- Phật Học Khái
Luận
- TT. Thích Chơn Thiện
- Tiết XII
- Tứ Như Ý Túc
Tứ như ý là dịch âm từ chữ
Iddhi (Pàli). Thế Tôn dạy: "Ở đây vị Tỷ-kheo thực hiện nhiều loại
thần thông, một thân hiện ra nhiều thân, đi trên không..., đi trên nước,
độn thổ..., với tay sờ mặt trăng, mặt trời..., có thể tự thân bay đến
cõi Phạm Thiên, này các Tỷ-kheo, đây gọi là Như ý". (Tương Ưng, V,
Sđd. tr. 289)
- "Con đường nào, đạo lộ nào
đưa đến chứng được Như ý, này các Tỷ-kheo, đây gọi là Như ý
túc". (Sđd. tr. 289)
Tứ như ý túc là dục định, tinh
tấn định, tâm định và tư duy định.
Nếu hành giả nương vào dục mà
được định, được nhất tâm thì gọi là dục định. Nếu hành giả
nương vào tinh tấn được định, được nhất tâm thì gọi là tinh tấn
định. Nếu hành giả nương vào tư duy được định, được nhất tâm,
đây gọi là tâm định, cũng gọi là tư duy định. (Sđd. tr.
209-210)
Tu Tập Tứ Như Y頔úc
"Tu tập Như ý túc cùng với dục
định, tinh cần hành; tu tập Như ý túc cùng với tinh tấn định, tinh cần
hành; tu tập Như ý túc cùng với tâm định, tinh cần hành; tu tập Như ý
túc cùng với tư duy định, tinh cần hành; đấy gọi là tu tập Như ý
túc". (Sđd. tr. 280)
"Ở đây, này các Tỷ-kheo, có
người tu tập Như ý túc cùng với dục định, tinh cần hành, với ý nghĩ:
như vậy, ý muốn ta sẽ không quá thụ động và không quá hăng say, không
co rút phía trong, sẽ không phân tán phía ngoài, an trú với trước sau đồng
đẳng, dưới thế nào thì trên như vậy, trên thế nào thì dưới như vậy,
ban ngày thế nào thì ban đêm như vậy, ban đêm thế nào thì ban ngày như vậy".
(Sđd. tr. 276)
Dục (lòng ham muốn) thụ động là
dục đi đôi với biếng nhác; dục quá hăng say là dục tương ứng với trạo
cử. Dục co rút vào phía trong là dục tương ứng với hôn trầm, thụy
miên; dục phân tán ở phía ngoài là dục tương ưng với năm dục công đức
ở ngoài (ngũ dục lạc).
Tưởng trước, sau đồng đẳng là
tưởng trước sau khéo tác ý, khéo thọ trì, khéo thể nhập với trí tuệ.
Dưới, trên... quán từ lòng bàn
chân đến tóc đều bất tịnh.
Đêm, ngày... cùng hành một hành tướng,
nhân tướng.
Tương tự đối với tinh tấn định,
tâm định và tư duy định.
Về Tứ như ý túc, tu tập như trên
sẽ dẫn đến một số kết quả đặc biệt:
- "... Vị Tỷ-kheo chứng được
nhiều loại thần thông: một thân hiện ra nhiều thân...". (Sđd. tr.
277)
- "Có thể chứng thiên nhĩ thông,
tha tâm thông, thiên nhãn thông, túc mệnh thông và lậu tận thông". (Sđd.
tr. 277)
- "Do tu tập làm sung mãn Tứ như
ý túc này, tu tập nhiều lần, thật lão luyện, thật chắc chắn, thật bền
vững, thiện xảo, thời nếu muốn, người ấy có thể sống đến một kiếp,
hay phần kiếp còn lại". (Sđd. tr. 272)
- "Do tu tập sung mãn Tứ như ý
túc này, Như Lai được gọ là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác". (Sđd.
tr. 271)
- "Có Tứ như ý túc, này các Tỷ-kheo,
được tu tập, được làm cho sung mãn, trở thành những Thánh lãnh đạo,
dẫn dắt những ai thực hiện đi đến chơn chánh đoạn diệt khổ
đau". (Sđd. tr. 269)
Một Số Nhận Định Về Tứ Như Y頔úc
- Điểm đặc biệt thứ nhất của
pháp môn Tứ như ý túc là các bậc Thánh tu tập nhuần nhuyễn pháp môn
này thường trở thành các bậc Thánh lãnh đạo. Có lẽ sau khi đoạn tận
lậu hoặc, nếu điêu luyện Tứ như ý túc thì sẽ thêm nhiều khả năng
giáo hóa, như trường hợp Tôn giả Mục-kiền-liên là vị đệ nhứt chứng
ngộ Tứ như ý túc, Tôn giả trở thành vị đại đệ tử thứ hai của Thế
Tôn. Về mặt thần thông này thì chỉ có Tôn giả Mục-kiền-liên là bằng
Thế Tôn (tương tự, về mặt tuệ giải thoát thì có Tôn giả Xá-lợi-phất
bằng Thế Tôn). Chư Thế Tôn đều thiện xảo, điêu luyện Tứ như ý
túc.
- Điểm đặc biệt thứ hai của Tứ
như ý túc là vị Thánh đệ tử điêu luyện pháp môn này có thể kéo dài
mạng sống đến một tiểu kiếp hay phần tiểu kiếp còn lại. Kinh Đại
Niết-bàn ghi Thế Tôn đã gợi ý ba lần về điểm này để Tôn giả A-nan
thỉnh Phật trú thế nhưng Tôn giả không rõ ý Thế Tôn.
- Điểm đặc biệt thứ ba của Tứ
như ý là trong khi giáo lý Phật giáo chủ trương đoạn trừ lòng dục (nơi
nào có lòng dục thì nơi đó lòng dục cần được đoạn trừ) nhưng ở Tứ
như ý túc thì dục định được tu tập.
Một lần (ở Tương Ứng V), Bà-la-môn
Unnàtha đã thắc mắc vấn đề dục định, sợ rằng không phù hợp với
mục tiêu của Phạm hạnh. Tôn giả A-nan đã giải thích cho Unnàtha rằng:
"Do trước có lòng dục thúc đẩy
Ông đến đây...
Do trước có tinh tấn thúc đẩy Ông đến đây...
Do trước có tâm thúc đẩy Ông đến đây...
Do trước có tư duy thúc đẩy Ông đến đây...
Sau khi đến đây rồi, dục, tinh tấn,
tâm tư duy của Ông được tịnh chỉ, cũng vậy, vị A-la-hán thì lòng dục,
tinh tấn, tâm, tư duy được tịnh chỉ".
Kinh Tạng Nikàya ít đề cập đến
Tứ như ý túc, thường chỉ đề cập đến thần túc thông. Phẩm Tứ
Pháp của Tăng Chi Bộ Kinh không đề cập đến Tứ như ý túc. Chỉ có Tương
Ưng Bộ Kinh V là đề cập rõ đủ Ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Qua phần
đề cập này, Bát Thánh đạo là đạo lộ đưa đến tu tập Tứ như ý
túc. Cho nên phần tu tập của pháp môn này vẫn bao gồm đủ Giới, Định
và Tuệ uẩn. Bốn chi phần Như ý thực sự là dẫn đến định. Tại đấy,
tuệ giác được vận dụng để đoạn trừ lậu hoặc. Khi chánh trí xuất
hiện thì dục định, tinh tấn định, tâm định và tư duy định được
ngưng chỉ, lặn mất. Tứ như ý túc cần được hiểu như là sức mạnh
tu tập giải thoát, là tất cả nỗ lực để chứng ngộ Niết-bàn.
Ở mặt ngôn ngữ, danh từ, dục như
ý túc nghe gần như bất ổn. Trong khi hành giả phải ly dục, ly ái mới
vào Sơ Thiền, thì ở Tứ như ý túc lại do dục mà đưa đến Định. Đi
vào nội dung cụ thể của ly dục và dục định, chúng ta sẽ thấy không
có mâu thuẫn nào giữa hai cách diễn đạt ấy... Ly dục ở đây là rời
khỏi lòng ham muốn ngũ trần (sắc, thanh, hương, vị và xúc), là những
gì ngăn che Thiền định; dục định là lòng mong muốn, là nhiệt tình, là
khát khao loại bỏ mọi thứ ngăn che Thiền định, mọi lòng dục về các
trần để đi vào Thiền định. Dục đưa đến Định là khát khao giải
thoát được soi sáng bởi chánh kiến và chánh tư duy. Cần phải đi vào tu
tập mới nhận rõ điểm này. Thí như tiếng gõ bảng của thầy giáo, cô
giáo, tuy cũng là một loại âm thanh gây động, nhưng nó có tác dụng làm
im hẳn đi những ồn ào của học sinh và để lại sự yên tĩnh của lớp
học. Tiếng gõ bảng khởi lên để dập tắt tiếng ồn của học sinh, khi
tiếng ồn này im bặt, thì tiếng gõ bảng cũng lặn theo.
Tóm lại, Tứ như ý túc cũng là một
ngõ vào Thiền định, nó thuộc Đạo đế, nâng gót của hành giả đi vào
giải thoát và tri kiến giải thoát./.