- Kinh Trường bộ
16. KINH ĐẠI
BÁT NIẾT BÀN
I
1. Như vầy tôi nghe. Một thời Thế
Tôn ở tại Ràjagaha (Vương Xá), trên núi Gijjhakùta (Linh Thứu). Lúc bấy
giờ, Ajàtasattu Vedehiputta (A-xà-thế, con bà Vi-đề-hi, vua nước Magadha, muốn
chinh phục dân Vajjì (Bạc-kỳ). Vua tự nói: "Ta quyết chinh phạt dân
Vajjì này, dầu chúng có uy quyền, có hùng mạnh; ta quyết làm cỏ dân
Vajjì; ta sẽ tiêu diệt dân Vajjì; ta sẽ làm cho dân Vajjì bị hoại
vong".
2. Rồi Ajàtasattu Vedehiputta, vua nước
Magadha nói với Bà-la-môn Vassakara (Vũ Xá), đại thần nước Magadha:
- Này Bà-la-môn, hãy đi đến Thế
Tôn, và nhân danh ta, cúi đầu đảnh lễ chân Ngài, vấn an. Ngài có thiểu
bệnh, thiểu não, khinh an, khỏe mạnh, lạc trú: "Bạch Thế Tôn,
Ajàtasattu Vedehiputta, vua nước Magadha cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn, vấn
an Ngài có thiểu bệnh, thiểu não, khinh an, lạc trú". Và khanh bạch tiếp:
"Bạch Thế Tôn, Ajàtasattu Vedehiputta, vua nước Magadha muốn chinh phục
dân Vajjì, vua tự nói: "Ta quyết chinh phạt dân Vajjì này, dầu chúng
có uy quyền, có hùng mạnh; ta quyết làm cỏ dân Vajjì; ta sẽ tiêu diệt
dân Vajjì; ta sẽ làm cho dân Vajjì bị hoại vong". Thế Tôn trả lời
khanh thế nào, hãy ghi nhớ kỹ và nói lại ta biết. Các bậc Thế Tôn
không bao giờ nói lời hư vọng.
- Đại vương, xin vâng !
3. Bà-la-môn Vassakara, đại thần
nước Magadha vâng theo lời dạy của Ajàtasattu Vedehiputta, vua nước Magadha
cho thắng những cỗ xe thù thắng, tự mình cỡi lên một chiếc, cùng với
các cỗ xe ấy đi ra khỏi Ràjagaha (Vương Xá), đến tại núi Linh Thứu,
đi xe đến chỗ còn dùng xe được, rồi xuống xe đi bộ đến chỗ Thế Tôn,
khi đến liền nói những lời chào đón hỏi thăm xã giao với Thế Tôn rồi
ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, Bà-la-môn Vassakara, đại
thần nước Magadha, bạch Thế Tôn:
-- Tôn giả Gotama, Ajàtasattu
Vedehiputta, vua nước Magadha cúi đầu đảnh lễ chân Tôn giả Gotama, vấn
an ngài có thiểu bệnh, thiểu não, khinh an, khỏe mạnh, lạc trú. Tôn giả
Gotama, Ajàtasattu Vedehiputta, vua nước Magadha muốn chinh phục dân xứ Vajjì.
Vua tự nói: "Ta quyết chinh phạt dân Vajjì này, dầu chúng có uy quyền,
có hùng mạnh, ta quyết làm cỏ dân Vajjì, ta sẽ tiêu diệt dân Vajjì, ta sẽ
làm cho dân Vajjì bị hoại vọng".
4. Lúc bấy giờ, Tôn giả Ananda đứng
quạt sau lưng Thế Tôn. Thế Tôn nói với Tôn giả Ananda:
-- Này Ananda, Ngươi có nghe dân
Vajjì thường hay tụ họp và tụ họp đông đảo với nhau không?
-- Bạch Thế Tôn, con có nghe dân
Vajjì thường hay tụ họp và tụ họp đông đảo với nhau không ?
-- Này Ananda, khi nào dân Vajjì thường
hay tụ họp và tụ họp đông đảo với nhau, thời này Ananda, dân Vajjì sẽ
được cường thịnh, không bị suy giảm. Này Ananda, Ngươi có nghe dân
Vajjì tụ họp trong niệm đoàn kết giải tán trong niệm đoàn kết, và
làm việc trong niệm đoàn kết không ?
-- Bạch Thế Tôn, con có nghe dân
Vajjì tụ họp trong niệm đoàn kết, giải tán trong niệm đoàn kết, và
làm việc trong niệm đoàn kết.
-- Này Ananda, khi nào nghe dân Vajjì
tụ họp trong niệm đoàn kết, giải tán trong niệm đoàn kết, và làm việc
trong niệm đoàn kết, này Ananda dân Vajjì sẽ được cường thịnh, không
bị suy giảm. Này Ananda, Ngươi có nghe dân Vajjì không ban hành những luật
lệ không được ban hành, không hủy bỏ những luật lệ đã được ban hành,
sống đúng với truyền thống của dân Vajjì như đã ban hành thời xưa không
?
-- Bạch Thế Tôn, con nghe dân Vajjì
không ban hành những luật lệ không được ban hành, không hủy bỏ những
luật lệ đã được ban hành, sống đúng với truyền thống của dân
Vajjì như đã ban hành thuở xưa.
-- Này Ananda khi nào dân Vajjì,
không ban hành những luật lệ không được ban hành, không hủy bỏ những
luật lệ đã được ban hành, sống đúng với truyền thống của dân
Vajjì như đã ban hành thuở xưa thời, này Ananda, dân Vajjì sẽ được cường
thịnh, không bị suy giảm. Này Ananda, Ngươi có nghe dân Vajjì tôn sùng,
kính trọng, đảnh lễ, cúng dường các bậc trưởng lão Vajjì và nghe theo
lời dạy của những vị này không ?
-- Bạch Thế Tôn, con có nghe dân
Vajjì tôn sùng, kính trọng, đảnh lễ, cúng dường các bậc trưởng lão
Vajjì và nghe theo lời dạy của những vị này.
-- Này Ananda, khi nào dân Vajjì tôn
sùng, kính trọng, đảnh lễ, cúng dường các bậc trưởng lão Vajjì và
nghe theo lời dạy của những vị này, thời dân Vajjì sẽ được cường
thịnh, không bị suy giảm. Này Ananda, Ngươi có nghe dân Vajjì không có bắt
cóc và cưỡng ép những phụ nữ và thiếu nữ Vajjì phải sống với mình
không ?
-- Bạch Thế Tôn, con có nghe dân
Vajjì không có bắt khóc và cưỡng ép những phụ nữ và thiếu nữ Vajjì
phải sống với mình.
-- Này Ananda, khi nào Vajjì không có
bắt cóc và cưỡng ép những phụ nữ và thiếu nữ Vajjì phải sống với
mình thời, này Ananda, dân Vajjì sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm.
Này Ananda, Ngươi có nghe dân Vajjì tôn sùng, kính trọng, đảnh lễ, cúng dường
các tự miếu của Vajjì ở tỉnh thành và ngoài tỉnh thành, không bỏ phế
các cúng lễ đã cúng từ trước, đã làm từ trước đúng với quy pháp
không ?
- Bạch Thế Tôn, con có nghe dân
Vajjì tôn sùng, kính trọng, đảnh lễ, cúng dường các tự miếu của
Vajjì ở tỉnh thành và ngoài tỉnh thành, không bỏ phế các cúng lễ đã
cúng từ trước, đã làm từ trước đúng với quy pháp.
- Này Ananda, khi nào dân Vajjì tôn
sùng, kính trọng, đảnh lễ, cúng dường các tự miếu của Vajjì ở tỉnh
thành và ngoài tỉnh thành, không bỏ phế các cúng lễ đã cúng từ trước,
đã làm từ trước đúng với quy pháp, thời này Ananda, dân Vajjì sẽ được
cường thịnh, không bị suy giảm. Này Ananda, Ngươi có nghe dân Vajjì bảo
hộ, che chở, ủng hộ đúng pháp các vị A-la-hán ở tại Vajjì khiến các
vị A-la-hán chưa đến sẽ đến trong xứ, và những vị A-la-hán đã đến
được sống an lạc không?
- Bạch Thế Tôn, con nghe dân Vajjì
bảo hộ, che chở, ủng hộ đúng pháp các vị A-la-hán ở tại Vajjì khiến
các vị A-la-hán chưa đến sẽ đến trong xứ, và những vị A-la-hán đã
đến được sống an lạc.
- Này Ananda, khi nào dân Vajjì bảo
hộ, che chở, ủng hộ đúng pháp các vị A-la-hán ở tại Vajjì khiến các
vị A-la-hán chưa đến sẽ đến trong xứ, và những vị A-la-hán chưa đến
sẽ đến trong xứ và những vị A-la-hán đã đến được sống an lạc, thời
này Ananda, dân Vajjì sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm.
5. Rồi Thế Tôn nói với Bà-la-môn
Vassakara, đại thần nước Magadha:
- Này Bà-la-môn, một thời Ta sống
ở Vesàli tại tự miếu Sàrandada, Ta dạy cho dân Vajjì bảy pháp bất thối
này. Này Bà-la-môn, khi nào bảy pháp bất thối được duy trì giữa dân
Vajjì, khi nào dân Vajjì được giảng dạy bảy pháp bất thối này, thời
Bà-la-môn, dân Vajjì sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm.
Khi được nói vậy, Bà-la-môn
Vassakara, đại thần nước Magadha bạch Thế Tôn:
- Tôn giả Gotama, nếu dân Vajjì chỉ
hội đủ một pháp bất thối này, thời dân Vajjì nhất định được cường
thịnh, không bị suy giảm, huống nữa là đủ cả bảy pháp bất thối.
Tôn giả Gotama, Ajàtasattu Vedehiputta, vua nước Magadha không thể đánh bại
dân Vajjì ở chiến trận trừ phi dùng ngoại giao hay kế ly gián. Tôn giả
Gotama, nay chúng con phải đi, chúng con có nhiều việc và có nhiều bổn phận.
- Này Bà-la-môn, Người hãy làm những
gì Người nghĩ là hợp thời.
Bà-la-môn Vassakara, vị đại thần
nước Magadha hoan hỷ, tán thán lời dạy của Thế Tôn, từ chỗ ngồi đứng
dậy và từ biệt.
6. Khi Bà-la-môn Vassakara đi chưa bao
lâu, Thế Tôn nói với Tôn giả Ananda:
- Này Ananda, hãy đi và tập họp tại
giảng đường tất cả những vị Tỷ-kheo sống gần Ràjagaha (Vương Xá).
- Xin vâng, bạch Thế Tôn !
Tôn giả Ananda vâng theo lời dạy
Thế Tôn, đi tập họp tất cả những vị Tỷ-kheo sống gần Vương Xá rồi
đi đến Thế Tôn, đảnh lễ Ngài, đứng một bên và bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo Tăng đã
tu họp. Bạch Thế Tôn, Ngài hãy làm những gì Ngài nghĩ là hợp thời.
Rồi Thế Tôn, từ chỗ ngồi đứng
dậy, đi đến giảng đường, ngồi trên chỗ ngồi đã soạn sẵn và nói
với các vị Tỷ-kheo:
- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng bảy
pháp bất thối. Hãy nghe và suy nghiệm kỹ. Ta sẽ giảng.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn !
Những vị Tỷ-kheo ấy trả lời Thế
Tôn. Thế Tôn giảng như sau:
- Này các Tỷ-kheo, khi nào chúng Tỷ-kheo
thường hay tụ họp và tụ họp đông đảo với nhau, thời này các Tỷ-kheo,
chúng Tỷ-kheo sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào chúng Tỷ-kheo
tụ họp trong niệm đoàn kết, giải tán trong niệm đoàn kết, và làm việc
Tăng sự trong niệm đoàn kết, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ
được cường thịnh, không bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào chúng Tỷ-kheo
không ban hành những luật lệ không được ban hành, không hủy bỏ những
luật lệ đã được ban hành, sống đúng với những học giới được ban
hành, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được cường thịnh, không
bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào chúng Tỷ-kheo
tôn sùng, kính trọng, đảnh lễ, cúng dường các bậc Tỷ-kheo thượng tọa
những vị này là những vị giàu kinh nghiệm, niên cao lạp trưởng, bậc
cha của chúng Tăng, bậc thầy của chúng Tăng và nghe theo lời dạy của những
vị này, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được cường thịnh, không
bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào chúng Tỷ-kheo
không bị chi phối bởi tham ái, tham ái này tác thành một đời sống khác,
thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được cường thịnh, không bị
suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào chúng Tỷ-kheo
thích sống những chỗ nhàn tịnh, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ
được cường thịnh, không bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào chúng Tỷ-kheo
tự thân an trú chánh niệm, khiến các bạn đồng tu thiện chí chưa đến
muốn đến ở, và các bạn đồng tu thiện chí đã đến ở, được sống
an lạc, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được cường thịnh, không
bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào bảy pháp
bất thối này được duy trì giữa các vị Tỷ-kheo, khi nào các vị Tỷ-kheo
được dạy bảy pháp bất thối này, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo
sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm.
7. Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng
bày pháp bất thối khác, hãy nghe và suy nghiệm kỹ. Ta sẽ nói.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Những vị Tỷ-kheo đáp ứng Thế
Tôn. Thế Tôn nói:
Này các Tỷ-kheo, khi nào chúng Tỷ-kheo
không ưa thích làm thế sự, không hoan hỷ làm thế sự, không đam mê làm
thế sự, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được cường thịnh,
không bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào chúng Tỷ-kheo
không ưa thích phiếm luận, không hoan hỷ phiếm luận, không đam mê phiếm
luận, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được cường thịnh, không
bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào chúng Tỷ-kheo
không ưa thích ngủ nghỉ, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được
cường thịnh, không bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào chúng Tỷ-kheo
không ưa thích quần tụ, không hoan hỷ quần tụ, không đam mê quần tụ,
thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được cường thịnh, không bị
suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào chúng Tỷ-kheo
không có ác dục vọng, không bị chi phối bởi ác dục vọng, thời này
các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào chúng Tỷ-kheo
không bạn bè ác dục vọng, không thân tín ác dục vọng, không cộng hành
với ác dục vọng, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được cường
thịnh, không bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào chúng Tỷ-kheo
không dừng ở nửa chừng, giữa sự đạt đáo những quả vị thấp kém
và những quả vị thù thắng, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ
được cường thịnh, không bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào bảy pháp
bất thối này được duy trì giữa các vị Tỷ-kheo, khi nào các vị Tỷ-kheo
được dạy bảy pháp bất thối này, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo
sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm.
8. Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng bảy
pháp bất thối khác, hãy nghe và suy nghiệm kỹ. Ta sẽ nói.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn !
Những vị Tỷ-kheo ấy đáp ứng Thế
Tôn. Thế Tôn nói:
- Này các Tỷ-kheo, khi nào chúng Tỷ-kheo
có tín tâm, có tàm, có quý, có nghe nhiều, có tinh tấn, có chánh niệm,
có trí tuệ, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được cường thịnh,
không bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào bảy pháp
bất thối này được duy trì giữa các vị Tỷ-kheo, khi nào các vị Tỷ-kheo
được dạy bảy pháp bất thối này, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo
sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm.
9. Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng bảy
pháp bất thối khác, hãy nghe và suy nghiệm kỹ. Ta sẽ nói.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn !
Chư Tỷ-kheo đáp ứng. Thế Tôn
nói:
- Này các Tỷ-kheo, khi nào chúng Tỷ-kheo
tụ tập niệm giác chi, tụ tập trạch pháp giác chi, tu tập tinh tấn giác
chi, tu tập khinh an giác chi, tu tập định giác chi, tu tập giả giác chi, thời
này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào bảy pháp
bất thối này được duy trì giữa các vị Tỷ-kheo, khi nào các vị Tỷ-kheo
được dạy bảy pháp bất thối này, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo
sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm.
10. Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng bảy
pháp bất thối khác, hãy nghe và suy nghiệm kỹ. Ta sẽ nói.
- Xin vâng bạch Thế Tôn !
Những vị Tỷ-kheo ấy đáp ứng Thế
Tôn. Thế Tôn nói:
- Này các Tỷ-kheo, khi nào chúng Tỷ-kheo
tụ tập vô thường tưởng, tu tập vô ngã tưởng, tu tập bất tịnh tưởng,
tu tập nguy hiểm tưởng, tu tập xả ly tưởng, tu tập vô tham tưởng, tu tập
diệt tưởng, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được cường thịnh,
không bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào bảy pháp
bất thối này được duy trì giữa các vị Tỷ-kheo, khi nào các vị Tỷ-kheo
được dạy bảy pháp bất thối này, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo
sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm.
11. Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng
sáu pháp bất thối, hãy nghe và suy nghiệm kỹ. Ta sẽ giảng.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn !
Những vị Tỷ-kheo ấy đáp ứng Thế
Tôn. Thế Tôn nói:
- Này các, Tỷ-kheo khi nào các vị
Tỷ-kheo đối với các vị đồng tu phạm hạnh, tại chỗ đông người và
vắng người, gìn giữ thân nghiệp từ hòa, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo
sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào các vị Tỷ-kheo
đối với các vị đồng tu phạm hạnh, tại chỗ đông người và vắng người,
gìn giữ khẩu nghiệp từ hòa, gìn giữ ý nghiệp từ hòa tại chỗ đông
người và vắng người, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được
cường thịnh, không bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào các vị Tỷ-kheo
phân phối không thiên vị, chung thọ hưởng với các bạn giới đức đồng
tu, mọi lợi dưỡng chơn chánh, hợp pháp, cho đến những vật thọ lãnh
trong bát khất thực, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được cường
thịnh, không bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào các vị Tỷ-kheo
sống với các bạn đồng tu, tại chỗ đông người, và vắng người,
trong sự thọ trì những giới luật, đúng với Sa-môn hạnh, những giới
luật không bị gẫy vụn, không bị sứt mẻ, không bị tỳ vết, không bị
uế trược, những giới luật đưa đến giải thoát, được người có
trí tán thán, không bị ô nhiễm bởi mục đích sai lạc, những giới luật
hướng đến định tâm, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được
cường thịnh, không bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào các vị Tỷ-kheo
sống với các bạn đồng tu, tại chỗ đông người và vắng người, trong
sự thọ trì những tri kiến đúng với Sa-môn hạnh, những thánh tri kiến
đưa đến giải thoát, hướng đến sự diệt tận khổ đau cho những ai
thiệt hành theo, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được cường thịnh,
không bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào sáu pháp bất
thối này được duy trì giữa các vị Tỷ-kheo, khi nào các vị Tỷ-kheo
được dạy sáu pháp bất thối này, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo
sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm.
12. Trong thời gian Thế Tôn ở Vương
Xá tại núi Linh Thứu, pháp thoại này được giảng cho chúng Tỷ-kheo:
"Đây là Giới, đây là Định, đây là Tuệ. Định cùng tu với Giới
sẽ đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tuệ cùng tu với Định sẽ
đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tâm cùng tu với Tuệ sẽ đưa đến
giải thoát hoàn toàn các món lậu hoặc tức là dục lậu, hữu lậu (tri
kiến lậu), vô minh lậu".
13. Thế Tôn ở Vương Xá cho đến
khi Ngài xem là vừa đủ, rồi Ngài gọi tôn giả Ananda:
- Này Ananda, chúng ta hãy đi đến
Ambalatthikà.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Tôn giả Ananda đáp ứng Thế Tôn.
Rồi Thế Tôn cùng với đại chúng Tỷ-kheo đi đến Ambalatthikà.
14. Tại Ambalatthikà, Thế Tôn thân
trú tại nhà nghỉ mát của vua. Trong thời gian Thế Tôn ở Ambalatthikà, tại
nhà nghỉ mát của vua, pháp thoại này được giảng cho chúng Tỷ-kheo.
- Đây là Giới, đây là Định, đây
là Tuệ, Định cùng tu với Giới sẽ đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn.
Tuệ cùng tu với Định sẽ đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tâm
cùng tu với Tuệ sẽ đưa đến giải thoát hoàn toàn các món lậu hoặc, tức
là dục lậu, hữu lậu (tri kiến lậu), vô minh lậu.
15. Thế Tôn ở Ambalatthikà cho đến
khi Ngài xem là vừa đủ, rồi Ngài bảo tôn giả Ananda:
- Này Ananda, chúng ta hãy đi đến
Nalandà.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Tôn giả Ananda vâng lời Thế Tôn.
Rồi Thế Tôn cùng với đại chúng Tỷ-kheo đi đến Nalandà. Tại đây, Thế
Tôn ở Pavarikambavana (Ba Ba Lợi Âm Bà Lâm).
16. Tôn giả Sàriputta (Xá Lợi Phất)
đến tại chỗ Thế Tôn, đảnh lễ Ngài và xuống một bên. Tôn giả
Sàriputta bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, con tin tưởng Thế
Tôn đến nỗi con nghĩ rằng, ở quá khứ, ở tương lai cũng như ở hiện
tại không thể có một Sa-môn, một Bà-la-môn nào có thể vĩ đại hơn, sáng
suốt hơn Thế Tôn về phương diện chánh giác.
- Này Sàriputta, lời nói của Ngươi
thật là đại ngôn, thật là gan dạ. Ngươi thật đã rống tiếng rống
con sư tử: "Con tin tưởng Thế Tôn đến nỗi con nghĩ rằng, ở quá khứ,
ở tương lai cũng như ở hiện tại không thể có một Sa-môn, một
Bà-la-môn nào có thể vĩ đại hơn, sáng suốt hơn Thế Tôn về phương diện
chánh giác". Này Sàriputta, có phải Ngươi đã biết tất cả những Thế
Tôn, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri ở quá khứ, Ngươi đã biết tâm những Vị
này nói với tâm của Ngươi: "Những Thế Tôn này ở quá khứ có giới
đức như vậy, có thiền định như vậy, có trí tuệ như vậy, có hạnh
trú như vậy, có giải thoát như vậy"?
- Bạch Thế Tôn, không !
- Này Sàriputta, có phải Ngươi đã
biết tất cả những Thế Tôn, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri ở tương lai,
Ngươi đã biết tâm những vị này với tâm của Ngươi: "Những Thế Tôn
này ở tương lai có giới đức như vậy, có thiền định như vậy, có
trí tuệ như vậy, có hạnh trú như vậy, có giải thoát như vậy"?
- Bạch Thế Tôn, không!
- Này Sàriputta, có phải Ngươi biết
Ta là bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri ở hiện tại, Ngươi đã biết tâm Ta
với tâm của Ngươi. "Thế Tôn có giới đức như vậy, có thiền định
như vậy, có trí tuệ như vậy, có hạnh trú như vậy, có giải thoát như
vậy"?
- Bạch Thế Tôn, không !
- Này Sàriputta, như vậy Ngươi không
có tha tâm thông đối với các vị Ứng Cúng, Chánh Biến Tri ở quá khứ,
tương lai và hiện tại. Như vậy, này Sàriputta, vì sao Ngươi lại thốt ra
những lời đại ngôn, lời nói gan dạ, rống lên tiếng rống con sư tử:
"Bạch Thế Tôn, con tin tưởng Thế Tôn đến nỗi con nghĩ rằng, ở quá
khứ, ở tương lai cũng như ở hiện tại không thể có một Sa-môn, một
Bà-la-môn nào có thể vĩ đại hơn, sáng suốt hơn Thế Tôn về phương diện
chánh giác"?
17. Bạch Thế Tôn, con không có tha
tâm thông đối với các vị Ứng Cúng, Chánh Biến Tri ở quá khứ, tương
lai và hiện tại. Nhưng con biết truyền thống về chánh pháp. Bạch Thế
Tôn, như vị vua có một thành trì tại Biên cảnh, thành này có hào lũy kiên
cố, có thành quách tháp canh kiên cố và chỉ có một cửa ra vào. Tại đây
có một người gác cửa thông minh, biệt tài và nhiều kinh nghiệm, không
cho vào các người lạ mặt, chỉ cho vào những người quen mặt. Người này
trong khi đi tuần trên con đường chạy vòng quanh thành trì ấy có thể
không thấy các chỗ nối hay khe hở của tường, cho đến chỗ một con mèo
có thể lọt ra được, nhưng người ấy chỉ cần biết rằng các sinh vật
to lớn vào hay ra thành trì này tất cả đều đi vào hay đi ra bởi cửa này.
Bạch Thế Tôn, cũng vậy con biết truyền thống về chánh pháp. Bạch Thế
Tôn, tất cả các vị A-la-hán, Chánh Đẳng Giác trong quá khứ, tất cả vị
Thế Tôn này đã diệt trừ Năm Triền cái, những nhiễm tâm khiến cho trí
tuệ yếu ớt, đã an trú tâm vào Bốn Niệm xứ, đã chân chánh tu tập Bảy
Giác chi, đã chứng được Vô thượng Chánh Đẳng Giác. Bạch Thế Tôn, tất
cả các vị A-la-hán, Chánh ửĐẳng Giác trong tương lai, tất cả Thế Tôn
này đã diệt trừ Năm Triền cái, những nhiễm tâm khiến cho trí tuệ yếu
ớt, đã an trú tâm vào Bốn Niệm xứ, đã chân chánh tu tập Bảy Giác
chi, đã chứng được Vô thượng Chánh Đẳng Giác. Bạch Thế Tôn, Thế
Tôn hiện tại đã diệt trừ Năm Triền Cái, những nhiễm tâm khiến cho
trí tuệ yết ớt, đã an trú tâm vào Bốn Niệm xứ, đã chân chánh tu tập
Bảy Giác chi, đã chứng được Vô thượng Chánh Đẳng Giác.
18. Trong thời gian Thế Tôn ở tại
Nalandà, rừng Pavarikamba, pháp thoại này được giảng cho chúng Tỷ-kheo.
- Đây là Giới, đây là Định, đây
là Tuệ. Định cùng tu với Giới sẽ đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn.
Tuệ cùng tu với Định sẽ đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tâm
cùng tu với Tuệ sẽ đưa đến giải thoát hoàn toàn các món lậu hoặc, tức
là dục lậu, hữu lậu (tri kiến lậu), vô minh lậu.
19. Thế Tôn ở Nalandà cho đến khi
Ngài xem là vừa đủ, rồi gọi tôn giả Ananda:
- Này Ananda, chúng ta hãy đi đến Pàtaligàma.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn !
Tôn giả Ananda vâng lời Thế Tôn.
Rồi Thế Tôn cùng với đại chúng Tỷ-kheo đi đến Pàtaligàma.
20. Lúc bấy giờ, các cư sĩ ở Pàtaligàma
được nghe Thế Tôn đã đến làng Pàtaligàma. Các cư sĩ ở Pàtaligàma đi
đến Thế Tôn, đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống
một bên, các cư sĩ ở Pàtaligàma bạch Thế Tôn: "Bạch Thế Tôn, mong
Thế Tôn hãy đến ở tại nhà nghỉ mát của chúng con". Thế Tôn im lặng
nhận lời.
21. Các cư sĩ ở Pàtaligàma được
biết Thế Tôn đã nhận lời, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Ngài,
thân phía hữu hướng về Ngài và từ biệt. Các cư sĩ này đi đến nghỉ
mát, rải cát khắp tất cả sàn nhà, sắp đặt chỗ ngồi, đặt ghè nước,
chuẩn bị dầu đèn rồi đi đến Thế Tôn, đảnh lễ Ngài và đứng một
bên, các cư sĩ ở Pàtaligàma bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, tất cả nhà nghỉ
mát đã được rãi cát, các chỗ ngồi đã được sắp đặt, ghè nước
đã đặt sẵn, dầu đèn đã được chuẩn bị. Bạch Thế Tôn, Ngài hãy
làm những gì Ngài nghĩ là phải thời.
22. Rồi Thế Tôn đắp y, cầm y bát,
cùng với đại chúng Tỷ-kheo đi đến nhà nghỉ mát, sau khi đến liền rửa
chân bước vào nhà, ngồi xuống, lưng dựa và bức tường ở giữa, mặt
hướng về phía Đông. Chúng Tỷ-kheo sau khi rửa chân, bước vào nhà ngồi
xuống, lưng dựa vào bức tường phía Đông, hướng mặt phía Tây, đối
diện Thế Tôn.
23. Thế Tôn nói với các cư sĩ ở
Pataligama:
- Này các Gia chủ, có năm sự nguy
hiểm cho những ai phạm giới, sống trái giới luật. Thế nào là năm?
Ở đây, này các Gia chủ, người
phạm giới, sống trái giới luật sẽ bị tiêu hao tiền của rất nhiều
vì sống phóng dật. Đó là điều nguy hiểm thứ nhất cho những ai phạm
giới, sống trái giới luật.
Lại nữa, này các Gia chủ, người
phạm giới, sống trái giới luật bị tiếng dữ đồn xa. Đó là điều
nguy hiểm thứ hai cho những ai phạm giới, sống trái giới luật.
Lại nữa, này các Gia chủ, người
phạm giới, sống trái giới luật khi vào hội chúng nào, hoặc Sát Đế Lỵ,
hoặc Bà-la-môn, hoặc gia chủ, hoặc Sa-môn, người ấy đi vào với tâm thần
sợ hãi, bối rối. Đó là điều nguy hiểm thứ ba cho những ai phạm giới,
sống trái giới luật.
Lại nữa, này các Gia chủ, người
phạm giới, sống trái giới luật sẽ chết với tâm hồn rối loạn. Đó
là điều nguy hiểm thứ tư cho những ai phạm giới, sống trái giới luật.
Lại nữa, này các Gia chủ, người
phạm giới, sống trái giới luật sau khi thân hoại mạng chung, sẽ bị
sanh vào khổ cảnh, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Đó là điều nguy hiểm
thứ năm cho những ai phạm giới, sống trái giới luật.
Này các gia chủ, đó là năm điều
nguy hiểm cho những ai phạm giới, sống trái giới luật.
24. Này các Gia chủ có năm sự lợi
ích cho những ai giữ giới, sống theo giới luật. Thế nào là năm ?
Ở đây, này các Gia chủ, người
giữ giới, sống theo giới luật sẽ có tiền của dồi dào rất nhiều vì
sống không phóng dật. Đó là sự lợi ích thứ nhất cho những ai giữ giới,
sống theo giới luật.
Lại nữa, này các Gia chủ, người
giữ giới, sống theo giới luật được tiếng tốt đồn xa. Đó là sự lợi
ích thứ hai cho những ai giữ giới, sống theo giới luật.
Lại nữa, này các Gia chủ, người
giữ giới, sống theo giới luật khi đi vào hội chúng nào, hoặc Sát Đế
Lỵ, hoặc Bà-la-môn, hoặc gia chủ, hoặc Sa-môn, người ấy đi vào với
tâm thần không sợ hãi, không bối rối. Đó là sự lợi ích thứ ba cho những
ai giữ giới, sống theo giới luật.
Lại nữa, này các Gia chủ, người
giữ giới, sống theo giới luật sẽ chết với tâm hồn không rối loạn.
Đó là sự lợi ích thứ tư cho những ai giữ giới, sống theo giới luật.
Lại nữa, này các Gia chủ, người
giữ giới, sống theo giới luật sau khi thân hoại mạng chung, sẽ được
sanh vào thiện thú, thiên giới. Đó là sự lợi ích thứ năm cho những ai
giữ giới, sống theo giới luật.
25. Thế Tôn giảng pháp cho những cư
sĩ ở Pàtaligàma cho đến khuya, khích lệ, làm cho phấn khởi, khiến tâm
hoan hỷ rồi bảo các cư sĩ ấy:
- Này các Gia chủ, đêm đã khuya,
nay các Ngươi hãy làm những gì các Ngươi nghĩ là phải thời.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Các người cư sĩ của Pàtaligàma
vâng lời Thế Tôn, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân
phía hữu hướng về Ngài từ tạ ra về. Thế Tôn, sau khi các cư sĩ ở Pàtaligàma
đi không bao lâu, liền trở vào phòng riêng.
26. Lúc bấy giờ Sunidha và
Vassakara, hai vị đại thần xứ Magadha đang dựng thành trì để ngăn chặn
dân Vajjì. Một số rất lớn các thiên thần tụ họp hàng ngàn tại các
trú địa ở Pàtaligàma. Chỗ nào có thiên thần có đại oai lực tụ họp,
các vị này khiến tâm các vua chúa, các đại thần có đại oai lực, hướng
đến sự xây dựng các trú xá. Tại chỗ nào các thiên thần bậc trung tụ
họp, các vị này khiến tâm các vua chúa, các đại thần bậc trung hướng
đến sự xây dựng các trú xá. Tại chỗ nào các thiên thần bậc hạ đẳng
tụ họp, các vị này khiến tâm các vua chúa, các đại thần bậc hạ đẳng
hướng đến sự xây dựng các trú xá.
27. Thế Tôn với thiên nhãn, thanh tịnh,
siêu nhân thấy hàng ngàn các thiên thần tụ họp tại các trú địa ở Pàtaligàma,
Thế Tôn thức dậy khi đêm chưa tàn và nói với tôn giả Ananda:
- Này Ananda, ai đang xây dựng thành
trì ở Pataligama?
- Sunidha và Vassakara, bạch Thế
Tôn, hai vị đại thần xứ Magadha, đang xây dựng thành trì ở Pataligama để
ngăn chận dân Vajjì.
28. Này Ananda, thật giống như đã
hỏi ý kiến các vị thiên thần ở cõi trời Ba mươi ba, các đại thần
ở Magadha, Sunidha và Vassakara đang xây thành trì ở Pataligama để ngăn chận
dân Vajjì. Này Ananda ở đây với thiên nhãn, thạnh tịnh, siêu nhân Ta thấy
hàng ngàn thiên thần tụ họp tại các trú địa ở Pataligama. Chỗ nào có
thiên thần có đại oai lực tụ họp, các vị ấy khiến tâm các vua chúa,
các đại thần có đại oai lực, hướng đến sự xây dựng các trú xá.
Chỗ nào các thiên thần bậc trung tụ họp, các vị ấy khiến tâm các vua
chúa, các đại thần bậc trung hướng đến sự xây dựng các trú xá. Chỗ
nào các thiên thần bậc hạ đẳng tụ họp, các vị này khiến tâm các
vua chúa, các đại thần bậc hạ đẳng hướng đến sự xây dựng các
trú xá. Này Ananda, chỗ nào các vị Ariyans an trú, chỗ nào các nhà thương
mãi qua lại, chỗ ấy sẽ thiết lập một thành thị bậc nhất tên gọi
là Pàtaliputta, một trung tâm thương mãi. Nhưng này Ananda, Pàtaliputta sẽ bị
ba hiểm nạn về lửa, về nước hay chia rẽ bất hòa.
29. Sunidha và Vassakara, hai vị đại
thần nước Magadha, đến tại chỗ Thế Tôn ở, khi đến xong liền nói những
lời chào đón hỏi thăm xã giao rồi đứng một bên. Sau khi đứng một bên,
vị đại thần xứ Magadha, Sunidha và Vassakara bạch Thế Tôn: "Mong Thế
Tôn nhận lời mời dùng cơm tại nhà chúng con hôm nay cùng với đại chúng
Tỷ-kheo". Thế Tôn im lặng nhận lời.
30. Hai vị đại thần xứ Magadha,
Sunidha và Vassakara sau khi biết Thế Tôn đã nhận lời liền đi về nhà ở,
cho soạn tại nhà của mình các món ăn thượng vị, loại cứng và loại mềm,
rồi cử người đến tin Thế Tôn: "Tôn giả Gotama, giờ đã đến,
cơm đã sẵn sàng".
Rồi Thế Tôn buổi sáng đắp y,
mang theo y bát cùng với đại chúng Tỷ-kheo đi đến trú sở của hai vị
đại thần xứ Magadha, Sunidha và Vassakara, sau khi đi đến liền ngồi trên
chỗ đã soạn sẵn. Rồi hai vị thần xứ Magadha, Sunidha và Vassakara tự
tay mời chúng Tỷ-kheo với Thế Tôn là thượng thủ, các món ăn thượng vị,
loại cứng và loại mềm. Sau khi Thế Tôn dùng cơm xong và cất tay khỏi
bình bát, Sunidha và Vassakara, hai vị đại thần xứ Magadha liền lấy chiếc
ghế thấp khác và ngồi xuống một bên.
31. Sau khi Sunidha và Vassakara, hai vị
đại thần thứ Magadha đã ngồi xuống một bên, Thế Tôn đọc bài kệ cảm
tạ:
Tại chỗ nào người sáng suốt lấy
làm chỗ trú xứ.
Hãy nuôi dưỡng người giữ giới
và người phạm hạnh.
Và san sẽ công đức với Chư Thiên
trú tại chỗ ấy.
Được tôn kính, chúng sẽ tôn
kính lại.
Được trọng vọng, chúng sẽ trọng
vọng lại.
Chúng sẽ mến thương người ấy
như người mẹ thương mến con. Và những ai được thiên thần thân mến
luôn luôn được thấy may mắn.
Sau khi Thế Tôn tán thán Sunidha và
Vassakara, hai vị đại thần xứ Magadha với bài kệ này, Ngài từ chỗ ngồi
đứng dậy và ra về.
32. Sunidha và Vassakara, hai vị đại
thần xứ Magadha đi sau lưng Thế Tôn và nói:
- "Hôm nay Sa-môn Gotama đi ra cửa
nào cửa ấy sẽ được đặt tên là Gotama; Sa-môn Gotama lội qua sông từ
bến nào, bến ấy sẽ được đặt tên là Gotama. Và cửa Sa-môn Gotama đi
ra được đặt tên là cửa Gotama".
33. Rồi Thế Tôn đi đến sông
Ganga (sông Hằng). Lúc bây giờ, sông Gangà tràn ngập nước đến bờ đến
nỗi con quạ có thể uống được. Có người đang đi tìm thuyền, có người
đang đi tìm phao, có người cột bè để qua bờ bên kia. Thế Tôn mau lẹ
như người lực sĩ duỗi cánh tay được co lại hay co cánh tay đã duỗi
ra, biến mất từ bờ bên này và hiện ra trên bờ bên kia với chúng Tỷ-kheo.
34. Thế Tôn thấy những người
kia, người đang đi tìm thuyền, người đang đi tìm phao, người đang đi cột
bè để qua bờ bên kia. Thế Tôn hiểu được ý nghĩa của cảnh này, lúc
ấy bèn ứng khẩu lời cảm khái:
"Những ai làm cầu vượt biển
trùng dương, bỏ lại đất sũng đầm ao, trong khi người phàm phu đang cột
bè.
Những người ấy thật là những vị
trí tuệ được giải thoát"
II
1. Rồi Thế Tôn gọi tôn giả
Ananda: "Này Ananda, chúng ta hãy đi đến Kotigàma"
- "Xin vâng, bạch Thế
Tôn". Tôn giả Ananda đáp ứng Thế Tôn. Rồi Thế Tôn cùng với đại
chúng Tỷ-kheo đi đến Kotigàma. Tại đây, Thế Tôn ở tại Kotigàma.
2. Thế Tôn nói với các vị Tỷ-kheo:
- Này các Tỷ-kheo, chính vì không
giác ngộ, không thông hiểu Bốn Thánh đế mà chúng ta phải lưu chuyển luân
hồi lâu năm, Ta và các Ngươi. Bốn Thánh đế ấy là gì ? Này các Tỷ-kheo,
chính vì không giác ngộ, không thông hiểu Khổ Thánh đế mà chúng ta phải
lưu chuyển luân hồi lâu năm, Ta và các Ngươi.
Này các Tỷ-kheo, chính vì không
giác ngộ, không thông hiểu Khổ Tập Thánh đế mà chúng ta phải lưu chuyển
luân hồi lâu năm, Ta và các Ngươi. Này các Tỷ-kheo, chính vì không giác
ngộ, không thông hiểu Khổ Diệt Thánh đế... Khổ Diệt Đạo Thánh đế
mà chúng ta phải lưu chuyển luân hồi lâu năm, Ta và các Ngươi. Này các Tỷ-kheo
khi Khổ Thánh đế này được giác ngộ, được thông hiểu, khi Khổ Tập
Thánh đế này được giác ngộ, được thông hiểu, khi Khổ Diệt Đạo Thánh
đế này được giác ngộ, được thông hiểu, thời hữu ái được diệt
trừ, sự dắt dẫn đến một đời sống được đoạn tuyệt, nay không
còn hậu hữu nữa.
3. Thế Tôn thuyết như vậy. Thiện
Thệ lại nói thêm:
- Chính vì không thấy như thật Bốn
Thánh đế nên có sự luân chuyển lâu ngày trong nhiều đời. Khi những sự
thực này được nhận thức, nguyên nhân của một đời sống khác được
trừ diệt, khi khổ căn được đoạn trừ, sẽ không còn một đời sống
khác nữa.
4. Trong thời gian Thế Tôn ở
Kotigama, pháp thoại này được giảng cho chúng Tỷ-kheo:
- Đây là Giới, đây là Định, đây
là Tuệ. Định cùng tu với Giới sẽ đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn.
Tuệ cùng tu với Định sẽ đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tâm
cùng tu với Tuệ sẽ đưa đến giải thoát hoàn toàn các món lậu hoặc, tức
là dục lậu, hữu lậu (tri kiến lậu), vô minh lậu.
5. Thế Tôn, sau khi ở Kotigama cho đến
khi Ngài xem là vừa đủ, liền bảo tôn giả Ananda:
- Này Ananda, chúng ta hãy đi đến
Nadika.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Tôn giả Ananda vâng lời Thế Tôn.
Rồi Thế Tôn cùng với đại chúng Tỷ-kheo đi đến. Nadika, tại ngôi nhà
gạch (Ginjakàvasatha).
6. Rồi Tôn giả Ananda đến chỗ Thế
Tôn, đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên. Tôn giả Ananda bạch Thế
Tôn:
- Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo Salada mệnh
chung tại Nadika đã được sanh ở cõi nào, hậu thế trạng thái như thế
nào ? Tỷ-kheo ni Nandà mệnh chung tại Nadika đã được sanh ở cõi nào, hậu
thế trạng thái như thế nào? Bạch Thế Tôn, cư sĩ Sudatta mệnh chung tại
Nàdika đã được sanh cõi nào, hậu thế trạng thái như thế nào? Bạch Thế
Tôn, nữ cư sĩ Sujàtà mệnh chung tại Nàdika đã được sanh ở cõi nào, hậu
thế trạng thái như thế nào? Bạch Thế Tôn, cư sĩ Kakudha mệnh chung tại
Nàdika đã được sanh cõi nào, hậu thế trạng thái như thế nào? Bạch Thế
Tôn, cư sĩ Kàlinga... Bạch Thế Tôn, cư sĩ Nikata... Bạch Thế Tôn, cư sĩ
Katissabha... Bạch Thế Tôn, cư sĩ Tuttha... Bạch Thế Tôn, cư sĩ
Santuttha..., Bạch Thế Tôn cư sĩ Bhadda... Bạch Thế Tôn, cư sĩ Subhadda đã
mệnh chung tại Nadika đã được sanh ở cõi nào, hậu thế trạng thái như
thế nào?
7. Này Ananda, Tỷ-kheo Sàtha diệt tận
các lậu hoặc, tự mình với thắng trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú
ngay hiện tại vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Này Ananda, Tỷ-kheo
ni Nandà đoạn trừ năm hạ phần kiết sử, hóa sanh (thiên giới) và từ
đó nhập Niết Bàn không còn trở lại đời này nữa. Này Ananda, cư sĩ
Sudatta, diệt trừ ba kiết sử làm giảm thiểu tham, sân, si, chứng quả Nhứt
lai sau khi trở lại đời này một lần nữa sẽ diệt tận khổ đau. Này
Ananda nữ cư sĩ Sujata diệt trừ ba kiết sử, chứng quả Dự lưu, nhứt định
không còn đọa vào ác đạo, đạt đến Chánh giác. Này Ananda cư sĩ
Kakudha đoạn trừ năm hạ phần kiết sử, hóa sanh (thiên giới), và từ đó
nhập Niết Bàn không còn trở lại đời này nữa. Này Ananda, cư sĩ
Kalinga... Này Ananda cư sĩ Nikata... Này Ananda, cư sĩ Katissabha... Này Ananda, cư
sĩ Tuttha... Này Ananda, cư sĩ Santuttha... Này Ananda, cư sĩ Bhadada... Này
Ananda, cư sĩ Subhadda đoạn trừ năm hạ phần kiết sử, được hóa sanh
(thiên giới), và từ đó nhập Niết Bàn không còn trở lại đời này nữa.
Này Ananda, hơn năm mươi cư sĩ mệnh chung tại Nàdita, đoạn trừ năm hạ
phần kiết sử, hóa sanh (thiên giới) và từ đó nhập Niết Bàn không còn
trở lại đời này nữa. Này Ananda, hơn chín mươi chín nam nữ cư sĩ mệnh
chung tại Nàdika, diệt trừ ba kiết sử, làm giảm thiểu tham, sân si, chứng
quả Nhứt lai, sau khi trở lại đời này một lần nữa sẽ diệt tận khổ
đau. Này Ananda, hơn năm trăm cư sĩ, mệnh chung tại Nadika, diệt trừ ba kiết
sử, chứng quả Dự lưu, nhứt định không còn đọa vào ác đạo, đạt
đến Chánh giác.
8. Này Ananda, thật không có gì lạ,
vấn đề con người phải mệnh chung. Nhưng mỗi lần có người mệnh chung
lại đến hỏi Như Lai về vấn đề này thời Ananda, như vậy làm phiền
nhiễu Như Lai. Này Ananda, vì vậy ta sẽ giảng Pháp kính (Gương chánh
pháp) để Thánh đệ tử, sau khi chứng đạt pháp nghĩa này, nếu muốn, sẽ
tự tuyên bố về mình như sau: "Đối với ta, sẽ không còn địa ngục,
sẽ không còn tái sanh cõi bàng sanh, ngạ quỷ, đọa xứ, ác thú. Ta đã chứng
quả Dự lưu, nhứt định không đọa ác đạo, sẽ đạt Chánh giác".
9. Này Ananda, Pháp kính ấy là gì
mà Thánh đệ tử, sau khi chứng đạt pháp nghĩa này, nếu muốn, sẽ tự
tuyên bố về mình như sau: "Đối với ta, sẽ không còn địa ngục, sẽ
không còn tái sanh cõi bàng sanh, ngạ quỷ, đọa xứ, ác thú. Ta đã chứng
quả Dự lưu, nhứt định không đọa ác đạo, sẽ đạt Chánh giác".
Này Ananda, vị Thánh đệ tử có chánh tín đối với đức Phật: "Thế
Tôn là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế
Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế
Tôn". Vị ấy có chánh tín đối với chánh pháp: "Chánh pháp được
Thế Tôn khéo giảng dạy, thiết thực, vượt ngoài thời gian chi phối, đến
để mà thấy, có khả năng giải thoát, được kẻ trí tự mình thâm hiểu".
Vị ấy có chánh tín đối với chúng Tăng: "Chúng Tăng đệ tử Thế Tôn
chân chánh tu hành, chúng Tăng đệ tử Thế Tôn chân trực tu hành, chúng Tăng
đệ tử Thế Tôn chân trí tu hành, chúng Tăng đệ tử Thế Tôn chân tịnh
tu hành, tức là bốn đôi tám vị. Chúng Tăng đệ tử Thế Tôn đáng được
nghênh đón, đáng được cúng dường, đáng được chiêm ngưỡng, đáng
được chấp tay, là phước điền vô thượng ở trên đời, cụ túc giới
hạnh, được bậc Thánh mến chuộng, được viên mãn không mảy mún, được
vẹn toàn không sứt mẻ, không tỳ vết, không ô nhiễm, những giới hạnh
đưa đến giải thoát, được người trí tán thán, không bị ảnh hưởng
bởi đời sau. Hướng dẫn đến thiền định".
Này Ananda, chính Pháp kính này mà
Thánh đệ tử sau khi chứng đạt pháp nghĩa này, nếu muốn sẽ tự tuyên
bố về mình như sau: "Đối với ta, sẽ không còn địa ngục, sẽ không
còn tái sanh cõi bàng sanh, ngạ quỷ, đọa xứ, ác thú. Ta đã chứng quả
Dự lưu, nhứt định không đọa ác đạo, sẽ đạt chánh giác".
10. Khi Thế Tôn ở Nàdika, pháp thoại
này được giảng cho chúng Tỷ-kheo:
- Đây là Giới, đây là Định, đây
là Tuệ... Tức là dục lậu, hữu lậu (tri kiến lậu), vô minh lâu.
11. Rồi Thế Tôn, sau khi ở Nàdika
cho đến khi Ngài xem là vừa đủ, liền bảo tôn giả Ananda:
- Này Ananda, chúng ta hãy đi đến
Vesàli.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn !
Tôn giả Ananda vâng lời Thế Tôn.
Rồi Thế Tôn cùng với đại chúng Tỷ-kheo đi đến Vasali. Ở đây, Thế
Tôn trú tại vườn Ambapàli.
12. Thế Tôn bảo các vị Tỷ-kheo:
- Này các Tỷ-kheo, các Ngươi phải
sống an trú chánh niệm, tỉnh giác. Đó là lời dạy của Ta cho các Ngươi.
Này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo
an trú chánh niệm? Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đối với thân, quán thân,
tinh tấn, tỉnh giác, chánh niệm nhiếp phục mọi tham ái, ưu bi ở trên đời,
đối với các cảm thọ... đối với tâm... đối với các pháp, quán
pháp, tinh tấn, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục mọi tham ái, ưu bi ở
trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy gọi là chánh niệm.
13. Này các Tỷ-kheo thế nào là Tỷ-kheo
tỉnh giác? Này các Tỷ-kheo, ở đây Tỷ Kheo tỉnh giác khi đi tới, đi
lui, tỉnh giác khi ngó tới, ngó lui; tỉnh giác khi co tay, duỗi tay, tỉnh
giác khi mang áo sanghati (tăng già lê) mang bát, mang y, tỉnh giác khi ăn, khi
uống, khi nhai, khi nếm, tỉnh giác khi đại tiện, tiểu tiện; tỉnh giác
khi đi; khi đứng, khi ngồi, khi nằm, khi thức, khi nói, khi im lặng. Này
các Tỷ-kheo, như vậy Tỷ-kheo sống tỉnh giác. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
phải sống an trú chánh niệm tỉnh giác. Đó là lời dạy của Ta cho các
Ngươi.
14. Lúc bấy giờ dâm nữ Ambapàli
được nghe: "Thế Tôn đã đến Vesàli và ở tại vườn xoài của
ta". Dâm nữ Ambapàli liền cho thắng các cỗ xe thù thắng, tự leo lên
một chiếc, cùng với các cổ xe thù thắng xuất phát ra khỏi Vesàli và
đi đến vườn xoài. Nàng cỡi xe cho đến chỗ còn có thể cỡi xe được,
rồi xuống xe đi bộ đến tại chỗ Thế Tôn, khi đến liền đảnh lễ Ngài
và ngồi xuống một bên, Thế Tôn thuyết pháp cho dâm nữ Ambapàli đang ngồi
một bên, giảng dạy, khích lệ, làm cho phấn khởi, khiến tâm hoan hỷ.
Dâm nữ Ambapàli sau khi được Thế
Tôn giảng dạy, khích lệ, làm cho phấn khởi, khiến tâm hoan hỷ, liền bạch
Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, mong Thế Tôn ngày
mai nhận lời mời dùng cơm của chúng con với chúng Tỷ-kheo.
Thế Tôn im lặng nhận lời. Dâm nữ
Ambapali được biết Thế Tôn đã nhận lời, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh
lễ Ngài, thân bên phải hướng về đức Phật và từ biệt.
15. Các người Licchavi ở Vesàli
được nghe: "Thế Tôn đến Vesàli hiện ở vườn Ambapàli", liền
cho thắng các cỗ xe thù thắng leo lên xe rồi xuất phát ra khỏi Vesàli với
những cỗ xe ấy. Có những vị Licchavi toàn xanh, màu sắc xanh, mặc vải
màu xanh, mang đồ trang sức màu xanh. Có những vị Licchavi toàn vàng, màu sắc
vàng, mặc vải màu vàng, mang đồ trang sức màu vàng. Có những vị
Licchavi toàn đỏ, màu sắc đỏ, mặc vải màu đỏ, mang đồ trang sức màu
đỏ. Có những vị Licchavi toàn trắng, màu sắc trắng, mặc vải màu trắng,
mang đồ trang sức màu trắng.
16. Lúc bấy giờ dâm nữ Ambapàli
đánh xe va chạm với các thanh niên Licchavi, trục xe chạm với trục xe,
bánh xe chạm với bánh xe, gọng xe chạm với gọng xe. Các Licchavi nói với
dâm nữ Ambapàli:
- Này Ambapàli, tại sao nàng lại đánh
xe va chạm với các thanh niên Licchavi, trục xe chạm với trục xe, bánh xe
chạm với bánh xe, gọng xe chạm với gọng xe?
- Này quý Công tử của tôi, tôi vừa
mới mời Thế Tôn cùng chúng Tỷ-kheo ngày mai đến dùng cơm.
- Này Ambapàli, hãy nhường cho chúng
ta bữa cơm ấy đổi lấy một trăm ngàn.
- Dầu quý Công tử có cho tôi cả
thành Vesàli cùng với các đất phụ thuộc, tôi cũng không nhường bữa
cơm quan trọng này.
Các vị Licchavi này tức tối búng
ngón tay và nói:
- Chúng ta bị cô thiếu nữ xoài
này đả thắng ! Chúng ta bị cô thiếu nữ xoài này phổng tay trên. Và
các vị Licchavi này cùng đi đến vườn Ambapàli.
17. Thế Tôn xa thấy các vị
Licchavi liền nói với các Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo nếu có vị Tỷ-kheo
nào chưa thấy các chư Thiên ở cõi Tam thập tam thiên, hãy ngó chúng
Licchavi, hãy nhìn chúng Licchavi. Này các Tỷ-kheo chúng Licchavi cũng giống
như chúng Tam thập tam thiên".
18. Các vị Licchavi ấy cỡi xe cho
đến chỗ còn có thể cỡi xe được, rồi xuống xe đi bộ đến tại chỗ
Thế Tôn, khi đến, liền đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên. Thế
Tôn thuyết pháp cho những vị Licchavi đang ngồi một bên, giảng dạy,
khích lệ, làm cho phấn khởi, khiến tâm hoan hỷ.
Các vị Licchavi sau khi được Thế
Tôn giảng dạy, khích lệ, làm cho phấn khởi, khiến tâm hoan hỷ liền bạch
Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, mong Thế Tôn ngày
mai nhận lời mời dùng cơm của chúng con với chúng Tỷ-kheo.
- Này các Licchavi, ngày mai Ta đã nhận
lời mời dùng cơm của dâm nữ Ambapàli rồi.
Các vị Licchavi này tức tối búng
ngón tay và nói: "Chúng ta bị cô thiếu nữ xoài này đả thắng ! Chúng
ta bị cô thiếu nữ xoài này phổng tay trên... "
Rồi những vị Licchavi này, hoan hỷ
tán thán lời dạy Thế Tôn, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Ngài,
thân bên hữu hướng về đức Phật và từ biệt.
19. Lúc bấy giờ dâm nữ Ambapali,
đêm vừa tàn canh, liền cho sửa soạn tại vườn của mình các món ăn
thượng vị loại cứng và loại mềm và cho báo tin Thế Tôn: "Bạch Thế
Tôn, giờ đã đến, cơm đã sẵn sàng". Thế Tôn buổi sáng đắp y,
đem theo y bát, cùng với chúng Tỷ-kheo đến tại túc xá của dâm nữ
Ambapàli, sau khi đến liền ngồi xuống chỗ đã soạn sẵn. Rồi dâm nữ
Ambapàli tự tay thân hành mời chúng Tỷ-kheo với đức Phật là vi thượng
thủ, dùng các món ăn thượng vị loại cứng và loại mềm.
Khi Thế Tôn dùng xong, tay đã rời
bát, dâm nữ Ambapàli lấy một ghế thấp khác và ngồi xuống một bên.
Sau khi ngồi xuống một bên, dâm nữ Ambapàli bạch Thế Tôn: "Bạch Thế
Tôn, con xin cúng dường ngôi vườn này cho chúng Tỷ-kheo với đức Phật là
vị thượng thủ".
Thế Tôn nhận lãnh khu vườn. Thế
Tôn thuyết pháp cho dâm nữ Ambapàli, khích lệ, làm cho phấn khởi, khiến
tâm hoan hỷ, rồi đứng dậy ra về.
20. Trong thời gian Thế Tôn ở
Vesàli, pháp thoại này được giảng cho chúng Tỷ-kheo:
- Đây là Giới, đây là Định, đây
là Tuệ. Định cùng tu với Giới sẽ đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn.
Tuệ cùng tu với Định sẽ đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tâm
cùng tu với Tuệ sẽ đưa đến giải thoát hoàn toàn các món lậu hoặc, tức
là dục lậu, hữu lậu (tri kiến lậu), vô minh lậu.
21. Rồi Thế Tôn, sau khi ở Vesàli
cho đến khi Ngài xem là vừa đủ, liền bảo tôn giả Ananda:
- Này Ananda, chúng ta hãy đi đến làng
Baluvà.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Tôn giả Ananda vâng lời Thế Tôn.
Rồi Thế Tôn cùng với đại chúng Tỷ-kheo đi đến làng Baluvà. Và Thế
Tôn trú tại làng này.
22. Thế Tôn nói với các Tỷ-kheo:
- Này các Tỷ Kheo hãy an cư trong mùa
mưa xung quanh Vesàli tại chỗ có bạn bè quen thuộc và thân tín. Còn Ta sẽ
an cư ở đây, tại làng Baluvà.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn !
Những Tỷ Kheo này vâng đáp Thế
Tôn và tìm chỗ an cư mùa mưa xung quanh Vesàli tại chỗ có bạn bè quyến
thuộc và thân tín. Còn Thế Tôn an cư tại làng Baluvà.
23. Trong khi Thế Tôn an cư trong mùa
mưa, một cơn bệnh trầm trọng khởi lên, rất đau đớn, gần như muốn
chết. Nhưng Thế Tôn giữ tâm chánh niệm, tỉnh giác, chịu đựng cơn đau
ấy, không một chút ta thán. Thế Tôn tự nghĩ: "Thật không hợp lẽ nếu
Ta diệt độ mà không có một lời với các đệ tử hầu cận Ta, không từ
biệt chúng Tỷ-kheo. Vậy Ta hãy lấy sức tinh tấn, nhiếp phục cơn bệnh
này, duy trì mạng căn và tiếp tục sống". Và Thế Tôn với sức tinh
tấn, nhiếp phục bệnh ấy duy trì mạng căn.
24. Rồi Thế Tôn lành bệnh. Sau khi
lành bệnh không bao lâu, đức Phật rời khỏi tịnh xá và ngồi trên ghế
đã soạn sẵn, trong bóng mát của ngôi tịnh xá. Lúc bấy giờ tôn giả
Ananda đến tại chỗ Thế Tôn, đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên.
Sau khi ngồi xuống một bên, tôn giả Ananda bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, con được thấy
Thế Tôn khỏe mạnh. Bạch Thế Tôn, con được thấy Thế Tôn kham nhẫn, bạch
Thế Tôn, thấy Thế Tôn bệnh hoạn, thân con cảm thấy yếu ớt như lau sậy,
mắt con mờ mịt không thấy rõ phương hướng, dầu cho, bạch Thế Tôn,
con được một chút an ủi rằng, Thế Tôn sẽ không diệt độ, nếu Ngài
chưa có lời di giáo lại cho chúng Tỷ-kheo.
25. Này Ananda, chúng Tỷ-kheo còn
mong mỏi gì nữa ở Ta! Này Ananda, Ta đã giảng Chánh pháp, không có phân
biệt trong ngoài (mật giáo và không phải mật giáo), vì này Ananda, đối với
các Pháp, Như Lai không bao giờ là vị Đạo sư còn nắm tay (còn giữ lại
một ít mật giáo chưa giảng dạy). Này Ananda, những ai nghĩ rằng:
"Như Lai là vị cầm đầu chúng Tỷ-kheo"; hay "chúng Tỷ-kheo chịu
sự giáo huấn của Như Lai" thời này Ananda, người ấy sẽ có lời di
giáo cho chúng Tỷ-kheo. Này Ananda, Như Lai không nghĩ rằng: "Ta là vị cầm
đầu chúng Tỷ-kheo; hay "chúng Tỷ-kheo chịu sự giáo huấn của
Ta" thời nay Ananda, làm sao Như Lai lại có lời di giáo cho chúng Tỷ-kheo?
Này Ananda, Ta nay đã già, đã thành bậc trưởng thượng, đã đến tuổi lâm
chung, đã đến tám mươi tuổi. Này Ananda, như cỗ xe đã già mòn, sở dĩ
còn chạy được là nhờ dây thắng chằng chịt, cũng vậy thân Như Lai
được duy trì sự sống giống như chính nhờ chống đỡ dây chằng. Này
Ananda, chỉ trong khi Như Lai không tác ý đến tất cả tướng, với sự diệt
trừ một số cảm thọ, chứng và an trú vô tướng tâm định, chính khi
ấy thân Như Lai được thoải mái.
26. Vậy nên, này Ananda, hãy tự
mình là ngọn đèn cho chính mình, hãy tự mình nương tựa chính mình, chớ
nương tựa một gì khác. Dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp
làm chỗ nương tựa, chớ nương tựa một gì khác. Này Ananda, thế nào là
vị Tỷ-kheo hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa
chính mình, không nương tựa một gì khác, dùng Chánh pháp làm ngọn đèn,
dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một gì khác.
Này Ananda, ở đời, vị Tỷ-kheo,
đối với thân quán thân, tinh tấn, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục mọi
tham ái, ưu bi trên đời; đối với các cảm thọ... đối với tâm... đối
với các pháp, quán pháp, tinh tấn, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục mọi
tham ái, ưu bi trên đời. Này Ananda, như vậy vị Tỷ-kheo tự mình là ngọn
đèn cho chính mình, tự mình nương tựa chính mình, không nương tựa một
gì khác, dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa,
không nương tựa một gì khác.
Này Ananda, những ai sau khi Ta diệt
độ, tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa chính
mình, không nương tựa một gì khác, dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng
Chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa vào một pháp gì khác, những
vị ấy, Này Ananda là những vị tối thượng trong hàng Tỷ-kheo của Ta, nếu
những vị ấy tha thiết học hỏi.
III
1. Rồi Thế Tôn vào buổi sáng đắp
y, đem theo y bát, vào Vesàli để khất thực. Sau khi khất thực ở Vesàli,
ăn xong và trên đường khất thực trở về Ngài nói với tôn giả Ananda:
- Này Ananda, hãy lấy tọa cụ. Ta
muốn đi đến điện thờ Càpàla, để nghỉ trưa.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Tôn giả Ananda vâng đáp Thế Tôn,
lấy tọa cụ và đi theo sau lưng Thế Tôn.
2. Thế Tôn đi đến điện thờ Càpàla,
khi đến Ngài ngồi trên chỗ đã soạn sẵn. Tôn giả Ananda đảnh lễ Thế
Tôn và ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với Tôn giả Ananda đang ngồi một
bên:
- Này Ananda, khả ái thay Vesàli, khả
ái thay điện thờ Udena, khả ái thay điện thờ Gotamaka, khả ái thay điện
thờ Sàttambaka, khả ái thay điện thờ Bahuputta, khả ái thay điện thờ Sàrandada,
khả ái thay điện thờ Càpàla.
3. Này Ananda, những ai đã tu bốn
thần túc, tu tập nhiều lần, thật lão luyện, thật chắc chắn, thật bền
vững, điêu luyện, thiện xảo, thời nếu muốn người ấy có thể sống
đến một kiếp hay phần kiếp còn lại. Này Ananda, nay Như Lai đã tu bốn
thần túc, tu tập nhiều lần, thật lão luyện, thật chắc chắn, thật bền
vững, điêu luyện, thiện xảo. Này Ananda, nếu muốn Như Lai có thể sống
đến một kiếp hay phần kiếp còn lại.
4. Nhưng Tôn giả Ananda không thể
nhận hiểu sự gợi ý quá rõ ràng, sự hiện tướng quá rõ ràng của Thế
Tôn; tôn giả không thỉnh cầu Thế Tôn: "Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy
ở lại cho đến trọn kiếp. Thiện Thệ hãy ở lại cho đến trọn kiếp
vì lợi ích cho chúng sanh, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng
cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho loài Trời và loài Người".
Vì tâm tôn giả bị Ma vương ám ảnh.
5. Lần thứ hai Thế Tôn... lần thứ
ba Thế Tôn nói với tôn giả Ananda:
- Này Ananda, khả ái thay Vesàli, khả
ái thay điện thờ Udena, khả ái thay điện thờ Gotamaka, khả ái thay điện
thờ Sattambaka, khả ái thay điện thờ Bahuputta, khả ái thay điện thờ Sàrandada,
khả ái thay điện thờ Capala !" Này Ananda, những ai đã tu bốn thần
túc, tu tập nhiều lần, thật lão luyện, thật chắc chắn, thật bền vững,
điêu luyện, thiện xảo thời, nếu người ấy muốn, có thể sống đến
một kiếp hay phần kiếp còn lại. Này Ananda, nay Như Lai đã tu bốn thần
túc, tu tập nhiều lần, thật lão luyện, thật chắc chắn, thật bền vững,
điêu luyện, thiện xảo. Này Ananda, nếu muốn, Như Lai có thể sống đến
một kiếp hay phần kiếp còn lại.
Nhưng tôn giả Ananda không thể nhận
hiểu sự gợi ý quá rõ ràng, sự hiện tướng quá rõ ràng của Thế Tôn,
Tôn giả không thỉnh cầu Thế Tôn: "Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy ở lại
cho đến trọn kiếp, Thiện Thệ hãy ở lại cho đến trọn kiếp, vì lợi
ích cho chúng sanh, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời,
vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho loài Trời và loài Người".
Vì tâm của tôn giả bị Ác ma ám ảnh.
6. Rồi Thế Tôn nói với tôn giả
Ananda:
- Này Ananda hãy đi và làm những
gì Ngươi nghĩ là phải thời.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Tôn giả Ananda vâng lời Thế Tôn,
từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Ngài, thân bên hữu hướng về Thế
Tôn và đi ra.
7. Tôn giả Ananda đi ra chưa bao lâu,
Ác ma liền đến chỗ Thế Tôn, khi đến xong liền đứng một bên. Sau khi
đứng một bên, Ác ma nói với Thế Tôn.
- Bạch Thế Tôn, nay Thế Tôn hãy
diệt độ, Thiện Thệ hãy diệt độ. Bạch Thế Tôn, nay đã đến thời
Thế Tôn diệt độ. Bạch Thế Tôn, đây là lời Thế Tôn đã nói:
"Này Ác ma, Ta sẽ không diệt độ khi nào những Tỷ-kheo của Ta chưa
trở thành những vị đệ tử chân chánh, sáng suốt, có kỷ luật, sẵn
sàng, đa văn, duy trì Chánh pháp, thành tựu Chánh pháp và tùy pháp, sống
chân chánh, sống theo Chánh pháp, sau khi học hỏi giáo lý, chưa có thể
tuyên bố, diễn giảng, trình bày, xác định, khai minh, phân tích, và giải
thích rõ ràng Chánh pháp, khi có tà đạo khởi lên chưa có thể chất vấn
và hàng phục một cách khéo léo, chưa có thể truyền bá Chánh pháp thần
diệu".
8. Bạch Thế Tôn, nay những Tỷ-kheo
của Thế Tôn, đã trở thành những vị đệ tử chân chánh, sáng suốt,
có kỷ luật, sẵn sàng, đa văn, duy trì Chánh pháp và tùy pháp, sống chân
chánh, sống theo Chánh pháp, sau khi học hỏi giáo lý, đã có thể tuyên bố,
diễn giảng, trình bày, xác định, khai minh, phân tách và giải thích rõ
ràng Chánh pháp, khi có tà đạo khởi lên đã có thể chất vấn và hàng
phục một cách khéo léo, đã có thể truyền bá Chánh pháp thần diệu. Như
vậy, nay Thế Tôn, hãy diệt độ, Thiện Thệ hãy diệt độ. Bạch Thế Tôn,
nay đã đến thời Thế Tôn diệt độ !
Bạch Thế Tôn, đây là lời Thế
Tôn đã nói: "Này Ác ma, Ta sẽ không diệt độ khi nào những Tỷ-kheo
ni của Ta chưa trở thành những vị đệ tử chơn chánh, sáng suốt, có kỷ
luật... khi nào những nam cư sĩ của Ta chưa trở thành những vị đệ tử
chơn chánh, sáng suốt, có kỷ luật, sẵn sàng, đa văn duy trì Chánh pháp,
thành tựu Chánh pháp và tùy pháp, sống chơn chánh, sống theo Chánh pháp,
sau khi học hỏi giáo lý, chưa có thể tuyên bố, diễn giảng, trình bày,
xác định, khai minh, phân tách, và giải thích rõ ràng Chánh pháp; khi nào
có tà đạo khởi lên, chưa có thể chất vấn và hàng phục một cách
khéo léo, chưa có thể truyền bá Chánh pháp thần diệu". Bạch Thế
Tôn, nay những nam cư sĩ của Thế Tôn đã trở thành những đệ tử chơn
chánh, sáng suốt, có kỷ luật, sẵn sàng, đa văn, duy trì Chánh pháp, đầy
đủ Chánh pháp và tùy pháp, sống chơn chánh, sống theo Chánh pháp, sau khi
học hỏi giáo lý đã có thể tuyên bố, diễn giảng, trình bày, xác định,
khai minh, phân tích và giải thích rõ ràng Chánh pháp; khi có tà đạo khởi
lên, đã có thể chất vấn và hàng phục một cách khéo léo, và có thể
truyền bá Chánh pháp thần diệu. Như vậy, nay Thế Tôn hãy diệt độ, Thiện
Thệ hãy diệt độ. Bạch Thế Tôn nay đã đến thời Thế Tôn diệt độ.
Bạch Thế Tôn, đây là lời Thế
Tôn đã nói: "Này Ác ma, Ta sẽ không diệt độ khi nào những nữ cư
sĩ của Ta chưa trở thành những vị đệ tử chơn chánh, sáng suốt, có kỷ
luật, sẵn sàng, đa văn, duy trì, Chánh pháp, thành tựu Chánh pháp và tùy
pháp, sống chơn chánh, sống theo Chánh pháp, sau khi học hỏi giáo lý, chưa
có thể tuyên bố, diễn giảng, trình bày, xác định, khai minh, phân tách,
và giải thích rõ ràng Chánh pháp; khi nào có tà đạo khởi lên, chưa có
thể chất vấn và hàng phục một cách khéo léo, chưa có thể truyền bá
chánh pháp một cách thần diệu". Bạch Thế Tôn, nay những nữ cư sĩ
của Thế Tôn đã trở thành những đệ tử chơn chánh, sáng suốt, có kỷ
luật, sẵn sàng, đa văn, duy trì Chánh pháp, thành tựu Chánh pháp và tùy
pháp, sống chơn chánh, sống theo Chánh pháp, sau khi học hỏi giáo lý đã
có thể tuyên bố, diễn giảng, trình bày, xác định, khai minh, phân tách,
và giải thích rõ ràng Chánh pháp; khi nào có tà đạo khởi lên, đã có thể
chất vấn và hàng phục một cách khéo léo, có thể truyền bá Chánh pháp
một cách thần diệu. Như vậy, nay Thế Tôn hãy diệt độ, Thiện Thệ hãy
diệt độ. Bạch Thế Tôn, nay đã đến thời Thế Tôn diệt độ.
Bạch Thế Tôn, đây là lời Thế
Tôn đã nói: "Này Ác ma, Ta sẽ không diệt độ khi nào phạm hạnh Ta
giảng dạy chưa thành tựu, thịnh đạt, phổ biến, quảng bá, biến mãn,
nghĩa là được khéo giảng dạy cho loài người". Bạch Thế Tôn, nay
phạm hạnh Thế Tôn giảng dạy đã được thành tựu, thịnh đạt, phổ
biến, quảng bá, biến mãn, nghĩa là được khéo giảng dạy cho loài người.
Như vậy, nay Thế Tôn hãy diệt độ, Thiện Thệ hãy diệt độ. Bạch Thế
Tôn nay đã đến thời Thế Tôn diệt độ.
9. Khi được nói vậy Thế Tôn nói
với Ác ma: "Này Ác ma hãy yên tâm, không bao lâu Như Lai sẽ diệt độ.
Sau ba tháng bắt đầu từ hôm nay, Như Lai sẽ diệt độ".
10. Và tại điện thờ Capala, Thế
Tôn chánh niệm, tỉnh giác, từ bỏ thọ, hành (không duy trì mạng sống
lâu hơn nữa). Khi Thế Tôn từ bỏ, không duy trì mạng sống thêm nữa, thời
đại địa chấn động, ghê rợn, tóc lông dựng ngược, sấm trời vang dậy.
Thế Tôn nhận hiểu ý nghĩa của sự kiện ấy, liền thốt câu kệ cảm
khái như sau:
- Mạng sống có hạn hay vô hạn,
- Tu sĩ từ bỏ, không kéo dài.
- Nội tâm chuyên nhất trú thiền định.
- Như tháo áo giáp đang mang mặc.
11. Lúc bấy giờ, tôn giả Ananda
suy nghĩ: "Thật là kỳ diệu ! Thật là hy hữu ! Đại địa chấn động,
đại địa rung động như vậy, ghê rợn, tóc lông dựng ngược và sấm trời
vang dậy. Do nhân gì, do duyên gì, đại địa chấn động như vậy?".
12. Rồi tôn giả Ananda đến tại
chỗ Thế Tôn, đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên. Khi ngồi xuống một
bên, tôn giả Ananda bạch Thế Tôn:
Bạch Thế Tôn, thật là kỳ diệu
! Bạch Thế Tôn thật là hy hữu ! Đại địa chấn động, đại địa rung
động như vậy, ghê rợn, tóc lông dựng ngược và sấm trời vang dậy. Bạch
Thế Tôn, do nhân gì, do duyên gì, đại địa chấn động như vậy ?
13. - Này Ananda, có tám nhân, có
tám duyên khiến đại địa chấn động. Thế nào là tám? Này Ananda, đại
địa này thiết lập trên nước, nước ở trên gió và gió ở tại hư không.
Này Ananda, đến thời đại phong khởi lên, gió lớn khi thổi làm nổi
sóng nước, và khi nước nổi sóng thì quả đất rung động. Đó là nhân
thứ nhất, duyên thứ nhất, đại địa chấn động.
14. Lại nữa này Ananda, có vị
Sa-môn hay Bà-la-môn có thần thông, tâm được chế ngự, hay hàng chư Thiên
có đại thần thông, có đại uy lực; những vị này quán địa tánh có hạn,
quán thủy tánh vô lượng, vị ấy có thể khiến quả đất này rung động,
chuyển động mạnh. Đó là nhân thứ hai, duyên thứ hai khiến đại địa
chấn động.
15. Lại nữa, này Ananda, khi vị Bồ-tát
ở cõi Tusita (Đâu suất) từ bỏ thân, chánh niệm, tỉnh giác, nhập vào mẫu
thai, khi ấy quả đất này rung động, chuyển động, chấn động mạnh. Đó
là nhân thứ ba, duyên thứ ba khiến đại địa chấn động.
16. Lại nữa, này Ananda, khi vị Bồ-tát,
chánh niệm, tỉnh giác, ra khỏi mẫu thai, khi ấy quả đất này rung động,
chuyển động, chấn động mạnh. Đó là nhân thứ tư, duyên thứ tư khiến
đại địa chấn động.
17. Lại nữa, này Ananda, khi Như Lai
chứng ngộ vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, khi ấy quả đất rung động,
chuyển động, chấn động mạnh. Đó là nhân thứ năm, duyên thứ năm khiến
đại địa chấn động.
18. Lại nữa, này Ananda, khi Như Lai
chuyển bánh xe Pháp, khi ấy quả đất này rung động, chuyển động, chấn
động mạnh. Đó là nhân thứ sau, duyên thứ sau, khiến đại địa chấn
động.
19. Lại nữa, này Ananda, khi Như
Lai, chánh niệm, tỉnh giác, từ bỏ, không duy trì mạng sống, khi ấy quả
đất này rung động, chuyển động, chấn động mạnh. Đó là nhân thứ bảy,
duyên thứ bảy, khiến đại địa chấn động.
20. Lại nữa, này Ananda, khi Như Lai
nhập vô dư y Niết Bàn, khi ấy quả đất này rung động, chuyển động,
chấn động mạnh. Đó là nhân thứ tám duyên thứ tám, khiến đại địa
chấn động. Này Ananda, do tám nhân này, tám duyên này, khiến đại địa
chấn động.
21. Này Ananda, có tám chúng. Thế
nào là tám. Chúng Sát-đế-Lỵ, chúng Bà-la-môn, chúng Cư sĩ, chúng Sa-môn,
chúng Bốn Thiên vương, chúng Tam thập tam thiên, chúng Ma, chúng Phạm
thiên.
22. Này Ananda, Ta nhớ lại Ta đã đến
chúng Sát -đế-lỵ hơn một trăm lần. Tại đây trước khi Ta ngồi, trước
khi Ta nói chuyện, và trước khi cuộc đối thoại bắt đầu, dung sắc của
chúng Sát-đế-lỵ như thế nào, dung sắc của Ta cũng như vậy; giọng nói
chúng như thế nào, giọng nói của Ta cũng như vậy. Và với bài pháp thoại,
Ta giảng dạy, khích lệ, làm cho phấn khởi, khiến tâm hoan hỷ. Khi Ta
đang nói, chúng không biết: "Kẻ nói ấy là ai, là chư Thiên chăng, là
Người chăng?" sau khi Ta giảng dạy, khích lệ, làm cho phấn khởi, khiến
tâm hoan hỷ với bài pháp thoại, Ta biến mất. Khi Ta biến mất, chúng
không biết: "Kẻ biến mất ấy là ai, là chư Thiên chăng, là Ngươi
chăng?".
23. Này Ananda. Ta nhớ lại Ta đã đến
chúng Bà-la-môn hơn một trăm lần... chúng Cư sĩ... chúng Sa-môn... chúng Bốn
Thiên vương... chúng Tam thập tam thiên... chúng Ma... chúng Phạm thiên hơn
trăm lần, tại đây trước khi Ta ngồi, trước khi Ta nói chuyện và trước
khi cuộc đối thoại bắt đầu dung sắc của chúng Phạm thiên như thế nào,
dung sắc của Ta cũng vậy; giọng nói của chúng như thế nào, giọng nói của
Ta cũng vậy. Và với bài pháp thoại, Ta giảng dạy, khích lệ, làm cho phấn
khởi, khiến tâm hoan hỷ. Khi Ta đang nói, chúng không biết: "Kẻ nói
ấy là ai, là chư Thiên chăng, là Người chăng?" Sau khi Ta giảng dạy,
khích lệ, làm cho phấn khởi, khiến tâm hoan hỷ, Ta biến mất. Khi Ta biến
mất, chúng không biết: "Kẻ biến mất đó là ai, là chư Thiên chăng,
là Người chăng?" Này Ananda, như vậy là tám chúng.
24. Này Ananda, có tám thắng xứ. Thế
nào là tám?
25. Một vị quán tưởng nội sắc,
thấy các loại ngoại sắc, có hạn lượng, đẹp, xấu. Vị ấy nhận thức
rằng: "Sau khi nhiếp thắng chúng, ta biết, ta thấy", đó là thắng
xứ thứ nhất.
26. Một vị quán tưởng nội sắc,
thấy các loại ngoại sắc vô lượng, đẹp, xấu. Vị ấy nhận thức rằng:
"Sau khi nhiếp thắng chúng, ta biết, ta thấy", đó là thắng xứ thứ
hai.
27. Một vị quán tưởng vô sắc
ở nội tâm, thấy các loại ngoại sắc có hạn lượng đẹp, xấu. Vị
ấy nhận thức rằng: "Sau khi nhiếp thắng chúng, ta biết, ta thấy",
đó là thắng xứ thứ ba.
28. Một vị quán tưởng vô sắc
ở nội tâm, thấy các loại ngoại sắc vô lượng, đẹp, xấu. Vị ấy nhận
thức rằng: "Sau khi nhiếp thắng chúng, ta biết, ta thấy", đó là
thắng xứ thứ tư.
29. Một vị quán tưởng vô sắc
ở nội tâm, thấy các loại ngoại sắc màu xanh, tướng sắc xanh, hình sắc
xanh, ánh sáng xanh - như bông gai màu xanh, tướng sắc xanh, hình sắc xanh,
ánh sáng xanh - như lụa Ba-la-nại, cả hai mặt láng trơn, màu xanh, tướng
sắc xanh, hình sắc xanh, ánh sáng xanh. Như vậy vị này quán tưởng vô sắc
ở nội tâm, thấy các loại ngoại sắc màu xanh, tướng sắc xanh, hình sắc
xanh ánh sáng xanh. Vị ấy nhận thức rằng: "Sau khi nhiếp thắng
chúng, ta biết, ta thấy", đó là thắng xứ thứ năm.
30. Một vị quán tưởng vô sắc
ở nội tâm, thấy các loại ngoại sắc màu vàng, sắc màu vàng, tướng màu
vàng, hình sắc vàng, ánh sáng vàng - như bông Kanikàra màu vàng, tướng sắc
vàng, hình sắc vàng, ánh sáng vàng - như lụa sa Balanại, cả hai mặt láng
trơn màu vàng, tướng sắc vàng hình sắc vàng - như vậy vị này quán tưởng
vô sắc ở nội tâm, thấy các loại ngoại sắc màu vàng, tướng sắc vàng,
hình sắc vàng, ánh sáng vàng, vị ấy nhận thức rằng: "Sau khi nhiếp
thắng chúng, ta biết, ta thấy", đó là thắng xứ thứ sáu.
31. Một vị quán tưởng vô sắc
ở nội tâm, thấy các loại ngoại sắc màu đỏ, sắc màu đỏ, tướng sắc
đỏ, hình sắc đỏ, ánh sáng đỏ - như bông bandhujìvaka màu đỏ, sắc màu
đỏ, tướng màu đỏ, hình sắc đỏ, ánh sáng đỏ - như lụa sa Balanại,
cả hai mặt láng trơn màu đỏ, sắc màu đỏ, tướng màu đỏ, hình sắc
đỏ, ánh sáng đỏ. Như vậy vị này quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy
các loại ngoại sắc màu đỏ tướng sắc đỏ, hình sắc đỏ, ánh sáng
đỏ, vị ấy nhận thức rằng: "Sau khi nhiếp thắng chúng, ta biết, ta
thấy", đó là thắng xứ thứ bảy.
32. Một vị quán tưởng vô sắc
ở nội tâm, thấy các loại ngoại sắc màu trắng, tướng sắc trắng, hình
sắc trắng, ánh sáng trắng - như sao mai Osadhi màu trắng, tướng sắc trắng,
hình sắc trắng, ánh sáng trắng - như lụa sa Balanại, cả hai mặt láng trơn
màu trắng, tướng sắc trắng, hình sắc trắng, ánh sáng trắng. Như vậy
vị này quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy các loại ngoại sắc màu
trắng, tướng sắc trắng, hình sắc trắng, ánh sáng trắng, vị ấy nhận
thức rằng: "Sau khi nhiếp thắng chúng, ta biết, ta thấy", đó là
thắng xứ thứ tám. Này Ananda như vậy là tám thắng xứ.
33. Này Ananda, tám giải thoát. Thế
nào là tám?
Tự mình có sắc, thấy các sắc;
đó là sự giải thoát thứ nhất.
Quán tưởng nội sắc là vô sắc,
thấy các ngoại sắc; đó là sự giải thoát thứ hai.
Quán tưởng (sắc là) tịnh, chú
tâm trên suy tưởng ấy; đó là sự giải thoát thứ ba.
Vượt khỏi hoàn toàn sắc tưởng,
diệt trừ các tưởng hữu đối, không tác ý đến những tưởng khác biệt,
với suy tư "hư không là vô biên", chứng và trú Không vô biên xứ;
đó là sự giải thoát thứ tư.
Vượt khỏi hoàn toàn Không vô
biên xứ, với suy tư "thức là vô biên", chứng và trú Thức vô
biên xứ; đó là giải thoát thứ năm.
Vượt khỏi hoàn toàn Thức vô
biên xứ, với suy tư "không có vật gì", chứng và trú Vô sở hữu
xứ; đó là sự giải thoát thứ sáu.
Vượt khỏi hoàn toàn Vô sở hữu
xứ, chứng và trú Phi tưởng phi phi tưởng xứ; đó là sự giải thoát thứ
bảy.
Vượt khỏi hoàn toàn Phi tưởng
phi phi tưởng xứ, chứng và trú Diệt thọ tưởng; đó là sự giải thoát
thứ tám.
Này Ananda, như vậy là tám giải
thoát.
34. Này Ananda, một thời Ta ở tại
Uruvelà, trên bờ sông Neranjara, dưới gốc cây Ajapàlanigrodha khi Ta mới
thành đạo. Này Ananda, lúc bấy giờ Ác ma đến tại chỗ Ta ở, khi đến
xong liền đứng một bên. Này Ananda, sau khi đứng một bên, Ác ma nói với
Ta: "Bạch Thế Tôn, nay Thế Tôn hãy diệt độ, Thiện Thệ hãy diệt
độ. Bạch Thế Tôn nay đã đến thời Thế Tôn diệt độ".
35. Này Ananda, khi được nói vậy,
Ta nói với Ác ma:
- "Này Ác ma, Ta sẽ không diệt
độ khi nào những Tỷ-kheo của ta chưa thành những đệ tử chơn chánh,
sáng suốt, có kỷ luật, sẵn sàng, đa văn, duy trì Chánh pháp, thành tựu
Chánh pháp và Tùy pháp, sống chơn chánh, sống theo Chánh pháp, sau khi học
hỏi giáo lý chưa có thể tuyên bố, diễn giảng, trình bày, xác định,
khai minh, phân tách và giải thích rõ ràng Chánh pháp; khi có tà đạo khởi
lên, chưa có thể chất vấn và hàng phục một cách khéo léo, chưa có truyền
bá Chánh pháp thần diệu.
Này Ác ma, Ta sẽ không diệt độ
khi nào những Tỷ-kheo ni của Ta chưa trở thành những đệ tử chơn chánh,
sáng suốt, có kỷ luật, sẵn sàng, đa văn, duy trì Chánh pháp, thành tựu
Chánh pháp và tùy pháp, sống chơn chánh, sống theo Chánh pháp, sau khi học
hỏi giáo lý chưa có thể tuyên bố, diễn giảng, trình bày, xác định,
khai minh, phân tách và giải thích rõ ràng Chánh pháp; khi có tà đạo khởi
lên, chưa có thể chất vấn và hàng phục một cách khéo léo, chưa có thể
truyền bá Chánh pháp thần diệu.
Này Ác ma, Ta sẽ không diệt độ
khi nào những nam cư sĩ của Ta chưa trở thành những đệ tử chơn chánh,
sáng suốt, có kỷ luật, sẵn sàng, đa văn, duy trì Chánh pháp, thành tựu
chánh pháp và tùy pháp, sống chơn chánh, sống theo chánh pháp, sau khi học
hỏi giáo lý chưa có thể tuyên bố diễn giảng trình bày, xác định, khai
minh, phân tách và giải thích rõ ràng Chánh pháp; khi có tà đạo khởi lên,
chưa có thể chất vấn và hàng phục một cách khéo léo, chưa có thể truyền
bá chánh pháp thần diệu.
Này Ác ma, Ta sẽ không diệt độ
khi nào những nữ cư sĩ của Ta chưa trở thành những đệ tử chơn chánh,
sáng suốt, có kỷ luật, sẵn sàng, đa văn, duy trì Chánh pháp, thành tựu
chánh pháp và tùy pháp, sống chơn chánh, sống theo chánh pháp, sau khi học
hỏi giáo lý chưa có thể tuyên bố diễn giảng trình bày, xác định, khai
minh, phân tách và giải thích rõ ràng Chánh pháp; khi có tà đạo khởi lên,
chưa có thể chất vấn và hàng phục một cách khéo léo, chưa có thể truyền
bá chánh pháp thần diệu.
Này Ác ma, Ta không diệt độ khi nào
phạm hạnh mà Ta giảng dạy chưa được thành tựu, thịnh đạt, phổ biến,
quảng bá, biến mãn, nghĩa là được khéo giảng dạy cho loài Người.
36. Này Ananda, hôm nay tại điện thờ
Càpàla, Ác ma đến Ta, sau khi đến liền đứng một bên. Này Ananda, Ác ma
đứng một bên nói với Ta như sau:
"Bạch Thế Tôn, nay Thế Tôn
hãy diệt độ, Thiện Thệ hãy diệt độ. Bạch Thế Tôn, nay đã đến thời
Thế Tôn diệt độ. Bạch Thế Tôn, đây là lời Thế Tôn đã nói:
"Này Ác ma, Ta sẽ không diệt độ khi nào những Tỷ-kheo của Ta chưa
trở thành những đệ tử chơn chánh, sáng suốt, có kỷ luật, sẵn sàng,
đa văn, duy trì Chánh pháp, thành tựu Chánh pháp và tùy pháp, sống chân
chánh, sống theo Chánh pháp, sau khi học hỏi giáo lý, chưa có thể tuyên bố,
diễn giảng, trình bày, xác định, khai minh, phân tách và giải thích rõ
ràng Chánh pháp; khi có tà đạo khởi lên, chưa có thể chất vấn và hàng
phục một cách khéo léo, chưa có thể truyền bá Chánh pháp thần diệu".
Bạch Thế Tôn, nay những Tỷ-kheo của Thế Tôn đã trở thành những đệ
tử chơn chánh, sáng suốt, có kỷ luật, sẵn sàng, đa văn, duy trì Chánh
pháp, thành tựu Chánh pháp và tùy pháp, sống chân chánh, sống theo Chánh
pháp, sau khi học hỏi giáo lý đã có thể tuyên bố, diễn giảng, trình
bày, xác định, khai minh, phân tách và giải thích rõ ràng Chánh pháp, khi
có tà đạo khởi lên, đã có thể chất vấn và hành phục một cách khéo
léo, đã có thể truyền bá Chánh pháp một cách thần diệu. Như vậy, nay
Thế Tôn hãy diệt độ, Thiện Thệ hãy diệt độ. Bạch Thế Tôn, nay đã
đến thời Thế Tôn diệt độ.
Bạch Thế Tôn đây là lời Thế
Thôn đã nói: "Này Ác ma, ta sẽ không diệt độ khi nào những Tỷ-kheo
ni của Ta... ; khi nào những cư sĩ của Ta... ; khi nào phạm hạnh Ta giảng
dạy chưa được thành tựu, thịnh đạt, phổ biến, quảng bá, biến mãn
nghĩa là được khéo giảng dạy cho loài Người". Bạch Thế Tôn, nay
phạm hạnh Thế Tôn giảng dạy đã được thành tựu, thịnh đạt, phổ
biến, quảng bá, biến mãn nghĩa là được khéo giảng dạy cho loài Người.
Như vậy, nay Thế Tôn hãy diệt độ, Thiện Thệ hãy diệt độ. Bạch Thế
Tôn nay đã đến thời Thế Tôn diệt độ".
37. Khi được nói vậy, Ta nói với
Ác ma:
"Này Ác ma, hãy an tâm, không
bao lâu Như Lai sẽ diệt độ. Sau ba tháng bắt đầu từ hôm nay Như Lai sẽ
diệt độ".
Này Ananda, hôm nay tại điện thờ
Càpàla, Như Lai chánh niệm, tỉnh giác, từ bỏ thọ, hành (không duy trì mạng
sống lâu hơn nữa).
38. Khi được nói vậy, tôn giả
Ananda bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy ở lại
cho đến trọn kiếp, Thiện Thệ hãy ở lại cho đến trọn kiếp, vì lợi
ích cho chúng sanh, viứ hạnh phúc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho
đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc cho loài Trời và loài Người.
- Thôi đi, này Ananda, đừng có thỉnh
cầu Như Lai nữa. Này Ananda, nay thỉnh cầu Như Lai không còn kịp thời.
39. Lần thứ hai, tôn giả Ananda...
Lần thứ ba, tôn giả Ananda bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy ở lại
cho đến trọn kiếp, Thiện Thệ hãy ở lại cho đến trọn kiếp, vì lợi
ích cho chúng sanh, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời,
vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho loài Trời và loài Người.
- Này Ananda, Ngươi có tin sự giác
ngộ Thế Tôn không?
- Bạch Thế Tôn, con có tin!
- Vậy, này Ananda, sao Ngươi lại làm
phiền Như Lai đến ba lần.
40. - Bạch Thế Tôn, chính con được
tận mặt, đích thân nghe Thế Tôn dạy như sau: "Này Ananda, những ai đã
tu bốn thần túc, tu tập nhiều lần, thật lão luyện, thật chắc chắn,
thật bền vững, điêu luyện, thiện xảo thời, nếu muốn, người ấy có
thể sống đến một kiếp, hay phần kiếp còn lại. Này Ananda, nay Như Lai
đã tu bốn thần túc... Như Lai có thể sống đến một kiếp hay phần kiếp
còn lại".
- Này Ananda, Ngươi có tin tưởng không?
- Bạch Thế Tôn, con có tin tưởng!
- Này Ananda, như vậy là lỗi của
Ngươi, như vậy là khuyết điểm của Ngươi, đã không nhận hiểu sự gợi
ý quá rõ ràng, sự hiện tướng quá rõ ràng của Như Lai, Ngươi không thỉnh
cầu Thế Tôn: "Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy ở lại cho đến trọn kiếp,
Thiện Thệ hãy ở lại cho đến trọn kiếp, vì lợi ích cho chúng sanh, vì
hạnh phúc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì
hạnh phúc, vì an lạc cho loài Trời và loài Người". Này Ananda, nếu
Ngươi thỉnh Như Lai, Như Lai có thể bác bỏ hai lần cầu thỉnh, nhưng đến
lần thứ ba, Như Lai có thể nhận lời. Này Ananda như vậy là lỗi của Ngươi,
như vậy là khuyết điểm của Ngươi.
41. Này Ananda, một thời Ta ở tại
Vương Xá, núi Linh Thứu (Gijjha Kuta). Tại đấy Ta nói với Ananda: "Này
Ananda, khả ái thay thành Vương Xá ! Khả ái thay núi Linh Thứu ! Này Ananda,
những ai đã tu bốn thần túc, tu tập nhiều lần, thật lão luyện, thật
chắc chắn, thật bền vững, điêu luyện, thiện xảo thời, nếu người
ấy muốn, có thể sống đến một kiếp, hay phần kiếp còn lại. Này
Ananda, nay Như Lai đã tu bốn thần túc, tu tập nhiều lần, thật lão luyện,
thật chắc chắn, thật bền vững, điêu luyện, thiện xảo. Này Ananda, nếu
muốn, Như Lai có thể sống đến một kiếp hay phần kiếp còn lại".
Dầu vậy, này Ananda, Ngươi không thể nhận hiểu sự gợi ý quá rõ ràng,
sự hiện tướng quá rõ ràng của Thế Tôn. Ngươi không thỉnh cầu Thế
Tôn: "Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy ở lại cho đến trọn kiếp, Thiện
Thệ hãy ở lại cho đến trọn kiếp, vì lợi ích cho chúng sanh, vì hạnh
phúc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh
phúc, vì an lạc cho loài Trời và loài Người". Này Ananda, nếu Ngươi
cầu thỉnh Như Lai, Như Lai có thể bác bỏ hai lần cầu thỉnh, nhưng đến
lần thứ ba, Như Lai có thể nhận lời. Này Ananda, như vậy là lỗi của
Ngươi, như vậy là khuyết điểm của Ngươi".
42. Này Ananda, một thời Ta ở
thành Vương Xá, tại Nigrodhàràma... Ta cũng ở thành Vương Xá tại
Corapapàta... Ta cũng ở thành Vương Xá, hang Sattapanni trên núi Vebhàra... Ta
cũng ở thành Vương Xá, tại hang đá Kàla, trên núi Isigili... Ta cũng ở thành
Vương Xá, tại khu rừng Sita trong hang đá Sappasondika... Ta cũng ở thành Vương
Xá, tại Tapodàràma... Ta cũng ở thành Vương Xá, Trúc Lâm, hồ Kalandaka...
Ta cũng ở thành Vương Xá, tại rừng Jìvakambavana... Ta cũng ở thành Vương
Xá tại Maddakucchi ở Lộc Uyển.
43. Này Ananda, tại đấy Ta nói:
"Này Ananda, khả ái thay thành Vương Xá, khả ái thay núi Linh Thứu, khả
ái thay Nigrodhàràma, khả ái thay Corapapàta, khả ái thay hang Sattapanni trên
núi Vebhara, khả ái thay hang đá Kàla trên núi Isigili, khả ái thay hang đá
Sappasondika trong rừng Sìta, khả ái thay suối nước nóng Tapodàràma, khả
ái thay hồ con sóc ở tại Trúc Lâm, khả ái thay rừng Jìvakambavana, khả
ái thay vườn Nai ở tại Maddakucchi"!
44. "Này Ananda, những ai đã tu
bốn thần túc, tu tập nhiều lần, thật lão luyện, thật chắc chắn, thật
bền vững, điêu luyện, thiện xảo thời, nếu người ấy muốn, có thể
sống đến một kiếp, hay phần kiếp còn lại. Này Ananda, nay Như Lai đã
tu bốn thần túc, tu tập nhiều lần, thật lão luyện, thật chắc chắn,
thật bền vững, điêu luyện, thiện xảo. Này Ananda, nếu muốn, Như Lai có
thể sống đến một kiếp hay phần kiếp còn lại". Dầu vậy, này
Ananda, Ngươi không thể nhận hiểu sự gợi ý quá rõ ràng, sự hiện tướng
quá rõ ràng của Thế Tôn. Ngươi không thỉnh cầu Thế Tôn: "Bạch Thế
Tôn, Thế Tôn hãy ở lại cho đến trọn kiếp, Thiện Thệ hãy ở lại cho
đến trọn kiếp, vì lợi ích cho chúng sanh, vì hạnh phúc cho chúng sanh,
vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho
loài Trời và loài Người". Này Ananda, nếu Ngươi cầu thỉnh Như Lai,
Như Lai có thể bác bỏ hai lần cầu thỉnh, nhưng đến lần thứ ba, Như
Lai có thể nhận lời. Này Ananda, như vậy là lỗi của Ngươi, như vậy là
khuyết điểm của Ngươi". 45. Này Ananda, một thời Ta ở Vesàli tại
điện thờ Udena.
Tại đấy, này Ananda, Ta cũng nói.
"Này Ananda, khả ái thay Vesàli, khả ái thay điện thờ Udena. Này
Ananda, những ai đã tu bốn thần túc, tu tập nhiều lần, thật lão luyện,
thật chắc chắn, thật bền vững, điêu luyện, thiện xảo thời, nếu người
ấy muốn, có thể sống đến một kiếp hay phần kiếp còn lại. Này
Ananda, nay Như Lai đã tu bốn thần túc, tu tập nhiều lần, thật lão luyện,
thật chắc chắn, thật bền vững, điêu luyện, thiện xảo thời, nếu muốn,
Như Lai có thể sống đến một kiếp hay phần kiếp còn lại". Dầu vậy,
này Ananda, Ngươi không thể nhận hiểu sự gợi ý quá rõ ràng, sự hiện
tướng quá rõ ràng của Như Lai, Ngươi không thỉnh cầu Như Lai: "Bạch
Thế Tôn, Thế Tôn hãy ở lại cho đến trọn kiếp, Thiện Thệ hãy ở lại
cho đến trọn kiếp, vì lợi ích cho chúng sanh, vì hạnh phúc cho chúng
sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc
cho lời Trời và loài Người". Này Ananda, nếu Ngươi cầu thỉnh Như
Lai, Như Lai có thể bác bỏ hai lần cầu thỉnh, nhưng đến lần thứ ba,
Như Lai có thể nhận lời. Này Ananda, như vậy là lỗi của Ngươi, như vậy
là khuyết điểm của Ngươi.
46. Này Ananda, một thời Ta ở
thành Vesàli tại điện thờ Gotamaka... ta cũng ở thành Vesàli tại điện
thờ Sattambaka... Ta cũng ở thành Vesàli tại điện thờ Bahuputta... Ta cũng
ở thành Vesàli tại điện thờ Sàrandada...
47. Này Ananda, hôm nay tại điện thờ
Càpàla, Ta nói với ngươi: "Này Ananda, khả ái thay Vesàli, khả ái thay
điện thờ Udena, khả ái thay điện thờ Gotamaka, khả ái thay điện thờ
Sattamba, khả ái thay điện thờ Buhuputta, khả ái thay điện thờ Sàrandada,
khả ái thay đền Càpàla. Này Ananda, những ai đã tu bốn thần túc, tu tập
nhiều lần, thật lão luyện, thật chắc chắn, thật bền vững, điêu luyện,
thiện xảo thời, nếu muốn, người ấy có thể sống đến một kiếp hay
phần kiếp còn lại. Này Ananda, Như Lai đã tu bốn thần túc, tu tập nhiều
lần, thật lão luyện, thật chắc chắn, thật bền vững, điêu luyện, thiện
xảo. Này Ananda, nếu muốn, Như Lai có thể sống đến một kiếp hay phần
kiếp còn lại". Dầu vậy, này Ananda, Ngươi không thể nhận hiểu sự
gợi ý quá rõ ràng, sự hiện tướng quá rõ ràng của Như Lai, Ngươi không
thỉnh cầu Thế Tôn: "Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy ở lại cho đến trọn
kiếp, Thiện Thệ hãy ở lại cho đến trọn kiếp, vì lợi ích cho chúng
sanh, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi
ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho loài Trời và loài Người". Này
Ananda, nếu Ngươi cầu thỉnh Như Lai; Như Lai có thể bác bỏ hai lần cầu
thỉnh, nhưng đến lần thứ ba, Như Lai có thể nhận lời. Này Ananda, như
vậy là lỗi của Ngươi, như vậy là khuyết điểm của Ngươi.
48. Này Ananda, phải chăng ngay từ
ban đầu Ta đã từng tuyên bố rằng mọi vật ưu ái, thân hình đều phải
bị thay đổi, trở về hư không, biến dịch ? Này Ananda, làm sao có thể
được như vầy: Những gì sanh khởi, tồn tại, hữu vi, chịu sự biến hoại
mà lại mong khỏi có sự biến diệt ? Thật không có sự trạng ấy. Này
Ananda, những gì Như Lai đã từ bỏ, dứt khoát, xả ly, phóng xả, khước
từ, chính là thọ, hành. Như Lai đã nói và nói một cách dứt khoát:
"Không lâu, Như Lai sẽ diệt độ. Sau ba tháng bắt đầu hôm nay, Như
Lai sẽ diệt độ". Nói rằng Như Lai vì muốn sống mà phản lại lời
tuyên bố trên thời thật không có sự trạng ấy.
Này Ananda, chúng ta hãy đi đến giảng
đường Kùtagàra tại rừng Đại Lâm.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn !
Tôn giả Ananda vâng lời Thế Tôn.
49. Rồi Thế Tôn cùng tôn giả
Ananda đi đến giảng đường Kùtagàra vườn Đại Lâm, khi đi đến, Thế
Tôn nói với tôn giả Ananda:
- Này Ananda, hãy đi mời tất cả Tỷ-kheo
sống ở gần Vesàli tụ họp tại giảng đường này.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn !
Tôn giả Ananda vâng lời Thế Tôn,
đi mời tất cả vị Tỷ-kheo sống ở gần Vesàli tụ họp tại giảng đường,
rồi đi đến chỗ Thế Tôn, đảnh lễ Ngài và đứng một bên. Sau khi đứng
một bên, tôn giả Ananda bạch Thế Tôn :
- Bạch Thế Tôn, chúng Tỷ-kheo đã
tụ họp. Bạch Thế Tôn, Ngài hãy làm những gì Ngài nghĩ là hợp thời.
50. Thế Tôn liền đi đến giảng
đường và ngồi trên chỗ đã soạn sẵn. Sau khi ngồi, Thế Tôn nói với
các vị Tỷ-kheo:
- Này các Tỷ-kheo, nay những pháp
do Ta chứng ngộ và giảng dạy cho các Ngươi, các Ngươi phải khéo học hỏi,
thực chứng tu tập và truyền rộng để phạm hạnh được trường tồn,
vĩnh cửu, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương
tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho loài Trời và
loài Người. Này các Tỷ-kheo, thế nào là các pháp do Ta chứng ngộ và giảng
dạy, các Ngươi phải khéo học hỏi, thực chứng, tu tập và truyền rộng
để cho phạm hạnh được trường tồn, vĩnh cửu, vì hạnh phúc cho chúng
sanh, vì an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi
ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho loài Trời và loài Người? Chính là Bốn
Niệm xứ, Bốn Chánh cần, Bốn Thần túc, Năm Căn, Năm Lực, Bảy Bồ-đề
phần, Tám Thánh đạo phần. Này các Tỷ-kheo, chính những pháp này do Ta chứng
ngộ và giảng dạy, mà các Ngươi phải khéo học hỏi, thực chứng, tu tập
và truyền rộng để phạm hạnh được trường tồn, vĩnh cửu, vì hạnh
phúc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng của đời, vì lợi ích, vì hạnh
phúc, vì an lạc cho loài Trời và loài Người.
51. Rồi Thế Tôn nói với các Tỷ-kheo:
- Này các Tỷ-kheo, đây là lời Ta
nhắn nhủ các Ngươi. Các hành là vô thường. Hãy tinh tấn lên để tự
giải thoát, không lâu Như Lai sẽ diệt độ. Sau ba tháng bắt đầu từ hôm
nay, Như Lai sẽ diệt độ.
Đó là lời Thế Tôn dạy. Sau khi
nói vậy, Thiện Thệ lại nói thêm:
- Ta đã già, dư mạng chẳng còn bao,
- Từ biệt các Ngươi, Ta đi một mình.
- Tự mình làm sở y cho chính mình,
- Hãy tinh tấn, chánh niệm, giữ giới luật,
- Nhiếp thúc ý chí, bảo hộ tự tâm.
- Ai tinh tấn trong pháp và luật này
- Sẽ diệt sanh tử, chấm dứt khổ đau.
IV
1. Rồi Thế Tôn, vào buổi sáng đắp
y, đem theo y bát, vào Vesàli để khất thực. Sau khi khất thực ở Vesàli,
ăn xong và trên đường khất thực trở về, Thế Tôn nhìn Vesàli với cái
nhìn của con voi chúa rồi nói với tôn giả Ananda:
- Này Ananda, lần này là lần cuối
cùng, Như Lai nhìn Vesàli. Này Ananda, chúng ta hãy đi đến làng Bhandagàma.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn !
Tôn giả Ananda vâng lời Thế Tôn .
Rồi Thế Tôn cùng với đại chúng Tỷ-kheo đi đến Bhandagàma. Tại đây,
Thế Tôn ở tại Bhandagàma.
2. Rồi Thế Tôn nói với Tỷ-kheo:
- Này các Tỷ-kheo, chính vì không
giác ngộ, không chứng đạt bốn Pháp mà Ta và các Ngươi lâu đời phải
trôi lăn trong biển sanh tử. Thế nào là bốn? Này các Tỷ-kheo, chính vì
không giác ngộ không chứng đạt Thánh Giới mà Ta và các Ngươi lâu đời
phải trôi lăn trong biển sanh tử. Này các Tỷ-kheo, chính vì không giác ngộ,
không chứng đạt Thánh Định mà Ta và các Ngươi lâu đời phải trôi lăn
trong biển sanh tử. Này các Tỷ-kheo, chính vì không giác ngộ, không chứng
đạt Thánh Tuệ mà Ta và các Ngươi lâu đời phải trôi lăn trong biển
sanh tử. Này các Tỷ-kheo, chính vì không giác ngộ, không chứng đạt Thánh
giải thoát mà Ta và các Ngươi lâu đời phải trôi lăn trong biển sanh tử.
Này các Tỷ-kheo, khi Thánh Giới được giác ngộ, được chứng đạt; khi
Thánh Định được giác ngộ, được chứng đạt; khi Thánh Tuệ được giác
ngộ, được chứng đạt; khi Thánh giải thoát được giác ngộ, được chứng
đạt, thời tham ái một đời sống tương lai được trừ diệt, những gì
đưa đến một đời sống mới được dứt sạch, nay không còn một đời
sống nào nữa.
3. Đó là lời Thế Tôn dạy. Sau
khi nói vậy, Thiện Thệ lại nói thêm:
- Giới, Định, Tuệ và Giải thoát vô thượng
- Gotama danh xưng đã chứng ngộ.
- Đấng Giác Ngộ giảng pháp chúng Tỷ-kheo.
- Đạo Sư diệt khổ, pháp nhãn, tịnh lạc.
4. Trong thời gian Thế Tôn ở tại
Bhandagàma, pháp thoại này được giảng cho chúng Tỷ-kheo:
- Đây là Giới, đây là Định, đây
là Tuệ, Định cùng tu với Giới sẽ đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn.
Tuệ cùng tu với Định sẽ đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tâm
cùng tu với Tuệ sẽ đưa đến giải thoát hoàn toàn các món lậu hoặc, tức
là dục lậu, hữu lậu (tri kiến lậu), vô minh lậu.
5. Rồi Thế Tôn, sau khi ở
Bhandagàma cho đến khi Ngài xem là vừa đủ, liền nói với tôn giả Ananda:
- Này Ananda, chúng ta hãy đi đến
Hatthigam... Ambagama... Jambugama..., hãy đi đến Bhoganagara.
6. - Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Tôn giả Ananda vâng đáp Thế Tôn.
Rồi Thế Tôn cùng với đại chúng Tỷ-kheo đi đến Bhoganagara.
7. Tại đây, Thế Tôn ở Bhoganagara
tại đền Ananda, Ngài nói với các Tỷ-kheo:
- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng bốn
Đại giáo pháp, hãy nghe và suy nghiệm kỹ, Ta sẽ giảng.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Các Tỷ-kheo ấy vâng lời Thế
Tôn, Thế Tôn giảng như sau:
8. - Này các Tỷ-kheo, có thể có Tỷ-kheo
nói: "Này Hiển giả, tôi tự thân nghe từ miệng Thế Tôn, tự thân
lãnh thọ, như vậy là Pháp, như vậy là Luật, như vậy là lời dạy của
vị Đạo Sư". Này các Tỷ-kheo, các Ngươi không nên tán thán, không
nên hủy báng lời nói của Tỷ-kheo ấy. Không tán thán, không hủy báng, mỗi
mỗi chữ, mỗi mỗi câu, cần phải được học hỏi kỹ lưỡng và đem so
sánh với Kinh, đem đối chiếu với Luật. Khi đem so sanh với Kinh, đối
chiếu với Luật, nếu chúng không phù hợp với Kinh, không tương ứng với
Luật thời các Ngươi có thể kết luận: "Chắc chắn những lời này
không phải là lời Thế Tôn, và Tỷ-kheo ấy đã thọ giáo sai lầm. Và
này các Tỷ kheo, các Ngươi hãy từ bỏ chúng. Khi đem so sánh với Kinh,
đem đối chiếu với Luật và nếu chúng phù hợp với Kinh, tương ứng với
Luật, thời các Ngươi có thể kết luận: "Chắc chắn những lời này
phải là lời dạy của Thế Tôn và Tỷ-kheo ấy đã thọ giáo chơn chánh".
Này các Tỷ-kheo, như vậy là Đại giáo pháp thứ nhất, các Ngươi hãy thọ
trì.
9. Này các Tỷ-kheo, nếu có Tỷ-kheo
nói: "Tại trú xứ kia, có Tăng chúng ở với các vị Thượng tọa, với
các Thủ chúng. Tôi tự thân nghe từ miệng Tăng chúng, tự thân lãnh thọ,
như vậy là Pháp, như vậy là Luật, như vậy là lời dạy của vị Đạo
Sư". Này các Tỷ-kheo, các Ngươi không nên tán thán, không nên hủy
báng lời nói của Tỷ-kheo ấy. Không tán thán, không hủy báng, mỗi mỗi
chữ, mỗi mỗi câu, phải được học hỏi kỹ lưỡng và đem so sánh với
Kinh, đem đối chiếu với Luật, nếu chúng không phù hợp với Kinh, không
tương ứng với Luật thời các Ngươi có thể kết luận: "Chắc chắn
những lời này không phải là lời Thế Tôn, và Tỷ-kheo ấy đã thọ giáo
sai lầm". Và này các Tỷ-kheo, các Ngươi hãy từ bỏ chúng. Khi đem so
sánh với Kinh, đem đối chiếu với Luật và nếu chúng phù hợp với Kinh,
tương ứng với luật, thời các ngươi có thể kết luận: "Chắc chắn
những lời này phải là lời dạy của Thế Tôn, và Tỷ-kheo ấy đã thọ
giáo chơn chánh". Này các Tỷ-kheo, như vậy là Đại giáo pháp thứ
hai, các Ngươi hãy thọ trì.
10. Này các Tỷ-kheo, có thể có vị
Tỷ-kheo nói: "Tại trú xứ kia có nhiều Tỷ-kheo Thượng tọa ở, những
vị này là bậc đa văn, gìn giữ truyền thống, trì pháp, trì luật, trì
pháp yếu. Tôi tự thân nghe từ miệng những vị Thượng tọa ấy, tự thân
lãnh thọ, như vậy là Pháp, như vậy là Luật, như vậy là lời dạy của
vị Đạo Sư". Này các Tỷ-kheo, các Ngươi không nên tán thán, không
nên hủy báng lời nói của Tỷ-kheo ấy. Không tán thán, không hủy báng, mỗi
mỗi chữ, mỗi mỗi câu, phải được học hỏi kỹ lưỡng và đem so sánh
với Kinh, đem đối chiếu với Luật. Khi đem so sánh với Kinh, đối chiếu
với Luật, và nếu không phù hợp với Kinh, không tương ứng với Luật, và
nếu chúng phù hợp với Kinh, tương ứng với Luật, thời các Ngươi có thể
kết luận: "Chắc chắn những lời này không phải là lời Thế Tôn
và Tỷ-kheo ấy đã thọ giáo sai lầm". Và, này các Tỷ-kheo, các Ngươi
hãy từ bỏ chúng. Khi đem so sánh với Kinh, đem đối chiếu với Luật, thời
các Ngươi có thể kết luận: "Chắc chắn những lời ấy phải là lời
dạy của Thế Tôn và Tỷ-kheo ấy đã thọ giáo chơn chánh". Này các Tỷ-kheo,
như vậy là Đại giáo pháp thứ ba, các Ngươi hãy thọ trì.
11. Này các Tỷ-kheo, có thể có Tỷ-kheo
nói: "Tại trú xứ kia, có một vị Thượng tọa, vị này là bậc đa
văn, gìn giữ truyền thống, trì pháp, trì luật, trì pháp yếu. Tôi tự
thân nghe từ Thượng tọa, tự thân lãnh thọ; như vậy là Pháp, như vậy
là Luật, như vậy là lời dạy của vị Đạo Sư". Này các Tỷ-kheo,
các Ngươi không nên tán thán, không nên hủy báng lời nói của Tỷ-kheo
ấy. Không tán thán, không hủy báng, mỗi mỗi chữ, mỗi mỗi câu, cần phải
được học hỏi kỹ lưỡng và đem so sánh với Kinh, đối chiếu với Luật.
Khi đem so sánh với Kinh, đối chiếu với Luật, và nếu chúng không phù hợp
với Kinh, không tương ứng với Luật, thời các ngươi có thể kết luận:
"Chắc chắn những lời này không phải là lời của Thế Tôn, và Tỷ-kheo
ấy đã thọ giáo sai lầm". Và này các Tỷ-kheo, các Ngươi hãy từ bỏ
chúng. Khi đem so sánh với Kinh, đem đối chiếu với Luật, và nếu chúng
phù hợp với Kinh, tương ứng với Luật, thời các ngươi có thể kết luận:
"Chắc chắn những lời ấy phải là lời dạy của Thế Tôn và Tỷ-kheo
ấy đã thọ giáo chơn chánh". Này các Tỷ-kheo, như vậy là Đại giáo
pháp thứ tư, các Ngươi hãy thọ trì.
Này các Tỷ-kheo, bốn đại giáo
pháp này, các Ngươi hãy thọ trì.
12. Trong khi Thế Tôn ở tại
Bhoganagara, pháp thoại này được giảng cho chúng Tỷ-kheo:
- Đây là Giới, đây là Định, đây
là Tuệ, Định cùng tu với Giới sẽ đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn.
Tuệ cùng tu với Định sẽ đưa đến
quả vị lớn, lợi ích lớn. Tâm cùng tu với Tuệ sẽ đưa đến giải thoát
hoàn toàn các món lậu hoặc, tức là dục lậu, hữu lậu (tri kiến lậu),
vô minh lậu.
13. Rồi Thế Tôn, sau khi ở tại
Bhoganagara cho đến khi Ngài xem là vừa đủ, liền bảo tôn giả Ananda:
- Này Ananda, chúng ta sẽ đi đến Pàvà.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Tôn giả Ananda vâng lời Thế Tôn.
Và Thế Tôn cùng với đại chúng Tỷ-kheo đi đến Pàvà, tại vườn xoài
của Cunda, một người thợ sắt.
14. Thợ sắt Cunda nghe: "Nay Thế
Tôn đã đến Pàvà và hiện đang ở trong vườn xoài của ta". Rồi thợ
sắt Cunda đến tại chỗ Thế Tôn, khi đến xong liền đảnh lễ Ngài và
ngồi xuống một bên. Và Thế Tôn thuyết pháp cho thợ sắt Cunda đang ngồi
một bên, khích lệ, làm cho phấn khởi, khiến tâm hoan hỷ.
15. Và thợ sắt Cunda, sau khi được
Thế Tôn thuyết pháp, khích lệ, làm cho phấn khởi, khiến tâm hoa hỷ, liền
bạch Thế Tôn: "Bạch Thế Tôn, mong Thế Tôn nhận lời mời của con
ngày mai đến dùng cơm với chúng Tỷ-kheo". Thế Tôn im lặng nhận lời.
16. Thợ sắt Cunda, sau khi biết Thế
Tôn đã nhận lời, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Ngài, thân
phía hữu hướng về Ngài và từ biệt.
17. Và thợ sắt Cunda, sau khi đêm
đã mãn, liền cho sửa soạn tại nhà các món ăn thượng thị, loại cứng
và loại mềm và nhiều thứ Sùkara-maddave (một loại mộc nhĩ), và báo tin
cho Thế Tôn: "Bạch Thế Tôn, giờ đã đến, cơm đã sẵn sàng".
18. Và Thế Tôn buổi sáng đắp y,
mang theo y bát, cùng với chúng Tỷ-kheo đến nhà thợ sắt Cunda, khi đến
xong liền ngồi trên chỗ đã soạn sẵn. Sau khi ngồi. Thế Tôn nói với thợ
sắt Cunda:
- Này Cunda, loại mộc nhĩ đã soạn
sẵn, hãy dọn cho ta. Còn các món ăn khác đã soạn sẵn, loại cứng và loại
mềm, hãy dọn cho chúng Tỷ-kheo.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Thợ sắt Cunda vâng lời Thế Tôn,
dọn cho Thế Tôn các món mộc nhĩ đã soạn sẵn, và dọn cho chúng Tỷ-kheo
các món ăn khác, loại cứng và loại mềm.
19. Rồi Thế Tôn nói với thợ sắt
Cunda:
- Này Cunda, món ăn mộc nhĩ còn lại.
Ngươi hãy đem chôn vào một lỗ. Này Cunda, Ta không thấy một ai ở cõi Trời,
cõi Người, ở Ma giới, ở Phạm thiên giới, không một người nào trong
chúng Sa-môn và chúng Bà-la-môn, giữa những Thiên, Nhân, ăn món mộc nhĩ này
mà có thể tiêu hóa được, trừ Như Lai.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Thợ sắt Cunda vâng theo Thế Tôn,
đem chôn món ăn mộc nhĩ còn lại vào một lỗ, đi đến chỗ Thế Tôn, đảnh
lễ Ngài và ngồi xuống một bên. Rồi Thế Tôn thuyết pháp cho thợ sắt
Cunda đang ngồi xuống một bên, khích lệ, làm cho phấn khởi, khiến tâm
hoan hỷ rồi từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi.
20. Sau khi dùng cơm của thợ sắt
Cunda, Thế Tôn bị nhiễm bệnh nặng, bệnh lỵ huyết, đau đớn gần như
đến chết, và Thế Tôn chánh niệm tĩnh giác, nhẫn nại, chịu đựng cơn
bệnh.
Rồi Thế Tôn nói với tôn giả
Ananda:
- Này Ananda, chúng ta hãy đi đến
Kusinàra.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Tôn giả Ananda vâng lời Thế Tôn.
Tôi nghe: Sau khi dùng cơm tại nhà
thợ sắt Cunda.
Cơn bệnh khốc liệt bỗng khởi lên,
gần như chết đến nơi.
Sau khi cùng món ăn loại mộc nhĩ.
Kịch bệnh khởi lên nơi bậc Đạo
Sư.
Điều phục bệnh hoạn, Thế Tôn dạy
rằng:
"Ta đi đến thành
Kusinàra".
21. Rồi Thế Tôn bước xuống đường,
đến một gốc cây và nói với Tôn giả Ananda:
- Này Ananda, hãy xếp tư áo
Sanghàti. Ta cảm thấy mệt mỏi và muốn ngồi nghỉ, này Ananda.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Tôn giả Ananda vâng lời Thế Tôn
và xếp tư áo Sanghàti lại.
22. Thế Tôn ngồi trên chỗ đã soạn
sẵn, và nói với Tôn giả Ananda:
- Này Ananda, hãy đem nước cho Ta. Này
Ananda, Ta nay đang khát và muốn uống nước.
Khi được nói vậy, tôn giả Ananda
bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, vừa mới có khoảng
năm trăm cỗ xe chạy qua. Do bánh xe khuấy lên, nước trở thành nông cạn,
khuấy động và vẩn đục. Bạch Thế Tôn, sông Kakutthà không xa ở đây,
nước thuần tịnh, dễ chịu, mát mẻ, trong sáng, dễ đến và khả ái. Tại
đó, Thế Tôn có thể uống nước và làm dịu mát chân tay.
23. Lần thứ hai, Thế Tôn nói với
tôn giả Ananda:
- Này Ananda, hãy đem nước uống
cho Ta. Này Ananda, Ta nay đang khát và muốn uống nước.
Lần thứ hai tôn giả Ananda bạch
Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, vừa mới có khoảng
năm trăm cỗ xe chạy qua. Do bánh xe khuấy lên, nước trở thành nông cạn,
khuấy động và vẩn đục. Bạch Thế Tôn, sông Kakutthà không xa ở đây,
nước thuần tịnh, dễ chịu, mát mẻ, trong sáng, dễ đến và khả ái. Tại
đó, Thế Tôn có thể uống nước và làm dịu mát chân tay.
24. Lần thứ ba, Thế Tôn nói với
tôn giả Ananda:
- Này Ananda, hãy đem nước uống
cho Ta. Này Ananda, Ta nay đang khát và muốn uống nước.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Tôn giả Ananda vâng lời Thế Tôn,
lấy bát và đi đến con sông nhỏ. Con sông đang chảy nông cạn, khuấy động
và vẩn đục, khi tôn giả Ananda đến, liền trở thành trong trẻo, sáng lặng,
không vẩn đục.
25. Tôn giả Ananda tự nghĩ: "Thật
kỳ diệu thay, thật hy hữu thay thần túc và uy lực của Như Lai. Con sông
nhỏ đang chảy nông cạn, khuấy động và vẩn đục này, khi ta đến, liền
trở thành trong trẻo, sáng lặng và không vẩn đục". Sau khi dùng bát
lấy nước, tôn giả Ananda đến chỗ Thế Tôn và bạch với Ngài:
- Bạch Thế Tôn, thật là kỳ diệu!
Bạch Thế Tôn thật là hy hữu. Bạch Thế Tôn, con sông nhỏ đang chảy nông
cạn, khuấy động và vẩn đục này, khi con đến, liền trở thành trong trẻo,
sáng lặng và không vẩn đục. Xin thỉnh Thế Tôn dùng nước. Xin thỉnh
Thiện Thệ dùng nước!
Và Thế Tôn uống nước.
26. Lúc bấy giờ, Pukkusa, dòng họ
Mallà, đệ tử của ngài Alàra Kàlàma đang đi trên con đường từ Kusinàra
đến Pàvà.
Pukkusa, dòng họ Mallà thấy Thế
Tôn ngồi dưới gốc cây, liền đến chỗ Thế Tôn, đảnh lễ Ngài và ngồi
xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, Pukkusa, dòng họ Mallà, bạch
Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, thật là kỳ diệu,
bạch Thế Tôn thật là hy hữu, trạng thái trầm tĩnh của một vị xuất
gia!
27. Bạch Thế Tôn, thuở xưa, ngài
Alàra Kàlàma đang đi trên đường. Rồi ngài bước xuống đường và ngồi
xuống một gốc cây, không xa con đường để nghỉ trưa. Bạch Thế Tôn,
lúc ấy có khoảng năm trăm cỗ xe đi ngang qua gần ngài Alàra Kàlàma. Bạch
Thế Tôn, có một người đi theo sau lưng đoàn xe ấy, đễn chỗ ngài
Alàra Kàlàma và nói với ngài: "Tôn giả có thấy khoảng năm trăm cỗ
xe vừa đi qua không?" - "Này Hiền giả, ta không thấy". -
"Tôn giả có nghe tiếng không?" - "Này Hiền giả, ta không nghe
tiếng". - "Có phải Tôn giả đang ngủ không?" - "Này Hiền
giả, không phải ta đang ngủ". - "Vậy có phải Tôn giả đang thức
tỉnh?" - "Này Hiển giả, ta đang thức tỉnh". - "Tôn giả
đang thức tỉnh nhưng không thấy khoảng năm trăm cỗ xe vừa đi ngang qua gần
một bên, cũng không nghe thấy tiếng. Bạch Tôn giả, cái áo của Tôn giả
cũng bị lấm bụi". - "Này Hiền giả, phải, áo ta bị lấm bụi".
Bạch Thế Tôn, người ấy liền tự
nghĩ: "Thật là kỳ diệu, thật là hy hữu sự trầm tĩnh của vị xuất
gia. Trong khi giác tỉnh, còn thức nhưng không thấy năm trăm cỗ xe vừa đi
ngang qua gần một bên, cũng không nghe tiếng". Sau khi tỏ sự thâm tín
đối với ngài Alàra Kàlàma, vị ấy từ biệt.
28. - Này Pukkusa, nhà ngươi nghĩ thế
nào? Cái gì khó làm hơn, cái gì khó thực hiện hơn? Một người trong khi
giác tỉnh, còn thức mà không thấy năm trăm cỗ xe vừa đi ngang qua gần một
bên, cũng không nghe tiếng. Hay một người đang giác tỉnh, còn thức, trong
khi trời đang mưa, mưa tầm tả ào ào, trong khi điện quang chớp lòa, sấm
sét vang động, mà không thấy, cũng không nghe tiếng?
29. - Bạch Thế Tôn, nói gì đến
năm trăm cỗ xe này, cho đến hoặc sáu trăm, hoặc bảy trăm, hoặc tám trăm,
hoặc chín trăm, hoặc một ngàn, cho đến trăm ngàn cỗ xe, cũng không thể
so sánh được. Thật khó làm hơn, khó thực hiện hơn, một người đang giác
tỉnh, còn thức, trong khi trời đang mưa, mưa tầm tả ào ào, trong khi điện
quang chớp lòa, sấm sét vang động, mà không thấy cũng không nghe tiếng.
30. - Này Pukkusa, một thời, Ta ở
Atumà, tại nhà đập lúa. Lúc bấy giờ trời mưa, mưa tầm tả ào ào, điện
quang chớp lòa, sấm sét vang động, có hai anh em nông phu, và bốn con bò đực
bị sét đánh chết. Này Pukkusa, một số đông người từ Atumà đi ra đến
tại chỗ hai anh em nông phu và bốn con bò đực bị sét đánh chết...
31. Này Pukkusa, lúc bấy giờ Ta từ
nhà đập lúa đi ra và đi qua đi lại ngoài trời, trước cửa nhà đập lúa,
Này Pukkusa, có một người từ nơi đám đông ấy đi ra, đến chờ Ta, đảnh
lễ và đứng một bên. Và Ta nói với người ấy đang đứng một bên:
32: - "Này Hiền giả, vì sao có
số đông người tụ họp như vậy?" - Bạch Thế Tôn vừa rồi trời
đang mưa, mưa tầm tả ào ào, điện quang chớp lòa, sấm sét vang động, có
hai anh em nông phu, và bốn con bò đực bị sét đánh chết. Do vậy mà có số
đông người ấy tụ họp tại đây. Bạch Thế Tôn, lúc ấy Ngài ở tại
chỗ nào?" - "Này Hiền giả, lúc ấy Ta ở tại đây". "Bạch
Thế Tôn, Ngài không thấy gì cả sao?" - "Này Hiền giả, Ta không
thấy gì". - "Bạch Thế Tôn, Ngài không nghe tiếng gì cả sao?"
- "Này Hiền giả, Ta không nghe tiếng gì?" - "Bạch Thế Tôn,
có phải Ngài đang ngủ, phải không?" - "Này Hiền giả, không phải
ta đang ngủ". - "Bạch Thế Tôn, có phải Ngài đang tỉnh thức phải
không?" - "Này Hiền giả, phải". - "Bạch Thế Tôn, Ngài
đang tỉnh thức, nhưng trong khi trời mưa, mưa tầm tả ào ào, điện quang
chớp lòa, sấm sét vang động, có hai anh em nông phu và bốn con bò đực bị
sét đánh chết, nhưng Ngài không thấy, cũng không nghe gì". - Này Hiền
giả, phải như vậy".
33. Này Pukkusa, người ấy liền tự
nghĩ: "Thật là kỳ diệu, thật là hy hữu sự trầm lặng của vị xuất
gia, khi thức tỉnh, dầu có mưa tầm tả ào ào, điện quang chói lòa, sấm
sét vang động, có hai anh em nông phu và bốn con bò đực bị sét đánh chết
mà không thấy gì, không nghe gì hết". Sau khi nói lên lòng tin tưởng
ở nơi Ta, người ấy đảnh lễ Ta, thân phía hữu hướng về phía Ta và từ
biệt.
34. Khi được nói vậy, Pukkusa,
dòng họ Mallà bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, sự tin tưởng của
con đối với ngài Alàra, Kàlàma, nay con đem rải rắc trước luồng gió lớn,
nay con đem thả trôi vào dòng nước cuốn. Kỳ diệu thay, bạch Thế Tôn!
Hy hữu thay bạch Thế Tôn! Bạch Thế Tôn, như người dựng đứng lại những
gì bị quăng xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho người
bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt
có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đã được Thế Tôn dùng nhiều
phương tiện trình bày. Bạch Thế Tôn, con xin quy y Thế Tôn, quy y Pháp và
Tỷ-kheo Tăng. Mong Thế Tôn nhận con làm đệ tử, từ nay trở đi cho đến
mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.
35. Rồi Pukkusa, dòng họ Mallà nói
với một người khác: "Này bạn, hãy đem đến một cặp áo màu kim sắc,
vàng chói và sẵn sàng để mặc". - "Tôn giả, xin vâng". Người
ấy vâng lời Pukkusa, dòng họ Mallà và đem đến một cặp áo màu kim sắc,
vàng chói và sẵn sàng để mặc.
Rồi Pukkusa, dòng họ Mallà đem dâng
một cặp áo màu kim sắc, vàng chói và sẵn sàng để mặc ấy cho Thế Tôn
và nói:
- Bạch Thế Tôn, cặp áo màu kim sắc,
vàng chói và sẵn sàng để mặc. Mong Thế Tôn vì thương xót con mà thâu
nhận cho.
- Này Pukkusa, hãy đắp cho Ta một
áo và đắp cho Ananda một áo.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Pukkusa, dòng họ Mallà vân lời Thế
Tôn, đắp một áo cho Ngài và đắp một áo cho tôn giả Ananda.
36. Rồi Thế Tôn thuyết pháp cho
Pukkusa, người dòng họ Mallà, khích lệ, làm cho phấn khởi, khiến tâm
hoan hỷ. Và Pukkusa, người dòng họ Mallà, sau khi được Thế Tôn thuyết
pháp, khích lệ, làm cho phấn khởi, khiến tâm hoan hỷ, liền từ chỗ ngồi
đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân phía hữu hướng về Thế Tôn và từ
biệt.
37. Khi Pukkusa, dòng họ Mallà đi
chưa được bao lâu, tôn giả Ananda đem cặp áo màu kim sắc, vàng chói và
sẵn sàng để mặc này đặt trên thân Thế Tôn, và khi cặp áo này được
đặt trên thân Thế Tôn, màu sắc sáng chói của áo như bị lu mờ đi. Và
Tôn giả Ananda bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, thật là kỳ diệu,
bạch Thế Tôn thật là hy hữu, sự thanh tịnh và sáng chói màu da của Như
Lai! Bạch Thế Tôn, khi con đặt trên thân Thế Tôn, cặp áo màu kim sắc
vàng chói và sẵn sàng để mặc này, màu sắc sáng chói của áo như bị
lu mờ đi.
- Thật vậy, này Ananda. Này Ananda,
có hai trường hợp, màu da của Như Lai hết sức thanh tịnh và sáng chói.
Thế nào là hai? Này Ananda, trong đêm Như Lai chứng vô thượng Chánh Đẳng
Giác và trong đêm Như Lai sắp diệt độ, nhập Niết-bàn giới, không còn
dư y sanh tử nữa. Này Ananda, đó là hai trường hợp, màu da của Như Lai hết
sức thanh tịnh và sáng chói.
38. Này Ananda, hôm nay khi canh cuối
cùng đã mãn, tại Upavattana ở Kusinàrà, trong rừng Sàla của dòng họ
Mallà, giữa hai cây sàla song thọ, Như Lai sẽ diệt độ. Này Ananda, chúng
ta hãy đi đến sông Kakutthà.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Tôn giả Ananda vâng lời Thế Tôn:
Cặp áo kim sắc này.
Pukkusa mang đến.
Đắp áo kim sắc này,
Da Đạo Sư sáng chói.
39. Rồi Thế Tôn cùng với đại chúng
Tỷ-kheo đi đến con sông Kakutthà, xuống sông tắm và uống nước rồi lội
qua bờ bên kia, đi đến rừng xoài và tại đây, nói với đại đức
Cundaka:
- Này Cundaka, hãy xếp áo Sanghàti
làm bốn cho Ta. Này Cundaka, Ta nay mệt mỏi, muốn nằm nghỉ.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Đại đức Cundaka vâng lời Thế
Tôn và xếp áo Sanghàti làm bốn.
40. Rồi Thế Tôn nằm xuống phía
hông bên mặt như dáng điệu con sư tử, hai chân để trên nhau, chánh niệm,
tỉnh giác, suy tư, với ý niệm ngồi dậy lại khi phải thời. Và đại đức
Cundaka ngồi phía trước Thế Tôn.
- 41. Đức Phật tự đi đến
- Con sông Kakutthà.
- Con sông chảy trong sáng.
- Mát lạnh và thanh tịnh.
- Vị Đạo Sư mỏi mệt
- Đi dần xuống mé sông.
- Như Lai đấng Vô Thương
- Ngự trị ở trên đời
- Tắm xong, uống nước xong,
- Lội qua bên kia sông.
- Bậc Đạo Sư đi trước,
- Giữa Tăng chúng Tỷ-kheo,
- Vừa đi vừa diễn giảng.
- Chánh pháp thật vi diệu.
- Rồi bậc Đại Sĩ đến,
- Tại khu vực rừng xoài.
- Cho gọi vị Tỷ-kheo,
- Tên họ Cundaka:
- "Hãy gấp tư áo lại,
- Trải áo cho ta nằm.
- Nghe dạy, Cundaka
- Lập tức vâng lời dạy,
- Gấp tư và trải áo,
- Một cách thật mau lẹ.
- Bậc Đạo Sư nằm xuống
- Thân mình thật mệt mỏi.
- Tại đây Cundaka,
- Ngồi ngay phía trước mặt.
- 42. Rồi Thế Tôn nói với Tôn giả Ananda:
- - Này Ananda, rất có thể có người làm cho thợ
sắt Cunda hối hận: "Này Hiền giả Cunda, thật không lợi ích gì cho
Ngươi, thật là tai hại cho Ngươi, vì Như Lai dùng bữa ăn cuối cùng từ
Ngươi cúng dường, và nhập diệt". Này Ananda, cần phải làm tiêu tan
sự hối hận ấy của thợ sắt Cunda: "Này Hiền giả, thật là công
đức cho bạn, vì được Như Lai dùng bữa ăn cuối cùng từ bạn cúng dường,
và nhập diệt. Này Hiền giả Cunda, tôi tự thân nghe, tự thân lãnh thọ lời
nói này của Thế Tôn: "Có hai sự cúng dường ăn uống đồng một quả
báo, đồng một dị thục quả, quả báo lớn hơn, lợi ích hơn các sự
cúng dường ăn uống khác? Thế nào là hai? Một là bữa ăn trước khi Như
Lai chứng vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, hai là bữa ăn trước khi Như
Lai diệt độ Niết-bàn giới, không còn di hưởng sanh tử. Hai bữa ăn này
đồng một quả báo, đồng một dị thực quả, quả báo lớn hơn, lợi
ích hơn các sự cúng dường ăn uống khác. Nhờ hành động này, đại đức
Cunda sẽ được hưởng tuổi thọ; nhờ hành động này, đại đức Cunda sẽ
được hưởng sắc đẹp; nhờ hành động này, đại đức Cunda sẽ được
hưởng an lạc; nhờ hành động này, đại đức Cunda sẽ được hưởng
danh tiếng; nhờ hành động này, đại đức Cunda sẽ đợưc hưởng cõi trời,
nhờ hành động này, đại đức Cunda sẽ được hưởng uy quyền".
- Này Ananda, cần phải làm cho thợ sắt Cunda tiêu
tan hối hận.
- 43. Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu ý nghĩa này, liền
thốt lời cảm khái như sau:
- Công đức người bố thí,
- Luôn luôn được tăng trưởng,
- Trừ được tâm hận thù.
- Không chất chứa, chế ngựa,
- Kẻ chí thiện từ bỏ.
- Mọi ác hạnh bất thiện,
- Diệt trừ tham, sân, si.
- Tâm giải thoát thanh tịnh.
V
1. Rồi Thế Tôn nói với Tôn giả
Ananda:
- Này Ananda, chúng ta hãy đi qua bờ
bên kia sông Hirannavati, đến ở Kusinàrà - Upavatama - rừng Sàlà của dòng
họ Màllà.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Tôn giả Ananda vâng lời Thế Tôn.
Rồi Thế Tôn, cùng với đại chúng
Tỷ-kheo đi đến bên kia sông Hirannavati, tại Kusinàrà Upavattana, rừng
Sàlà của dòng họ Mallà, khi đi đến nơi liền nói với Tôn giả Ananda:
- Này Ananda, hãy trải chỗ nằm, đầu
hướng về phía Bắc giữa hai cây sàlà song thọ: này Ananda, Ta nay mệt mỏi,
muốn nằm nghỉ.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Tôn giả Ananda vâng lời Thế Tôn,
trải chỗ nằm, đầu hướng về phía Bắc giữa hai cây sàlà song thọ.
Và Thế Tôn nằm xuống, về phía hông bên phải, như dáng nằm con sư tử,
hai chân để lên nhau chánh niệm và giác tỉnh.
2. Lúc bấy giờ, cây sàlà song thọ
trổ hoa trái nmùa, tràn đầy cành lá. Những đóa hoa này rơi lên, gieo khắp
và tung vãi trên thân Như Lai để cúng dường Ngài. Những thiên hoa
Mandàrava từ trên hư không rơi xuống, rơi lên, gieo khắp và tung vãi trên
thân Như Lai để cúng dường Ngài. Bột trời chiên đàn từ trên hư không
rơi xuống, rơi lên, gieo khắp và tung vãi trên thân Như Lai để cúng dường
Ngài, nhạc trời trên hư không trổi dậy để cúng dường Như Lai. Thiên
ca trên hư không vang lên để cúng dường Như Lai.
3. Rồi Như Lai nói với tôn giả
Ananda:
-- Này Ananada, các cây sàlà song thọ
tự nhiên trổ hoa trái mùa tràn đầy cành lá, những đóa hoa này rơi lên,
gieo khắp và tung vãi trên thân Như Lai để cúng dường. Những thiên hoa
Mandàrava từ trên hư không rơi xuống, rơi lên, gieo khắp và tung vãi trên
thân Như Lai để cúng dường. Bột trời chiên đàn từ trên hư không rơi
xuống, rơi lên, gieo khắp và tung vãi trên thân Như Lai để cúng dường.
Nhạc trời trên hư không trổi dậy để cúng dường Như Lai. Thiên ca trên
hư không vang lên để cúng dường Như Lai.
Nhưng, này Ananda, như vậy không phải
kính trọng, tôn sùng, đảnh lễ, cúng dường hay lễ kính Như Lai. Này
Ananda, nếu có Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ni, cư sĩ nam hay cư sĩ nữ nào thành tựu
Chánh pháp và Tùy pháp, sống chơn chánh trong Chánh pháp, hành trì đúng
Chánh pháp, thời người ấy kính trọng, tôn sùng, đảnh lễ, cúng dường
Như Lai với sự cúng dường tối thượng. Do vậy, này Ananda, hãy thành tựu
Chánh pháp và Tùy pháp, sống chơn chánh trong Chánh pháp và hành trì đúng
Chánh pháp. Này Ananda, các Người phải học tập như vậy.
4. Lúc bấy giờ, tôn giả Upavàna
đứng trước mặt Thế Tôn và quạt Ngài. Thế Tôn liền quở trách tôn giả
Upavàna: "Này Tỷ-kheo, hãy đứng một bên, chớ có đứng trước mặt
Ta."
Tôn giả Ananda, liền tự suy nghĩ:
"Đại đức Upavàna này là thị giả sống gần và hầu cận Thế Tônd
dã lâu ngày. Nay Thế Tôn trong giờ phút cuối cùng lại quở trách đại đức
Upavàna: "Này Tỷ-kheo, hãy đứng một bên, chớ có đứng trước mặt
Ta". Do nhơn gì, do duyên gì, Thế Tôn quở trách đại đức Upavàna:
"Này Tỷ-kheo, hãy đứng một bên, chớ có đứng trước mặt ta"?.
5. Rồi tôn giả Ananda bạch Thế
Tôn:
-- Đại đức Upavàna này là thị
giả, sống gần và hầu cận Thế Tôn đã lâu ngày. Nay Thế Tôn trong giờ
phút cuối cùng lại quở trách đại đức Upavàna: "Này Tỷ-kheo, hãy
đứng một bên, chớ có đứng trước mạt Ta." Do nhơn gì, do duyên
gì, Thế Tôn quở trách đại đức Upavàna: "Này Tỷ-kheo hãy đứng một
bên, chớ có đứng trước mặt Ta"?
-- Này Ananda, rất đông các vị
Thiên thần ở mười phương thế giới tụ hội để chiêm ngưỡng Như
Lai. Này Ananda, cho đến mười hai do tuần xung quanh Kusinàrà, Upavattana, rừng
Sàlà thuộc dòng họ Mallà, không có một chỗ nào, nhỏ cho đến đầu một
sợi tóc có thể chích được mà không đầy những Thiên thần có uy lực
tụ họp. Này Ananda, các vị Thiên Thần đang than phiền: "Chúng ta từ
rất xa đến chiêm ngưỡng Như Lai. Thật rất là hy hữu, các Như Lai, bậc
A-la-hán, Chánh Đẳng Giác xuất hiện ở đời, và tối hôm nay, trong canh
cuối cùng, Như Lai sẽ nhập diệt. Và nay Tỷ-kheo có oai lực này lại đứng
ngang trước Thế Tôn, khiến chúng ta không thể chiêm ngưỡng Như Lai trong
giờ phút cuối cùng". Này Ananda, các chư Thiên than phiền như vậy.
6. -- Bạch Thế Tôn, Thế Tôn đang
nghĩ đến hạng chư Thiên nào?
- Này Ananda, có hạng chư Thiên ở
trên hư không nhưng có tâm tư thế tục, những vị này khóc than, ới đầu
bù tóc rối, khóc than với cánh tay duỗi cao, khóc than thân bổ nhoài dưới
đất, lăn lộn qua lại: "Thế Tôn nhập diệt quá sớm, Thiện Thệ nhập
diệt quá sớm, Pháp nhãn biến mất ở trên đời quá sớm".
Này Ananda, có hạng Thiên thần ở
trên đất với tâm tư thế tục những vị này khóc than với đầu bù tóc
rối, khóc than với cánh tay duỗi cao, khóc than thân nằm nhoài dưới đất,
lăn lộn qua lại:
"Thế Tôn nhập diệt quá sớm,
Thiện Thệ nhập diệt quá sớm, Pháp nhãn biến mất ở trên đời quá sớm".
Có chư Thiên đã diệt trừ ái dục,
những vị này bình thản, tỉnh giác chịu đựng, với tâm suy tư: "Các
hành là vô thường, làm sao sự kiện có thể khác được?"
7. -- Bạch Thế Tôn, thuở trước các
Tỷ-kheo sau khi thọ an cư, từ các địa phương đến chiêm ngưỡng Như
Lai, chúng con được sự lợi ích tiếp kiến, hầu cận những Tỷ-kheo tu
hành điêu luyện. Bạch Thế Tôn, sau khi Thế Tôn nhập diệt, chúng con sẽ
không được sự lợi ích tiếp kiến, hầu cận những Tỷ-kheo tu hành điêu
luyện.
8. - Này Ananda, có bốn Thánh tích kẻ
thiện tín cần phải chiêm ngưỡng và tôn kính. Thế nào là bốn?
"Đây là chỗ Như Lai đản
sanh" . Này Ananda, đó là thánh tích, kẻ thiện tín cần phải chiêm ngưỡng
và tôn kính.
"Đây là chỗ Như Lai chứng ngộ
vô thượng Chánh Đẳng Giác", này Ananda, đó là Thánh tích, kẻ thiện
tín cần phải chiêm ngưỡng và tôn kính.
"Đây là chỗ Như Lai chuyển Pháp
luân vô thượng", này Ananda, đó là Thánh tích, kẻ thiện tín cần phải
chiêm ngưỡng và tôn kính.
"Đây là chỗ Như Lai diệt độ,
nhập Vô dư y Niết-bàn", này Ananda, đó là Thánh tích, kẻ thiện tín
cần phải chiêm ngưỡng và tôn kính.
Này Ananda, đó là bốn Thánh tích,
kẻ thiện tín cư sĩ cần phải chiêm ngưỡng và tôn kính. Này Ananda, các
thiện tín Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ni, cư sĩ nam, cư si nữ sẽ đến với niềm
suy tư: "Đây là chỗ Như Lai đản sanh", "Đây là chỗ Như Lai
chứng ngộ vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác", "Đây là chỗ Như
Lai chuyển Pháp luân vô thượng", "Đây là chỗ Như Lai diệt độ,
Nhập Vô dư y Niết-bàn".
Này Ananda, và những ai, trong khi
chiêm bái những Thánh tích mà từ trần với tâm thâm tín hoan hỷ, thời
những vị ấy, sau khi thân hoại mạng chung sẽ được sanh cõi thiện thú,
cảnh giới chư Thiên.
9. -- Bạch Thế Tôn, chúng con phải
cư xử với phái nữ như thế nào?
-- Này Ananda, chớ có thấy chúng.
-- Bạch Thế Tôn, nếu phải thấy
chúng, thời phải như thế nào?
-- Này Ananda, chớ có nói chuyện với
chúng.
-- Bạch Thế Tôn, nếu phải nói
chuyện với chúng, thời phải như thế nào?
-- Này Ananda, phải an trú chánh niệm.
10. -- Bạch Thế Tôn, chúng con phải
xử sự thân xá-lợi Như Lai như thế nào?
-- Này Ananda, các Ngươi đừng có
lo lắng vấn đề cung kính thân xá-lợi của Như Lai. Này Ananda, các Người
hãy nỗ lực, hãy tinh tấn hướng về tự độ, sống không phóng dật, cần
mẫn, chuyên hướng về tự độ. Này Ananda, có những học giả Sát-đế-lỵ,
những học giả Bà-la-môn , những học giả gia chủ thâm tín Như Lai, những
vị này sẽ lo cho sự cung kính cúng dường thân xá-lợi của Như Lai.
11. -- Bạch Thế Tôn, cần phải xử
sự thân Như Lai như thế nào?
-- Này Ananda, xử sự thân Chuyển
luân Thánh Vương như thế nào, hãy xử sự thân xá-lợi Như Lai như vậy.
-- Bạch Thế Tôn, người ta xử sự
thân chuyển luân Thánh vương như thế nào?
-- Này Ananda, thân của Chuyển luân
Thánh vương được vấn tròn với vải mới. Sau khi vấn vải mới xong, lại
được vấn thêm với vải gai bện. Sau khi vấn vải gai bệnh, lại vấn
thêm với vải mới, và tiếp tục như vậy cho đến năm trăm lớp cả hai
loại vải. Rồi thân được đặt vào trong một hòm dầu bằng sắt, hòm sắt
này được một hòm sắt khác đậy kín. Xong một giàn hỏa gồm mọi loại
hương được xây dựng lên, thân của vị Chuyển luân Thánh vương được
đem thiêu trên giàn hỏa này và tại ngã tư đường, tháp của vị Chuyển
luân Thánh vương được xây dựng lên. Này Ananda, đó là pháp táng thân vị
Chuyển luân Thánh vương.
Này Ananda, pháp táng thân vị Chuyển
luân Thánh vương như thế nào, pháp táng thân Thế Tôn cũng như vậy. Tháp
của Như Lai phải được dựng lên tại ngã tư đường. Và những ai đem tại
chỗ ấy vòng hoa, hương, hay hương bột nhiều màu, đảnh lễ tháp, hay khởi
tâm hoan hỷ (khi đứng trước mặt tháp), thời những người ấy sẽ được
lợi ích, hạnh phúc lâu dài.
12. Này Ananda, bốn hạng người sau
này đáng được xây tháp. Thế nào là bốn? Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh
Đẳng Giác xứng đáng xây tháp. Độc Giác Phật xứng đáng xây tháp. Đệ
tử Thanh Văn của Như Lai xứng đáng xây tháp. Chuyển luân Thánh vương xứng
đáng xây tháp.
Này Ananda, vì lý do gì, Như Lai, Ứng
Cúng, Chánh Biến Tri xứng đáng xây tháp? Này Ananda, tâm của dân chúng sẽ
hoan hỷ khi nghĩ đến: "Đây là tháp của Thế Tôn, Ứng Cúng, Chánh Biến
Tri. " Do tâm hoan hỷ như vậy, khi thân hoại mạng chung, chúng sẽ sanh
lên thiện thú, cảnh giới chư Thiên. Này Ananda, vì lý do này, Như Lai, Ứng
Cúng, Chánh Biến Tri xứng đáng xây tháp.
Này Ananda, vì lý do gì, bậc Độc
Giác Phật xứng đáng xây tháp? Này Ananda, tâm của dân chúng sẽ hoan hỷ
khi nghĩ đến: "Đây là tháp của Thế Tôn Độc Giác Phật". "
Do tâm hoan hỷ như vậy, khi thân hoại mạng chung, chúng sẽ được sanh thiện
thú, cảnh giới chư Thiên. Này Ananda, vì lý do này, bậc Độc Giác Phật xứng
đáng xây tháp.
Này Ananda, vì lý do gì, đệ tử
Thanh Văn của Như Lai xứng đáng xây tháp? Này Ananda, tâm của dân chúng sẽ
hoan hỷ khi nghĩ đến: "Đây là tháp đệ tử Thanh Văn của Thế Tôn,
Ứng Cúng, Chánh Biến Tri." Do tâm hoan hỷ như vậy, khi thân hoại mạng
chung, chúng sẽ được sanh thiện thú, cảnh giới chư Thiên. Này Ananda, vì
lý do này, đệ tử Thanh Văn của Như Lai xứng đáng xây tháp .
Này Ananda, vì lý do gì, Chuyển
luân Thánh vương xứng đáng xây tháp? Này Ananda, tâm của dân chúng sẽ
hoan hỷ khi nghĩ đến : "Đây là tháp của vị Pháp vương trị vì đúng
pháp." Do tâm hoan hỷ như vậy, khi thân hoại mạng chung, chúng sẽ được
sanh thiện thú, cảnh giới chư Thiên. Này Ananda, vì lý do này, Chuyển luân
Thánh vương xứng đáng xây tháp.
Này Ananda, đó là bốn hạng người
xứng đáng xây tháp.
13. Rồi tôn giả Ananda đi vào trong
tịnh xá, dựa trên cột cửa và đứng khóc: "Ta nay vẫn còn là kẻ hữu
học, còn phải tự lo tu tập. Nay bậc Đạo Sư của ta sắp diệt độ, còn
ai thương tưởng ta nữa!"
Thế Tôn nói với các Tỷ-kheo:
-- Này các Tỷ-kheo, Ananda ở tại
đâu?
-- Bạch Thế Tôn, tôn giả Ananda
đi vào trong tịnh xá, dựa trên cột cửa và đứng khóc: "Ta nay vẫn
còn là kẻ hữu học, còn phải tự lo tu tập. Nay bậc Đạo Sư của ta sắp
diệt độ, còn ai thương tưởng ta nữa!"
Thế Tôn liền nói với một Tỷ-kheo:
-- Này Tỷ-kheo, hãy đi và nhân danh
Ta, nói với Ananda: "Này Hiền giả Ananda, bậc Đạo Sư mọi Hiền giả."
-- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Vị Tỷ-kheo ấy vâng lời Thế
Tôn, đi đến chỗ tôn giả Ananda, sau khi đến, liền nói với tôn giả:
"Này Hiền giả Ananda, bậc Đạo Sư cho gọi Hiền giả." -
"Thưa vâng, Hiền giả. " Tôn giả Ananda vâng lời vị Tỷ-kheo ấy,
đi đến Thế Tôn, đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên.
14. Thế Tôn nói với tôn giả
Ananda đang ngồi một bên:
-- Thôi vừa rồi, Ananda, chớ có buồn
rầu, chớ có khóc than. Này Ananda, Ta đã tuyên bố trước với Người rằng
mọi vật ái luyến, tốt đẹp đều phải sanh biệt, tử biệt và dị biệt.
Này Ananda làm sao được có sự kiện này: "Các pháp sanh, trú, hữu vi,
biến hoại đừng có bị tiêu diệt?" Không thể có sự kiện như vậy
được. Này Ananda, đã lâu ngày, Người đối với Như Lai, với thân nghiệp
đầy lòng từ ái, lợi ích, an lạc, có một không hai, vô lượng với khẩu
nghiệp đầy lòng từ ái, lợi ích, an lạc, có một không hai, vô lượng với
ý nghiệp đầy lòng từ ái, lợi ích, an lạc, có một không hai, vô lượng.
Này Ananda, Người là người tác thành công đức. Hãy cố gắng tinh tấn
lên, Người sẽ chứng bậc Vô lậu, không bao lâu đâu.
15. Rồi Thế Tôn nói với các Tỷ-kheo:
-- Này các Tỷ-kheo, những vị
A-la-hán, Chánh Đẳng Giác trong thời quá khứ, những bậc Thế Tôn này đều
có những thị giả tối thắng như Ananda của Ta. Này Tỷ-kheo, những vị
A-la-hán, Chánh Đẳng Giác thời vị lai, những bậc Thế Tôn này cũng sẽ
có những vị thị giả tối thắng như Ananda của Ta vậy.
Này các Tỷ-kheo, Ananda là người có
trí và hiểu rõ: "Nay đúng thời để các Tỷ-kheo yết kiến Thế Tôn,
nay đúng thời để các Tỷ-kheo ni, nay đúng thời để các nam cư sĩ, nay
đúng thời để các nữ cư sĩ, nay đúng thời để các vua chúa, để các
đại thần, để các ngoại đạo sư, để các đệ tử các ngoại đạo
sư yết kiến Thế Tôn!"
16. Này các Tỷ-kheo, Ananda có bốn
đức tánh kỳ cựu, hy hữu. Thế nào là bốn?
Này các Tỷ-kheo, nếu có chúng Tỷ-kheo
đến yết kiến Ananda, chúng ấy sẽ được hoan hỷ vì được yết kiến
Ananda, và nếu Ananda thuyết pháp chúng ấy sẽ được hoan hỷ vì bài thuyết
pháp, và nếu Ananda làm thinh thời, này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo ấy sẽ
thất vọng.
Này các Tỷ-kheo, nếu có Tỷ-kheo
ni..., chúng nam cư sĩ... chúng nữ cư sĩ đến yết kiến Ananda, chúng ấy sẽ
được hoan hỷ, vì được yết kiến Ananda, và nếu Ananda thuyết pháp,
chúng ấy sẽ được hoan hỷ vì bài thuyết pháp và nếu Ananda làm thinh thời
này các Tỷ-kheo, chúng nữ cư sĩ ấy sẽ thất vọng.
Này các Tỷ-kheo, vị Chuyển luân
Thánh vương có bốn đức tánh kỳ diệu, hy hữu.
Này các Tỷ-kheo, nếu có chúng
Sát-đế-lỵ... chúng Bà-la-môn... chúng gia chủ... chúng Sa-môn đến yết
kiến vị Chuyển luân Thánh vương, chúng sẽ được hoan hỷ vì được yết
kiến vị Chuyển luân Thánh vương và nếu vị Chuyển luân Thánh vương nói
chuyện, chúng ấy sẽ được hoan hỷ vì bài nói chuyện, và nếu vị Chuyển
luân Thánh vương làm thinh thời chúng Sa-môn ấy sẽ thất vọng.
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Ananda
có bốn đức tánh kỳ diệu, hy hữu. Nếu có chúng Tỷ-kheo... chúng Tỷ-kheo
ni... chúng nam cư sĩ... chúng nữ cư sĩ đến yết kiến Ananda, chúng ấy sẽ
được hoan hỷ vì được yết kiến Ananda. và nếu Ananda thuyết pháp
chúng ấy sẽ được hoan hỷ vì bài thuyết pháp, và nếu Ananda làm thinh,
thời này các Tỷ-kheo chúng nữ cư sĩ ấy sẽ thất vọng.
Này các Tỷ-kheo, Ananda có bốn đức
tánh kỳ diệu, hy hữu như vậy.
17. Khi được nói vậy, tôn giả
Ananda bạch Thế Tôn:
-- Bạch Thế Tôn, Thế Tôn chớ có
diệt độ tại đo thị nhỏ bé này, tại đô thị hoang vu này, tại đô thị
phụ thuộc này. Bạch Thế Tôn, có những đô thị khác to lớn hơn như
Campà (Chiêm-bà), Ràjagaha (Vương Xá), Sàvatthi (Xá-vệ), Sàketa (Sa-kỳ),
Kosambi (Kiều-thương-di), Bàrànasi (Ba-la-nại). Thế Tôn hãy diệt độ tại
chỗ ấy. Tại chỗ ấy, có đại chúng Sát-đế-lỵ, có đại chúng
Bà-la-môn, có đại chúng gia chủ rất tin tưởng Như Lai, các vị này sẽ
cúng dường thân xá-lợi Như Lai.
-- Này Ananda, chớ có nói như vậy,
này Ananda, chớ có nói đô thị này nhỏ bé, đô thị này hoang vu, đô thị
này phụ thuộc.
18. Này Ananda, thuở xưa có vị vua
tên là Mahasudassana (Đại Thiên Kiến). Vị này là Chuyển luân vương, trị
vì như pháp, là vị pháp vương, thống lãnh bốn thiên hạ, chinh phục hộ
trì quốc dân, đầy đủ bảy báu. Này Ananda, đô thị Kusinàrà này là
kinh đô của vua Mahasudassana, tên là Kusàvatì (Câu-xá-bà-đề), phía Đông
và phía Tây rộng đến mười hai do tuần, phía Bắc và phía Nam rộng đến
bảy do tuần.
Này Ananda, kinh đô Kusàvatì này rất
phôịn thịnh, phú cường, dân cư đông đúc, dân chúng sung mãn, thực phẩm
phong phú. Này Ananda, cũng như kinh đô Alakamanda của chư thiên rất phồn thịnh,
phú cường dân cư đông đúc, Thiên chúng sung mãn, thực phẩm phong phú, cũng
vậy này Ananda, kinh đô Kusàvatì này cũng rất phồn thịnh, phú cường, dân
cư đông đúc, nhân chúng sung mãn.
Này Ananda, kinh đô Kusàvatì này,
ngày đêm vang dậy chín loại tiếng, tức là tiếng voi, tiếng ngựa, tiếng
xe, tiếng trống lớn, tiếng trống nhỏ, tiếng tỳ bà, tiếng hát, tiếng
xập xỏa, tiếng chuông và tiếng thứ mười là lời kêu gọi: "Hãy uống
đi, hãy ăn đi".
19. Này Ananda, hãy đi vào Kusinàrà
và nói với dân Mallà Kusinàrà: "Này các Vàsetthà, đêm nay, vào canh cuối
cùng, Như Lai sẽ diệt độ".
- Này Vàsetthà, các Ngươi hãy đến.
Này Vàsetthà, các Ngươi hãy đến. Về sau chớ có hối hận: "Như Lai
đã diệt độ tại làng vườn chúng ta mà chúng ta không được chiêm ngưỡng
Như Lai".
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn!
Tôn giả Ananda vâng lời Thế Tôn,
đắp y, đem theo y bát và cùng một vị khác làm bạn đồng hành đi vào
Kusinàrà.
20. Lúc bấy giờ, dân Mallà ở
Kusinàrà đang tụ họp tại giảng đường vì một vài cộng sự. Tôn giả
Ananda đến tại giảng đường của dân Mallà ở Kusinàrà. Sau khi đến, tôn
giả liền nói vói dân Mallà ở Kusinàrà:
- Này Vàsetthà, đêm nay, vào canh cuối
cùng Như Lai sẽ diệt độ, Này Vàsetthà, các Ngươi hãy đến. Này
Vàsetthà, các Ngươi hãy đến. Về sau chớ có hối hận: "Như Lai đã
diệt độ tại làng vườn chúng ta mà chúng ta không được chiêm ngưỡng
Như Lai".
21. Dân Mallà cùng với con trai, con
gái và vợ, khi nghe tôn giả Ananda nói như vậy, liền dau đớn, sầu muộn,
tâm tư khổ não. Kẻ thì khóc than với đầu bù tóc rối, kẻ thì khóc
than với cánh tay duỗi cao, kẻ thì khóc than thân bổ nhoài dưới đất,
lăn lộn qua lại: "Thế Tôn nhập diệt quá sớm, Thiện Thệ nhập diệt
quá sớm, Pháp nhãn biến mất ở trên đời quá sớm".
Và dân Mallà cùng với con trai, con
gái và vợ đau đớn, sầu muộn, tâm tư khổ não, đi đến Upavattana, khu rừng
Sàlà của dòng họ Mallà và đến chỗ tôn giả Ananda.
22. Tôn giả Ananda tự nghĩ: "Nếu
ta để dân Mallà ở Kusinàrà đảnh lễ Thế Tôn từng người một, thời
đêm sẽ tàn trước khi Thế Tôn được tất cả dân Mallà đảnh lễ. Vậy
ta hãy để dân Mallà ở Kusinàrà đảnh lễ theo từng gia tộc".
- Bạch Thế Tôn, gia tộc Mallà này
với vợ con, đồ chúng, bạn bè đến cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn.
Và tôn giả Ananda, theo phương tiện
này trong canh một, khiến dân Mallà ở Kusinàrà đảnh lễ Thế Tôn.
23. Lúc bấy giờ, du sĩ ngoại đạo
Subhadda ở tại Kusinàrà. Du sĩ ngoại đạo Subhadda được nghe: "Tối
nay canh cuối cùng, Sa-môn Gotama sẽ diệt độ".
Và du sĩ ngoại đạo Subhadda suy
nghĩ: "Ta nghe các du sĩ ngoại đạo niên cao lạp lớn, sư trưởng và
đệ tử nói rằng: "Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri xuất hiện ra đời
thật là hy hữu. Và đêm nay, vào canh cuối cùng Sa-môn Gotama sẽ diệt độ".
Nay có nghi vấn này khởi lên trong tâm ta. Ta tin Sa-môn Gotama có thể thuyết
pháp và giải được nghi vấn cho ta".
24. Rồi du sĩ ngoại đạo Subhadda
đi đến Upavattana, khu rừng Sàla của dân Mallà, đến tại chỗ tôn giả
Ananda và thưa với tôn giả:
- Hiền giả Ananda, tôi nghe các du sĩ
ngoại đạo, niên cạo lạp lớn, sư trưởng và đệ tử nói rằng:
"Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri xuất hiện ra đời thật là hy hữu,
và đêm nay, vào canh cuối cùng, Sa-môn Gotama sẽ diệt độ". Nay có
nghi vấn này khởi lên trong tâm tôi. Tôi tin Sa-môn Gotama có thể thuyết
pháp giải được nghi vấn cho tôi. Hiền giả Ananda, hãy cho phép tôi được
yết kiến Sa-môn Gotama.
Khi được nói vậy, tôn giả Ananda
nói với du sĩ ngoại đạo Subhadda :
- Thôi đi Hiền giả Subhadda, chớ có
phiền nhiễu Như Lai. Thế Tôn đang mệt.
Lần thứ hai, du sĩ ngoại đạo
Subhadda ... Lần thứ ba, du sĩ ngoại đạo Subhadda nói với tôn giả Ananda :
- Hiền giả Ananda, tôi nghe các du sĩ
ngoại đạo, niên cạo lạp lớn, sư trưởng và đệ tử nói rằng:
"Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri xuất hiện ra đời thật là hy hữu,
và đêm nay, vào canh cuối cùng, Sa-môn Gotama sẽ diệt độ". Nay có
nghi vấn này khởi lên trong tâm tôi. Tôi tin Sa-môn Gotama có thể thuyết
pháp giải được nghi vấn cho tôi. Hiền giả Ananda, hãy cho phép tôi được
yết kiến Sa-môn Gotama.
Lần thứ ba, tôn giả Ananda nói với
du sĩ ngoại đạo Subhadda:
- Thôi đi Hiền giả Subhadda, chớ có
phiền nhiễu Như Lai. Thế Tôn đang mệt.
25. Thế Tôn nghe được câu chuyện
của tôn giả Ananda với du sĩ ngoại đạo Subhadda, Ngài liền nói với tôn
giả Ananda:
- Thôi Ananda, chớ có ngăn trở
Subhadda, Ananda, hãy để cho Subhadda được phép yết kiến Như Lai. Những gì
Subhadda hỏi Ta là hỏi để hiểu biết chớ không phải để phiền nhiễu
Ta. Và những gì ta trả lời các câu hỏi, Subhadda sẽ hiểu ý nghĩa một cách
mau lẹ.
Tôn giả Ananda liền nói với du sĩ
ngoại đạo Subhadda:
- Này Hiền giả Subhadda, hãy vào.
Thế Tôn đã cho phép Hiền giả.
26. Rồi du sĩ ngoại đạo Subhadda
đến chỗ Thế Tôn, nói lên những lời chúc tụng hỏi thăm xã giao, rồi
ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi một bên, du sĩ ngoại đạo Subhadda bạch
Thế Tôn:
- Tôn giả Gotama, có những Sa-môn,
Bà-la-môn là những vị hội chủ, vị giáo trưởng, vị sư trưởng giáo hội,
có tiếng tốt, có danh vọng, khai tổ giáo phái, được quần chúng tôn
sùng, như các ngài Pàrana Kassapa, Makkhali Gosàla, Ajita Kesakambalì, Pakadha
Kaccàyana, Sanjaya Belatthiputta, Nigantha Nàthaputta, tất cả những vị này có
phải là giác ngộ như các vị đã tự cho như vậy, hay tất cả chưa giác
ngộ, hay một số đã giác ngộ và một số chưa giác ngộ?
- Thôi Subhadda, hãy để vấn đề này
yên một bên: "Tất cả những vị này có phải là đã giác ngộ như các
vị đã tự cho như vậy, hay tất cả chưa giác ngộ, hay một số đã giác
ngộ và một số chưa giác ngộ". Này Subhadda, Ta sẽ thuyết pháp cho Ngươi.
Hãy nghe và suy nghiệm kỹ, Ta sẽ giảng.
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn !
Du sĩ ngoại đạo Subhadda vâng lời
Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
27. - Này Subhadda, trong pháp luật
nào không có Bát Thánh đạo, thời ở đây không có (đệ nhất) Sa-môn,
ở đây cũng không có đệ nhị Sa-môn, cũng không có đệ tam Sa-môn, cũng
không có đệ tứ Sa-môn. Này Subhadda trong pháp luật nào có Bát Thánh đạo
thời ở đây có (đệ nhứt) Sa-môn, cũng có đệ nhị Sa-môn, cũng có đệ
tam Sa-môn, ở đấy cũng có đệ tứ Sa-môn. Này Subhadda, chính trong pháp luật
này có Bát Thánh Đạo, thời này Subhadda, ở đây có đệ nhất Sa-môn, ở
đây cũng có đệ nhị Sa-môn, cũng có đệ tam Sa-môn, cũng có đệ tứ
Sa-môn. Những hệ thống ngoại đạo khác đều không có những Sa-môn. Này
Subhadda, nếu những vị Tỷ-kheo này sống chơn chánh, thời đời này không
vắng những vị A-la-hán.
- Này Subhadda, năm hai mươi chín,
- Ta xuất gia hướng tìm chân thiện đạo.
- Trải năm mươi năm với thêm một năm
- Từ khi xuất gia, này Subhadda,
- Ta là du sĩ tu Trí, tu Đức.
Ngoài lãnh vực này, không có
Sa-môn (đệ nhứt) cũng không có Sa-môn đệ nhị, cũng không có Sa-môn đệ
tam, cũng không có Sa-môn đệ tứ. Những hệ thống ngoại đạo khác đều
không có những Sa-môn. Này Subhadda, nếu những Tỷ-kheo sống chơn chánh,
thì đời này không vắng những vị A-la-hán.
28. Khi được nói vậy, du sĩ ngoại
đạo Subhadda bạch Thế Tôn:
- Thật hy hữu thay, bạch Thế Tôn!
Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Như người dựng đứng lại những gì bị
quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho người
bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt
có thể thấy sắc. Cũng vậy, chánh pháp đã được Thế Tôn dùng nhiều
phương tiện trình bày, giải thích. Bạch Thế Tôn, con xin quy y Thế Tôn,
quy y Pháp và quy y Tỷ-kheo Tăng. Mong con được xuất gia với Thế Tôn. Con
xin thọ đại giới.
- Này Subhadda, ai trước kia là ngoại
đạo, nay muốn xuất gia muốn thọ đại giới trong Pháp, Luật này phải sống
bốn tháng biệt trú. Sau khi sống bốn tháng biệt trú, các vị Tỷ-kheo nếu
đồng ý sẽ cho xuất gia, cho thọ đại giới để thành vị Tỷ-kheo. Nhưng
Ta nhận thấy cá tánh con người sai biệt nhau.
29. - Bạch Thế Tôn, nếu những người
xưa kia là ngoại đạo nay muốn xuất gia, muốn thọ đại giới trong Pháp
và Luật này phải sống bốn tháng biệt trú. Sau khi sống bốn tháng biệt
thú, các vị Tỷ-kheo nếu đồng ý sẽ cho xuất gia, cho thọ đại giới,
thời con sẽ xin sống biệt trú bốn năm, sau khi sống biệt trú bốn năm,
nếu các vị Tỷ-kheo đồng ý, hãy cho con xuất gia, cho con thọ đại giới
để thành vị Tỷ-kheo.
Và Thế Tôn nói với tôn giả
Ananda:
- Này Ananada, hãy xuất gia cho
Subhadda.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn !
Tôn giả Ananda vâng lời Thế Tôn.
30. Du sĩ ngoại đạo Subhadda nói với
tôn giả Ananda:
- Thật là lợi ích, thưa Tôn giả
Ananda, thật là thiện lợi, thưa Tôn giả Ananda, được thọ lễ quán đảnh
làm đệ tử trước mặt bậc Đạo Sư !
Và du sĩ ngoại đạo Subhadda được
xuất gia được thọ đại giới với Thế Tôn. Thọ đại giới không bao
lâu, đại đức Subhadda ở một mình, an tịnh, không phóng dật, tinh tấn,
sống nhiệt tâm, cần mẫn. Và không bao lâu, vị này chứng được mục đích
tối cao mà con cháu các lương gia đã xuất gia, từ bỏ gia đình, sống
không gia đình hướng đến. Đó là vô thượng phạm hạnh ngay trong hiện
tại, tự giác chứng và an trú. Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những
gì nên làm đã làm, sau đời này sẽ không có đời sống khác nữa.
Và đại đức Subhadda trở thành một
A-la-hán nữa.
Đại đức là vị đệ tử cuối cùng
được Thế Tôn thế độ.
VI
1. Lúc bấy giờ, Thế Tôn nói với
Tôn giả Ananda:
- Này Ananda, nếu trong các Ngươi có
người nghĩ rằng: "Lời nói của bậc Đạo sư không còn nữa. Chúng
ta không có Đạo sư (giáo chủ)". Này Ananda, chớ có những tư tưởng
như vậy. Này Ananda, Pháp và Luật, Ta đã giảng dạy và trình bày, sau khi
Ta diệt độ, chính Pháp và Luật ấy sẽ là Đạo Sư của các Ngươi.
2. Này Ananda, nay các vị Tỷ-kheo xưng
hô với nhau là Hiền giả. Sau khi Ta diệt độ, chớ có xưng hô như vậy.
Này Ananda, vị Tỷ-kheo niên lão hãy gọi vị Tỷ-kheo niên thiếu, hoặc bằng
tên, hoặc bằng họ, hoặc bằng tiếng Hiền giả. Vị Tỷ-kheo niên thiếu,
hãy gọi vị Tỷ-kheo niên lão là Thượng tọa (Bhante) hay Đại đức.
3. Này Ananda, nếu chúng Tăng muốn,
sau khi Ta diệt độ có thể hủy bỏ những học giới nhỏ nhặt chi tiết.
4. Này Ananda, sau khi Ta diệt độ, hãy
hành tội Phạm đàn (Brahmadanda) đối với Tỷ-kheo Channa.
- Bạch Thế Tôn, thế nào là Phạm
Đàn?
- Này Ananda, Tỷ-kheo Channa muốn
nói gì thì nói. Chúng Tỷ-kheo sẽ không nói, sẽ không giảng dạy, sẽ
không giáo giới Tỷ-kheo Channa.
5. Rồi Thế Tôn nói với các Tỷ-kheo:
- Này các Tỷ-kheo, nếu có Tỷ-kheo
nào nghi ngờ hay phân vân gì về đức Phật, Pháp, chúng Tăng, đạo hay
phương pháp, thời này các Tỷ-kheo các Người hãy hỏi đi. Sau chớ có hối
tiếc: "Bậc Đạo Sư có mặt trước chúng ta mà chúng ta không tận mặt
hỏi Thế Tôn".
Khi được nói vậy, các Tỷ-kheo
ấy im lặng. Một lần thứ hai, Thế Tôn... . Một lần thứ ba, Thế Tôn
nói với các Tỷ-kheo:
- Này các Tỷ-kheo, nếu có một Tỷ-kheo
có nghi ngờ hay phân vân gì về đức Phật, Pháp, chúng Tăng, đạo hay
phương pháp, thời này các Tỷ-kheo, các Ngừơ hãy hỏi đi. Sau chớ có hối
tiếc: "Bậc Đạo Sư có mặt trước chúng ta mà chúng ta không tận mặt
hỏi Thế Tôn".
Lần thứ ba, các Tỷ-kheo ấy giữ
im lặng.
Rồi Thế Tôn nói với các Tỷ-kheo:
- Này các Tỷ-kheo, nếu có vị nào
vì lòng kính trọng bậc Đạo Sư mà không hỏi, thời này các Tỷ-kheo, giữa
bạn đồng tu, hãy hỏi nhau.
Khi được nói vậy, những vị Tỷ-kheo
ấy giữ im lặng.
6. Rồi tôn giả Ananda bạch Thế
Tôn:
- Bạch Thế Tôn, thật kỳ diệu
thay, bạch Thế Tôn, thật hy hữu thay! Bạch Thế Tôn, con tin rằng trong
chúng Tỷ-kheo này, không có một Tỷ-kheo nào có nghi ngờ hay phân vân gì
đối với Phật, Pháp, chúng Tăng, đạo hay phương pháp.
- Này Ananda, Ngươi có tín nhiệm
nên nói vậy. Nhưng ở đây, này Ananda, Như Lai biết rằng trong chúng Tỷ-kheo
này, không có một Tỷ-kheo nào có nghi ngờ hay phân vân gì đối với Phật,
Pháp, chúng Tăng, đạo hay phưưong pháp. Này Ananda, trong năm trăm Tỷ-kheo này,
Tỷ-kheo thấp nhất đã chứng được quả Dự lưu, không còn đọa lạc,
chắc chắn hướng đến Chánh giác.
7. Và Thế Tôn nói với các Tỷ-kheo:
- Này các Tỷ-kheo, nay Ta khuyê dạy
các Ngươi: "Các pháp hữu vi là vô thường, hãy tinh tấn, chớ có
phóng dật".
Đó là lời cuối cùng Như Lai.
8. Rồi Thế Tôn nhập định Sơ thiền.
Xuất Sơ thiền, Ngài nhập Nhị thiền. Xuất Nhị thiền Ngài nhập Tam thiền.
Xuất Tam thiền, Ngài nhập Tứ thiền, Xuất Tứ thiền, Ngài nhập định
Không vô biên xứ. Xuất Không vô biên xứ, Ngài nhập định Thức vô biên
xứ. Xuất Thức vô biên xứ, Ngài nhập định Vô sở hữu xứ. Xuất Vô Sở
hữu xứ, Ngài nhập định Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Xuất Phi tưởng
phi phi tưởng xứ, Ngài nhập Diệt thọ tưởng định.
Khi ấy tôn giả Ananda nói với tôn
giả Anuruddha :
- Thưa Tôn giả, Thế Tôn đã diệt
độ.
- Này Hiền giả Ananda, Thế Tôn chưa
diệt độ. Ngài mới nhập Diệt thọ tưởng định.
9. Rồi xuất Diệt thọ tưởng định.
Ngài nhập Phi tưởng phi phi tưởng xứ định. Xuất Phi tưởng phi phi tưởng
xứ, Ngài nhập Vô sở hữu xứ định. Xuất Vô sở hữu xứ, Ngài nhập
Thức vô biên xứ định. Xuất thức Vô biên xứ, Ngài nhập Hư không vô
biên xứ định. Xuất Hư không vô biên xứ, Ngài nhập định Tứ thiền.
Xuất Tứ thiền, Ngài nhập định Tam thiền. Xuất Tam thiền, Ngài nhập định
Nhị thiền. Xuất Nhị thiền, Ngài nhập định Sơ thiền. Xuất Sơ thiền,
Ngài nhập định Nhị thiền. Xuất Nhị thiền, Ngài nhập định Tam thiền.
Xuất Tam thiền, Ngài nhập định Tứ thiền. Xuất Tứ thiền, Ngài lập tức
diệt độ.
10. Khi Thế Tôn diệt độ, cùng với
sự diệt độ, đại địa chấn động khủng khiếp, râu tóc dựng ngược,
sấm trời vang động.
Khi Thế Tôn diệt độ, Phạm thiên
Sahampati, cùng lúc Ngài diệt độ, thốt lên bài kệ này.
- Chúng sanh ở trên đời,
- Từ bỏ thân ngũ uẩn
- Bậc đạo sư cũng vậy,
- Đấng Tuyệt luân trên đời.
- Bậc Đại hùng Giác ngộ
- Như Lai đã diệt độ.
Khi Thế Tôn diệt độ, Thiên chủ
Sakka, cùng lúc Ngài diệt độ, thốt lên bài kệ này:
- Các hành là vô thường,
- Có sanh phải có diệt
- Đã sanh, chúng phải diệt,
- Nhiếp chúng là an lạc.
Khi Thế Tôn diệt độ, tôn giả
Anuruddha, cùng lúc Ngài diệt độ, thốt lên bài kệ này:
- Không phải thở ra vào
- Chính tâm trú chánh định
- Không tham ái tịch tịnh
- Tu sĩ hướng diệt độ
- Chính tâm tịnh bất động
- Nhẫn chịu mọi cảm thọ
- Như đèn sáng bị tắt
- Tâm giải thoát hoàn toàn.
Khi Thế Tôn diệt độ, tôn giả
Ananda, cùng lúc Ngài diệt độ, thốt lên bài kệ này:
- Thật kinh khủng bàng hoàng,
- Thật râu tóc dựng ngược,
- Khi Bậc Toàn thiện năng,
- Bậc Giác ngộ nhập diệt.
Khi Thế Tôn diệt độ, những Tỷ-kheo
chưa giải thoát tham ái, có vị thì khóc than với cánh tay duỗi cao, có vị
thì khóc than, thân nằm nhoài dưới đất, lăn lộn qua lại: "Thế Tôn
nhập diệt quá sớm, Thiện Thệt nhập diệt quá sớm, Pháp nhãn biến mất
ở trên đời quá sớm". Còn những Tỷ-kheo đã diệt trừ tham ái, những
vị này an trú chánh niệm tỉnh giác, nhẫn nại, suy tư: "Các hành là
vô thường, làm sao tránh khỏi sự kiện ấy?"
11. Lúc bấy giờ, tôn giả Anuruddha
nói với các Tỷ-kheo:
- Thôi các Hiền giả, chớ có sầu
não, chớ có khóc than. Này các Hiền giả, phải chăng Thế Tôn đã tuyên bố
ngay từ ban đầu rằng mọi vật ưu ái thân tình đều phải sanh biệt, tử
biệt và dị biệt. Này các Hiền giả, làm sao có thể được như vầy:"Những
gì sanh, tồn tại, hữu vi, chịu sự biến hoại mà lại mong khỏi có sự
biến dịch? Thật không có sự trạng ấy". Này các Hiền giả, chính
chư Thiên đang trách đó.
- Thưa Tôn giả Anuruddha, Tôn giả
đang nghĩ đến hạng chư Thiên nào?
- Hiền giả Ananda, có hạng chư Thiên
ở trên hư không nhưng có tâm tư thế tục, những vị này khóc than với
đầu bù tóc rối, khóc than với cánh tay duỗi cao, khóc than thân bổ nhoài
dưới đất, lăn lộn qua lại: "Thế Tôn nhập diệt quá sớm, Thiện
Thệ nhập diệt quá sớm, Pháp nhãn biến mất ở trên đời quá sớm".
Hiền giả Ananda, có hạng chư Thiên
ở trên đất với tâm tư thế tục, những vị này khóc than với đầu bù
tóc rối, khóc than với cánh tay duỗi cao, khóc than thân nằm nhoài dưới
đất, lăn lộn qua lại: "Thế Tôn nhập diệt quá sớm, Thiện Thệ nhập
diệt quá sớm, Pháp nhãn biến mất ở trên đời quá sớm". Còn những
chư Thiên diệt trừ ái dục, những vị này chánh niệm tỉnh giác, chịu
đựng với tâm suy tư: "Các hành là vô thường, làm sao có thể khác
được?"
12. Tôn giả Anuruddha và tôn giả
Ananda luận bàn về Chánh pháp suốt cả đêm còn lại. Rồi tôn giả
Anuruddha nói với tôn giả Ananda:
- Hiền giả Ananda, hãy vào thành
Kusinàrà: "Này Vàsetthà, Thế Tôn đã diệt độ, hãy làm những gì
các ngươi nghĩ phải làm".
- Tôn giả, xin vâng!
Tôn giả Ananda vâng lời tôn giả
Anuruddha, buổi sáng đắp y, đem theo y bát cùng một thị giả, vào thành
Kusinàrà.
Lúc bấy giờ, dân Mallà ở
Kusinàrà đang tụ họp tại giảng đường vì một vài công vụ. Tôn giả
Ananda đến tại giảng đường của dân Mallà ở Kusinàrà, sau khi đến liền
nói với dân Mallà ở Kusinàrà: "Này Vàsetthà, Thế Tôn đã diệt độ,
hãy làm những gì các ngươi nghĩ phải làm".
Dân Mallà cùng với con trai, con gái
và vợ, khi nghe tôn giả Ananda nói như vậy liền đau đớn sầu muộn, tâm
tư khổ não, kẻ thì khóc than với đầu bù tóc rối, kẻ thì khóc than với
cánh tay duỗi cao, kẻ thì khóc than thân bổ nhoài dưới đất, lăn lộn
qua lại: "Thế Tôn nhập diệp quá sớm, Thiện Thệ nhập diệt quá sớm,
Pháp nhãn biến mất ở trên đời quá sớm".
13. Rồi dân Mallà ở Kusinàrà ra lệnh
cho những người làm: "Các người hãy gom góp hương, tràng hoa và tất
cả nhạc khí ở Kusinàrà".
Rồi dân Kusinàrà đem theo hương,
tràng hoa, tất cả nhạc khí và năm trăm cuộn vải đi đến Upavattana, tại
rừng Sàlà của dòng họ Mallà, đến tại chỗ thân xá lợi của Thế
Tôn, rồi chúng ở lại cả ngày tôn trọng, cung kính, đảnh lễ, cúng dường
thân xá lợi Thế Tôn với các điệu múa, hát, nhạc, tràng hoa, hương, làm
những bảo cái bằng vải và tràng hoa Mandala.
Rồi dân Mallà ở Kusinàrà suy nghĩ:
"Hôm nay, nếu thiêu thân xá lợi Thế Tôn thời quá sớm. Ngày mai,
chúng ta sẽ làm lễ thiêu thân xá lợi của Thế Tôn". Rồi dân Mallà
ở Kusinàrà, cả ngày thứ hai, tôn trọng, cung kính, đảnh lễ, cúng dường
thân xá lợi Thế Tôn với các điệu múa, hát, nhạc, tràng hoa, hương, làm
những bảo cái bằng vải và tràng hoa Mandala, ngày thứ ba cũng như vậy,
ngày thứ tư cũng như vậy, ngày thứ năm cũng như vậy. Ngày thứ sáu cũng
như vậy.
14. Đến ngày thứ bảy, dân Mallà
ở Kusinàrà suy nghĩ: "Chúng ta đã tôn trọng, cung kính, đảnh lễ, cúng
dường thân xá lợi Thế Tôn với các điệu múa hát, nhạc, tràng hoa, hương,
nay chúng ta hãy chở thân xác xá lợi Thế Tôn ra ngoài thành về phía Nam
và làm lễ thiêu thần tại chỗ ấy".
Lúc bấy giờ tám vị tộc trưởng
Mallà gội đầu, mặc áo mới với ý định khiêng nổi thân xá lợi Như
Lai nhưng khiêng không nổi được. Các vị Mallà ở Kusinàrà bạch Tôn giả
Anuruddha:
- Bạch Tôn giả, do nhân gì, do
duyên gì tám vị tộc trưởng Mallà này gội đầu, mặc áo mới với ý định
khiêng nổi thân xá lợi Như Lai, nhưng không khiêng nổi được?
- Này Vàsetthà, vì ý định của các
Ngươi khác, ý định của chư Thiên khác.
15. - Bạch Tôn giả, ý định của
chư Thiên là gì?
- Này các Vàsetthà, ý định của các
Ngươi như sau:
"Chúng ta đã tôn trọng, cung
kính, đảnh lễ, cúng dường thân xá lợi Thế Tôn với các điệu múa,
hát, nhạc, tràng hoa, hương. Nay chúng ta hãy chở thân xá lợi Thế Tôn ra
ngoài thành về phía Nam và làm lễ thiêu thân tại chỗ ấy".
Này các Vàsetthà, ý định của
chư Thiên như sau: "Chúng ta đã tôn trọng, cung kính, đảnh lễ, cúng dường
thân xá lợi Thế Tôn với các điệu múa, hát, nhạc, tràng hoa, hương
hương của Chư thiên nay chúng ta hãy khiêng thân xá lợi Thế Tôn về hướng
Bắc phía Bắc của thành. Sau khi khiêng qua cửa phía Bắc, hãy khiêng qua
Trung tâm của thành, rồi hướng về phía Đông, khiêng đến phía Đông của
thành. Sau khi khiêng qua cửa phía Đông, hãy khiêng đến phía Đông của
thành, tại đền của dân Mallà tên là Makuta-bandhana và chúng ta sẽ thiêu
thân Thế Tôn tại chỗ ấy".
- Bạch Tôn giả, ý định của chư
Thiên thế nào, ý định của chúng con cũng vậy.
16. Lúc ấy, khắp cả Kusinàrà cho
đến đống bụi, đống rác, được rải la liệt lên đến đầu gối toàn
hoa Mandaràva. Rồi chư Thiên và các dân Mallà ở Kusinàrà, sau khi đã tôn
trọng, cung kính, đảnh lễ, cúng dường thân xá lợi Thế Tôn với các
điệu múa, hát, nhạc, tràng hoa, hương của chư Thiên và loài Người, liền
khiêng thân xá lợi Thế Tôn về phía Bắc của Thành. Sau khi khiêng qua cửa
phía Bắc, liền khiêng qua Trung tâm của thành, rồi hướng về phía Đông,
khiêng đến phía Đông của thành. Sau khi khiêng qua cửa phía Đông, liền
khiêng đến phía Đông của thành, tại đền của dân Mallà tên là
Makuta-bandhana và đặt thân xá lợi của Thế Tôn tại chỗ ấy.
17. Rồi dân Mallà bạch tôn giả
Ananda:
- Bạch Tôn giả Ananda, chúng con nay
phải xử sự như thế nào đối với thân xá lợi Như Lai?
- Này các Vàsetthà, xử sự thân
Chuyển luân Thánh vương như thế nào, hãy xử sự thân xá lợi Như Lai
như vậy.
- Bạch Tôn giả Ananda, xử sự
thân Chuyển luân Thánh vương phải như thế nào?
- Này cá Vàsetthà, thân Chuyển
luân Thánh vương được vấn tròn với vải mới. Sau khi vấn vải mới, lại
được vấn thêm với vải gai bện. Sau khi vấn với vải gai bện, lại vấn
thêm với vải mới và tiếp tục như vậy cho đến năm trăm lớp cả hai
loại vải. Rồi thân được đặt trong một hòm dầu bằng sắt, hòm sắt
này được một hòm sắt khác đậy kín. Xong một giàn hỏa gồm mọi loại
hương được xây dựng lên, thân vị Chuyển luân Thánh vương được đem
thiêu trên giàn hỏa này, và tại ng tư đường, tháp vị Chuyển luân
Thánh vương này được xây dựng lên. Này các Vàsetthà, đó là pháp táng
thân của vị Chuyển luân Thánh vương.
Này các Vàsetthà, pháp táng thân của
vị Chuyểb luân Thánh vương như thế nào, pháp táng thân của Thế Tôn cũng
như vậy. Tháp của Như Lai phải được dựng lên tại ngã tư đường. Và
những ai đem đến tại chỗ ấy vòng hoa, hương, hay hương bột nhiềumàu,
đảnh lễ tháp hay khởi tâm hoan hỷ (khi đứng trước mặt tháp) , thời
những người ấy sẽ được lợi ích, hạnh phúc lâu dài.
18. Và các người Mallà ở
Kusinàrà sai những người làm công:
- Hãy đem lại tất cả vải gai bện
của Mallà .
Rồi những người Mallà ở
Kusinàrà vấn tròn thân Thế Tôn với vải mới. Sau khi vấn vải mới xong,
lại vấn thêm với vải gai bện. Sau khi vấn với vải gai bện lại vấn
thêm với vải mới và tiếp tục như vậy cho đến năm trăm lớp cả hai
loại vải. Rồi đặt thân Như Lai vào trong một hòm dầu bằng sắt, đậy
hòm sắt này vào một hòm sắt khác, dựng lên một giàn hỏa gồm mọi loại
hương và đặt thân Thế Tôn trên giàn hỏa.
19. Lúc bấy giờ, Tôn giả Mallà
Kassapa đang đi giữa đường từ Pàvà đến Kusinàrà với đại chúng Tỷ-kheo
khoảng năm trăm vị. Rồi Tôn giả Mallà Kassapa bước xuống đường và đến
ngồi tại một gốc cây.
Lúc bấy giờ có một tà mạng ngoại
đạo lấy một hoa Mandàrava ở Kusinàrà và đang đi trên một con đường
đến Pàvà.
Tôn giả Mallà Kassapa thấy tà mạng
ngoại đạo đi từ đàng xa đến. Thấy vạya, tôn giả liền hỏi tà mạng
ngoại đạo ấy:
- Này Hiền giả, Hiền giả có biết
bậc Đạo sư chúng tôi không?
- Này Hiền giả, tôi có biết.
Sa-môn Gotama đã diệt độ cách hôm nay một tuần. Từ chỗ ấy, tôi được
hoa Mandàrava này.
Lúc ấy những Tỷ-kheo chưa giải
thoát tham ái, có vị thì khóc than với cánh tay duỗi cao, có vị thì khóc
than, thân nằm nhoài dưới đất, lăn lộn qua lại: "Thế Tôn nhập diệt
quá sớm, Thiện Thệ nhập diệt quá sớm, Pháp nhãn biến mất ở trên đời
quá sớm". Còn những Tỷ-kheo đã diệt trừ tham ái, những vị bnày an
trú chánh niệm, tỉnh giác nhẫn nại suy tư: "Các hành là vô thường,
làm sao tránh khỏi sự kiện ấy?"
20. Lúc bấy giờ, Subhadda được xuất
gia khi đã lớn tuổi đang ngồi trong hội chúng này. Subhadda được xuất
gia khi đã lớn tuổi nói với những Tỷ-kheo ấy:
- Thôi các Hiền giả, chớ có sầu
não, chớ có khóc than. Chúng ta đã được thoát khỏi hoàn toàn vị Đại
Sa-môn ấy, chúng ta đã bị phiền nhiễu quấy rầy với những lời:
"Làm như thế này không hợp với các Ngươi. Làm như thế này hợp với
các Ngươi". Nay những gì chúng ta muốn, chúng ta làm, những gì chúng
ta không muốn, chúng ta không làm.
Tôn giả Mahà Kassapa mới nói với
các vị Tỷ-kheo:
- Thôi các Hiền giả, chớ có sầu
não, chớ có khóc than. Này các Hiền giả, phải chăng Thế Tôn đã tuyên bố
ngay từ ban đầu rằng mọi vật ưu ái thân tình đều phải bị sanh biệt,
tử biệt và dị biệt. Này các Hiền giả, làm sao có thể được như vầy:
Những gì sanh, tồn tại, hữu vi, chịu sự biến hoại mà lại mong khỏi
có sự biến dịch? Thật không có sự trạng ấy.
21, Lúc bấy giờ bốn vị tộc trưởng
Mallà gội đầu, mặc áo mới với ý định châm lửa thiêu giàn hỏa Thế
Tôn nhưng châm lửa không cháy.
Các vị Mallà ở Kusinàrà bạch
tôn giả Anuruddha:
- Bạch Tôn giả, do nhân gì, do
duyên gì, bốn vị tộc trưởng Mallà này gội đầu, mặc áo mới với ý
định châm lửa thiêu giàn hỏa Thế Tôn, nhưng châm lửa không cháy?
- Này các Vàsetthà, ý định của
chư Thiên khác.
- Bạch Tôn giả, ý định của chư
Thiên như thế nào?
- Này các vàsetthà, ý định của
chư Thiên như sau: "Tôn giả Mahà Kassapa nay đang đi giữa đường giữa
Pàvà và Kusinàrà cùng với đại chúng Tỷ-kheo khoảng năm trăm vị. Giàn
hỏa Thế Tôn chỉ được đốt cháy khi tôn giả Mahà Kassapa cúi đầu đảnh
lễ Thế Tôn".
- Bạch Tôn giả, ý định chư Thiên
như thế nào, hãy làm y như vậy.
22. Rồi Tôn giả Mahà Kassapa đến
tại đền Makuta Bandhana của những vị Mallà tại giàn hỏa Thế Tôn, khi
đến xong liền choàng áo phía một bên vai, chấp tay, đi nhiễu phía tay phải
xung quanh giàn hỏa ba lần, cởi mở chân ra và cúi đầu đảnh lễ chân Thế
Tôn.
Năm trăm vị Tỷ-kheo ấy choàng áo
phía một bên vai, chấp tay, đi nhiễu qua phía tay phải xung quanh giàn hỏa
ba lần và cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn.
Và khi tôn giả Mahà Kassapa và năm
trăm vị Tỷ-kheo đảnh lễ xong, thời giàn hỏa Thế Tôn tự bắt lửa
cháy.
23. Khi thân Thế Tôn đã cháy, từ
da ngoài cho đến da mỏng, thịt, dây gân hay nước giữa các khớp xương,
thảy đều cháy sạch không có tro, không có than, chỉ có xương xá lợi
còn lại.
Như sanh tô hay dầu bị cháy, tất
cả đều cháy sạch không có tro, không có than, cũng vậy khi thân Thế Tôn
cháy, từ da ngoài cho đến da mỏng, thịt, dây gân hay nước giữa khớp
xương, tất cả đều cháy sạch không có tro, không có than, chỉ có xương
xá lợi còn lại. Và năm trăm tầng lớp vải gai bện, cả hai lớp trong nhất
và lớp ngoài nhất đều bị cháy thiêu.
Khi thân Thế Tôn bị thiêu cháy
xong, một dòng nước từ hư không chảy xuống tưới tắt giàn hỏa Thế
Tôn, và một dòng nước từ kho nước (hay từ cây sàlà) phun lên tưới tắt
giàn hỏa Thế Tôn, và các người Mallà ở Kusinàrà dùng nước với mọi
loại hương tưới tắt giàn hỏa Thế Tôn.
Rồi các người Mallà xứ Kusinàrà
đặt xá lợi Thế Tôn trong giảng đường, dùng cây thương làm hàng rào,
dùng cây cung làm bức thành xung quanh và trong bảy ngày tôn trng, cung kính,
đảnh lễ, cúng dường với các điệu múa, hát, nhạc, vòng hoa, hương.
24. Vua nước Magadha tên là
Ajàtasattu Vedehiputta nghe tin Thế Tôn đã diệt độ ở Kusinàrà. Vua liền gởi
một sứ giả đến các người Mallà ở Kusinàrà "Thế Tôn là người
Sát-đế-lỵ, ta cũng là người Sát-đế-lỵ. Ta cũng xứng đáng được một
phần xá lợi Thế Tôn, ta cũng dựng tháp và tổ chức nghi lễ đối với
xá lợi Thế Tôn".
Những người Licchavì ở Vesàli
nghe tin Thế Tôn đã diệt độ ở Kusinàrà liền gởi một sứ giả đến
các người Mallà ở Kusinàrà: "Thế Tôn là người Sát-đế-lỵ, chúng
tôi cũng là người Sát-đế-lỵ. Chúng tôi cũng xứng đáng được phần xá
lợi Thế Tôn. Chúng tôi cũng dựng tháp và tổ chức nghi lễ đối với xá-lợi
Thế Tôn".
Các người Sakyà ở Kapilavatthu nghe
tin Thế Tôn đã diệt độ ở Kusinàrà, liền gởi một sứ giả đến các
người Mallà ở Kusinàrà: "Thế Tôn là người Sát-đế-lỵ, chúng tôi
cũng là người Sát-đế-lỵ. Chúng tôi cũng xứng đáng được một phần
xá lợi Thế Tôn. Chúng tôi cũng sẽ dựng tháp và tổ chức các nghi lễ với
xá-lợi Thế Tôn".
Những người Buli ở Allakappa nghe
tin Thế Tôn đã diệt độ ở Kusinàrà, liền gởi một sứ giả đến các
người Mallà ở Kusinàrà: "Thế Tôn là người Sát-đế-lỵ, chúng tôi
cũng là người Sát-đế-lỵ. Chúng tôi cũng xứng đáng được một phần
xá-lợi Thế Tôn. Chúng tôi cũng sẽ dựng tháp và tổ chức các nghi lễ
đốis với xá lợi Thế Tôn".
Những người Koli ở Rãmagãma nghe
tin Thế Tôn đã diệt độ ở Kusinàrà , liền gởi một sứ giả đến các
người Mallà ở Kusinàrà: "Thế Tôn là người Sát-đế-lỵ, chúng tôi
cũng là người Sát-đế-lỵ. Chúng tôi cũng xứng đáng được một phần
xá lợi Thế Tôn. Chúng tôi cũng sẽ dựng tháp và tổ chức các nghi lễ
đối với xá lợi Thế Tôn."
Bà-la-môn Vethadìpaka nghe tin Thế
Tôn đã diệt độ ở Kusinàrà, liền gởi một sứ giả đến các người
Mallà ở Kusinàrà: "Thế Tôn là người Sát-đế-lỵ, tôi là người Bà-la-môn.
Tôi cũng xứng đáng được một phần xá lợi Thế Tôn. Tôi cũng sẽ dựng
tháp và tổ chức các nghi lễ đối với xá-lợi Thế Tôn".
Các người Mallà ở Pàvà nghe tin
Thế Tôn đã diệt độ liền gửi một sứ giả đến các người Mallà ở
Kusinàrà: "Thế Tôn là người Sát-đế-lỵ, chúng tôi cũng là người
Sát-đế-lỵ. Chúng tôi cũng xứng đáng được một phần xá-lợi Thế
Tôn. Chúng tôi cũng sẽ dựng tháp và tổ chức các nghi lễ đối với xá-lợi
Thế Tôn".
25. Khi được nói vây các người
Mallà ở Kusinàrà liền tuyên bố giữa đại chúng:
- Thế Tôn đã diệt độ tại làng
vườn của chúng tôi, chúng tôi sẽ không cho phần xá lợi nào của Thế
Tôn.
Khi nghe vậy. Bà-la-môn Dona nói với
chúng:
- Tôn giả, hãy nghe lời tôi nói!
- Phật dạy chúng ta phải kham nhẫn.
- Thật không tốt nếu có tranh giành.
- Khi chia xá lợi bậc Thượng nhân.
- Chúng ta hãy đoàn kết nhất tâm,
- Hoan hỷ chia xá lợi tám phần.
- Chúng ta hãy dựng tháp mọi phương,
- Đại chúng mười phương tin Pháp nhãn...
- Này Tôn giả Bà-la-môn, Ngài hãy
phân chia xá lợi ra tám phần đồng đều.
- Xin vâng, các Tôn giả.
Bà-la-môn Dona vâng lời hội chúng
ấy, phân chia xá-lợi Thế Tôn thành tám phần đồng đều rồi thưa hội
chúng:
- Các Tôn giả, hãy cho tôi cái
bình dùng để đông chia xá-lợi này. Tôi sẽ dựng tháp và tổ chức các
nghi lễ cho cái bình.
Và hội chúng ấy tặng Bà-la-môn
Dona cái bình.
26. Và người Moriyà ở Pipphalivana
nghe tin Thế Tôn đã diệt độ liền gởi một sứ giả đến các người
Mallà ở Kusinàrà: "Thế Tôn là người Sát-đế-lỵ, chúng tôi cũng là
người Sát-đế-lỵ. Chúng tôi cũng xứng đáng được hưởng một phần xá
lợi Thế Tôn. Chúng tôi cũng sẽ dựng tháp và tổ chức các nghi lễ đối
với xá-lợi Thế Tôn". - "Nay không còn phần xá-lợi Thế Tôn
nào. Xá-lợi Thế Tôn đã được phân chia, hãy lấy tro còn lại". Rồi
các vị nầy lấy than tro còn lại.
27. Và vua nước Magadha tên là
Ajàtasattu, con bà Videhi xây dựng tháp trên xá-lợi Thế Tôn tại Vương Xá
và tổ chức lễ cúng dường.
Những người Licchavi ở Vesàli cũng
xây dựng tháp trên xá-lợi Thế Tôn tại Vesàli và tổ chức lễ cúng dường.
Những người Sakya ở Kapilavatthu
cũng xây dựng trên xá-lợi Thế Tôn tại Kapilavatthu và tổ chức lễ cúng
dường.
Những người Buli ở Allakappa cũng
xây dựng tháp trên xá lợi Thế Tôn tại Allakappa và tổ chức lễ cúng dường.
Những người Koli ở Ràmagama cũng
xây dựng tháp trên xá-lợi Thế Tôn tại Ràmagama và tổ chức lễ cúng dường.
Bà-la-môn Vethadìpaka cũng xây dựng
tháp trên xá-lợi Thế Tôn tại Vethadìpa và tổ chức lễ cúng dường.
Những người Mallà ở Pàvà cũng xây
dựng tháp trên xá-lợi Thế Tôn tại Pàvà và tổ chức lễ cúng dường.
Những người Màllà ở Kusinàrà cũng
xây dựng tháp trên xá-lợi Thế Tôn tại Kusinàrà và tổ chức lễ cúng dường.
Bà-la-môn Dona cũng xây dựng tháp
trên bình (dùng để đong chia xá-lợi) và tổ chức lễ cúng dường.
Những người Moriyà ở Pipphalivana
cũng xây dựng tháp trên những than tro và tổ chức lễ cúng dường.
Như vậy có tám tháp xá-lợi, tháp
thứ chín trên bình (dùng để đong chia xá-lợi) và tháp thứ mười trên
tro (xá-lợi).
- Đó là truyền thống thời xưa như vậy.
- 28. Đấng Pháp Nhãn Vô Thượng
- Xá-lợi phân tám phần.
- Bảy phần được cúng dường.
- Tại Jambudìpa.
- Một phần Long vương cúng.
- Tại Ràmagàma.
- Một răng Phật được cúng,
- Tại cõi Tam Thiên giới,
- Một tại Gandhàra,
- Một tại Kalinga.
- Một răng, vua Long vương.
- Tự mình riêng cúng dường.
- Quả đất được chói sáng,
- Với hào quang xá-lợi,
- Với lễ vật cúng dường.
- Hạng thượng phẩm, thượng đẳng.
- Xá-lợi đấng Pháp Nhãn.
- Như vậy được cúng dường,
- Bởi những bậc tôn trọng
- Cúng kính lễ cúng dường,
- Bởi những bậc tôn trọng
- Cúng kính lễ cúng dường.
- Bởi Thiên, Long, Nhơn chủ,
- Bởi bậc Tối thượng nhơn.
- Các người hãy chắp tay,
- Cung kính lễ cúng dường.
- Khó thay sự chiêm ngưỡng.
- Tôn nhan bậc Như Lai.
- Trải nhiều nhiều trăm kiếp,
- May lắm được một phần.
-