- Kinh Trường bộ
25. KINH
ƯU ĐÁM BÀ LA SƯ TỬ HỐNG
Như vầy tôi nghe.
1. Một thời, Thế tôn ở tại
Ràjagaha (Vương Xá), núi Gijjhakùta (Kỳ xà quật). Lúc bấy giờ du sĩ
Nigrodha (Ni câu đà) ở tại vườn của nữ hoàng Udumbarikà (Ưu đàm bà la)
dành cho du sĩ đoàn, cùng với đại hội chúng du sĩ, khoảng ba ngàn người.
Gia chủ Sandhana (Tán đà na), vào buổi chiều đi ra khỏi thành Vương Xá để
yết kiến Thế Tôn. Rồi gia chủ Sandhana suy nghĩ: "Nay không phải thời
để yết kiến Thế Tôn, Thế Tôn đang an lặng tịnh cư. Cũng khong phải
thời để yết kiến chúng Tăng,
vì chúng Tăng đang tu tập thiền định.
Vậy ta hãy đi đến vườn của nữ hoàng Udumbarika dành cho du sĩ đoàn, để
thăm du sĩ Nigrodha." Và gia chủ Sandhana đi đến vườn của nữ hoàng
Undumbarika dành cho du sĩ đoàn để thăm du sĩ Nigrodha.
2. Lúc bấy giờ du sĩ Nigrodha đang
ngồi với đại hội chúng du sĩ, tất cả đều ồn ào nói chuyện, cao giọng
lớn tiếng, bàn cãi về những phiếm luận vô ích, như câu chuyện về vua
chúa, câu chuyện về ăn trộm, câu chuyện về đại thần, câu chuyện về
binh lính, các câu chuyện hãi hùng,
câu chuyện về chiến tranh, câu
chuyện về đồ ăn, câu chuyện về đồ uống, câu chuyện về vải mặc,
câu chuyện về giường nằm, câu chuyện về vòng hoa, câu chuyện về hương
liệu, câu chuyện về bà con, câu chuyện về xe cộ, câu chuyện về làng
xóm, câu chuyện về thị tứ, câu chuyện về thành phố, câu chuyện về
quốc độ, câu chuyện về đàn bà, câu chuyện về đàn ông, câu chuyện về
vị anh hùng, câu chuyện bên lề đường, câu chuyện tại chỗ lấy nước,
câu chuyện về người đã chết, các câu chuyện tạp thoại, câu chuyện về
hiện trạng thế giới, hiện trạng đại dương, câu chuyện về hiện hữu
và không hiện hữu.
3. Dũ sĩ Nigrodha thấy gia chủ
Sandhana từ đường xa đến, liền dặn hội chúng của mình:
- Các Tôn giả hãy giữ im lặng,
các Tôn giả chó có làm ồn! Đệ tử Sa môn Gotama, gia chủ Sandhana đang
đi đến. Trong hàng đệ tử Sa môn Gotama, các hàng cư sĩ, mặc áo trắng,
trú tại Vương Xá, gia chủ Sandhana là một vị trong đoàn thể ấy. Các vị
này ưa sự an tịnh, các vị này được huấn luyện trong sự an tịnh, các
vị này tán thán sự an tịnh. Nếu được biết hội chúng này an tịnh,
Sandhana có thể đến đây.
khi nghe nói vậy, các vị du sĩ đều
giữ yên lặng.
4. Rồi gia chủ Sandhana đến tại
chỗ của du sĩ Nigrodha, khi đến nơi, nói lên những lời chúc tụng, viếng
thăm xã giao rồi ngồi với du sĩ Nigrodha:
- Thật sự khác thay, khi các Tôn giả
ngoại đạo, các du sĩ này hội họp lại, quy tụ lại, ồn ào, cao giọng
lớn tiếng, họ sống bàn cãi về những phiếm luận vô ích như câu chuyện
về vua chúa... câu chuyện về sự hiện hữu và sự không hiện hữu. Thật
sai khác thay, Thế Tôn an trú các nhàn tịnh xứ, núi rừng tịch mịch, xa vắng,
ít tiếng động, có gió đồng thổi, lánh xa mắt người đời, thích hợp
cho sự tĩnh tu.
5. Khi nghe nói vậy, du sĩ Nigrodha nói
với gia chủ Sandhana:
- Gia chủ có biết không? Sa môn
Gotama luận đàm với ai? Đối thoại với ai? Với ai đạt được tuệ trí?
Trí tuệ của Sa môn Gotama bị hư hoại vì sống với không xứ, Sa môn
Gotama không giỏi điều khiển một hội chúng, không đủ sức để đối
thoại, chỉ đề cập đến những vấn đề ngoại biên. Cũng như con bò một
mắt, đi vòng tròn và chỉ đi phía bên ngoài. Cũng vậy, trí tuệ của Sa
môn Gotama bị hư hoại vì sống với không xứ. Sa môn Gotama không giỏi điều
khiển một hội chúng, không đủ sức để đối thoại, chỉ đề cập đến
vấn đề ngoại biên. Này gia chủ, nếu Sa môn Gotama đến tại hội chúng
này, chỉ có một câu hỏi chúng tôi có thể chận đứng ngay; chúng tôi
nghĩ, chúng tôi có thể lăn tròn Sa môn Gotama như lăn tròn một cái bình
không.
6. Thế Tôn, với thiên nhĩ thanh tịnh
hơn người, nghe được câu chuyện giữa gia chủ Sandhana với du sĩ
Nigrodha. Rồi Thế Tôn từ núi Gijjhakùtà bước xuống, đi đến vườn nui
dưỡng chim khổng tước, bên bờ sông Sumàgaghà, khi đến nơi liền đi qua
lại giữa trời. Du sĩ Nigrodha thấy Thế Tôn đi qua lại giữa trời, tại
vườn nui dưỡng chim khổng tước, trên bờ sông Sumàgadhà, khi thấy vậy
liền dặn dò hội chúng:
- Các Tôn giả hãy giữ im lặng;
các Tôn giả chớ có làm ồn; Sa môn Gotama này đang đi lại giữa trời, tại
vườn nuôi dưỡng chim không tước trên bờ sông Sumàgadhà. Vị tôn giả
này ưa an tịnh, tán thán sự an tịnh, nếu biết được hội chúng này an
tịnh, chúng tôi nghĩ, Sa môn Gotama có thể đến đây. Nếu Sa môn Gotama đến
tại hội chúng này, chúng ta sẽ hỏi câu hỏi này: "Bạch Thế Tôn,
Pháp gì là Pháp của Thế Tôn? Với Pháp nào Thế Tôn muốn dạy các đệ
tử, với Pháp nào các đệ tử của Thế Tôn được huấn dạy, đạt đến
tịnh lạc, và xác nhận là căn bản phạm hạnh?"
Khi được nói vậy, các vị du sĩ
ấy giữ im lặng.
7. Lúc bấy giờ, Thế Tôn đến tại
chỗ du sĩ Nigrodha ở. Và du sĩ Nigrodha nói với Thế Tôn như sau:
- Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy đến
đây; xin đón mừng Thế Tôn; bạch Thế Tôn, đã lâu Thế Tôn mới có dịp
đến đây; bạch Thế Tôn, xin mời Thế Tôn ngồi. Đây là chỗ ngồi đã
soạn sẵn.
Thế Tồn ngồi xuống chỗ ngồi đã
soạn sẵn. Du sĩ Nigrodha lấy một ghế ngồi thấp khác và ngồi xuống một
bên. Thế Tôn nói với du sĩ Nigrodha đang ngồi xuống một bên:
- Này Nigrodha, Quí vị đang ngồi bàn
luận vấn đề gì? Vấn để gì đang nói giữa quí vị thì bị dừng lại?
Khi được nói vậy, du sĩ Nigrodha bạch
Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, ở đây chúng con
thấy Thế Tôn đang đi qua lại, tại vườn nuôi dưỡng chim khổng tước,
trên bờ sông Sumagadha. Khi thấy vậy, chúng con nói: "Nếu Sa môn Gotama
đến tại hội chúng này, chúng ta sẽ hỏi câu hỏi:" Bạch Thế Tôn,
Pháp gì là Pháp của Thế Tôn? Với Pháp nào Thế Tôn huấn dạy các đệ
tử? Với Pháo nào các đệ tử Thế Tôn được huấn dạy, đạt đến tịnh
lạc và xác nhận là căn bản phạm hạnh?" Bạch Thế Tôn, đó là vấn
đề đang được bàn luận giữa chúng con, thì được dừng lại khi Thế Tôn
đến.
- Này Nigrodha, thật khó cho Ngươi,
khi Ngươi theo các kiến giải sai khác, kham nhẫn các sự việc sai khác,
theo dõi những mục tiêu khác, theo đuổi những mục đích sai khác, được
huấn luyện theo các phương pháp sai khác để hiểu được Pháp nào Ta huấn
dạy các đệ tử của Ta, đạt đến tịnh lạc và xác nhận là căn bản
phạm hạnh. Này Nigrodha, hãy hỏi về tối thắng khổ hạnh theo truyền thống
của Ngươi: "Bạch Thế Tôn, thế nào là sự thành tựu của khổ hạnh,
thế nào là sự không thành tựu?"
Khi nghe nói vậy, các Du sĩ ngoại
đạo liền lớn tiếng, cao giọng la: "Thật là kỳ diệu, thật là hy hữu,
đại thần lực và đại uy lực của Sa môn Gotama! Ngài không đề cập đến
giáo lý của mình, lại đề nghị thảo luận giáo lý của người khác."
8. Du sĩ Nigrodha bảo các du sĩ ấy
im lặng rồi bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, chúng con sống
thuyết giảng về khổ hạnh, xem khổ hạnh là căn bản, chấp trì khổ hạnh.
Bạch Thế Tôn, thế nào là sự thành tựu khổ hạnh? Thế nào là sự
không thành tựu khổ hạnh?
- Này Nigrodha, ở đây có người tu
khổ hạnh, sống lõa thể, sống phóng túng không theo lễ nghi, liếm tay cho
sạch, đi khất thực không chịu bước tới, không nhận đồ ăn mang đến,
không nhận đồ ăn đặc biệt nấu cho mình, không nhận lời mời đi ăn,
không nhận đồ ăn tại ngưỡng cửa, không nhận đồ ăn đặt giữa những
cây gậy, không nhận đồ ăn từ hai người đang ăn, không nhận đồ ăn từ
người đàn bà có thai, không nhận đồ ăn từ người đàn bà đang cho con
bú, không nhận đồ ăn từ người đàn bà đang giao cấu, không giận đồ
ăn đi quyên, không nhận đồ ăn tại chỗ có chó đứng, không nhận đồ
ăn tại chỗ có ruồi bu, không ăn cá, ăn thịt, không uống nước nấu rượu
men. Vị ấy chỉ nhận ăn tại nhà hay chỉ nhận ăn một miếng, chỉ nhận
ăn tại bảy nhà hay chỉ nhận ăn bảy miếng. Vị ấy nuôi sống chỉ với
một bát, nuôi sống chỉ với hai bát, nuôi sống chỉ với bảy bát. Vị
ấy chỉ ăn một ngày một bữa, hai ngày một bữa, bảy ngày một bữa. Như
vậy vị ấy sống theo hạnh tiết chế ăn uống cho đến nửa tháng mới
ăn một lần. Vị này chỉ ăn cỏ lúa để sống, lúa tắc, gạo lức, ăn
hột vải nivara, ăn da vụn, ăn trấu, ăn nước bột gạo, ăn bột vừng
ăn cỏ, ăn phân bò, ăn trái cây, ăn rễ cây trong rừng, ăn trái cây rụng
để sống. Vị ấy mặc vải gai thô, mặc vải gai thô lẫn với các khác
vải khác, mặc vải tẩm liệm đã quăng đi, mặc vải phấn tảo y, mặc vải
vỏ cây tititaka làm áo, mặc da con sơn dương đen, mặc áo bằng cỏ cát tường,
mặc áo vỏ cây, mặc áo bằng tấm gỗ nhỏ, mặc áo bằng tóc bện lại
thành mền, mặc áo bằng đuôi ngựa bện lại, mặc áo bằng lông cú. Vị
ấy là người sống nhờ râu tóc, là người sống theo tập tục sống nhờ
râu tóc, là người theo hạnh thường đứng, không ngồi, là người ngồi
chỏ hỏ; sống theo hạnh ngồi chỏ hỏ một cách tinh tấn, là người dùng
gai làm giường, thường ngủ nằm trên giường gai, sống dùng ván gỗ làm
giường, sống nằm trên đất trần, thường nằm ngủ một bên hông, sống
để bụi và nhớp che kín thân mình, sống và ngủ ngoài trời; theo hạnh bạ
đâu nằm đầy, sống ăn các uết vật; theo hạnh ăn các uết vật, sống
không uống các nước lạnh, theo hạnh không uống nước lạnh, sống một
đêm tắm ba lần, theo hạnh xuống nước tắm. Này Nigrodha, Ngươi nghĩ thế
nào? Như vậy có phải là thành tựu các pháp khổ hạnh hay không thành tựu?
- Bạch Thế Tôn, như vậy là thành
tựu các pháp khổ hạnh, không phải không thành tựu.
- Này Nigrodha, sự thành tựu khổ hạnh
như vậy, Ta nói rằng sẽ đưa đến nhiều loại cấu uế?
Này Nigrodha, ở đây một vị khổ
hạnh siêng tu khổ hạnh. Nhờ tu khổ hạnh này, vị ấy hoan hỷ tâm tư thỏa
mãn. Này Nigrodha, vị khổ hạnh do siêng tu khổ hạnh, phát sanh hoan hỷ,
tâm tư thỏa mãn. Này Nigrodha, như vậy là cấu uế cho người khổ hạnh.
Lại nữa, này Nigrodha, vị khổ hạnh
tu hành khổ hạnh, do khổ hành này, vị này khen mình chê người. Này
Nigrodha, vị khổ hạnh tu hành khổ hạnh nào, do khổ hạnh ấy khen mình
chê người. Này Nigrodha, như vậy là cấu uế cho người khổ hạnh.
Lại nữa, này Nigrodha, vị khổ hạnh
tu hành khổ hạnh, do khổ hạnh này trở thành mê say, nhiễm trước, phóng
dật. Này Nigrodha, vị tu hành khổ hạnh nào, nhờ khổ hanh ấy mê say, nhiễm
trước, phóng dật. Này Nigrodha, như vậy là cấu uế cho người khổ hạnh.
10. Lại nữa, này Nigrodha, vị khổ
hạnh tu hành khổ hạnh. Do khổ hạnh này, được thọ lãnh cúng dường,
cung kính, danh vọng. Do được cúng dường, cung kính, danh vọng, trở thành
hoan hỷ, tâm tư thỏa mãn. Này Nigrodha, vị khổ hạnh tu hành khổ hạnh
nào; do khổ hạnh ấy được thọ lãnh cúng dường, cung kính, danh vọng,
trở thành hoan hỷ, tâm tư thỏa mãn. Này Nigrodha, nha vậy đó là cấu uế
cho người khổ hạnh.
Lại nữa, này Nigrodha, người khổ
hạnh tu hành khổ hạnh. Do khổ hạnh này, được cúng dường, cung kính,
danh vọng. Do được cúng dường cung kính, danh vọng, nên khen mình chê người.
Này Nigrodha, người khổ hạnh tu hành khổ hạnh nào, do khổ hạnh ấy được
cúng dường, cung kính, danh vọng. Do được cúng dường, cung kính, danh vọng.
Do được cúng dường, cung kính, danh vọng này, nên khen mình chê người. Này
Nigrodha, như vậy là cấu uế cho người khổ hạnh.
Lại nữa, này Nigrodha, người khổ
hạnh tu hành khổ hạnh khổ hạnh. Do khổ hạnh này, được cúng dường,
cung kính, danh vọng. Do được cúng dường, cung kính, danh vọng, trở thành
mê say, chấp trước, phóng dật. Này Nigrodha, người khổ hạnh tu hành khổ
hạnh nào, do khổ hạnh ấy được cúng dường, cung kính, danh vọng. Do
được cúng dường, cung kính, danh vọng này, trở thành mê say, chấp trước,
phóng dật. Này Nigrodha, như vậy là cấu uế cho người khổ hạnh.
Lại nữa, này Nigrodha, người khổ
hạnh tu hành khổ hạnh, phân biệt các thức ăn: "Món này thích hợp với
ta, món này không thích hợp với ta." Đối với các thức ăn không
thích hợp thì cố ý từ bỏ. Đối với các thức ăn thích hợp thì nắm
giữ, tham đắm, chấp trước, không thấy các ựsư nguy hiểm, không phân
biệt chúng là không giải thoát, thọ hưởng chúng... Này Nigrodha, như vậy
là cấu uế cho người khổ hạnh.
Lại nữa, này Nigrodha, vị khổ hạnh
tu hành khổ hạnh, nhân vì mong mỏi được cúng dường cung kính danh vọng,
nghĩ rằng: "Các vua chúa sẽ cung kính ta, cũng vậy các vị đại thần,
các vị Sát đế lỵ, các vị Bà la môn, các vị Gia chủ, các vị Giáo chủ
các giáo phái". Này Nigrodha, như vậy là cấu uế cho người khổ hạnh.
11. Lại nữa, này Nigrodha, vị khổ
hạnh chống báng một Sa môn hay Bà la môn khác như sau: "Người này sống
ăn uống đủ mọi thứ. Như hạt giống từ rể sanh, hạt giống từ nhanh
cây sanh, hạt giống từ đốt sanh, hạt giống từ chiết cây sanh và thứ
năm là hạt giống từ hạt giống sanh, nhai nghiền chúng tất cả với tầm
sét không bánh xe được gọi là xương quai hàm và người ta gọi vị ấy
là một vị Sa môn... Này Nigrodha, như vậy, là cấu uế cho người khổ hạnh.
Lại nữa này Nigrodha, vị khổ hạnh
thấy một Sa môn hay Bà la môn được các gia đình cung kính, kính trọng, lễ
bái, cúng dường. Thấy vậy vị ấy nghĩ rằng: "Các gia đình cung
kính, kính trọng, lễ bái, cúng dường người sống ăn uống đủ mọi thứ.
Các gia đình ấy không cung kính, kính trọng, lễ bái, cúng dường ta, một
người tu khổ hạnh. Do vậy sanh tật đố ganh ghét đối với các gia đình...
Này Nigrodha, như vậy là cấu uế cho người khổ hạnh.
Lại nữa, này Nigrodha, người khổ
hạnh trở thành người ngồi giữa công chúng. Này Nigrodha, như vậy là cấu
uế cho người khổ hạnh.
Lại nữa, này Nigrodha, người khổ
hạnh, khi đi giữa các gia đình (để khất thực) không cho người ta thấy
mình: "Như vậy là khổ hạnh của ta, như vậy là khổ hạnh của
ta."... Này Nigrodha, như vậy là cấu uế cho người khổ hạnh.
Lại nữa, này Nigrodha, người khổ
hạnh làm bộ có vẻ bí mật. Khi được hỏi: "Có chấp nhận việc
này không?", tuy không chấp nhận nhưng trả lời: "Có chấp nhận";
tuy chấp nhận, nhưng trả lời: "Không chấp nhận." Như vậy, vị
này cố tình nói láo... Này Nigrodha, như vậy là cấu uế cho người khổ hạnh.
12. Lại nữa, này Nigrodha, khi Như
Lai hãy đệ tử Như Lai thuyết pháp và dùng một phương pháp đáng được
chấp nhận thì người khổ hạnh không chấp nhận. Này Nigrodha, như vậy là
cấu uế cho người khổ hạnh.
Lại nữa, này Nigrodha, người khổ
hạnh hay tức giận và ôm lòng oán thù. Này Nigrodha, vì người khổ hạnh
hay tức giận và ôm lòng oán thù. Này Nigrodha, như vậy là cấu uế cho người
khổ hạnh.
Lại nữa, này Nigrodha, người khổ
hạnh thường hay giả dối lừa đảo, tật đố và hà tiện, giảo hoạt
và ngụy trá, cứng cỏi và quá mạn, có ác ý và bị ác ý cho phối, có
tà kiến và tư tưởng cực đoan, chấp trước kinh nghiệm tự thân, cứng
đầu và khó giải thoát. Này Nigrodha, vì một người khổ hạnh chấo trước
kinh nghiệm tự thân, cứng đầu và khó giải thoát. Này Nigrodha, như vậy
là cấu uế cho người khổ hạnh.
Này Nigrodha, Ngươi nghĩ thế nào? Sự
thật là như vậy thì những khổ hạnh có phải là cấu uế hay không cấu
uế?
- Bạch Thế Tôn, những khổ hạnh
như vậy thật là cấu uế, không phải cấu uế. Sự tình này có thể xảy
ra, có người khổ hạnh có đầy đủ tất cả sự cấu uế trên, nói gì
đến câu có cấu uế này hay cấu uế khác.
13. - Này Nigrodha, ở đây người khổ
hạnh siêng tu khổ hạnh. Nhờ tu khổ hạnh này, vị ấy không hoan hỷ,
tâm tư không thỏa mãn. Này Nigrodha người khổ hạnh, tu khổ hạnh này,
vì khổ hạnh này, vị ấy không hoan hỷ, tâm tư không thỏa mãn. Như vậy
vị ấy đưựoc thanh tịnh trong trường hợp này.
Lại nữa, này Nigrodha, người khổ
hạnh siêng tu khổ hạnh. Nhờ tu khổ hạnh này, vị ấy không khen mình
chê người... Như vậy vị ấy được thanh tịnh trong trường hợp này.
Lại nữa, này Nigrodha, người khổ
hạnh siêng tu khổ hạnh. Nhờ tu khổ hạnh này, vị ấy không mê say,
không nhiềm trước, không phóng dật... Như vậy, vị ấy được thanh tịnh
trong trường hợp này.
Lại nữa, này Nigrodha, người khổ
hạnh siêng tu khổ hạnh. Nhờ tu khổ hạnh này, vị ấy được cúng đường,
cung kính, danh vọng. Dầu được cúng dường, cung kính, danh vọng, vị ấy
không hoan hỷ; tâm tư không thỏa mãn. Này Nigrodha, người khổ hạnh...
Như vậy, vị ấy được thanh tịnh trong trường hợp này.
Lại nữa, này Nigrodha, người khổ
hạnh siêng tu khổ hạnh. Do khổ hạnh này, vị ấy được cúng dường,
cung kính, danh vọng. Dầu được cúng dường, cung kính, danh vọng, vị ấy
không khen mình chê người. Này Nigrodha, người khổ hạnh... Như vậy, vị
ấy được thanh tịnh trong trường hợp này.
Lại nữa, này Nigrodha, người khổ
hạnh siêng tu khổ hạnh. Do khổ hạnh này, vị ấy được cúng dường,
cung kính, danh vọng. Dầu được cúng dường, cung kính, danh vọng, vị ấy
không mê say, nhiễm trước, phóng dật. Này Nigrodha, người khổ hạnh...
Như vậy, vị ấy được thanh tịnh trong trường hợp này.
Lại nữa, này Nigrodha, người khổ
hạnh siêng tu khổ hạnh, không phân biệt các thức ăn: "Món này thích
hợp với ta, món này không hợp với ta." Đối với các thức ăn không
thích hợp, vị ấy khôg cố ý từ bỏ. Đối với các thức ăn thích hợp,
vị ấy không nắm giữ, thăm đắm, chấp trước, thấy các sự nguy hiểm,
phân biệt chúng là không giải thoát, không thọ hưởng chúng. Như vậy, vị
ấy được thanh tịnh trong trường hợp này.
Lại nữa, này Nigrodha, người khổ
hạnh siêng tu khổ hạnh. Vị ấy không nghĩ rằng: "Vì mong mỏi được
cúng dường, cung kính, danh vọng, các vua chúa sẽ cung kính ta; cũng vậy các
vị đại thần, các vị Sát đế lỵ, các vị Bà la môn, các vị Gia chủ,
các vị Giáo chủ các giáo phái." Như vậy, vị ấy được thanh tịnh
trong trường hợp này.
14. Lại nữa, này Nigrodha, vị khổ
hạnh không chống báng một vị Sa môn hay Bà la môn khác: "Người này
sống ăn đủ mọi thứ. Như hạt giống từ rễ sanh, hạt giống từ nhành
cây sanh, hạt giống từ đốt sanh, hạt giống từ chiết cây sanh và thứ
năm là hạt giống từ hạt giống sanh, nhai nghiền chúng tất cả, với tầm
sét không bánh xe được gọi là xương quai hàm. Và người ta gọi vị ấy
là vị Sa môn. Như vậy, vị ấy được thanh tịnh trong trường hợp này.
Lại nữa, này Nigrodha, vị khổ hạnh
thấy một Sa môn hay Bà là môn được các gia đình cung kính, kính trọng,
lễ bái, cúng dường. Thấy vậy, vị ấy không nghĩ rằng: "Các gia đình
cung kính, kính trọng, lễ bái, cúng dường người sống ăn uống đủ mọi
thứ. Các gia đình ấy không cung kính, kính trọng, lễ bái, cũng dường
ta, một người tu khổ hạnh." Do vậy vị ấy không sanh tật đố, ganh
ghét đối với các gia đình. Như vậy, vị ấy được thanh tịnh trong trường
hợp này.
Lại nữa, này Nigrodha, vị khổ hạnh
không trở thành người ngồi giữa công chúng. Như vậy, vị ấy được
thanh tịnh trong trường hợp này.
Lại nữa, này Nigrodha, vị khổ hạnh,
khi đi giữa các gia đình (để khất thực, không dấu diếm mà để cho
người ta thấy mình: "Như vậy là khổ hạnh của ta, như vậy là khổ
hạnh của ta." Như vậy, vị ấy được thanh tịnh trong trường hợp này.
Lại nữa, này Nigrodha, vị khổ hạnh
không làm bộ có vẻ bí mật. Khi được hỏi: "Có chấp nhận điều này
không?" Nếu không chấp nhận thì trả lời: "Không chấp nhận.";
nếu có chấp nhận thì trả lời: "Có chấp nhận." Như vậy, vị
ấy được thanh tịnh trong trường hợp này.
15. Lại nữa, này Nigrodha, khi Như
Lai hay đệ tử Như Lai thuyết pháp và dùng một phương pháp đáng được
chấp nhận, thì vị khổ hạnh chấp nhận. Như vậy, vị ấy được thanh
tịnh trong trường hợp này.
Lại nữa, này Nigrodha, vị khổ hạnh
không tức giận và không ôm lòng oán thù. Này Nigrodha, vì người khổ hạnh
không tức giận và không ôm lòng oán thù, như vậy vị ấy được thanh tịnh
trong trường hợp này.
Lại nữa, này Nigrodha, vị khổ hạnh
không giả dối và lừa đảo, không tật đố và hà tiện, không giảo hoạt
và ngụy trá, không cứng cỏi và quá mạn, khôg có ác ý và bị ác ý chí
phối, không có tà kiến và tư tưởng cực đoan, không chấp trước kinh
nghiệm tự thân, không cứng đầu và khó giải thoát. Vì người khổ hạnh
không chấp trước kinh nghiệm tự thân và không cứng đầu khó giải
thoát, nên vị ấy được thanh tịnh trong trường hợp này.
Này Nigrodha, Ngươi nghĩ thế nào? Sự
kiện là như vậy thì các khổ hạnh ấy là thanh tịnh hay không thanh tịnh?
- Bạch Thế Tôn, sự kiện là như
vậy, thì các khổ hạnh ấy là thanh tịnh, không phải phải không thanh tịnh;
các khổ hạnh ấy đạt đến tối thượng, đạt đến căn bản.
- Này Nigrodha, những khổ hạnh như
vậy chưa đạt đến tối thượng, chưa đạt đến căn bản, chúng chỉ mới
đạt đến vỏ bên ngoài mà thôi.
16. - Bạch Thế Tôn, như thế nào
các khổ hạnh đạt đến tối thượng và đạt đến căn bản?
Bạch Thế Tôn, thật tốt đẹp
thay, nếu Thế Tôn khiến cho các khổ hạnh của chúng con đạt đến tối
thượng, đạt đến căn bản.
- Này Nigrodha, ở đây, có vị khổ
hạnh tu bốn pháp chế ngự. Và này Nigrodha, thế nào là bốn pháp chế ngự?
Này Nigrodha, vị khổ hạnh không có tự sát sanh, không có bảo người khác
sát sanh, không có tùy hỷ sát sanh; không có lấy của không cho, không có
khiến người khác lấy của không cho, không có tùy hỷ lấy của không
cho, không có nói láo, không có khiến người khác nói láo, không có tán
thán nói láo; không có tham vọng dục tình, không có khiến người khác có
tham vọng dục tình, không có tán thán tham vọng dục tình. Như vậy, này
Nigrodha người khổ hạnh ấy tu hành bốn pháp chế ngự. Này Nigrodha, do người
khổ hạnh tu hành bốn pháp chế ngự như vậy, sự khổ hạnh tu hành bốn
pháp chế ngự như vậy, vị ấy tiến lên, chớ không rơi xuống hạ phẩm.
Vị ấy lựa một chỗ thanh vắng, tịch mịch, như ngôi rừng, gốc cây,
trên khe núi, trong hang đá, bãi tha ma, lùm cây, ngoài trời, hay đống rơm.
Sau khi ăn xong đi khất thực về, vị ấy ngồi kiết già, lưng thẳng và
an trú chánh niệm trước mặt. Vị ấy từ bỏ tham ái ở đời, an trú với
tâm thoát ly tham ái, gột sạch tâm hết tham ái từ bỏ sân tâm, an trú với
tâm thoát ly sân tâm, khởi lòng thương tưởng mọi loài chúng sanh, gột sạch
tâm hết sân hận. Từ bỏ hôn trầm thụy miên, an trú với tâm thoát ly
hôn trầm thụy miên, tưởng niệm đến ánh sáng, chánh niệm, tỉnh giác,
gột sạch tâm hết hôn trầm thụy miên. Từ bỏ trạo hối, an trú tâm
thoát ly trạo hối, nội tâm an tịnh, gột sạch tâm hết trạo hối. Từ bỏ
nghi hoặc, an trú với tâm thoát ly nghi ngờ, không còn nghi hoặc, gột sạch
tâm không còn nghi ngờ đói với các thiện pháp.
17. Từ bỏ năm triền cái ấy, với
trí tuệ làm cho các tâm cấu uế giảm nhẹ, vị ấy an trú, biến mãn một
phương với tâm câu hữu với từ; cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy
phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy cùng khắp thế giới,
trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị
ấy an trú với tâm câu hữu với từ, quảng đại, vô biên, không hận,
không sân. Vị ấy an trú với tâm câu hữu với bi... với tâm câu hữu với
hỷ... biến mãn một phương với tâm câu hữu với xả; cũng vậy phương
thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy cùng
khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp
vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với xả, quảng
đại vô biên, không hận, không sân. Này Nigrodha, Ngươi nghĩ thế nào? Sự
kiện là như vậy, các khổ hạnh là thanh tịnh hay không thanh tịnh?
- Bạch Thế Tôn, sự kiện là như
vậy, các khổ hạnh là thanh tịnh, không phải không thanh tịnh, đạt đến
tối thượng và đạt đến căn bản.
- Này Nigrodha, các khổ hạnh như vậy
chưa đạt đến tối thượng, chưa đạt đến căn bản, chỉ đạt đến
ngoài vỏ thổi.
18. - Bạch Thế Tôn, những khổ hạnh
phải như thế nào mới đạt đến tối thượng và đạt đến căn bản? Lành
thay, nếu Thế Tôn khiến cho các khổ hạnh của con đạt đến tối thượng
và đạt đến căn bản.
- Này Nigrodha, ở đây một vị khổ
hạnh sống chế ngự bởi bốn pháp chế ngự. Và như thế nào... như vậy,
này Nigrodha, vị khổ hạnh sống chế ngự bởi bốn pháp chế ngự. Này
Nigrodha, do vị khổ hạnh tu hành bốn pháp chế ngự như vậy, sự khổ hạnh
của vị ấy là như vậy, vị ấy tiến lên chớ không rơi xuống hạ phẩm.
Vị ấy lựa một chỗ thanh vắng... Từ bỏ năm triền cái ấy, với trí
tuệ làm cho các tâm cấu uế giảm thiểu, vị ấy an trú với tâm câu hữu
với từ... quảng đại vô biên, không hận, không sân. Vị ấy dẫn tâm hướng
đến Túc mạng minh. Vị ấy nhớ đến các đời quá khứ, như một đời,
hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba
mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, hai trăm đời,
một ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp,
nhiều hoại và thành kiếp. Vị ấy nhớ rằng: "Tại chỗ kia, ta có
tên như thế này, giòng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ
lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ
kia, ta được sanh tại chỗ ấy. Tại chỗ ấy, ta có tên như thế này,
giòng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế này,
tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ ấy, ta được
sanh ra ở đây." Như vậy vị ấy nhớ đến nhiều đời sống quá khứ
cùng với các nét đại cương và các chi tiết.
Này Nigrodha, Ngươi nghĩ thế nào? Sự
kiện là như vậy thì các khổ hạnh là thanh tịnh hay không thanh tịnh?
- Bạch Thế Tôn, sự kiện là như
vậy, thì các khổ hạnh là thanh tịnh, không phải không thanh tịnh, và đạt
đến tối thượng, đạt đến căn bản.
- Này Nigrodha, các khổ hạnh như vậy
chưa đạt đến tối thượng, chưa đạt đến căn bản, chúng chỉ đạt
đến phía gỗ xung quanh lõi mà thôi.
19. - Bạch Thế Tôn, các khổ hạnh
phải như thế nào mới đạt đến tối thượng và đạt đến căn bản? Bạch
Thế Tôn, lành thay nếu Thế Tôn khiến cho các khổ hạnh của con đạt
được tối thượng và đạt đến căn bản.
- Này Nigrodha, ở đây vị khổ hạnh
sống chế ngự bởi bốn pháp chế ngự. Và thế nào... Như vậy, này
Nigrodha, vị khổ hạnh sống chế ngự bởi bốn pháp chế ngự, Này
Nigrodha, do vị khổ hạnh tu hành bốn pháp chế ngự như vậy, vị ấy tiến
lên chứ không rơi xuống hạ phẩm. Vị ấy lựa một chỗ thanh vắng... Tà
bỏ năm triền cái ấy, với trí tuệ làm cho tâm cấu uế giảm thiểu, vị
ấy an trú với tâm câu hữu với từ... Vị ấy an trú biến mãn với tâm
câu hữu với xả, quảng đại, vô biên, không hận, không sân. Vị ấy dẫn
tâm hướng đến Túc mạng minh, vị ấy nhớ đến các đời sống quá khứ
như một đời, hai đời... Như vậy vị ấy nhớ đến nhiều đời sống
quá khứ cùng với các nét đại cương và các chi tiết. Vị ấy với
thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống và chết của chúng sanh.
Vị ấyybiết rõ rằng chúng sanh, người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp
đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh đều do hạnh nghiệp của
họ. "Này các Hiền giả, những chúng sanh làm những ác hạnh về
thân, ngã và ý, phê phán các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp
theo tà kiến. Những người này, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh
vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Này các Hiền giả, còn những
chúng sanh nào làm những thiện hạnh về thân, ngã và ý, không phỉ báng
các bậc Thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo chánh kiến. Những người
này, sau khi thân hoại mạng chung được sanh lên thiện thú, cõi Trời,
trên đời này". Như vậy vị ấy với Thiên nhãn thuần tịnh, siêu
nhân, thấy sự sống chết của chúng sanh. Vị ấy biết rõ rằng chúng
sanh, người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người
may mắn, kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ.
Này Nigrodha, Ngươi nghĩ thế nào? Nếu
sự kiện là như vậy, các khổ hạnh là thanh tịnh hay không thanh tịnh?
- Bạch Thế Tôn, sự kiện là như
vậy, các khổ hạnh là thanh tịnh, không phải không thanh tịnh, đạt đến
tối thượng, đạt đến căn bản.
- Này Nigrodha, các khổ hạnh như vậy
đạt đến tối thượng và đạt đến căn bản. Này Nigrodha, như Ngươi hỏi
Ta: "Bạch Thế Tôn, Pháp gì là Pháp của Thế Tôn? Với Pháp nào, Thế
Tôn muốn dạy các đệ tử? Với Pháp nào các đệ tử của Thế Tôn được
huấn dạy, đạt đến tịnh lạc và xác nhận là căn bản phạm hạnh?"
Này Nigrodha, Ta nói rằng thật là một vấn đề cao thượng hơn và thuần
nhất hơn mà Ta huấn dạy các đệ tử, đạt đến tịnh lạc và xác nhận
là căn bản phạm hạnh.
Khi được nghe nói vậy, các du sĩ
ngoại đạo ấy lớn tiếng cao giọng ồn ào nói lớn:
- Ở đây, các Tôn sư của chúng
hoàn toàn bất lực. Chúng ta không biết gì tốt hơn và cao hơn lời dạy của
họ.
20. Khi gia chủ Sandhàna biết được:
"Nay các du sĩ ngoại đạo ấy đã bất đầu nghe, đã bắt đầu để
tai, đã bắt đầu chú tâm vào lời Thế Tôn dạy", liền nói với du sĩ
Nigrodha:
- Này Tôn giả Nigrodha, Tôn giả
nói với tôi như sau: "Gia chủ có biết không? Sa môn Gotama luận đàm với
ai. Đối thoại với ai? Với ai đạt được tuệ trí? Trí tuệ của Sa môn
Gotama bị hư hoại vì sống với không xứ, Sa môn Gotama không giỏi để
điều khiển một hội chúng, không đủ sức để đối thoại, chỉ đề cập
đến những vấn đề ngoại biên. Cũng như con bò một mắt, đi vòng tròn
và chỉ đi phía bên ngoài. Cũng vậy, trí tuệ của Sa môn Gotama bị hư hoại
vì sống với không xứ, Sa môn Gotama không giỏi để điều khiển một hội
chúng, không đủ sức để đối thoại, chỉ đề cập đến những vấn đề
ngoại biên. Này Gia chủ, nếu Sa môn Gotama đến tại hội chúng này, chỉ
có một câu hỏi, chúng tôi có thể chận đứng ngay; chúng tôi nghĩ chúng
tôi có thể lăn tròn Sa môn Gotama như lăn tròn mọt cái bình không."
Này Tôn giả, nay Thế Tôn, bậc A la hán, Chánh Đẳng Giác đã đến đây.
Hãy nêu rõ Thế Tôn không thể điều khiển hội chúng, hãy chứng tỏ Thế
Tôn như con bò một mắt, chỉ biết đi vòng xung quanh, với một câu hỏi,
hãy chận đứng Thế Tôn lại, và làm cho Thế Tôn lăn tròn, như Tôn giả
nghĩ, như một cái bình không.
Khi nghe nói vậy, du sĩ Nigrodha ngồi
im lặng, ủ rũ, vai sụp xuống, gục đầu, ưu tư, câm miệng.
21. Thế Tôn khi biết được du sĩ
Nigrodha im lặng, ủ rũ, vai sụp xuống, gục đầu, ưu tư, câm miệng như vậy,
liền nói với du sĩ Nigrodha:
- Này Nigrodha, có phải Ngươi nói
như vậy chăng?
- Bạch Thế Tôn, thật sự con có
nói như vậy, thật là ngu ngốc, si ám và bất thiện.
- Này Nigrodha, Ngươi nghĩ thế nào?
Ngươi có bao giờ nghe các vị du sĩ niên cao, trưởng thượng, bậc Tổ sư
truyền thống nói như sau: "Các vị A la hán, Chánh Đẳng Giác trong thời
quá khứ, các vị Thế Tôn này khi nào hội họp lại, quy tụ lại, ồn
ào, cao giọng, lớn tiếng, chung sống bàn cãi về những phiếm luận vô
ích, như câu chuyện về vua chúa, câu chuyện về ăn trộm... câu chuyện về
hiện hữu và không hiện hữu, như Ngươi và Sư trưởng của Ngươi hiện
nay đang làm? Hay là những bậc Thế Tôn ấy an trú các nhàn tịnh xứ, núi
rừng tịch mịch, xa vắng, ít tiếng, ít động, có gió đồng thổi, lánh
xa mắt của người đời, thích hợp cho sự tĩnh tu, như hiện Ta đang sống
chăng?
- Bạch Thế Tôn, con được nghe các
vị du sĩ niên cao, trưởng thượng, bậc Tổ sư truyền thống nói như sau:
"Các vị A la hán, Chánh Đẳng Giác, trong quá khứ, các vị Thế Tôn
này khi nào hội họp lại, quy tụ lại, thời không ồn ào, cao giọng, lớn
tiếng, chung sống bàn cãi về những phiếm luận vô ích, như câu chuyện về
vua chúa... câu chuện về hiện hữu và không hiện hữu", như con và Sư
trưởng của con đang làm. Những bậc Thế Tôn ấy an trú các nhàn tịnh xứ,
núi rừng tịch mịch, xa vắng, ít tiếng, ít động, có gió đồng thôit,
lánh xa mắt của người đời, thích hợp cho sự tĩnh tu, như hiện nay Thế
Tôn đang sống.
- Này Nigrodha, Ngươi là bậc có
trí và niên trưởng, có bao giờ Ngươi suy nghĩ như sau: "Đức Phật, bậc
Giác Ngộ, thuyết giảng giáo pháp đưa đến giác ngộ; Thế Tôn là vị đã
điều phục, thuyết giảng giáo pháp đưa đến sự điều phục; Thế Tôn
bậc An Chỉ, thuyết giảng giáo pháp đưa đến An Chỉ; Thế Tôn là bậc
đến bờ bên kia, thuyết giảng giáo pháp đưa đến bờ bên kia; Thế Tôn
bậc Tịnh Lạc, thuyết giảng giáo pháp đưa đến sự tịnh lạc.
22. Khi nghe nói vậy, du sĩ Nigrodha,
bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, con đã phạm tội
một cách ngu si, mờ ám, bất thiện, khi con nói về Thế Tôn như vậy. Bạch
Thế Tôn, mong Thế Tôn chấp thuận cho tội ấy là phạm tội, để con
ngăn ngừa về sau.
- Này Nigrodha, thật sự Ngươi đã
phạm tội một cách ngu sĩ, mờ ám, bất thiện, khi Ngươi nói về Ta như vậy.
Này Nigrodha, khi Ngươi đã thấy phạm tội là phạm tội và phát lộ đúng
với hành động, Ta chấp nhận tội của Ngươi. Này Nigrodha, như vậy là
thông lệ giới luật của bậc Thánh, là ai thấy phạm tội là phạm tội
và phát lộ đúng với hành động, thời tương lai sẽ được ngăn ngừa.
Này Nigrodha, Ta nói cho Ngươi như sau: "Người có trí hãy đến đây,
trung thực, không lừa đảo, chân trực, Ta sẽ huấn dạy, Ta sẽ thuyết
pháp". Nếu vị ấy thực hành đúng như điều đã dạy, vị ấy sẽ tự
biết mình và chứng ngộ ngay trong hiện tại phạm hanhjh và mục tiêu vô
thượng, mà vì lý tưởng này các Thiện nam tử, từ bỏ gia đình xuất
gia tu đạo. Vị ấy cần có bảy năm. Này Nigrodha, đâu cần phải bảy năm!
Nếu vị ấy thực hành đúng như điều đã dạy, vị ấy sẽ tự biết
mình và chứng ngộ ngay trong hiện tại phạm hạnh và mục tiêu vô thượng
mà vì lý tưởng này các Thiện nam tử từ bỏ gia đình, xuất gia tu đạo,
chỉ cần có sau năm, năm năm, bốn năm, ba năm, hai năm, một năm... chỉ cần
bảy tháng, một tháng, nửa tháng. Này Nigrodha, đâu cần có nửa tháng! Người
có trí hãy đến đây, trung thực, không lừa đảo, chơn trực, Ta sẽ huấn
dạy, Ta sẽ thuyết pháp. Nếu vị ấy thực hành đúng như điều đã dạy,
vị ấy sẽ tự biết mình và chứng ngộ ngay trong hiện tại, phạm hạnh
và mục tiêu vô thượng, mà vì lý tưởng này các thiện nam tử từ bỏ
gia đình, xuất gia tu đạo, vị ấy chỉ cần có bảy ngày.
23. Này Nigrodha, Ngươi có thể nghĩ
rằng: "Sa môn Gotama nói vậy là muốn có đệ tử." Này Nigrodha, Ngươi
chớ có hiểu như vậy. Bổn sư Ngươi là ai, hãy giữ nguyên vị Bổn sư
ấy cho Ngươi. Này Nigrodha, Ngươi có thể nghĩ rằng: "Sa môn Gotama nói
vậy là muốn chúng tôi từ bỏ kinh tụng của chúng tôi". Này Nigrodha,
Ngươi chớ có hiểu như vậy. Kinh tụng Ngươi là gì, hãy giữ nguyên kinh
tụng ấy cho Ngươi. Này Nigrodha, Ngươi có thể nghĩ rằng: "Sa môn
Gotama nói như vậy là muốn chúng tôi từ bỏ nghề sống của chúng
tôi." Này Nigrodha, chớ có hiểu như vậy. Nghề sống của Ngươi là
gì, hãy giữ nguyên nghề sống ấy cho Ngươi. Này Nigrodha, Ngươi có thể
nghĩ rằng: "Sa môn Gotama nói vậy là muốn xác tín cho chúng tôi đối
với các pháp bất thiện mà truyền thống Tổ sư chúng tôi đã xem là bất
thiện." Này Nigrodha, chớ có hiểu như vậy. Những pháp thiện gì của
Ngươi và được xem là bất thiện do Tổ sư truyền thống, hãy giữ chúng
nguyên như cũ. Này Nigrodha, Ngươi có thể nghĩ rằng: "Sa môn Gotama nói
vậy là muốn cho chúng tôi từ bỏ những thiện pháp mà truyền thống Tổ
sư chúng tôi đã xem là thiện pháp". Này Nigrodha, chớ có hiểu như vậy.
Những thiện pháp của Ngươi và được xem là thiện pháp do Tổ sư truyền
thống, hãy giữ chúng nguyên như cũ. Này Nigrodha, Ta nói vậy không phải
vì muốn có đệ tử; Ta nói vậy không phải vì mốn khiến các Ngươi từ
bỏ kinh tụng, Ta nói vậy không phải vì muốn khiến các Ngươi từ bỏ
nghề sống; Ta nói vậy không phải vì muốn xác tín cho các Ngươi đối với
các pháp bất thiện mà truyền thống Tổ sư đã xam là bất thiện; Ta nói
vậy không phải vì muồn cho các Ngươi từ bỏ những thiện pháp mà truyền
thống Tổ sư đã xem là thiện pháp. Và này Nigrodha, có những pháp bất
thiện không được từ bỏ, làm cho cấu uế, đưa đến tái sanh, đem lại
đau khổ, đưa lại quả khổ, đem lại già, bệnh, chết trong tương lai. Những
pháp ấy, Ta thuyết giảng để diệt trừ chúng. Nếu các Ngươi thực hành
đúng theo lời giảng dạy, thời các pháp cấu uế của ngươi được trừ
diệt, các pháp thanh tịnh được tăng trưởng, và các ngươi sẽ tự chứng
biết, chứng ngộ, đạt đến an trú ngay trong hiện tại, trí tuệ cụ
túc, viên mãn.
24. Khi được nói vậy, các du sĩ
ấy đều ngồi im lặng, ủ rũ, vai sụp xuống, cúi đầu, ưu tư, câm miệng,
như tâm của họ bị Ma vương chi phối.
Lúc bấy giờ, Thế Tôn tự nghĩ:
"Tất cả kẻ ngu si này bị ác ma xâm nhập, không có một ai có ý nghĩ:
"Hãy đến, chúng ta hãy sống đời sống phạm hạnh dưới sự hướng
dẫn của Sa môn Gotama". Còn nói gì đến thời gian bảy ngày!"
Rồi Thế Tôn rống tiếng rống con
sư tử trong ngôi vườn của nữ hoàng Udumbarikà danh cho hàng du sĩ, bay trên
hư không, và hạ xuống núi Kỳ xà quật. Còn gia chủ Sandhàna trở vào
thành Vương Xá.
-