm việc ác nhỏ
mà kiếp sau có thể rơi vào địa ngục; ngược lại, có người phạm điều
ác lớn hơn mà chỉ chịu quả báo rất nhẹ trong hiện tại, hoặc quả
báo gần như không đáng kể trong hiện tại, còn nói chi đến đời sau (Phẩm
Hạt Muối, Tăng Chi I). Như một nắm muối thả vào một tô nước thì mặn,
nhưng nếu thả vào hồ nước Đa Nhim thì ảnh hưởng được xem như không
có. Cũng thế, việc ác xảy đến với người không tu tập cả thân và
tâm thì quả báo nặng, cùng việc ác ấy, nếu xãy đến với người có
tu tập Giới, Định, Tuệ, có từ tâm vô lượng thì không có hậu quả,
hay hậu quả không đáng kể.
Trong đời sống thực tế, ta cũng
thường nghe người bình dân phát biểu tương tự: "Nhà giàu đứt tay,
ăn mày đổ ruột". Cái đứt tay nhè nhẹ đối với người giàu sang
nghe đau như kẻ ăn mày đổ ruột; cái đứt tay đối với kẻ ăn mày thì
được xem như chẳng có nghĩa gì.
Phân loại
2:
Một hình thức phân loại nhân quả
khác nói lên sự biểu hiện của nghiệp quả ở hai lãnh vực: thế giới
vật lý và cảnh giới tâm lý. Nhân quả biểu hiện ở mặt vật lý gọi
là nhân quả ngoại giới, nhân quả biểu hiện ở mặt tâm lý gọi là
nhân quả nội tâm.
Như trường hợp một người tu hành
chân chính bị vu oan mà phải vào tù. Xác thân của vị ấy bị cầm tù,
còn tâm thì không. Nhờ công phu tu tập, vị ấy có khả năng làm chủ tâm
lý mình và không cảm thấy tù túng, khổ đau.
Một người có thể sinh ra có thân
tướng xấu xí, khó nhìn, nhưng lại có trí thông sáng và có tâm tu tập tốt.
Và ngược lại, có người được sinh ra, được phước báo cả hai mặt
thân và tâm. Có người lại sinh ra với quả báo xấu ở cả hai mặt
thân, tâm...
- Một Số Loại Nhân
có Quả Tương Ư鮧 Nhất Định
- (Theo Kinh Địa Tạng và Nikàya)
Hầu hết các Phật tử đều biết
nếu tạo nghiệp sát sinh, trộm cắp, tà hạnh, phá kiến thì đời sau sẽ
rơi vào địa ngục, nếu phạm tội "ngũ nghịch" (như giết cha, mẹ,
A-la-hán, làm thân Phật chảy máu, và phá hòa hợp Tăng) thì cũng sẽ rơi
vào địa ngục.
- Nếu đa dâm, sẽ thác sinh làm
chim sẻ, bồ câu, uyên ương...
- Nếu đa si (quá si mê), sẽ thác
làm lợn, dê...
- Nếu đa kiêu mạn, phóng dật, sẽ
thác sinh làm hổ, lang...
- Hay trêu ghẹo, đời sau sinh vào
khỉ, vượn...
- Đời này sống keo bẩn, lắm ganh
ghét thì đời sau sinh vào loài chó...
- Giới cấm thủ (giữ tà giới) sẽ
thác sinh vào súc sinh hay địa ngục.
- Tham lam, đoạt tài sản người thì
rơi vào ngạ quỷ.
- Nếu biết tu tập, giữ gìn năm
giới cấm, biết bố thí rộng rãi sẽ được tái sanh làm người.
- Nếu biết tu mười thiện nghiệp,
biết bố thí rộng rãi sẽ được sanh về các cung Trời.
Các trường hợp tạo các nghiệp
nhân kể trên còn tùy thuộc vào "cận tử nghiệp" mới có quyết
định rõ ràng cảnh giới đầu thai.
Những ai là các đệ tử của Thế
Tôn có chánh tri kiến, tu theo Giới, Định, Tuệ, nếu được thác sinh về
các cõi Trời, thì sau khi mệnh chung, ở đấy, sẽ được sanh lên cõi Trời
cao hơn và dẫn về Niết-bàn, hoặc nhập Niết-bàn ngay tại cõi ấy. Những
ai không có chánh tri kiến, không tu theo Giới, Định, Tuệ, khi ở cõi Trời
ấy mệnh chung thì rất dễ rơi vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, rất
ít khi được sanh xuống cõi Trời thấp hơn hay sanh vào loài Người. (Xem
Tăng Chi I, Phẩm Đọa Xứ).
Sự Có Mặt Lẫn Lộn Giữa Các Thiện Nhân, A飠Nhân và Thiện
Quả, A飍 Quả
Đời sống của con người không phải
chỉ thuần khổ, thuần lạc, hay thuần phi khổ phi lạc, mà xen kẽ cả ba
loại cảm thọ trên. Cũng vậy, các hành động của con người thường vẫn
lẫn lộn giữa thiện ác và phi thiện ác, các quả báo vì thế cũng xen kẽ
các nghiệp quả đã tạo tác.
Có người có phước báo giàu sang
mà lại thiếu nhan sắc và trí tuệ. Có người có trí tuệ lại thiếu
nhan sắc và giàu sang... Có người có tài trí thì lại đa truân, có kẻ
ít tài trí lại bình an... Có người đa tham, có kẻ đa sân... Có người lắm
rủi ro, có kẻ nhiều may mắn.. Có giai đoạn của cuộc đời thì khó khăn,
có giai đoạn lại hanh thông... Có người nhiều lợi dưỡng thì lại thiếu
danh tiếng...
Tất cả những gì đang xãy đến với
con người trong hiện tại, không phải hoàn toàn do nghiệp nhân của các đời
quá khứ. Một số hậu quả do nghiệp nhân trong hiện tại gọi là nghiệp
mới.
Thế Tôn dạy: "Mắt, tai, mũi,
lưỡi, thân và ý là nghiệp cũ. Các hành động của thân, khẩu, ý trong
hiện tại là nghiệp mới". (Tương Ưng IV, Phẩm Mới và Cũ, tr. 141)
Ở đây, chúng ta có thể rút ra
được nhiều kết luận cần thiết. Tất cả cái gọi là các nghiệp tạo
ra trong quá khứ đã nằm gọn trong chiếc thân ngũ uẩn này, nghĩa là trong
sáu căn, sáu trần và sáu thức. Tất cả các nghiệp quả cũng nằm gọn
trong sáu căn, sáu trần và sáu thức. Do xúc của căn, trần và thức mà cảm
thọ khổ, lạc, phi khổ phi lạc phát sinh. Con người có thể chọn lựa
các xúc mình muốn. Trường hợp không chọn lựa được, hay chọn lựa không
như ý về đối tượng xúc, thì bấy giờ con người vẫn làm chủ được
tư duy, được tâm lý để ngăn ngừa ái thủ. Làm chủ tâm lý, ngăn ngừa
ái thủ là không chịu hậu quả của quả báo nội tâm, và không tạo
thêm nghiệp nhân khổ mới để dẫn đến quả báo khổ trong tương lai. Đây
là chỗ khởi hành của con người để đi vào hạnh phúc và giải thoát
qua giáo lý nhân quả của Phật giáo.
Khổ đau và hạnh phúc như thế,
theo Phật giáo, không phải là chuyện ngẫu nhiên từ trên trời rơi xuống,
hay từ lòng đất vọt ra; cũng không phải do sự thưởng phạt của bất cứ
một quyền lực nào. Hạnh phúc và khổ đau cũng là do duyên sinh, điều mà
ngay trong hiện tại con người có thể hiểu được và có thể tạo dựng
cho chính mình. Qua nghĩa Duyên sinh đó, nếu con người giác ngộ Vô ngã
tính của chính nhân quả và của chính Năm uẩn, nghĩa là có khổ, lạc,
nhưng không có ai khổ, ai lạc, thì lập tức có thể đi ngay vào giải
thoát, đi ra liền khỏi vòng ràng buộc của các nghiệp quả.
Nghiệp quả của các chúng sinh
khác cũng thế, ở ngay trong thân tướng của chúng sinh và cảnh giới của
chúng sinh thác thai. Điều tối trọng và tối diệu là làm sao giác ngộ rằng
không có mặt một ngã tướng nào trong mọi cảnh giới ấy. Giác ngộ được
điều đó thì cảnh giới sinh tử sẽ sụp đổ sớm hay muộn.
Con người có may mắn và hạnh
phúc lớn nhất là có nhân duyên để biết về Vô ngã pháp, nhưng vẫn còn
một điều bí mật nằm ở điều quyết định rời xa ái, thủ, nằm ở
chính mình. Mọi chuyện không có gì là bí mật, kể cả nhân quả, nếu
con người đoạn tuyệt tham ái. Nhưng cho đến khi nào con người còn nằm
mơ màng trong giấc mơ ái, thủ thì cho đến khi ấy sương mù tiếp tục
buông xuống che mờ khắp thực tại nhân quả này.
Cho đến khi nào chúng ta còn xem mắt,
tai, mũi, lưỡi, thân và ý này là mình, là tự ngã của mình thì nghiệp cũ
còn có mặt ở đó, ở khắp thế giới hiện tượng này. Cho đến khi nào
ta ổn định không xem mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý này là mình thì bấy
giờ nghiệp quả không còn liên hệ gì với mình nữa, mà cả nghiệp mới
cũng không tạo tác thêm.
Tại đây chúng ta có thể kết luận
nghiệp (cũ và mới) từ mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý này khởi lên nếu
có mặt ái, thủ; và nghiệp cũng từ mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý diệt
đi, nếu không có tham ái và chấp thủ.
Chính nghiệp tạo ra nghiệp nhân
và đưa đến nghiệp quả. Khi nghiệp bị đoạn diệt, thì nghiệp nhân và
nghiệp quả cũng đoạn diệt. Bấy giờ vấn đề nhân quả đề cập ở
trên không còn được đặt ra.
Nhân Quả: Vấn Đề Đạo Đức, Luân Lý của
Phật Giáo
Nhân quả, như vừa được trình
bày, thuộc pháp hữu-vi, thuộc phạm trù sinh diệt mà không phải thuộc
pháp vô-vi, giải thoát.
Giáo lý nhân quả dạy con người lánh
xa các nghiệp ác và làm các nghiệp lành. Giáo lý này tự thân ít nhấn mạnh
vào giải thoát, nên mang ý nghĩa đạo đức, luân lý của đạo Phật nhiều
hơn.
Với những người chưa phát tâm
làm các điều thiện tích cực, thì cái khuynh hướng tránh xa khổ đau của
con người khiến họ tránh xa các ác nghiệp, nếu họ tin nhân quả. Điều
này cũng đóng góp vào công cuộc loại trừ các hiện tượng xã hội xấu,
tiêu cực.
Nhân quả nghiêm chỉnh đặt ra vấn
đề trách nhiệm cá nhân của con người, bởi con người là chủ nhân của
nghiệp, vừa là kẻ thừa tự của nghiệp, như Thế Tôn đã dạy.
Không có trách nhiệm cá nhân thì
nhân quả không được thành lập. Cũng vậy, không có trách nhiệm cá nhân
thì luật pháp xã hội cũng không được thành lập, hay nếu được thành
lập thì cũng không có cơ sở để thi hành. Đời không có luật pháp thì
sẽ đại loạn.
Ở lãnh vực giáo dục cũng thế,
con người trưởng thành được định nghĩa như là con người có trách nhiệm
cao đối với tự thân và xã hội.
Giáo lý nhân quả, do đó, một mặt
vừa chỉ rõ con đường sinh tử của con người để tránh, vừa khích lệ
con người hành thiện, mặt khác dạy con người ý thức trách nhiệm, sống
không ỷ lại, không chạy trốn, không đổ lỗi, không cầu xin. Đây là
tinh thần giáo dục rất lành mạnh và tích cực trong việc giáo dục một
con người tốt ở cả hai mặt cá nhân và xã hội.
Trên cơ sở nhân quả này, nghĩa là
trên căn bản thiện, quan niệm đạo đức, luân lý của Phật giáo xuất
hiện. Thiện của Phật giáo được hiểu như là những gì đem lại lợi
ích cho mình và người trong hiện tại và tương lai, theo hướng ly tham, ly
sân, ly si, không ganh ghét, không đố kỵ, không gây tổn hại. Trên căn bản
thiện này, các yêu cầu xã hội như công bằng, nhân đạo, chí công vô tư,
liêm, chánh, kiệm cần được phát triển tốt đẹp. Các hiện tượng tham
nhũng, trộm, cắp, v.v... sẽ bị dập tắt.
Con người chịu trách nhiệm đời
sống tâm thức của mình nên tự nguyện lánh xa mọi điều xấu, chứ không
phải vì sợ hình phạt, chỉ trích, hoặc vì khen thưởng... Cơ sở triết
lý ly tham, ly sân, ly si, ly ác, ly hại ở trên vững chắc hơn cơ sở hình
phạt của pháp luật, bởi vì con người khôn ngoan có thể chạy trốn (hay
qua mặt) pháp luật và dư luật, nhưng người ta không thể chạy trốn lương
tâm và nghiệp quả của mình.
Khía cạnh tích cực của thiện là
ban bố lợi ích và an vui cho tha nhân, tập thể qua ngỏ đường tài thí
và pháp thí. Tại đây, chúng ta có thêm một bài học kinh nghiệm về hạnh
phúc: ngoài hạnh phúc của thủ, còn có hạnh phúc của xả cao hơn. Sống
vì hạnh phúc của tha nhân và tập thể là một lối sống hạnh phúc cao
thượng, rất hạnh phúc cho chính mình.
Nền đạo đức, luân lý Phật
giáo như thế không xây dựng các tín điều, không xây dựng trên các tư
duy thuần lý, cũng không "ra lệnh", mà được xây dựng trên giá
trị tiêu chuẩn của an lạc, hạnh phúc và giải thoát của con người, rất
người. Nếu luân lý này không ra lệnh, không trừng phạt mà trả con người
về chính nó để tự chịu trách nhiệm về hai mặt nhận thức và hành động.
Một nền luân lý như vậy là đầy
màu sắc tích cực, đầy trí tuệ, đầy tính người và rất là nhân bản.
Ý鍊 Nghĩa Tương Đối khi Tìm Hiểu Luật Nhân Quả
Người ta chỉ có thể hiểu rõ
nhân quả khi nào người ta hiểu rõ quả dị thục của nghiệp. Nhưng về
quả dị thục thì Thế Tôn đã dạy là con người không thể tư duy được,
nếu nỗ lực tư duy về nó thì có thể đi đến điên loạn.
Tăng Chi Bộ Kinh I, Phẩm Bốn Pháp
chép:
"Có bốn phạm trù không thể tư
duy: Phật giới, Thế giới tâm, Thiền định của người tu Thiền, và quả
dị thục của nghiệp".
Do đó, chúng ta không thể chờ đợi
bất cứ một khảo luận nào về nhân quả có thể trình bày rõ ràng, hợp
lý, giải quyết được mọi nghi vấn. Thực sự, nhân quả cũng tương đối
như tính tương đối của các pháp hữu vi, chịu biến hoại, vô thường
đoạn diệt. Cho đến khi một người đoạn trừ hết lậu hoặc thì chân
nghĩa của nhân quả sẽ xuất hiện một lần với chân tướng của các
pháp.
Phạm Vi của Nhân Quả
Như đã được đề cập, thế giới
hiện tượng là thế giới của tương quan nên nó là sự biểu hiện của
các quá trình nhân quả. Ở đâu mà có mặt ái, thủ thì ở đấy có mặt
của nghiệp, có mặt của nhân quả. Ở đâu không có ái, thủ thì ở đấy
không có mặt sự tạo tác nghiệp mới, ở đâu không có mặt của nghiệp
hay chỉ còn ảnh hưởng của nghiệp cũ để lại, thì ở đó nhân quả chỉ
còn ảnh hưởng ở ngoại giới, hoặc không còn có mặt nữa.
Ở quả vị Tu-đà-hoàn (Sơ quả Thánh),
nghiệp mới không được tiếp tục tạo tác, chỉ còn lại dục, sân và năm
thượng phần kiết sử. Ở quả vị A-na-hàm, chỉ còn năm thượng phần
kiết sử. Ở quả vị A-la-hán, hết thảy lậu hoặc đã được đoạn tận,
nghiệp hoàn toàn được đoạn tận, có thể chỉ còn vài ảnh hưởng của
nghiệp nhân quá khứ rơi rớt trên tấm thân sắc uẩn.
Tóm lại, nhân quả có vị trí rất
trọng yếu trong việc giải thích các sự khác biệt của con người, rất
trọng yếu trong việc thiết lập nền tảng đạo đức của Phật giáo và
chỉ có mặt trong thế giới của ý niệm, của các ngã tướng.
Tại đây, có một ý nghĩa được
dùng đặc biệt của từ ngữ nhân quả mà chúng ta cần phải xác định.
Khi nói: Nhân giải thoát thì quả
giải thoát, như thế, chữ nhân và quả ở đây chỉ là lối mượn từ để
diễn đạt, chữ nhân ấy không phải là nghiệp nhân, và quả ấy cũng không
phải là nghiệp quả. Nghiệp như đã định nghĩa từ đầu là hành động
có tác ý (thiện, ác, phi thiện - phi ác), còn giải thoát là giải thoát
nghiệp. Các hành động vô ký của một bậc Thánh giải thoát hoàn toàn
các lậu hoặc ngay trên cõi đời này, là các hành động duy tác (kriyà)
mà không phải là nghiệp (kamma, karma).
Thỉnh thoảng, chúng ta gặp một
vài đoạn kinh ghi lời dạy của Thế Tôn rằng: "Vô tham, vô sân, vô
si, vô thủ trước là nhân, mà giải thoát là quả...", lối dùng từ
nhân và quả ở đây cũng thế, chỉ là mượn từ để diễn đạt. Vả lại,
lời dạy trên còn mang một ý nghĩa khác nữa là, cứ tu tập khởi niệm,
trú niệm vô tham, vô sân, vô si, thì dần dần tập khí của nghiệp cũ sẽ
tiêu, và sự giải thoát tâm thức hoàn toàn sẽ thực sự đến. Nói là giải
thoát đến cũng chỉ là cách nói; thực ra, tự thân của tâm vô tham, vô
sân, vô si đã là giải thoát rồi.
Đấy là lãnh vực giới hạn của
nhân quả và nghiệp của Phật giáo trong phần khảo sát nầy.
Nhìn Lại Một Số Lời Phát Biểu về Nhân Quả
PG
Có tài liệu nói về nhân quả của
Phật giáo chép rằng:
"Dục tri tiền thế nhân, kim
sanh thọ giải thị,
Dục tri lai thế quả, kim sanh tác giả thị".
(Muốn biết nhân đời trước,
thì nhìn vào kết quả thọ báo hiện tại;
muốn biết kết quả thọ báo của đời sau, thì nhìn vào những tạo tác
của hiện tại).
Nhận định trên nói lên rất giới
hạn ý nghĩa của nhân quả Phật giáo, người học Phật cần phải thận
trọng, đừng xem lời nói ấy như là một định thức mẫu mực. Nó chỉ
trình bày đúng một phần biểu hiện của nhân quả mà thôi. Bởi vì:
- Nghiệp nhân chưa hẳn đưa đến
quả dị thục.
- Những gì thọ báo trong hiện tại,
nói chính xác là chỉ có thân Năm uẩn, là kết quả của nghiệp cũ trong
quá khứ; các cảm thọ, tri kiến khác còn do nghiệp mới trong hiện tại tạo
ra. Tương tự như thế, đối với một đời sống khác của tương lai. Nhận
định nói trên đã đánh mất cái tác dụng của các nghiệp nhân tức thời
trong hiện tại, những nghiệp nhân này gây ảnh hưởng tối quan trọng, chúng
có thể chấm dứt được cả dòng sinh tử. Chính khi dạy về nhân quả,
Thế Tôn chú trọng nhiều nhất cho việc tạo ra nghiệp mới trong hiện tại,
chú trọng ở điểm đoạn diệt nghiệp hơn là tạo tác nghiệp thiện. Đây
là mục đích giải quyết của đời sống Phạm hạnh.
Một lần ngoại đạo phát biểu:
"Người này làm nghiệp như thế nào, thì người ấy cảm thọ quả
như vậy". Đức Thế Tôn đã bác bỏ quan điểm đó, Ngài dạy: "Người
này làm nghiệp được cảm thọ như thế nào, như thế nào, thì người
ấy cảm thọ quả dị thục như vậy, như vậy". (Tăng Chi I, tr.
284).
Trong tài liệu văn học Việt Nam có
một số quan điểm phê bình văn học cho rằng cụ Nguyễn Du trong Đoạn
Trường Tân Thanh chịu ảnh hưởng sâu sắc của Phật giáo, và lẫn lộn
nhân quả với các thuyết Thiên mệnh và Tiền định.
Trong thời gian Kiều luân lạc, cụ
Nguyễn Du viết:
"Cho hay muôn sự tại trời
Trời kia đã bắt làm người có thân.
Bắt phong trần phải phong trần,
Cho thanh cao mới được phần thanh cao".
Khi Kiều vừa hết kiếp đoạn trường,
thì cụ viết:
"Có trời mà cũng có ta,
Tu là cội phúc, tình là dây oan".
Cho đến đây, Kiều mới bình tĩnh
hơn để nhận định cuộc đời. "Trời" ấy là ý nghĩa của nghiệp
cũ, "ta" ấy là ý nghĩa của nghiệp mới. Chỉ có hai câu thơ sau mới
liên hệ gần với giáo lý nhân quả của Phật giáo.
Phải phát biểu là nhân quả của
Phật giáo hoàn toàn không phải là thuyết Thiên mệnh, Số mệnh hay Tiền
định. Nó không phải là một quyết định thuyết (déterminisme).
Lại có một quan điểm không phải
Phật giáo truyền thống cho rằng, ngoài nghiệp thiện ác, còn có nghiệp
vô ký, kết quả của hành động vô ký (vô ký mà không phải là duy tác).
Quan điểm này không được Nikàya, Đại Tỳ-bà-sa và Duy Thức Pháp Tướng
tông chấp nhận. Như đã định nghĩa từ đầu, nghiệp là hành động có
tác ý. Nhân quả luôn luôn liên hệ đến nghiệp. Chính do vì có nghiệp cảm
mới có động cơ chính vẽ thành tiến trình của nhân quả.
Qua các phần được trình bày ở
trên, chúng ta thấy rằng không thể nào có được một công thức nhứt định
nào về nhân quả. Không thể nào lập được một bảng liệt kê đối chiếu
giữa các loại nhân và quả, bởi vì nhân và quả đều là Duyên sinh, mang
ý nghĩa bất định như các pháp hữu vi khác. Phương trời hiện tại và tương
lai của quả dị thục luôn luôn mở rộng, nó cũng có thể được chấm dứt
với sự chấm dứt sinh tử của một bậc A-la-hán, bậc đã trừ hết lậu
hoặc. Phương trời quả dị thục ấy mở rộng, bởi vì nó tùy thuộc
vào việc vận dụng khả năng giải thoát hầu như vô tận trong hiện tại
của con người.
Đối với bất cứ một pháp hữu
vi nào, chúng ta chỉ có thể hiểu rõ ngọn nguồn của nó khi chúng ta đã
đoạn tận tham ái, chấp thủ hay vô minh./.