- Phật Học Khái
Luận
- TT. Thích Chơn Thiện
- Tiết III
- Tứ Thánh Đế
- A. Tổng Quát về Tứ
Thánh Đế
Sau ngày giác ngộ Vô Thượng Bồ-đề,
khi quyết định lên đường giáo hóa, Thế Tôn rời khỏi cột Bồ-đề
ở Ưu-lâu-tần-loa (Uruvelà), đi đến Ba-la-nại (Bàrànasì), chỗ chư Tiên
Đọa Xứ (Isipatana), ở vườn Nai (Migadaya) để khởi đầu thuyết pháp độ
năm người bạn cũ cùng tu khổ hạnh (năm anh em Tôn giả Kiều-trần-như -
Kodanna).
Kinh Đế Phân Biệt Tâm Kinh
(Saccavibhangacittasuttam), Trung Bộ Kinh III; Hán tạng: Kinh Phân Biệt Thánh đế,
Trung A-hàm số 31; kinh Tiểu Bộ, Trưởng Lão Tăng Kệ - Annakodanna; Kinh
Tương Ưng V, Phẩm Chuyển Pháp Luân, trình bày, Thế Tôn thuyết Tứ Thánh
đế và chỉ rõ con đường tu tập Trung đạo là tránh xa sự đắm say các
dục và sự tự hành khổ. Tại đây, Thế Tôn khai thị, tuyên thuyết, thi
thiết, kiến lập, phân biệt và hiển lộ rộng rãi Tứ Thánh đế mà Thế
Tôn gọi là "Vô thượng Pháp luân" (Đế Phân Biệt Tâm Kinh).
Thực ra, trong thời pháp này, ngoài
năm anh em Tôn giả Kiều-trần-như, còn có hàng vạn chư Thiên đến nghe pháp.
Khi Thế Tôn vừa tuyên bố:
"... Cho đến khi nào, này các Tỷ-kheo, trong Bốn Thánh đế này, tri kiến
như thật đã được khéo thanh tịnh ở nơi Ta, cho đến khi ấy, này các Tỷ-kheo,
trong thế giới này, với Thiên giới, Ma giới, Phạm Thiên giới, với quần
chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người, Ta mới chứng tri:
"Đã chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Giác..." (Tương Ưng Bộ
Kinh V, tr. 426), thì chư Thiên ở cõi đất, Tứ Thiên Vương Thiên cho đến
Phạm Thiên giới đều cao tiếng nói: "Nay Vô thượng Pháp luân này...
được Thế Tôn chuyển vận, một Pháp luân chưa từng được ai chuyển vận..."
(Sđd, tr. 427).
"Trong khoảnh khắc này, mười
nghìn thế giới chuyển động, rung động, chuyển động mạnh. Và một
hào quang vô lượng, quảng đại phát chiếu ra ở đời, vượt quá uy lực
chư Thiên". (Sđd, tr. 427).
Ngay sau thời pháp này, Thế Tôn
tuyên bố: "Đã giác hiểu là Kodanna". Từ đó Tôn giả Kiều-trần-như
mới có tên là A-nhã Kiều-trần-như (Anna Kodanna: Kiều Trần Như đã giác
hiểu), và cùng với hàng vạn Phạm Thiên chứng đắc Tu-đà-hoàn quả (Trưởng
Lão Tăng Kệ, Anna-Kodanna).
Thế nào là Tứ Thánh đế?
"Đó là Khổ Thánh đế, Khổ tập Thánh đế, Khổ diệt Thánh đế và
Khổ diệt đạo Thánh đế."
Thế nào là Khổ Thánh đế?
"Sanh là Khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, sầu bi là khổ,
ưu não là khổ, oán gặp nhau là khổ, ái biệt ly là khổ, cầu không được
là khổ. Tóm lại Năm thủ uẩn là khổ". (Tương Ưng V, phẩm Chuyển
Pháp Luân, tr.424).
Các phần kiết tập ở Trung Bộ
Kinh thì định nghĩa Khổ đế khác hơn: "Sanh là khổ, già là khổ, bệnh
là khổ, chết là khổ, sầu, bi, khổ, ưu, não là khổ, cầu không được
là khổ. Tóm lại Năm thủ uẩn là khổ". (Trung Bộ III, Đế Phân Biệt
Tâm Kinh, tr. 470).
Thế nào là Khổ tập Thánh đế?
"Chính là ái này đưa đến tái sanh, câu hữu với hỷ và tham, tìm cầu
hỷ lạc chỗ này chỗ kia; tức là dục ái, hữu ái, vô hữu ái". (Tương
Ưng V, tr. 425; Trung Bộ III, Đế Phân Biệt Tâm Kinh).
Thế nào là Khổ diệt Thánh đế?
"Chính sự đoạn diệt, ly tham không có dư tàn khát ái ấy, sự quăng
bỏ, từ bỏ, giải thoát, không có chấp trước". (Sđd, tr. 425).
Thế nào là Khổ Diệt Đạo Thánh
đế? "Chính là Bát Thánh đạo; tức là chánh kiến... chánh định".
(Ibid., tr. 425).
Thế Tôn đã cắt nghĩa tri kiến
như thật về Bốn Thánh đế là rõ biết Bốn Thánh đế qua "ba chuyển"
và mười hai hành tướng. Ba chuyển là: thấy rõ nỗi khổ đau và chỉ cho
chúng sinh thấy rõ khổ đau gọi là "thị chuyển"; hiểu rõ nỗi
khổ đau và khích lệ chúng sinh nhận rõ nỗi khổ đau gọi là "khuyến
chuyển"; đã chứng ngộ, dứt trừ hết khổ đau gọi là "chứng
chuyển". Mỗi Đế có ba chuyển, nên bốn Đế gồm thành mười hai hành
tướng. Thế Tôn dạy:
"Đây là Thánh đế về khổ, này
các Tỷ-kheo, đối với các pháp từ trước Ta chưa từng được nghe, nhãn
sanh, trí sanh, tuệ sanh, minh sanh, quang sanh (thị chuyển). Đây là Thánh đế
về khổ cần phải liễu tri (khuyến chuyển)... nhãn sanh, trí sanh... Đây
là Thánh đế về khổ đã được liễu tri (chứng chuyển) đối với các
pháp từ trước Ta chưa từng nghe, nhãn sanh ... minh sanh, quang sanh.". (Sđd,
tr. 425).
(Tương tự đối với Tập, Diệt,
Đạo Thánh đế).
Bát Thánh đạo ấy là con đường
tu tập Thiền Định. Thế Tôn đã xác quyết con đường đưa đến giải
thoát không phải do hành khổ, nhưng nhờ đến hỷ và lạc:
"Vô thỉ, này các Tỷ-kheo, là
sự luân hồi, khởi điểm không thể nêu rõ, đối với những đau khổ do
bị thương đâm, kiếm chém, búa chặt, dầu vậy chăng nữa, này các Tỷ-kheo,
Ta cũng không tuyên bố rằng nhờ khổ và ưu, Bốn Thánh đế được chứng
ngộ. Nhưng này, các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố nhờ lạc và hỷ, Bốn Thánh đế
được chứng ngộ". (Sđd, tr. 446).
Tôn giả Xá-lợi-phất (Sàriputta)
đã đưa ra nhận xét sau đây về Tứ Thánh đế:
"Chư Hiền giả, ví như tất cả
dấu chân của mọi loài động vật đều bị nhiếp trong dấu chân voi, vì
dấu chân này là lớn nhất trong tất cả dấu chân về mặt to lớn. Cũng
vậy, chư Hiền giả, tất cả các thiện pháp đều tập trung trong Tứ Thánh
đế". (Trung Bộ I, Kinh Tượng Tích Dụ Đại Kinh, tr.184).
Như thế, Tứ Thánh đế là giáo
lý rất là nền tảng, tối trọng yếu của Phật giáo, của con đường
đi vào giải thoát. Trên con đường này, hành giả đi những bước an tịnh,
hỷ và lạc, cho đến đích giải thoát, đạt tri kiến giải thoát, mà
không phải đi với vẻ đầy ưu tư, sầu muộn hay bi quan, yếm thế.
Thế Tôn đã thuyết giảng Tứ đế;
giáo lý này các đệ tử của Ngài cũng đã thuyết giảng trong suốt bốn
mươi lăm năm Ngài tại thế. Cho đến nay, giáo lý này vẫn là giáo lý nền
tảng của các bộ phái Phật giáo, không một nhà nghiên cứu Phật học
nào có thể phủ nhận điều này.
Nói là Bốn Thánh đế, nhưng thực
ra chỉ có một sự thật muôn thuở: ai thấy rõ Khổ đế thì người ấy
đồng thời cũng thấy suốt Tứ đế đúng như Thế Tôn dạy:
"Này các Tỷ-kheo, ai thấy Khổ,
người ấy cũng thấy Khổ tập, cũng thấy Khổ diệt, cũng thấy Con đường
đưa đến Khổ diệt. Ai thấy Khổ tập, người ấy cũng thấy Khổ, cũng
thấy Khổ diệt, cũng thấy Con đường đưa đến Khổ diệt. Ai thấy Khổ
diệt, người ấy cũng thấy Khổ, cũng thấy Khổ tập, cũng thấy Con đường
đưa đến Khổ diệt. Ai thấy Con đường đưa đến Khổ diệt, người ấy
cũng thấy Khổ, cũng thấy Khổ tập, cũng thấy Khổ diệt". (Sđd, tr.
441).
Thấy rõ Tứ Thánh đế có nghĩa là
có Chánh tri kiến về Tứ Thánh đế. Đây là dấu hiệu báo trước sự giác
ngộ như thật Tứ Thánh đế. Thế Tôn dạy: "Này các Tỷ-kheo, đây
là điềm đi trước, đây là tướng báo trước mặt trời sắp mọc, tức
là rạng đông. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, đây là điềm đi trước, đây
là tướng báo trước sự giác ngộ như thật Tứ Thánh đế, tức là
Chánh tri kiến". (Tương Ưng V, tr. 447).
Người học Phật phải ý thức
sâu xa rằng Tứ Thánh đế chẳng những là giáo lý nền tảng, mà là nền
tảng nhất của các giáo lý nền tảng về mặt tôn chỉ. Một hôm, tại rừng
Simsapà ở Kosambi, Thế Tôn đã xác nhận những gì mà Ngài biết rõ thì
nhiều như lá trong toàn khu rừng Simsapa, nhưng những gì mà Ngài giảng dạy
cho các đệ tử chỉ ít như nắm lá ở trên tay. Vì sao? - Thế Tôn dạy rằng,
những gì mà Ngài không đem ra giảng dạy là những gì không phải là căn
bản cho phạm hạnh, không đưa đến ly tham, giải thoát, giác ngộ, Niết-bàn.
Những gì mà Thế Tôn giảng dạy là Khổ, Khổ tập, Khổ diệt, Khổ diệt
đạo, bởi vì chúng liên hệ mật thiết đến mục đích giải thoát, là căn
bản Phạm hạnh, đưa đến ly tham, giác ngộ, Niết-bàn (Sđd, tr.442).
Vì tầm mức quan trọng đó, Thế
Tôn đã dạy giáo lý ấy nhiều lần, nhiều cách và bằng nhiều vận dụng
giảng dạy. Ngài dạy: "Ở đây có vô lượng chữ, vô lượng câu, vô
lượng thi thiết". (Sđd, tr. 433).
Chúng ta lần lượt khảo sát từng
phần của Tứ Thánh đế nầy.
- B. Nội Dung Tứ Thánh
Đế
- * Khổ Thánh Đế (Dukkha):
Theo lời Thế Tôn dạy, cuộc
đời, và cả cuộc sanh tử, chỉ là khổ đau.
Trước hết, qua lời tuyên bố ấy,
một số người vội kết án đạo Phật là tiêu cực, bi quan, yếm thế.
Chúng ta cần xác định rõ ở đây
rằng, đấy là lời tuyên bố sau khi cảm nghiệm và quan sát kỹ cuộc đời.
Nó là một nhận thức. Chỉ có thể phê phán nhận thức ấy đúng hay sai,
phù hợp hay không phù hợp với cuộc sống, mà không phải là lạc quan hay
bi quan, tích cực hay tiêu cực. Lạc quan hay bi quan là thuộc thái độ sống,
mà không phải là nhận thức, đánh giá cuộc sống.
Ngay cả với thái độ sống của
Phật giáo thì cũng không liên hệ gì đến thái độ lạc quan hay bi quan, yếm
thế; Phật giáo chủ trương Trung đạo ở cả hai lãnh vực nhận thức và
hành động (sống). Chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn,
chánh niệm và chánh định là thái độ sống biểu hiện bên ngoài, thuộc
Trung đạo mà không nghiêng về lạc quan hay bi quan.
Đi vào ý nghĩa của Tứ Thánh đế
chúng ta càng thấy rõ thái độ sống như thật, an tịnh, hỷ lạc và đầy
giải thoát của Phật giáo.
Gọi là Thánh đế bởi vì giáo lý
này đưa đến thoát khổ. Gọi là Thánh đế bởi vì nó là như thật:
"Bốn Thánh đế, này các Tỷ-kheo, là như thật, không ly như thật, không
khác như thật. Do vậy được gọi là Thánh đế". (Tương Ưng V, tr.
439).
Giờ ta thử tìm xem có sự khác biệt
nào giữa nghĩa khổ đau của người đời và nghĩa khổ đau (Dukkha) của
Phật giáo trước khi đi vào phân tích từng sự kiện khổ đau. Nhìn thấy
cảnh vô thường, khổ đau ở đời. Ôn Như Hầu thi cảm:
"Trẻ tạo hóa đành hanh quá
ngán,
Chết đuối người trên cạn mà chơi.
Lò cừ nung nấu sự đời,
Bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương".
(Cung Oán Ngâm Khúc, câu số 73 - 76)
hoặc:
"Tiêu điều nhân sự đã
xong,
Sơn hà cũng huyễn, côn trùng cũng hư". (Ibid., câu 95 - 96).
hay:
"Phong trần đến cả sơn khê,
Tang thương đến cả hoa kia cỏ này.
Tuồng huyễn hóa khéo bày ra đấy,
Kiếp phù sinh trông thấy mà đau". (Ibid., câu 99 - 102).
Các thi hào lớn ở nước ta thường
có những xúc cảm tương tự, cụ Nguyễn Du đã than:
"Trăm năm trong cõi người
ta,
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.
Trải qua một cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng". (Kim Vân Kiều, câu 1-4).
Người đời có thấy vô thường là
khổ, nhưng lại chấp chặt vào lòng khát ái và tự ngã nên càng đau thì
lại càng than thở, càng than thở thì lại càng nghe đau. Thi ca vẫn để lại
lời than thở khổ đau ấy.
Phật giáo thì cũng nhìn thấy đời
vô thường và khổ đau. Do vô thường mà khổ đau. Do mọi chuyện đời vì
duyên sinh mà vô thường; do lòng khát ái muốn nắm giữ cuộc sống không
ngừng trôi chảy mà khổ đau. Khổ đau thật sự, theo Phật giáo, không phải
vì vô thường, mà là vì lòng tham ái, và chấp thủ. Tôi sinh ra chỉ cao một
thước rưỡi, cái khổ đau của tôi không phải vì một thước rưỡi chiều
cao, mà là vì tôi muốn mình cao hơn một thước rưỡi, vì tôi nghĩ rằng
một thước rưỡi là xấu, v.v..
Cái nghĩa khổ khác biệt giữa Phật
giáo và người đời là ở chỗ, trong khi Phật giáo thấy khổ đau là do
tham ái, thì người đời sống nắm chắc tham ái. Chính những điểm nhìn
khác biệt này biến sự thật của khổ đau thành sự thật của bậc
Thánh gọi là Khổ Thánh đế.
Sanh là khổ: Kinh chép: "Mỗi
loài chúng sanh, trong từng giới loại, sự xuất sản, xuất sanh, xuất
thành, tái sanh, sự xuất hiện các uẩn, sự hoạch đắc các căn gọi là
sinh" (Trung Bộ III, Đế Phân Biệt Tâm Kinh, tr. 471).
Với con người, sanh có nghĩa là từ
khi kết thai cho đến khi ra đời. Sự kết thai khởi đầu đã khó khăn. Phải
có đủ ba điều kiện thai nhi mới hình thành: nghiệp thức (hay hương ấm),
tinh khí của cha mẹ kết hợp, và phải trong thời bà mẹ có thể thụ
thai (Kinh Đại Duyên, Trường Bộ Kinh III). Chỉ có một cặp tinh trùng được
sinh thành giữa hơn mấy triệu tinh trùng khác, là một khó khăn nữa. Chín
tháng trong lòng mẹ, với thai nhi là cả một thời gian dài dằng dặc và
hãi hùng. Khi thì nghe nóng như ở giữa sa mạc nắng cháy, khi thì nghe như
ở giữa tuyết lạnh. Thức ăn và những biến chuyển vật lý, tâm lý của
người mẹ đều có ảnh hưởng mạnh vào thai nhi. Thai nhi được hình
thành và được tăng trưởng ngoài sự mong muốn của mình. Đây là một
điều khổ lớn.
Nghiệp thức vào thai là kết quả
của ái, thủ, vô minh, khiến quên đi hết những gì của đời sống quá
khứ của mình. Đây là một điều khổ lớn khác.
Lúc sinh, do vì sức ép và do sự
thay đổi môi trường sống, trẻ phải chịu nhiều đau đớn - Bà mẹ thì
hẳn là đau đớn rồi.
Ra đời chưa phải là hết hiện tượng
sinh, còn tiếp tục sinh qua từng sát-na. Tất cả đều diễn biến ngoài sự
can thiệp của mình, là một điều khổ tâm. Thi nhân thường chỉ cái khổ
đau của trẻ biểu lộ qua tiếng khóc chào đời, đồng thời tiếng khóc
này cũng báo hiệu sắp đi vào một quá trình sinh tử mới:
- "Thoạt sinh ra thì đà khóc
chóe,
Trần có vui sao chẳng cười khì.. ?" (Nguyễn Công Trứ).
- "Thảo nào khi mới chôn nhau,
Đã mang tiếng khóc ban đầu mà ra". (Ôn Như Hầu)
Già là khổ: "Sự niên
lão, sự hư hoại, trạng thái rụng răng, tóc bạc, da nhăn, tuổi thọ rút
ngắn, các căn biến loạn. Như vậy gọi là già". (Đế Phân Biệt Tâm
Kinh, Trung Bộ III, tr. 471).
Dù đang tuổi trẻ, ta cũng dễ nhận
ra già là khổ.
Ở đời không ai muốn già, chờ
già, nhứt là nữ giới. Phép lịch sự phương Tây, không có hỏi tuổi
tác của các phụ nữ, bởi làm thế là nhắc nhở họ trở về với hình
ảnh buồn bã: đang già hay sắp già.
Ai mà lại không muốn mình trẻ
mãi? Càng mong trẻ thì lại càng thấy khổ vì già. Già là một sự kiện
kinh hoàng! Nó như là hoàng hôn đến, vùi dập bao nhiêu mộng ước của cuộc
đời.
Nếu trẻ là đẹp, đầy nhựa sống,
dễ chịu bao nhiêu, thì già lại ngược hẳn bấy nhiêu, với lưng còm, má
hóp, da nhăn, mắt mờ, tai điếc..
Già thì cướp đi sức khỏe, cướp
đi các thứ hạnh phúc của ăn, mặc, ngủ... Nó như con ngựa bất kham trên
đường đời ngàn dặm. Ở già có mặt của nhiều đau nhức, mỏi mệt;
ở đó, cái chết đang đến gần, cái mà mọi người đều sợ hãi.
Bệnh là khổ: Hầu như mọi
người đều có dịp nếm cái vị đắng của bệnh tật, nhưng thấy sâu
xa cái khổ đau của bệnh thì hiếm.
Chỉ một chiếc răng đau đủ làm
cho ta khở sở lắm. Một cơn gió độc làm xây xẩm mặt mày, quay mòng đầu
óc, dù chỉ trong một chốc, cũng đủ cho mình thấy mình không làm chủ
cái thân, tâm này; mạng sống mỏng manh này có thể tắt ngấm bất cứ
lúc nào cùng với sự nghiệp mà mình khổ công xây dựng ở đời. Đấy là
khổ.
Có biết bao nhiêu chứng bệnh khác
có thể xâm nhập cơ thể, gan, ruột, bao tử, mắt, mũi, v.v... bất cứ lúc
nào. Cái ám ảnh của cơn vô thường bệnh hoạn cũng đủ làm cho mình khổ,
huống nữa. Cứ một lần thử đi vào bệnh viện, thì thấy rõ hiện tượng
của bệnh là khổ. Con người hầu như hoàn toàn bị động trước thân bệnh.
Đây mới thực sự là niềm đau lớn nhất.
Chết là khổ: Mọi người đều
phải chết sớm hay muộn. Sự cảm nhận khổ đau về cái chết thì có vẻ
hơi mơ hồ, bởi vì khi có cảm nhận thì chưa chết, mà khi chết thì
không còn cảm nhận.
Tuy nhiên, cái điều mà ta có thể
nhận ra là khi có những người thân chết, cái cảnh xúc động, bi
thương, tang tóc, khổ đau hiện rõ. Khổ cho người sống nhiều hơn. Người
sắp chết mà biết mình sắp chết thì tâm lý cũng đầy dao động bi
thương tương tự. Ở đây, ta thấy rõ, chết thì không mấy khổ đau,
nhưng ám ảnh của cái chết gây nên nhiều khổ đau hơn.
Càng muốn sống, ham sống thì lại
càng sợ chết. Càng sợ chết thì tâm lý sống càng dao động và có thể
dấy khởi nhiều bất thiện tâm, nếu không biết tu tập giải thoát.
Có người không biết những gì sẽ
xãy đến với mình sau cái chết mà đâm lo; có người cho rằng chết là hết
rồi sinh phóng dật, sống vội vàng làm mất hết cái an tịnh và thanh thản
của cuộc sống. Chết, do đó, trở thành cơn ác mộng của cuộc sống.
Chết có thể xãy đến bất cứ lúc
nào vì bất cứ lý do nào, do đó mà ma lực ám ảnh của nó lại càng lớn
hơn, kéo dài suốt cuộc sống. Đây là khổ đau về cái chết.
Sầu, bi, khổ, ưu, não là khổ.
Tự thân của chúng rõ là khổ đau. Do gặp tai nạn, do cảm thọ khổ đau
mà sinh sầu, nên sầu là khổ. Do gặp tai nạn, do cảm thọ khổ đau mà
sinh bi thương, bi ai, than khóc, than vản; nên bi là khổ. Sự không thoải
mái về thân, đau đớn về thân là khổ; nên khổ này cũng là nghĩa khổ
đau (Dukkha). Sự không thoải mái về tâm, sự đau khổ do tâm cảm nhận gọi
là ưu, ưu chính là khổ. Do gặp tai nạn, do đau khổ mà lòng sinh bi não,
ưu não, thất vọng, tuyệt vọng, gọi là não, do đó não là khổ.
Mong muốn không được là khổ
(cầu bất đắc khổ). Sống thì ai cũng bị sanh, bị già, bị bệnh, bị
chết, nhưng lòng thì luôn luôn mong cầu đừng bị khổ vì sinh, đừng bị
bệnh, đừng bị già hoặc bị già chi phối, đừng bị chết hay bị chết
chi phối. Mong ước những điều mà không thể thành tựu được như vậy
là thất vọng, là tuyệt vọng, là ưu sầu, do đó là khổ đau (Dukkha). Sống
còn có những mong ước thiết tha khác nữa: mong có bạn tốt, có lợi, có
danh, có tình đẹp, v.v... Không phải mong ước nào cũng được thực hiện.
Mong ước không trở thành hiện thực là khổ. Cái lý do của nỗi khổ
này là do con người không thực sự làm chủ chính mình, không thực sự
làm chủ hoàn cảnh sống của tha nhân.
Sống thì mong ước, mà mong ước
thì khổ. Đấy là cuộc đời!
Triển khai ý nghĩa "cầu bất
đắc khổ" này, ta có "ái biệt ly khổ" và "oán tắng hội
khổ". Yêu thương mà các đối tượng thương yêu bị xa lìa, ly biệt
thì sẽ thất vọng, sầu não và khổ đau (Dukkha). Những gì mình ghét bỏ
mà phải ôm ấp nắm giữ, gặp mặt thì sẽ làm cho mình thất vọng, khó
chịu, phiền bực, đấy là khổ (Dukkha).
Năm uẩn là khổ : như đã
được trình bày ở tiết Năm uẩn. Năm uẩn vốn do duyên sinh nên Vô ngã,
Vô thường. Vì vô thường, biến hoại đi ngược với tham ái và chấp thủ
của con người nên khổ đau.
Vì vô minh, con người chấp thân sắc
uẩn, chấp cảm thọ, tư duy hiểu biết... là của mình, là mình, là tự
ngã của mình nên khi chúng thay đổi, biến dịch, thì nghe mình khổ đau.
Sống với thân Năm uẩn như sống
trong ngôi nhà đang bốc cháy. Lửa tham, lửa sân và lửa si đang bốc cháy
ở mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý; đang bốc cháy ở sắc, thanh, hương,
vị, xúc và pháp. Nghĩa là cả thế giới đang bốc cháy. Chấp nhận Năm uẩn
là mình thì sẽ bị thiêu cháy. Đấy, Năm uẩn là khổ.
Cái khổ đau kể⠴rên có thể biểu
hiện qua ba hành tướng:
- Khổ khổ (Dukkha-dukkha): chỉ các
khổ đau thông thường, thuộc khổ thọ.
- Hoại khổ (Viparigàma-dukkha): do
thay đổi đột ngột mà khổ, thuộc lạc thọ.
- Hành khổ (Sankhàra-dukkha): các
pháp do duyên sinh nên vô thường biến hoại trong từng sát na mà khổ đau,
thuộc xả thọ.
(Theo Visuddhimagga - Thanh Tịnh Đạo),
Hội Pàli Texts ở London ấn hành, tr. 499).
* Khổ Tập Thánh Đế (Samudaya)
Tất cả những khổ đau kể trên
cùng có nguyên nhân chính của chúng là khát ái (Tanhà).
Như đã được lập luận nhiều lần
ở các phần giáo lý trước, Năm uẩn là khổ đau vì Năm uẩn vô thường,
chính vô thường là ý nghĩa của khổ đau. Ở đâu có vô thường, ở đó
có khổ đau. Từ địa ngục cho đến cõi trời Phi-tưởng-phi-phi-tưởng đều
Vô thường, nên đều nằm trong nghĩa khổ đau (Dukkha).
Thực ra, không phải vì Vô thường
mà khổ đau. Do con người ái sắc, ái thọ, ái tưởng, ái hành, ái thức,
nên khi sắc thọ, tưởng, hành, thức ấy bị biến đổi, bị hoại diệt
mới sinh sầu, bi, khổ, ưu, não. Khổ đau chính là lòng khát ái. Ngay cả
khi có mặt cái gọi là khổ đau, nếu con người không chấp thủ sắc là
mình..., thọ là mình..., tưởng là mình..., hành là mình.., thức là mình,
là của mình, là tự ngã của mình, thì sẽ không thấy có ai khổ đau hay
mình khổ đau. Chỉ khi có chấp thủ thì mới thực sự có khổ đau, có
mình khổ đau. Ở đâu có dục, tham thì ở đấy có chấp thủ, như Thế Tôn
đã dạy. Nói tóm lại, gốc của khổ đau chính là lòng tham ái.
Tham ái không có nghĩa là nguyên
nhân đầu tiên của khổ đau, theo Phật giáo (hay theo giáo lý Duyên khởi).
Bởi vì, chính ái do thọ sinh, thọ thì do xúc sinh, v.v... thức do hành sinh,
hành do vô minh sinh,... ái chỉ là cái nhân chính yếu và gần nhất của khổ
đau.
Nói nhân của khổ đau là lòng
khát ái, có nghĩa: nhân của khổ đau là do mười hai nhân duyên tập khởi,
hay Năm thủ uẩn tập khởi. Bởi vì theo Duyên khởi, ái có mặt là mười
hai nhân duyên có mặt, Ái có mặt (hay hành uẩn có mặt, vì ái thuộc
hành uẩn) là Năm thủ uẩn có mặt. Khổ tập Thánh đế, do đó, có thể
nói rằng chính là mười hai nhân duyên hay chính là Năm thủ uẩn.
Nói khát ái là đã hàm ngụ nói đến
sân và si. Sân chỉ là bề trái của khát ái (tham), và si là bản chất của
khát ái. Khi nói ta thích tướng đẹp, có nghĩa là ghét bỏ tướng xấu,
ghét bỏ hay chối bỏ tưởng xấu là biểu hiện của sân. Thế nên, ta cũng
có thể phát biểu rằng Khổ tập Thánh đế là tham, sân và si.
Khuynh hướng của con người là
tìm kiếm và ham thích những sắc đẹp, những âm thanh hay, những mùi hương
thơm lạ, những vị ngon ngọt, những xúc chạm êm ái, và tránh xa các sắc,
thanh, hương, vị và xúc trái ngược. Lòng tham ái càng mạnh thì chấp thủ
ngã càng mạnh, là nghiệp lực dẫn tới tái sinh đời này, đời khác. Những
ham muốn năm trần ấy được gọi là dục ái. Khi năm trần thay đổi thì
khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não. Ngay cả khi con người đang nắm giữ năm
trần đẹp ấy, thì nỗi lo sợ năm trần biến đổi, biến hoại cũng đủ
gây khổ đau ray rứt lòng người. Cả những khi lòng tham ái có mặt đang
chờ đợi đón nhận năm trần đẹp, cũng gây nên những dao động, xao xuyến,
âu lo. Đấy là tất cả ý nghĩa: dục ái là Khổ tập Thánh đế. Bị vướng
mắc vào dục ái, con người khó thoát ly khỏi Dục giới.
Một khuynh hướng sống khác mà người
ta gọi là bản năng sinh tồn, là khát vọng được tồn tại. Do muốn tồn
tại nên lòng sinh sợ hãi sự chuyển sinh hay hoại diệt. Cứ nhìn một người
đang phấn đấu với cái chết thì sẽ thấy bản năng sinh tồn hay khát vọng
sinh tồn ấy. Đây gọi là hữu ái.
Hữu ái có ba đối tượng: Dục giới,
Sắc giới, và Vô sắc giới. Có người mong mình có mặt trong Dục giới,
tái sinh trong Dục giới. Có người lại nhàm chán các dục lạc từ sắc,
thanh, hương, vị và xúc; họ nhàm chán cõi Dục và khởi lên mong ước về
cõi Sắc. Có người lại nhàm chán cả đến các sắc tướng, mong tồn tại
ở trong thế giới không có sắc tướng, họ được sinh về cõi Vô sắc.
Còn khát vọng tồn tại là còn
khát ái, là còn sinh tử, còn chịu cảnh vô thường và khổ đau. Do đó, Hữu
ái là Khổ tập Thánh đế.
Có nhiều người nhàm chán cả cuộc
sống sinh diệt, mong muốn không còn sống lâu hơn nữa, không còn thác sinh
nữa. Đây là biểu hiện Vô hữu ái. Bởi vì không ham sống, thì bấy giờ
họ có thể còn nuôi dưỡng cái lòng ham ở chỗ không sinh diệt và vẫn
còn cái tập khí ham muốn. Ở đây, tùy thuộc theo nghiệp lực của họ
mà thác sinh về cảnh giới thích ứng sau khi chết. Cảnh giới thoát ly
sinh diệt thực sự là Niết-bàn. Niết-bàn là dập tắt hẳn lòng khát
ái, chấp thủ. Nếu ái diệt, nếu tập khí của tham ái đã hoàn toàn đoạn
diệt, thì Niết-bàn có mặt ngay tại cõi đời này. Nhưng nếu tập khí
tham ái chưa hoàn toàn đoạn diệt, thì khát vọng Vô hữu không chưa đủ.
Chính sự có mặt của khát vọng này là một thứ lửa nung nấu khổ đau.
Vô hữu ái, do đó, vẫn là nhân của
khổ, là Khổ tập Thánh đế.
* Khổ Diệt Thánh Đế (Nirodha)
Nếu Khổ tập Thánh đế là tham
ái thì Khổ diệt Thánh đế là tham ái diệt, là khổ diệt hay Niết-bàn.
Niết-bàn như đã được trình bày
ở chương Phật Bảo, được đề cập ở Duyên khởi và ngũ uẩn trong
chương Pháp Bảo này, là cảnh giới giải thoát, thoát ly ngôn ngữ khái niệm,
thoát ly mọi tướng trạng diễn đạt, thoát ly năm thủ uẩn, nên không phải
là vấn đề của khảo sát. Các kinh điển Phật giáo chỉ có thể định
nghĩa Niết-bàn, hay phương tiện chỉ bày Niết-bàn bằng các từ ngữ rất
phủ định như Niết-bàn là ái diệt, Khổ diệt, tham sân si diệt, thức
diệt, hành diệt, vô minh diệt, v.v...
Ở đây, chỉ nỗ lực trình bày sự
bất lực trong việc diễn tả Niết-bàn, và chỉ rõ một số ngộ nhận về
Niết-bàn trong khả năng có thể.
Câu chuyện thời danh về con rùa kể
chuyện đất liền cho loài cá nghe cho chúng ta khái niệm rằng, ngôn ngữ
chuyên chở ngã tính của con người hoàn toàn bất lực trong việc diễn đạt
Niết-bàn. Càng nỗ lực diễn đạt càng tạo thêm ngộ nhận.
Một điều mà chúng ta có thể đề
cập là Niết-bàn thoát ly ý niệm nên ở ngoài thời gian và không gian,
nên hẳn nhiên Niết-bàn không phải là một nơi chốn, không phải sớm, muộn,
lâu dài, ngắn ngủi, v.v... không có vận chuyển, không phải là kết quả
hay hậu quả của bất cứ gì, không phải là tương đối hay tuyệt đối,
không phải thường hay vô thường. Chỉ có thể nói Niết-bàn là thực tại
như thật, nhận biết được bằng thể nhập do ái diệt hay khổ diệt.
Con đường dẫn đến Niết-bàn là con đường đoạn trừ khổ đau mà ta sẽ
khảo sát tiếp.
Dù không diễn tả được, nhưng
quyết định Niết-bàn có thực; nó là thực tại như thật. Không thể xem
Niết-bàn chính là cuộc đời này. Ở nơi nào có mặt tuệ giác Vô ngã
hoàn toàn, ở đó có Niết-bàn, như Thế Tôn dạy: "Cái nào có bản chất
của sinh thì cũng có bản chất của diệt; Năm uẩn, do đó, có đủ mầm
mống của sinh và mầm mống của diệt, có đủ khát ái, tuệ giải thoát
và có đủ Bốn Thánh đế".
Có một điểm mà chúng ta cần phải
nhận thức rõ ràng là, ái diệt là Niết-bàn, nhưng công phu tu tập để
đoạn diệt ái không phải là nhân của Niết-bàn, mà là dẫn đến Niết-bàn.
Ví như con đường đưa đến Tịnh xá Trúc Lâm không phải là Tịnh xá
Trúc Lâm. Điều này không khó hiểu, bởi vì thực tánh của con người có
sẵn, tu chỉ là việc làm cho tan hết mây mù đang che khuất trăng Thật Tánh,
mà không phải là làm ra trăng Thật Tánh. Tất cả những tư duy, nói năng,
diễn đạt và tu tập của con người chỉ là những việc nói chuyện với
mây, đối thoại với gió, giới hạn ở vùng mây mù. Chúng ta không thể
đi xa hơn nữa để đặt ra những câu hỏi và trả lời về trăng như thật.
Tại đây ta có thể kết luận Khổ
diệt Thánh đế là khát ái diệt, hay thủ diệt, hay thức diệt, hay hành
diệt, vô minh diệt... hoặc sầu, bi, khổ, ưu, não diệt. Một trong các chi
phần ấy hoàn toàn đoạn diệt là Niết-bàn. Điều mà chúng ta sẽ đề cập
đến nhiều là con đường tu tập đưa đến Niết-bàn, hay gọi là Khổ diệt
Đạo Thánh đế.
* Khổ Diệt Đạo Thánh Đế (Magga).
Hầu hết các kinh nói nhiều đến
Bát Thánh Đạo như là con đường đưa đến đoạn diệt khổ đau. Đấy là
chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn,
chánh niệm và chánh định.
Chánh tinh tấn là nội dung của Tứ
chánh cần; chánh niệm là nội dung của Tứ niệm xứ; và chánh định là
Từ thiền Sắc giới định (theo Đế Phân Biệt Tâm Kinh, Trung Bộ Kinh III;
hay Phân Biệt Thánh đế, Trung A-hàm, số 31). Nhiều kinh khác của Nikàya
và A-hàm lại đề cập đến ba mươi bảy phẩm trợ đạo (bốn niệm xứ,
bốn chánh cần, bốn như y túc, năm căn, năm lực, bảy giác chi và tám
Thánh đạo) như là Đạo đế, mà Bát Thánh đạo là giáo lý tiêu biểu.
Phần đi sâu vào ba mươi bảy phẩm trợ đạo sẽ được bàn đến ở phần
giáo lý Thiền định.
Tất cả giáo lý tu tập đều được
xây dựng trên căn bản của Giới, Định, và Tuệ. Giới như là nền tảng
từ đó Định và Tuệ được xây dựng. Nếu thiếu căn bản Giới thì Định
và Tuệ không vận dụng được, ví như đất là nền tảng, nếu thiếu
nó thì các sinh vật không di chuyển được.
Giới, đấy là lãnh vực giữ gìn
ba nghiệp thân, khẩu, ý thanh tịnh, rời khỏi tham lam, sân hận và ác hại,
ngỏ hầu tạo điều kiện tốt đi vào các tâm lý ly tham, ly sân, ly hại,
ly si của Định, và Tuệ.
Các chi phần chánh ngữ, chánh nghiệp
và chánh mạng là thuộc giới này.
Thiền định là lãnh vực đối mặt
với tâm lý động để loại bỏ các triều ái dục, sân, nghi, trạo cử
và hôn trầm, và đi sâu vào tâm lý hỷ, lạc, xả và nhất tâm. Các chi phần
chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định thuộc Định uẩn này.
Tuệ uẩn, gồm có hai chi phần
chánh kiến và chánh tư duy, là hiểu biết đúng sự thật Tứ Thánh đế,
Ngũ uẩn và Duyên khởi, hiểu biết mục đích của tu tập giải thoát là
viễn ly tham, viễn ly sân (hay là từ, bi, bất hại tâm) và viễn ly si (viễn
ly tà kiến); và thường tư duy về viễn ly tham, sân, si ấy, về Tứ Thánh
đế, Ngũ uẩn và Duyên khởi ấy.
Đạo đế lần lượt được thảo
luận kỹ ở phần trình bày ba mươi bảy phẩm trợ đạo.
C. Tứ Thánh Đế vừa là Giáo Lý, vừa có Ý
Nghĩa là Phương Pháp
Thông thường Tứ Thánh Đế được
hiểu là giáo lý như các giáo lý Duyên khởi, Năm thủ uẩn v.v. Thực ra Tứ
Thánh đế còn được Thế Tôn trình bày như là phương pháp nhận thức, sống
và tu tập.
Khổ Thánh đế là kết quả khổ
đau biểu hiện của nghiệp nhân quá khứ. Nghiệp nhân đó là tham ái, chấp
thủ hay vô minh. Khổ diệt Thánh đế là kết quả đoạn trừ khổ đau do
nghiệp nhân là công phu tu tập ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Nghiệp nhân
này là Khổ diệt đạo Thánh đế.
Như thế, Tứ Thánh Đế được trình
bày theo tương quan nhân quả. Bất cứ pháp hữu vi nào, hay khổ đau nào
có mặt cũng có nguyên nhân của nó, người tu tập nhận rõ nguyên nhân
chính của khổ đau đó thì tất nhiên sẽ cùng lúc thấy rõ sự biến mất
của nó và con đường (hay phương pháp) để loại bỏ nó.
Một người bỗng nhiên tức giận,
đấy là biểu hiện của khổ đế. Muốn đi ra khỏi cơn sân ấy, người
ấy phải bình tĩnh tìm hiểu xem do nguyên nhân, ly do nào mà mình nổi sân.
Ví dụ, do bị một người khác vô cớ nguyền rủa. Sở dĩ sân hận là do
chấp vào âm thanh gọi là lời nguyền rủa kia, và chấp rằng mình có tự
ngã (ông A, bà B) và tự ngã này gây tổn thương bởi các âm thanh nguyền
rủa ấy. Đây là Tập đế.
Một khi đã thấy rõ Tập đế và
có quyết định loại bỏ sân hận kia, thì đương sự chỉ thay đổi cách
suy tư của mình; nhìn các âm thanh kia chỉ là hơi gió thoảng, hoặc giả
chỉ là các từ rời rạc vô nghĩa; tại sao mình lại tự kết luận đó
là lời nguyền rủa? Tại sao mình lại không thể chấp nhận các âm thanh
ấy như chỉ là âm thanh hay như tiếng thông reo, gió thoảng? Suy tư như vậy
thì có thể dập tắt được chấp thủ kia, do đó dập tắt được cơn sân
hận. Chấp thủ kia diệt là ý nghĩa của Diệt đế. Các lập luận để
đi đến sự dập tắt ấy là Đạo đế.
Tại đây, Tứ đế xuất hiện như
là một phương pháp phân tích các hiện tượng tâm lý xấu để vượt qua
chúng. Tương tự, có thể phân tích các hiện tượng tâm lý tốt để duy
trì hay phát triển.
Một dẫn chứng khác, có một hiện
tượng xã hội xãy ra: trộm cướp và tham nhũng. Đây là Khổ đế, hay ý
nghĩa của Khổ đế.
- Tìm hiểu ra lý do của hiện tượng
xã hội này là do đói kém sinh. Đây là Tập đế, hay ý nghĩa của Tập đế.
- Hiện tượng xã hội này chấm dứt
khi đói kém chấm dứt. Đây là ý nghĩa của Diệt đế.
- Con đường để đi ra khỏi đói
kém là cải thiện kinh tế của xã hội (trả lương cao, giúp vốn cho dân
đầu tư, cấp giống mạ và phương tiện canh tác, v.v..) Đây là ý nghiã của
Đạo đế.
Ở lãnh vực khoa học, Tứ đế vẫn
là phương pháp nhận thức và thực hiện. Nước được hình thành (H2O)
là ý nghĩa Khổ đế. Sở dĩ được hình thành là do sự kết hợp của
Hydro và Oxy, đây là ý nghĩa của Tập đế. Muốn lượng nước này không
hiện hữu thì chỉ cần phân tán Hydro và Oxy ấy, cần thực hiện một cuộc
phân tích nước (hay gọi là điện giải), đây là ý nghĩa của Đạo đế.
Ở lãnh vực y học cũng thế. Bệnh
phát sinh là ý nghĩa của Khổ đế. Nguyên nhân sinh ra bệnh là ý nghĩa của
Tập đế. Loại trừ nguyên nhân ấy là bệnh lành (bằng cách cho thuốc đối
trị) là ý nghĩa của Diệt đế. Dùng thuốc hay chế thuốc để dùng đối
trị là ý nghĩa của Đạo đế.
Trên đây chỉ là một số dẫn chứng
điển hình. Nguyên tắc Tứ đế có thể ứng dụng để nhận thức và giải
quyết rất nhiều vấn đề của cuộc sống mà chúng ta sẽ tìm hiểu ở
phần trình bày tiếp theo đây.
- D. Ư鮧
Dụng Nguyên Tắc Tứ Đế vào
Đời Sống Xã Hội.
- Tìm hiểu nỗi buồn vô cớ:
Trong cuộc sống, có khi chúng ta
cảm thấy buồn buồn mà không biết lý do. Nỗi buồn này thường được
gọi là nỗi buồn vô cớ.
Thực ra nỗi buồn nào cũng có
nguyên cớ của nó. Có thể buồn vì cơ thể mỏi mệt, có thể buồn vì
có một mong ước nào đó không đạt được, có thể buồn vì một thất
vọng về người thân, cũng có thể buồn vì thời tiết u ám ở bên
ngoài, v.v... Lắng lòng một chốc để thử xem nỗi buồn của ta đến từ
lý do nào.
Buồn là Khổ đế; lý do của buồn
là Tập đế.
Nếu vì lý do cơ thể uể oải, mệt
mỏi, thì chỉ cần vận động cơ thể tích cực sẽ xua đi được mệt mỏi
và sẽ loại bỏ được cảm giác buồn; hoặc giả phải cần một giấc
ngủ ngon để lấy lại sức khỏe thì cảm giác buồn cũng sẽ đi xa.
Nếu vì lý do tâm lý hay tình cảm
thì phải đổi cách suy nghĩ về động cơ tâm lý hay tình cảm đã gây
nên nỗi buồn ấy thế nào để mình có thể tự thuyết phục mình, khích
lệ mình phấn khởi. Tâm lý phấn khởi xuất hiện thì nỗi buồn cũng bay
xa.
Dùng tâm lý hân hoan hay phấn khởi
để khắc chế buồn, đấy là Diệt đế. Phương cách để chế ngự nỗi
buồn là Đạo đế.
Giải quyết
bất hòa trong đời sống gia đình, xã hội
Trong đời sống gia đình của cặp
vợ chồng trẻ có thể xãy ra những vụ cãi lẫy, giận dỗi, bất hòa. Đây
là Khổ đế.
Tìm hiểu nguyên nhân của vụ giận
lẫy, bất hòa là tìm hiểu Tập đế. Giải quyết được vụ bất hòa là
Diệt đế. Phương cách giải quyết là Đạo đế.
Không phải lúc nào xảy ra bất
hòa cũng dễ dàng tìm ra lý do của nó. Có khi vì tự ái, đôi bên không chịu
thổ lộ cái lý do mình giận lẫy. Trường hợp này người trong cuộc sẽ
không tìm ra cách để giải quyết. Nếu để tình trạng giận lẫy kéo
dài thì sẽ gây ra thêm nhiều bất ổn trong tương giao. Ở đây, nguyên
nhân của sự không thổ lộ là tự ái. Để tránh khỏi cái tình trạng tự
ái ấy, gia đình nên quy ước với nhau lập ra một cuốn sổ "hòa hợp"
dành để ghi vào đấy những gì mà hai người cảm thấy không thể giáp mặt
nói cho nhau nghe. Qua cuốn sổ này, đôi bên có thể tìm thấy ánh sáng của
cảm thông; nhờ đó, giải quyết êm đẹp mối bất hòa. Cảm thông ấy
là ý nghĩa của Diệt đế, phương cách giải quyết qua cuốn sổ kia là ý
nghĩa của Đạo đế.
Tương tự, cuốn sổ "hòa hợp"
hay "cảm thông" trên có thể được sử dụng để duy trì hay phát
triển mối tương giao tốt của lứa đôi.
Trường hợp bất hòa xãy ra giữa
các người bà con hoặc láng giềng, bạn bè, có thể vận dụng "đệ
tam nhân" thay thế cuốn sổ. Vấn đề phát triển hay duy trì mối tương
giao tốt giữa những người này cũng cần được vận dụng thông qua
"đệ tam nhân".
Trên căn bản của nguyên tắc Tứ
đế này có thể vận dụng để giải quyết các vấn đề rộng lớn hơn
ở bình diện quốc gia hay quốc tế.
Giải quyết
nỗi sợ hãi đám đông
Sợ hãi đám đông, bối rối khi xuất
hiện trước đám đông, hay lúc nói chuyện trước đám đông, là Khổ đế.
Bạn có một lần sợ hãi khi nói
chuyện với quần chúng bạn mới nhận ra nỗi đau khổ, ưu não như thế nào.
Tâm lý người sợ hãi đám đông là thường muốn rút lui an phận, tiêu cực.
Đây không phải là tâm lý lành mạnh, nếu không muốn nói là bệnh hoạn.
Càng lánh mặt đám đông bao nhiêu thì nỗi sợ hãi đám đông lại càng
gia tăng bấy nhiêu. Mơ ước thiết tha của người sợ hãi là vượt qua nỗi
sợ hãi ấy, nhưng tâm lý của họ thì bảo họ lánh mặt sợ hãi. Làm thế
nào để khắc phục sợ hãi?
Chúng ta không thể giải quyết vấn
đề bằng lối vượt ra ngoài nguyên tắc Tứ đế. Cách nhìn và thái độ
giải quyết theo Phật giáo là bằng mọi cách chúng ta phải đối mặt với
sợ hãi. Bạn hãy nhìn kỹ sợ hãi để bình tĩnh tìm xem đâu là những
nguyên nhân đưa đến sợ hãi. Vì cái nhìn của đám đông đe dọa chăng?
Vì sợ đám đông thấy những nhược điểm của mình chăng? Vì không quen
diễn đạt? v.v... Đây là ý nghĩa của Tập đế.
Làm vô hiệu hóa các ảnh hưởng tác
động vào tâm lý vừa kể là ý nghĩa của Diệt đế. Bằng cách nào để
xóa hết các ảnh hưởng trên, là ý nghĩa của Đạo đế. Tại đây,
chúng ta sẽ nhận ra rằng cần phải làm quen với đám đông cần tập diễn
đạt, cần bổ túc kiến thức, v.v... Nguyên tắc chính của Tứ đế là, nếu
nỗi sợ hãi khởi lên từ đám đông, thì cũng phải từ đám đông nỗi sợ
hãi này được chế phục.
- Giải quyết các sợ hãi
khác:
- sợ ma, sợ rắn, cóc, thằn
lằn...
Tương tự như nỗi sợ hãi đám đông,
nếu có người sợ ma, sợ rắn, sợ cóc, thằn lằn, v.v... người ấy cần
tìm hiểu nguyên nhân của sợ hãi ấy.
Với sợ ma, người ấy cần phải
xuất hiện ban đêm ở các nơi gây nên sợ hãi. Tại đây người ấy mới
thấy rõ cách nhiếp phục nó.
Với sợ cóc, thằn lằn, v.v... người
ấy cần nhìn kỹ vào tâm lý của mình tìm xem do mình bị ám ảnh như thế
nào về cóc, thằn lằn v.v... khiến mình sợ hãi, từ đây người ấy mới
thấy được lối đi ra khỏi sợ hãi.
Các lo sợ của
tuổi thành niên
Tuổi trẻ đến độ lập gia đình
thường có những lo âu, có khi sợ hãi nữa. Họ có những ham muốn cuộc
sống lứa đôi, nhưng đồng thời họ cũng có nhiều bối rối lo lắng về
con đường trước mặt. Người con gái có những bối rối, âu lo khi đi về
nhà chồng, bối rối trước những bổn phận và tương giao mới. Người
con trai cũng bối rối không kém trước bổn phận và tương giao ấy. Đây
là một loại phiền não, khổ đau làm mất đi hạnh phúc của tuổi trẻ.
Phương cách duy nhất để loại bỏ phiền não này là đối mặt giải quyết
vấn đề. Tìm xem những gì đưa đến những âu lo, bối rối ấy để từ
đó thấy được lối ra, rồi nỗ lực để đi ra.
Cuộc sống từ nhỏ đến lúc trưởng
thành có biết bao nhiêu lo lắng, sầu ưu. Đã đành gốc rễ sâu xa của khổ
vẫn là ái, thủ, nhưng để đối trị hữu hiệu từng loại phiền não,
khổ đau khi ta đang sống đời sống xã hội, và để đối trị cấp thời,
ta cần có những biện pháp giải quyết thích nghi khác nhau. Tứ đế bấy
giờ trở thành nguyên tắc chỉ đạo cho công cuộc giải quyết ấy.
Thế Tôn đã giảng dạy rộng rãi
Tứ đế ứng dụng để loại trừ khổ đau cho những trường hợp cá biệt
rất thực tế.
Kinh "Nhứt Thiết Lậu Hoặc"
(Trung Bộ Kinh I) trình bày có bảy phương thức đối trị phiền não, lậu
hoặc, tiêu biểu nhất là ứng dụng đúng giáo lý Tứ đế.
Nếu ta bị phiền não, khổ đau do
các suy nghĩ lệch lạc, không đúng, không lành đem lại, thì ta phải áp dụng
chánh tư duy và chánh tri kiến để loại trừ. Chánh kiến và Chánh tư duy
áp dụng hữu hiệu nhất ở trường hợp này.
Chánh kiến và chánh tư duy còn
giúp ta tìm ra được thái độ, phương cách ứng xử trước những khổ
đau, trở ngại:
- Nếu ta bị khổ vì nóng, lạnh...
thì ta hẳn phải tìm cho có áo ấm, áo mát, hay chỗ ở thích nghi. Nếu ta
bị khổ sở vì nạn trâu dữ, ngựa dữ, chó dữ... hay sợ hãi vì hố
sâu vực thẳm, thì bấy giờ biện pháp đối phó hữu hiệu là tránh mặt
chúng, xa lánh chúng. Đối với các tâm niệm sân hận, ham muốn, tổn hại...
thì ta phải cấp thời bám sát chúng để trừ khử, ta phải phủ nhận, chối
bỏ, không cho các tâm niệm ấy khởi lên. Trường hợp này ta không áp dụng
biện pháp tránh né được.
Sau cùng, đối với các kiết sử,
muốn đối trị, ta phải tu tập Thất giác chi. Trong trường hợp này, ta
không thể ứng dụng các biện pháp vừa kể trên.
E. Tinh Thần Thiết Thực của Tứ Thánh Đế
Khổ Thánh đế được nên lên trước
nhất trong Tứ Thánh đế. Phật giáo như thế khởi hành từ thực tại khổ
đau của cuộc đời, nhìn cuộc đời như là cuộc đời đang là; từ đây,
đi tìm nguyên nhân của khổ đau có mặt ngay trong chính cuộc đời. Năm uẩn
là khổ đau và nguyên nhân của khổ đau cũng ở ngay trong Năm uẩn; cũng từ
Năm uẩn mà khổ đau diệt và tìm ra con đường đưa đến khổ đau diệt
ở đó. Như Thế Tôn đã dạy: "Trong chính cái thân có ý thức dài một
tầm này, Ta tuyên bố thế giới, sự sinh khởi của thế giới, sự chấm
dứt của thế giới và con đường đưa đến sự chấm dứt của thế giới".
(Tăng Chi Bộ Kinh)
Phật giáo không liệt kê những khổ
đau tưởng tượng, không đưa ra những nguyên nhân phi thực, cũng không đề
ra con đường giải quyết khổ đau bằng hành khổ, bằng cầu xin... không
thực tiễn. Phật giáo chủ trương giải thoát có mặt trên đời này, có
thể được thực hiện bằng chính nỗ lực đoạn trừ tham ái của con người.
Điểm này nói lên tính chất rất là nhân bản, rất là nhập thế và rất
là thiết thực hiện tại. Con người là gốc của khổ đau và của sự giải
thoát của chính mình.
Ví dụ về nắm lá Simpapà của Thế
Tôn phô diễn rất rõ cái tính chất tối thiết thực và cần yếu ấy của
giáo lý Tứ Thánh đế này.
F. Tứ Đế Hàm Chứa Toàn Bộ Giáo Lý Phật
Giáo
Thế Tôn đã thuyết giảng Duyên khởi
lồng vào nội dung Tứ đế. Đối với Năm thủ uẩn cũng thế.
Thế Tôn đã lập lại rất nhiều
lần trong các Kinh của Nikàya và A-hàm rằng: "Ta chỉ nói khổ và con
đường diệt khổ". Điều này mang ý nghĩa toàn bộ giáo lý đều được
quy vào, thu vào Tứ Thánh đế. Thế nên, có lần Tôn giả Xá-lợi-phất đã
tuyên bố: "Tất cả các thiện pháp đều được bao hàm trong Tứ
Thánh đế".
Các Kinh điển Bắc tạng không đi
ra ngoài kết luận trên. Khi Kinh bàn đến chứng ngộ chân tâm, chỉ bày
chân cảnh hay Niết-bàn, thì luôn luôn đề cập đến sự đoạn trừ chấp
thủ, đoạn diệt tham ái, tức là bàn về Diệt đế hoặc vừa Diệt đế
vừa Đạo đế (chẳng hạn nói rời hết thảy các tướng chấp thủ là
ý nghĩa Diệt đế, hành Lục Ba-la-mật là ý nghĩa của Đạo đế). Bàn kỹ
một đế trong Bốn đế là hiển bày được toàn thể Bốn đế, như Thế
Tôn đã dạy.
Giáo lý Phật giáo, như đã được
trình bày, xây dựng trên nền tảng Giới, Định, Tuệ, là phần giáo lý
thuộc Đạo đế, do đó mà toàn thể giáo lý không đi ra khỏi giới vực
của Tứ đế. Nói cách khác, toàn bộ giáo lý Phật giáo được thu nhiếp
vào trong Tứ Thánh đế, như các dấu chân của các động vật được thu
nhiếp vào trong dấu chân voi.
G. Chứng Ngộ Tứ Thánh Đế
Có nhiều người trên đường tìm
hiểu các Tôn giáo, không hiểu rõ Phật giáo, khi thấy Phật giáo nói về
Khổ Thánh đế thì vội vã kết án Phật giáo là bi quan, tiêu cực và yếm
thế.
Như đã lập luận ở phần đầu của
giáo lý Tứ Thánh đế này, cái thái độ sống bi quan hay tiêu cực, yếm
thế không liên hệ gì đến phần nhận thức cũng như hành động của Phật
giáo.
Nhận thức về cuộc đời của Phật
giáo là một nhận thức rất khách quan và rất như thật, thái độ sống
hay tu tập của Phật giáo là thái độ "trung đạo", lìa xa các
thái cực hành khổ hay phóng túng trong dục lạc, lạc quan hay bi quan. Nếu
cho rằng lạc quan là sống với tâm đầy trí tuệ và lòng tin giải thoát
thì Phật giáo là tôn giáo lạc quan.
Hãy nghe một lời dạy của Thế
Tôn về sự chứng ngộ Tứ Thánh đế, ta sẽ thấy Phật giáo đến với
con người tươi mát như thế nào: "Này các Tỷ-kheo, ví như một người
sống thọ một trăm năm, có người đến nói với người ấy: 'Này bạn,
vào buổi sáng, bạn sẽ đâm một trăm cây thương, vào một buổi chiều,
bạn sẽ đâm một trăm cây thương... Sau một trăm năm, bạn sẽ giác ngộ
Bốn Thánh đế trước kia chưa được giác ngo'. Này các Tỷ-kheo, một người
hiểu biết nghĩa lý có thể chấp nhận chăng?... Này các Tỷ-kheo, Ta không
tuyên bố rằng nhờ khổ và ưu, Bốn Thánh đế được chứng ngộ. Nhưng
này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố nhờ lạc và hỷ, Bốn Thánh đế được chứng
ngộ". (Tương Ưng V, tr. 445-446)
Như chúng ta biết, con đường đi về
giải thoát của Phật giáo là 37 phẩm trợ đạo đặt nền tảng trên Giới,
Định và Tuệ. Người Phật tử đi trên một lộ trình đầy sự an tĩnh
do giữ Giới, đầy hạnh phúc của lạc hỷ của Thiền định, và đầy giải
thoát, sáng suốt và lòng tin của Trí tuệ. Con đường đi đầy hương hoa
như thế được đặt ngay giữa lòng đời thì làm sao có thể gọi là bi
quan, yếm thế được?
Kinh Tiểu Khổ Uẩn (Trung Bộ Kinh
I) ghi rằng, ngoại đạo Ni-kiền-tử (Nigantha) chủ trương hành khổ thân
xác để giải thoát nghiệp, họ cho rằng: "Hạnh phúc không thể đến
từ hạnh phúc, mà phải đến từ khổ đau". Thế Tôn thì dạy do hộ
trì thân, khẩu, ý thanh tịnh mà nghiệp tiêu, do đắc các định mà có
được các cảm thọ hạnh phúc, cho đến giải thoát tri kiến là hạnh
phúc tuyệt đối.
Cần phải "liễu tri Khổ
đế, đoạn tận Tập đế, chứng ngộ Diệt đế, và tu tập Đạo đế"
(Tương Ưng V, tr. 440) thì mới hiểu biết như thật Phật giáo, mới có thể
đi ra khỏi mọi ngộ nhận về Phật giáo.
Người Phật tử phải hiểu rõ mọi
khổ đau ở đời, hiểu rõ nguyên nhân của khổ đau, hiểu rõ sự khổ
đau đoạn tận và con đường đưa đến đoạn tận khổ đau. Hiểu rõ
không có nghĩa là đã chứng ngộ Tứ đế (hay chứng ngộ Diệt đế - Niết-bàn).
Tại đây còn nhiều việc phải làm, phải tu tập Bát Thánh đạo, nỗ lực
đoạn trừ Tập đế (hay đoạn trừ tham ái, chấp thủ). Khi ái, thủ, vô
minh hoàn toàn bị dập tắt, bấy giờ Diệt đế mới được chứng ngộ,
hay Tứ đế mới được hoàn toàn chứng ngộ. Quả vị chứng ngộ tại đây,
với các đệ tử của Thế Tôn là A-la-hán, với Thế Tôn là Vô Thượng
Chánh Đẳng Giác, Phật, Thế Tôn.
- H. Tứ Thánh Đế và Bốn
Hoằng Thệ Nguyện
- của Phật Tử Việt Nam.
Hòa thượng Thích Thiện Siêu, trong
một buổi thuyết giảng tại Huế (1983) đã đưa ra nhận xét rằng: Dựa
vào Tứ đế này mà có bốn hoằng thệ nguyện, phần kết thúc mỗi thời
Kinh, lễ của Phật tử Việt Nam.
- "Chúng sanh vô biện thệ nguyện
độ" là dựa vào Khổ Thánh đế mà phát nguyện.
- "Phiền não vô tận thệ nguyện
đoạn" là dựa vào Khổ Tập Thánh đế mà phát nguyện.
- "Pháp môn vô lượng thệ nguyện
học" là dựa vào Khổ Diệt Đạo Thánh đế mà phát nguyện.
- "Phật đạo vô thượng thệ
nguyện thành" là dựa vào Khổ Diệt Thánh đế mà phát nguyện.
Truyền thống của Phật giáo Việt
Nam mãi mãi vẫn nằm trong truyền thống Phật giáo dưới sự lãnh đạo của
Thế Tôn: Tứ Thánh đế là giáo lý nền tảng và là phương pháp chỉ đạo./.