- Phật Học Khái
Luận
- TT. Thích Chơn Thiện
- Tiết XI
- Ngũ Căn Và Ngũ Lực
- Năm căn là: Tín căn, Tấn căn, Niệm
căn, Định căn và Tuệ căn.
"Vị Thánh đệ tử có lòng
tin, đặt lòng tin ở sự giác ngộ của Như Lai: "Đây là Thế Tôn, Như
Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải,
Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật". (Tương
Ưng V, Sđd. tr.211). Đây là Tín căn.
- "Dựa vào Tứ chánh cần, thu
nhận tinh tấn gì, này các Tỷ-kheo, đây gọi là Tấn căn".
- "Dựa vào Tứ niệm xứ, thu
nhận niệm nào, này các Tỷ-kheo, đây gọi là Niệm căn". (Sđd.
tr. 211)
- "Vị Thánh đệ tử sau khi từ
bỏ pháp sở duyên, được định, được nhất tâm. Đây gọi là Định
căn". (Sđd. tr. 211) Định căn tương đương với Tứ sắc định.
- "Vị Thánh đệ tử có trí tuệ,
thành tựu trí tuệ về sanh diệt của các pháp, với trí tuệ, các bậc
Thánh thể nhập các pháp, đưa đến đoạn tận khổ đau". (Sđd. tr.
211) Đây gọi là Tuệ căn, tương đương với tri kiến về Tứ đế.
Tu Tập Ngũ Căn
Đức Thế Tôn dạy:
- "Cần phải quán Tín căn trong
bốn Dự lưu phần (tín của bậc Thánh Tu-đà-hoàn)".
- "Cần phải quán Tấn căn
trong Tứ chánh cần".
- "Cần phải quán Niệm căn
trong Tứ niệm xứ".
- "Cần phải quán Định căn
trong Bốn sắc Thiền".
- "Cần phải quán Tuệ căn
trong Tứ Thánh đế". (Sđd. tr. 207)
Như vậy, tu tập Năm căn là đã tu
tập Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, đã hành sâu Thiền định, đã có tuệ
giác, có thể liễu ngộ khổ và diệt. Hay nói cách khác, tu tập Tứ niệm
xứ, Tứ chánh cần, hành sâu Thiền định chính là tu tập Ngũ căn.
Tại đây, lại một lần nữa nói
lên điểm nhất quán trong các giáo lý tu tập của Thế Tôn: Tất cả đều
xây dựng trên Giới uẩn, Định uẩn và Tuệ uẩn; tất cả đều nhắm đến
đoạn tận tham ái, đoạn tận khổ đau.
Với sự tu tập Ngũ căn, như vừa
trình bày, hành giả sẽ đi đến kết quả như sau:
- "Với sự toàn diện, này các
Tỷ-kheo, với sự viên mãn Năm căn này, là bậc A-la-hán. Yếu nhẹ hơn là
bậc Bất lai. Yếu nhẹ hơn là bậc Nhất lai. Yếu nhẹ hơn là bậc Thất
lai (Nhập lưu). Yếu nhẹ hơn là bậc Tùy pháp hành. Yếu nhẹ hơn nữa là
bậc Tùy tín hành". (Sđd. tr. 212)
- "Sanh y lấy ái làm nhân, lấy
ái làm tập khởi, lấy ái làm tái sinh, lấy ái làm hiện hữu. Do ái
không có mặt, sanh y không hiện hữu. Vị ấy biết sanh y, sanh y tập khởi,
sanh y đoạn diệt. Do thực hành như vậy, vị ấy được gọi là bậc Tùy
pháp hành".
Tùy tín hành là vị học hỏi rồi
sau mới vào con đường thực hành của Tùy pháp hành.
- "Đối với ai, này các Tỷ-kheo,
năm căn này toàn bộ và toàn diện không có, thì Ta nói rằng người ấy là
người đứng phía ngoài, là thuộc thành phần phàm phu". (Sđd. tr. 215)
- "Cho đến khi nào, này các Tỷ-kheo,
Ta không như thật biết rõ sự tập khởi, sự chấm dứt, vị ngọt, sự
nguy hiểm và sự xuất ly của năm căn này, cho đến khi ấy, Ta không có biết
rõ về ý nghĩa về sự chứng ngộ Vô Thượng Chánh Đẳng Giác đối với
thế giới như Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, cùng với chúng
Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người". (Sđd. tr. 216)
- "Khi nào vị đệ tử biết rõ
sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của
năm căn này, khi ấy, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử ấy được gọi
là bậc Thánh Dự lưu". (Sđd. tr. 148)
- "Khi nào vị đệ tử biết rõ
sự tập khởi (-nt-), giải thoát không có chấp thủ, khi ấy vị Thánh đệ
tử ấy được gọi là A-la-hán". (Sđd. tr. 218)
Qua các xác nhận trên của Thế
Tôn, Thế Tôn được hiểu như là một bậc A-la-hán tu tập hoàn toàn viên
mãn Ngũ căn.
Điểm đặc biệt của pháp môn Ngũ
căn là pháp môn này có thể tu tập dung thông với Tứ niệm xứ và Tứ
chánh cần, có thể đi thẳng vào mục tiêu đoạn diệt khổ, đắc Niết-bàn
ngay trong hiện tại.
Tại đây, cũng như ở Bát Thánh đạo
và Thất giác chi, nói lên thật rõ ràng Đạo đế (hay 37 phẩm trợ đạo)
là pháp tu dẫn đến kết quả chứng ngộ quả vị tối thượng. Tứ Thánh
đế là pháp tối thượng mà không phải là pháp Thanh văn, Tiểu thừa như
một số nhà nghiên cứu quan niệm.
Sức mạnh của Ngũ căn được gọi
là Ngũ lực. Đó là: Tín lực, Tấn lực, Niệm lực, Định lực và Tuệ lực.
Hiểu rõ Ngũ căn ở trên là hiểu
rõ Ngũ lực.
Đề cập đến Ngũ lực, Thế Tôn
dạy:
"Ví như, này các Tỷ-kheo, sông
Hằng thiên về phương Đông, hướng về phương Đông, xuôi về phương Đông,
cũng vậy, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo tu tập Ngũ lực, làm cho sung mãn
Ngũ lực, thiên về Niết-bàn, hướng về Niết-bàn, xuôi về Niết-bàn (Sđd.
tr. 195)
"Vị Tỷ-kheo tu tập Tín lực
liên hệ đến viễn ly, ly tham, đoạn diệt, hướng đến từ bỏ (tương tự
đối với tấn, niệm, định và tuệ lực).
"Để thắng tri, liễu tri, đoạn
diệt, đoạn tận năm thượng phần kiết sử này, năm lực này cần phải
tu tập". (Sđd. tr. 196)
Như thế, Ngũ căn và Ngũ lực là
pháp môn mà một bậc Thánh Bất lai cần phải tu tập viên mãn để đoạn
tận nhứt thiết hoặc, hoặc tận vô minh. Tuệ căn và Tuệ lực luôn luôn
cần đến sự hỗ trợ của Định Căn và Định lực. Đây là ý nghĩa Định
uẩn hỗ trợ cho sự thành tựu viên mãn của Tuệ uẩn./.