- Kinh Trường bộ
33. KINH
PHÚNG TỤNG
I
Như vầy tôi nghe.
1. Một thời Thế Tôn du hành giữa
dân tộc Mallà cùng với Đại chúng Tỷ-kheo khoảng năm trăm vị. Ngài đến
tại thành của dân chúng Mallà tên là Pàvà và trú tại đấy. Thế Tôn
trú tại Pàvà trong rừng xoài của thợ rèn Cunda.
2. Lúc bấy giờ, một hội trường
tên là Ubbhataka mới được dựng lên giữa dân chúng Mallà, trú ở Pàvà,
và hội trường này chưa có vị Sa-môn, Bà-la-môn, hay một người nào
khác an trú. Dân chúng Mallà ở Pàvà được nghe: "Thế Tôn du hành giữa
dân tộc Mallà, cùng với Đại chúng Tỷ-kheo khoảng năm trăm vị. Ngài đến
tại Pàvà, trú tại đấy, trong rừng xoài của thợ rèn Cunda". Rồi
các vị Mallà ở Pàvà đến chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến, đảnh lễ Ngài
rồi ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, các vị Mallà ở
Pàvà bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, ở đây một hội
trường tên là Ubbhataka mới được dựng lên giữa dân chúng Mallà ở
Pàvà, và hội trường này chưa có vị Sa-môn, Bà-la-môn, hay một người nào
khác an trú. Bạch Thế Tôn, mong Thế Tôn là người đến dùng hội trường
này trước tiên. Nhờ Thế Tôn dùng trước tiên, dân chúng Mallà ở Pàvà
sẽ được hạnh phúc an lạc lâu dài.
Thế Tôn im lặng nhận lời.
3. Rồi các vị Mallà ở Pàvà, sau
khi biết Thế Tôn đã nhận lời, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế
Tôn, thân phía hữu hướng đến Ngài, từ tạ đi đến hội trường. Sau
khi đến, liền dùng đệm trải khắp tất cả, sửa soạn các ghế ngồi,
đặt sẵn một ghè nước, treo cây đèn dầu, rồi đến chỗ Thế Tôn ở.
Sau khi đến, các vị này đảnh lễ Ngài và đứng một bên. Sau khi đứng
một bên, các vị Mallà ở Pàvà bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, hội trường đã
được trải nệm tất cả, các ghế ngồi đã được sửa soạn, ghè nước
đã được đặt sẵn, cây đừn dầu đã được treo lên, Thế Tôn hãy
làm gì Ngài nghĩ là phải thời.
4. Rồi Thế Tôn đắp y, cầm y bát
cùng với chúng Tỷ-kheo đến tại hộ trường. Khi đến xong Ngài rửa
chân và vào hội trường. Thế Tôn ngồi dựa trên cột chính giữa, mặt hướng
về phía Đông. Chúng Tỷ-kheo sau khi rửa chân, vào hội trường, ngồi dựa
trên bức tường phía Tây, mặt hướng về phía Đông, sau lưng Thế Tôn.
Các vị Mallà ở Pàvà cũng rửa chân, đi vào hội trường, và ngồi xuống,
dựa vào bức tường phía Đông, mặt hướng phía Tây, trước mặt có Thế
Tôn. Rồi Thế Tôn, cho đến đêm thật khuya, thuyết pháp cho dân Mallà ở
Pàvà, giảng dạy, giải thích, khích lệ, làm cho hứng khởi rồi bảo các
vị ấy về:
- Này Vàsetthà, đêm đã quá khuya.
Các Ngươi hãy làm những gì các Ngươi xem là phải thời.
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn!
Các vị Mallà ở Pàvà vâng lời Thế
Tôn, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Ngài, thân phía hữu hướng về
Ngài và ra đi.
5. Thế Tôn, khi dân Mallà đi chưa
bao lâu, nhìn chúng Tỷ-kheo đang yên lặng, rồi bảo tôn giả Sàriputta:
- Này Sàriputta, chúng Tỷ-kheo không
có hôn trầm thụy miên. Này Sàriputta, hãy thuyết pháp cho chúng Tỷ-kheo.
Ta cảm thấy đau lưng! Ta muốn nằm nghỉ.
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn! - Tôn
giả Sàriputta vâng lời Thế Tôn.
Rồi Thế Tôn, xếp y Sanghàti (Tăng-già-lê)
gấp bốn và nằm xuống như cáh nằm con sư tử, thân phía hữu, hai chân
để trên nhau, chánh niệm tỉnh giác, với tâm nghĩ đến lúc ngồi dậy.
6. Lúc bấy giờ, Niganthà Nàthaputta
vừa mới tạ thế ở Pàvà. Sau khi vị này tạ thế, các vị Niganthà chia
ra làm hai phái, chia rẽ nhau, tranh chấp nhau, tranh luận nhau và sống tàn hại
nhau với binh khí bằng miệng: "Ngươi không biết pháp luật này, ta biết
pháp luật này. Sao Ngươi có thể biết pháp luật này? Người theo tà hạnh,
ta theo chánh hạnh. Lời nói ta tương ưng, lời nói Ngươi không tương ưng.
Điều đáng nói trớưc, Ngươi nói sau; điều đáng nói sau, Ngươi nói trước.
Điều Ngươi quan niệm trình bày đã bị đảo lộn. Quan niệm của Ngươi
đã bị thách đố. Ngươi đã bị đánh bại. Hãy đi giải tỏa quan điểm
của Ngươi! Hãy tự thoát khỏi bế tắc nếu Ngươi có thể làm được".
Hình như các đệ tử của Niganthà Nàthaputta muốn tàn hại lẫn nhau.
Chính các đệ tử cư sĩ mặc đồ trắng của Nigantha Nàthaputta cũng chán
ngấy, cơ hiềm và phản đối các vị Nigantha, vì pháp luật của họ đã
được trình bày, tuyên bố một cách vụng về, không có hiệu năng hướng
dẫn, không hướng đến an tịnh, không do vị Chánh Đẳng Giác tuyên thuyết,
tháp y chỉ đã bị đổ vỡ, không có chỗ y chỉ.
7. Rồi tôn giả Sàriputta bảo các
Tỷ-kheo:
- Này Hiền giả, Niganthà Nàthaputta
vừa mới từ trần không bao lâu. Sau khi vị này từ trần, các Nigantha
(Ni-kiền-tử) chia làm hai phe... và không có người y chỉ.
Nhưng với chúng ta, này các Hiền
giả, pháp này được Thế Tôn khéo giảng dạy, khéo trình bày, một Chánh
pháp có hiệu năng hướng dẫn, hướng đến an tịnh, do vị Chánh Đẳng
Giác trình bày. Ở đây, tất cả mọi người cần phải cùng nhau tụng đọc,
không cãi cọ nhau, để phạm hạnh này được trường tồn, được duy trì
lâu ngày, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương
tưởng cho đời, vì lợi ích, vì an lạc cho chư Thiên và loài Người.
Này các Hiền giả, thế nào là
Pháp được Thế Tôn chúng ta khéo giảng dạy, khéo trình bày, một pháp
có hiệu năng hướng dẫn, hướng đến an tịnh do vị Chánh Đẳng Giác
trình bày. Ở đây, tất cả cần phải cùng nhau tụng đọc không cãi cọ
nhau, để phạm hạnh này được trường tồn, được duy trì lâu ngày, vì
hạnh phúc cho chúng sanh, vì an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng
cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài Người.
Này các Hiền giả, có một pháp
được Thế Tôn chơn chánh giảng dạy, vị này đã biết, đã thấy, bậc
A-la-hán, Chánh Đẳng Giác. Ở đây, mọi người cần phải cùng nhau tụng
đọc, không có tranh luận, để phạm hạnh này được trường tồn, được
duy trì lâu ngày, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì an lạc cho chúng sanh, vì
lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư
Thiên và loài Người.
8. Thế nào là một pháp? Tất cả
loài hữu tình do các món ăn (àhàra) mà an trú, tất cả loài hữu tình do
các hành (samkhàrà) mà an trú. Này các Hiền giả, đó là một pháp được
Thế Tôn, vị đã biết, đã thấy, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, thuyết
giảng một cách chơn chánh. Ở đây, mọi người cần phải cùng nhau tụng
đọc, không có tranh luận, để phạm hạnh này được trường tồn, được
duy trì lâu ngày, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì an lạc cho chúng sanh, vì
lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư
Thiên và loài Người.
9. Này các Hiền giả, có hai pháp
được Thế Tôn chơn chánh giảng dạy, vị đã biết, đã thấy, bậc
A-la-hán, Chánh Đẳng Giác. Ở đây, mọi người cần phải cùng nhau tụng
đọc... vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài Người.
Thế nào là hai pháp?
i) Danh và sắc.
ii) Vô minh và hữu ái.
iii) Hữu kiến và vô hữu kiến.
iv) Vô tàm và vô quý.
v) Tàm và quý.
vi) Ác ngôn và ác hữu.
vii) Thiện ngôn và thiện hữu.
viii) Nhập tội thiện xảo và xuất
tội thiện xảo.
ix) Đẳng chí thiện xảo và xuất
khởi đẳng chí thiện xảo.
x) Giới thiện xảo các tác ý thiện
xảo.
xi) Xứ thiện xảo và duyên khởi
thiện xảo.
xii) Thiện xảo về xứ và thiện xảo
về phi xứ.
xii) Chơn trực và tàm quý.
xiv) Kham nhẫn và nhu hòa.
xv) Lời nói nhu thuần và tiếp đón
thân tình.
xvi) Vô hại và từ ái.
xvii) Thất niệm và bất chánh tri.
xvii) Chánh niệm và tỉnh giác.
xix) Các căn không được chế ngự
và ăn uống không tiết độ.
xx) Các căn được chế ngự và ăn
uống có tiết độ.
xxi) Tư duy lực và tu tập lực.
xxii) Niệm lực và định lực.
xxiii) Chỉ và quán.
xxiv) Chỉ tướng và tinh cần tướng.
xxv) Tinh cần và không dao động.
xxvi) Giới thành tựu và kiến
thành tựu.
xxvii) Giới suy khuyết và kiến suy
khuyết.
xxxiii) GIới thanh tịnh và kiến
thanh tịnh.
xxix) Kiến thanh tịnh và tinh cần
theo tri kiến ấy.
xxx) Dao động đối với cacsc pháp
bị dao động và chánh tinh cần của người bị dao động ấy.
xxxi) Không tri túc với các thiện
pháp và không thối thất trong tinh cần.
xxxii) Minh tri và giải thoát.
xxxiii) Tận tri và vô sanh trí.
Này các Hiền giả, hai pháp này
được Thế Tôn chơn chánh giảng dạy, vị đã biết, đã thấy, bậc
A-la-hán, Chánh Đẳng Giác. Ở đây, mọi người cần phải cùng nhau tụng
đọc... vì an lạc cho chư Thiên và loài Người.
10. Này các Hiền giả, có ba pháp
được Thế Tôn chơn chánh giảng dạy, vị đã biết, đã thấy, bậc
A-la-hán, Chánh Đẳng Giác. Ở đây, mọi người cần phải cùng nhau tụng
đọc... vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài Người.
Thế nào là...
i) Ba bất thiện căn: Tham bất thiện
căn, sân bất thiện căn, si bất thiện căn.
ii) Ba thiện căn: Vô tham thiện căn,
vô sân thiện căn, vô si thiện căn.
iii) Ba ác hạnh: Thân ác hạnh, khẩu
ác hạnh, ý ác hạnh.
iv) Ba thiện hạnh: Thân thiện hạnh,
khẩu thiện hạnh, ý thiện hạnh.
v) Ba bất thiện tầm: Dục tầm,
sân tầm, hại tầm.
vi) Ba thiện tầm: Ly dục tầm, vô
sân tầm, vô hại tầm.
vii) Ba bất thiện tư duy: Dục tư
duy, sân tư duy, hại tư duy.
viii) Ba thiện tư duy: Ly dục tư
duy, vô sân tư duy, vô hại tư duy.
ix) Ba bất thiện tưởng: Dục tưởng,
sân tưởng, hại tưởng.
x) Ba thiện tưởng: Ly dục tưởng,
vô sân tưởng, vô hại tưởng.
xi) Ba bất thiện giới: Dục giới,
sân giới, hại giới.
xii) Ba thiện giới: Ly dục giới,
vô sân giới, vô hại giới.
xiii) Ba giới khác: Dục giới, sắc
giới, vô sắc giới.
xiv) Ba giới khác: Sắc giới, vô sắc
giới, diệt giới.
xv) Ba giới khác: Liệt giới, trung
giới, thắng giới.
xvi) Ba ái: Dục ái, hữu ái, vô hữu
ái.
xvii) Ba ái khác: Dục ái, sắc ái,
vô sắc ái.
xviii) Ba ái khác: Sắc ái, vô sắc
ái, diệt ái.
xix) Ba kiết sử: Thân kiến, nghi,
giới cấm thủ.
xx) Ba lậu: Dục lậu, hữu lậu,
vô minh lậu.
xxi) Ba hữu: Dục hữu, sắc hữu,
vô minh hữu.
xxii) Ba cầu: Dục cầu, hữu cầu,
phạm hạnh cầu.
xxiii) Ba mạn: Thắng mạn, đẳng mạn,
ty liệt mạn.
xxiv) Ba thời: Quá khứ thời, vị
lai thời, hiện tại thời.
xxv) Ba biên: Hữu thân biên, hữu
thân tập biên, hữu thân diệt biên.
xvi) Ba thọ: Lạc thọ, khổ thọ,
phi khổ phi lạc thọ.
xvii) Ba khổ tánh: Khổ khổ, hành
khổ, hoại khổ.
xxviii) Ba tụ: Tà định tụ, chánh
định tụ, bất định tụ.
xxix) Ba nghi: Đối với vấn đề
thuộc quá khứ nghi ngờ, do dự, không quyết định, không hài lòng; đối
với các vấn đề thuọc tương lai, nghi ngờ, do dự, không quyết định,
không hài lòng; đối với các vấn đề hiện tại nghi ngờ, do dự, không
quyết định, không hài lòng.
xxx) Ba điều Như Lai không cần gìn
giữ: Này các Hiền giả, Như Lai thanh tịnh thiện hành về thân. Như Lai không
có ác về thân mà Như Lai phải gìn giữ: "Chớ để người khác biết
việc này về Ta". Này các Hiền giả, Như Lai thanh tịnh thiện hành về
miệng. Như Lai không có ác hạnh về miệng mà Như Lai phải gìn giữ:
"Chớ để người khác biết việc này về Ta". Này các Hiền giả,
Như Lai thanh tịnh thiện hành về ý. Như Lai không có ác hạnh về ý mà Như
Lai phải gìn giữ: "Chớ để người khác biết việc này về Ta".
xxxi) Ba loại lửa: Tham chướng, sân
chướng, si chướng.
xxxii) Ba loại lửa: Lửa tham, lửa
sân, lửa si.
xxxiii) Ba loại lửa khác: Lửa của
người hiếu kính, lửa của người gia chủ, lửa của người cúng dường
(cha mẹ, vợ con và các vị xuất gia).
xxxiv) Ba loại sắc tụ: Hữu kiến
hữu đối sắc, vô kiến hữu đối sắc, vô kiến vô đối sắc. xxxv) Ba hành:
Phước hành, phi phước hành, bất động hành.
xxxvi) Ba loại người: Hữu học nhân,
vô học nhân, phi hữu học phi vô học nhân.
xxxvii) Ba vị trưởng lão: Sanh trưởng
lão, pháp trưởng lão, nhập định trưởng lão.
xxxviii) Ba phước nghiệp sự: Thi hành
phước nghiệp sự, giới hành phước nghiệp sự, tu hành phước nghiệp sự.
xxxix) Ba cử tội sự: Thấy, nghe và
nghi.
xl) Ba dục sanh: Này các Hiền giả,
có những loại hữu tình do dục an trú. Đối với các dục, họ chịu sự
an trú, họ bị chi phối phụ thuộc, như loài Người, một số chư Thiên,
một số tái sanh trong đọa xứ. Đó là loại dục sanh thứ nhất. Này các
Hiền giả, có những loại hữu tình có lòng dục đối với những sự vật
do họ tạo ra. Họ tạo hóa ra các sự vật và họ sống bị chi phối phụ
thuộc hóa ra các sự vật và họ sống bị chi phối phụ thuộc trong những
dục vọng ấy, như các loài chư Thiên Nimmàna-Rati (Hóa Lạc thiên). Đó là
loại dục sanh thứ hai. Này các Hiền giả, có những loại hữu tình có
lòng dục đối sự vật do các loài khác tạo ra. Họ sống bị chi phối phụ
thuộc trong những dục vọng đối với sự
vật do các loại khác tạo ra. Như
các loài chư Thiên Para-nimmitava-savatti (Tha Hóa Tự tại thiên). Đó là hạng
dục sanh thứ ba.
xli) Ba loại lạc sanh: Này các Hiền
giả, có những loài hữu tình (trong quá khứ) luôn luôn tạo ra (thiền định
lạc) hay sống trong sự an lạc, như các vị Brahma - Kàyikà (Phạm Chúng
thiên). Đó là hạng lạc sanh thứ nhất. Này các Hiền giả, có những loại
hữu tình thấm nhuần, biến mãn, sung mãn, hưng thịnh với an lạc. Thỉnh
thoảng họ thốt ra những câu cảm hứng: "Ôi an lạc thay! Ôi an lạc
thay!", như chư Thiên Àbhassarà (Quang Âm thiên). Đó là hạng lạc sanh
thứ hai. Này các Hiền giả, có những loại hữu tình thấm nhuần, biến
mãn, sung mãn, hưng thịnh với an lạc. Họ sống mãn túc với an lạc ấy,
cảm thọ an lạc, như chư Thiên Subhakinnà (Biến Tịnh thiên). Đó là loại
lạc sanh thứ ba.
xlii) Ba tuệ: Hữu học tuệ, vô học
tuệ, phi hữu học phi vô học tuệ.
xliii) Loại ba tuệ khác: Tư sanh tuệ,
văn sanh tuệ, tu sanh tuệ.
xliv) Ba loại binh khí: Nghe, xả ly
và tuệ.
xlv) Ba căn: Vị tri đương tri căn,
dĩ tri căn, cụ tri căn.
xlvi) Ba nhãn: Nhục nhãn, thiên
nhãn, tuệ nhãn.
xlvii) Ba học: Tăng thượng giới học,
tăng thượng tâm học, tăng thượng tuệ học.
xlviii) Ba sự tu tập: Thân tu, tâm
tu, tuệ tu.
xlix) Ba vô thượng: Kiến vô thượng,
hành vô thượng, giải thoát vô thượng.
1) Ba định: Hữu tầm hữu tứ định,
vô tầm hữu tứ định, vô tầm vô tứ định.
li) Lại ba định khác: Không định,
vô tướng định, vô nguyện định.
lii) Ba thanh tịnh: Thân thanh tịnh,
ngữ thanh tịnh, ý thanh tịnh.
liii) Ba tịch mặc: Thân tịch mặc,
ngữ tịch mặc, ý tịch mặc.
liv) Ba thiện xảo: Tăng ích thiện
xảo, tổn ích thiện xảo, phương tiện thiện xảo.
lv) Ba kiêu: Vô bệnh kiêu, niên
tráng kiêu, hoạt mạng kiêu.
lvi) Ba tăng thượng: Ngã tăng thượng,
thế tăng thượng, pháp tăng thượng.
lvii) Ba luận sự: Luận bàn về vấn
đề quá khứ: "Sự việc này xảy ra trong quá khứ", luận bàn về
vấn đề tương lai: "Sự việc này xảy ra trong tương lai"; luận bàn
về vấn đề hiện tại: "Sự việc này xảy ra trong hiện tại".
lvii) Ba minh: Túc mạng trí minh, Hữu
tình sanh tử minh, Lậu tận trí minh.
lix) Ba trú: Thiên trú, Phạm trú,
Thánh trú.
lx) Ba thần thông: Thần túc thần
thông, tri tha tâm thần thông, giáo giới thần thông.
Này các Hiền giả, ba pháp này được
Thế Tôn chơn chánh giảng dạy, vị đã biết, đã thấy, bậc A-la-hán,
Chánh Đẳng Giác. ở đây, mọi người cần phải cùng nhau tụng đọc, không
có tranh luận... vì lợi ích cho chúng sanh, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì
an lạc cho chư Thiên và loài Người.
11. Này các Hiền giả, có bốn
pháp được Thế Tôn chơn chánh giảng dạy, vị đã biết, đã thấy, bậc
A-la-hán, Chánh Đẳng Giác. Ở đây, mọi người cần phải cùng nhau tụng
đọc, không có tranh luận, để phạm hạnh... Thế nào là bốn?
i) Bốn niệm xứ: Này các Hiền giả,
ở đây vị Tỷ-kheo quán thân trên thân, tinh cần, tỉnh giác, chánh niệm
để nhiếp phục tham sân trên đời... trên các cảm thọ... trên các
tâm... trên các pháp, tinh cần, tỉnh giác, chánh niệm để nhiếp phục
tham sân trên đời.
ii) Bốn chánh cần: Ở đây, này
các Hiền giả vị Tỷ-kheo, với mục đích khiến cho các ác, bất thiện
pháp từ trước chưa sanh không cho sanh khởi, khởi lên ý muốn, cố gắng,
tinh tấn, sách tâm, trì tâm. Với mục đích khiến cho các ác bất thiện
pháp đã sanh ra được trừ diệt, khởi lên ý muốn, cố gắng, tinh tấn,
sách tâm, trì tâm. Với mục đích khiến cho các thiện pháp từ trước
chưa sanh nay cho sanh khởi, khởi lên ý muón, cố gắng, tinh tấn, sách tâm,
trì tâm. Với mục đích khiến cho các thiện pháp đã được sanh có thể
duy trì, không có mù mờ, được tăng cường, được quảng đại, được
tu tập, được viên mãn, khởi lên ý muốn, cố gắng, tinh tấn, sách tâm,
trì tâm.
iii) Bốn thần túc: Này các Hiền
giả, ở đây, vị Tỷ-kheo tu tập thần túc, câu hữu với tinh tấn thực
hiện Dục thiền định. Tu tập thần túc câu hữu với tinh tấn thực hiện
Tâm thiền định. Tu tập thần túc câu hữu với Tinh tấn thực hiện tinh
tấn thiền định. Tu tập thần thức câu hữu với tinh tấn thực hiện Tư
duy thiền định (Dục như ý thần túc, Tâm như ý thần túc, Tinh tấn như
ý thần túc, Tư duy như ý thần túc).
iv) Bốn thiền: Ở đây, vị Tỷ-kheo
ly dục, ly ác pháp chứng và trú thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc
do ly dục sanh, với tầm, với tứ. Diệt tầm và tứ, chứng và trú thiền
thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội
tỉnh nhất tâm. Ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc
thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và an trú thiền
thứ ba. Xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và
trú thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xã niệm thanh tịnh.
v) Bốn tu tập thiền định: Này
các Hiền giả, có sự tu tập thiền định, nhờ tu tập, nhờ hành trì nhiều
lần đưa đến lạc trú ngay trong hiện tại. Này các Hiền giả, có sự tu
tập thiền định, nhờ tu tập, nhờ hành trì nhiều lần, đưa đến chứng
đắc tri kiến. Này các Hiền giả, có sự tu tập thiền định, nhờ tu tập,
nhờ hành trì nhiều lần, đưa đến chánh niệm tỉnh giác. Này các Hiền
giả, có sự tu tập thiền định, nhờ sự tu tập, nhờ hành trì nhiều lần
đưa đến sự diệt tận các lậu hoặc.
Này các Hiền giả, thế nào là sự
tu tập thiền định, nhờ tu tập, nhờ hành trì nhiều lần đưa đến lạc
trú ngay trong hiện tại? Ở đây, này các Hiền giả, có vị Tỷ-kheo ly dục,
ly ác pháp, và trú thiền thứ nhất... thiền thứ hai... thiền thứ ba... chứng
và trú thiền thứ tư. Này các Hiền giả, như vậy là sự tu tập thiền
định, nhờ tu tập, nhờ hành trì nhiều lần đưa đến lạc trú ngay trong
hiện tại. Này các Hiền giả, thế nào là sự tu tập thiền định, nhờ
tu tập, nhờ hành trì nhiều lần đưa đến chứng đắc tri kiến. Này các
Hiền giả, ở đây, vị Tỷ-kheo, tác ý quang minh tưởng, an trú tưởng ban
ngày, ban ngày thế nào ban đêm như vậy, ban đêm thế nào ban ngày như vậy.
Và như vậy với tâm mở rộng không có đóng kính, tạo ra một tâm có
hào quang. Này các Hiền giả, như vậy là tu tập thiền định, nhờ tu tập,
nhờ hành trì nhiều lần, đưa đến chứng đắc tri kiến. Này các Hiền
giả, thế nào là sự tu tập thiền định, nhờ tu tập, nhờ hành trì nhiều
lần, hướng đến chánh niệm, tỉnh giác. Này các Hiền giả, ở đây, vị
Tỷ-kheo biết được thọ khởi, biết được thọ trú, biết được thọ
diệt, biết được tưởng khởi, biết được tưởng trú, biết được
tưởng diệt, biết được tầm khởi, biết được tầm trú, biết được
tầm diệt. Này các Hiền giả, như vậy là sự tu tập thiền định, nhờ
tu tập, nhờ hành trì nhiều lần, đưa đến chánh niệm tỉnh giác. Này
các Hiền giả, thế nào là sự tu tập thiền tịnh, nhờ tu tập, nhờ
hành trì nhiều lần, đưa đến sự diệt tận các lậu hoặc. Này các Hiền
giả, ở đây vị Tỷ-kheo an trú, quán tánh sanh diệt trên Năm Thủ uẩn -
Đây là sắc, đây là sắc tập, đây là sắc diệt. Đây là thọ... Đây
là tưởng... Đây là hành... Đây là thức, đây là thức tập, đây là thức
diệt. này các Tỷ-kheo, như vậy là sự tu tập thiền định, nhờ tu tập,
nhờ hành trì nhiều lần, đưa đến sự diệt tận các lậu hoặc.
vi) Bốn vô lượng tâm: Này các Hiền
giả, ở đây vị Tỷ-kheo an trú, biến mãn một phương với tâm câu hữu
tới từ, cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy
phương thứ tư. Như vậy cùng khắp thế giới, trên dưới bề ngang, hết
thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với
tâm câu hữu với từ, quảng đại, vô biên, không hận, không sân. Với
tâm câu hữu với bi... với tâm câu hữu với hỷ... an trú, biến mãn một
phương với tâm phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy cùng khắp
thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô
biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với xả, quảng đại,
vô biên, không hận, không sân.
vii) Bốn vô sắc: Này các Hiền giả,
ở đây, vị Tỷ-kheo vượt lên mọi sắc tướng, diệt trừ mọi chướng
ngại tưởng, không tác ý đối với dị tưởng, vị Tỷ-kheo nghĩ rằng:
"Hư không và vô biên", chứng và trú Không vô biên xứ. Vượt lên
mọi Không vô biên xứ, nghĩ rằng: "Không có vật gì", chứng và
trú Thức vô biên xứ. Vươjt lên mọi thức vô biên xứ, nghĩ rằng:
"Không có vật gì), chứng và trú Vô sỡ hữu. Vượt lên mọi Vô sở
hữu xứ, chứng và trú Phi tưởng phi phi tưởng xứ.
viii) Bốn y chỉ: Này các Hiền giả,
ở đây vị Tỷ-kheo sau khi suy nghĩ, thọ dụng; sau khi suy nghĩ, nhẫn thọ;
sau khi suy nghĩ, viễn ly; sau khi suy nghĩ, khiển trừ.
ix) Bốn Thánh chủng: Này các Hiền
giả, ở đây, vị Tỷ-kheo tự bằng lòng với bất cứ loại y nào, tán
thán sự bằng lòng với bất cứ loại y nào, không cố gắng tìm cầu y một
cách không xứng đáng, không có áo não nếu không được y, nhưng khi được
y, vị này, không nhiễm trước, không say mê, không có phạm tội. Vị này
dùng y, thấy các nguy hiểm và biết rõ sự giải thoát. Vì tự bằng lòng
với bất cứ loại y nào, vị ấy không khen mình chê người. Ở đây, vị
này khéo léo, tinh cần, tỉnh giác, chánh niệm, này các Hiền giả, vị Tỷ-kheo
ấy được gọi là một vị đã trung thành với Thánh chủng, theo truyền
thống quá khứ. Này các Hiền giả, lại nữa, vị Tỷ-kheo tự bằng lòng
với bất cứ món ăn khất thực nào, tán thán sự bằng lòng với bất cứ
món ăn khất thực nào, không cố gắng tìm cầu món ăn khất thực một cách
không xứng đáng, không có áo não nếu không được món ăn khất thực.
Nhưng khi được món ăn khất thực, vị này không nhiễm trước, không say
mê, không có phạm tội. Vị này dùng các món ăn khất thực, thấy các
nguy hiểm và biết rõ sự giải thoát. Vì tự bằng lòng với bất cứ món
ăn khất thực nào, vị này không khen mình chê người. Ở đây, vị này
khéo léo, tinh cần, chánh niệm. Này các Hiền giả, vị Tỷ-kheo ấy được
gọi là một vị đã trung thành với Thánh chủng, theo truyền thống quá khứ.
Này các Hiền giả, lại nữa, vị Tỷ-kheo tự bằng lòng với bất cứ
phòng xá nào, tán thán sự bằng lòng với bất cứ phòng xá nào, không cố
gắng tìm cầu phòng xá một cách không xứng đáng, không có áo não nếu
không được trú xứ. Nhưng khi được phòng xá, vị này không nhiễm trước,
không say mê, không có phạm tội. Vị này dùng các phòng xá, thấy các nguy
hiểm và biết rõ sự giải thoát. Vì tự bằng lòng với bất cứ phòng
xá nào, vị này không khen mình chê người. Ở đây, vị này khéo léo, tinh
cần, tỉnh giác, chánh niệm. Này các Hiền giả, vị Tỷ-kheo ấy được gọi
là một vị đã trung thành với Thánh chủng, theo truyền thống quá khứ.
Này các Hiền giả, lại nữa, vị Tỷ-kheo ưa thích đoạn trừ, hoan hỷ
đoạn trừ, ưa thích tu tập, hoan hỷ tu tập. Nhờ ưa thích đoạn trừ,
ohan hỷ đoạn trừ, ưa thích tu tập, hoan hỷ tu tập nên không khen mình
chê người. Ở đây, vị Tỷ-kheo này khéo léo, tinh cần, tỉnh giác, chánh
niệm. Này các Hiền giả, vị ấy được gọi là một vị đã trung thành
với Thánh chủng, theo truyền thống quá khứ.
x) Bốn tinh cần: Chế ngực tinh cần,
đoạn trừ tinh cần, tu tập tinh cần, hộ trì tinh cần. Này các Hiền giả,
thế nào là chế ngự tinh cần? Này các Hiền giả, ở đây vị Tỷ-kheo,
khi ắt thấy sắc không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng.
Những nguyên nhân gì, vì nhãn căn không được chế ngực, khiến tham ái,
ưu bi, các ác, bất thiện pháp khởi lên, vị Tỷ-kheo tự chế ngự nguyên
nhân ấy, hộ trì nhãn căn, thực hành sự chế ngực nhãn căn. Khi tai nghe
tiếng... mũi ngửi hương... lưỡi nếm vị... thân cảm xúc... ý nhận thức
các pháp, vị ấy nắm không nắm vững tướng chung, không nắm giữ tướng
riêng. Những nguyên nhân gì vì ý căn không được chế ngực, khiến tham
ái, ưu bi, các ác, bất thiện pháp khởi lên, vị Tỷ-kheo chế ngự nguyên
nhân ấy, hộ trì căn thực hành sự chế ngự ý căn. Này các Hiền giả,
như vậy gọi là chế ngự tinh cần. Này các Hiền giả, thế nào là đoạn
trừ tinh cần? Này các Hiền giả, ở đây, vị Tỷ-kheo không nhẫn chịu dục
tầm đã khởi lên, từ bỏ, đoạn trừ, tiêu diệt, không cho hiện hữu; với
sân tầm đã khởi lên... với hại tầm đã khởi lên, từ bỏ, đoạn trừ,
tiêu diệt, không cho hiện hữu. Này các Hiền giả, như vậy gọi là đoạn
trừ tinh cần. Này các Hiền giả, thế nào là tu tập tinh cần? Này các Hiền
giả, ở đây, vị Tỷ-kheo tu tập Niệm Giác chi, pháp này y xả ly, y ly dục,
y đoạn diệt, thành thục trong đoạn trừ; tu tập Trạch pháp Giác chi...
tu tập Tinh tấn Giác chi... tu tập Hỷ Giác chi... tu tập Khinh an Giác chi...
tu tập Định Giác chi... tu tập Xả Giác chi, pháp này y xả ly, y ly dục, y
đoạn diệt, thành thục trong đoạn trừ. Này các Hiền giả, như vậy gọi
là tu tập tinh cần. Này các Hiền giả, thế nào là hộ trì tinh cần? Này
các Hiền giả, ở đây vị Tỷ-kheo hộ trì định tướng tốt đẹp đã
khởi lên, cốt tưởng, trùng hám tưởng, thanh ứ tưởng, đoạn hoại tưởng,
trương bành tưởng. Này các Hiền giả, như vậy gọi là hộ trì tinh cần.
xi) Bốn trí: Pháp trí, loại trí,
tha tâm trí, thế tục trí.
xii) Lại bốn trí khác: Khổ trí, tập
trí, diệt trí, đạo trí.
xiii) Bốn Dự lưu hướng chi: Thiện
nhân thân cận, diệu pháp thính thọ, như lý tác ý, pháp tùy pháp hành.
xiv) Bốn Dự lưu quả chi: Ở đây
Thánh đệ tử thành tựu lòng tin tuyệt đối với Phật - "Đây là Thế
Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian
Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn".
Vị này thành tựu lòng tin tuyệt đối đối với Pháp - "Pháp được
Thế Tôn khéo léo thuyết giảng, Pháp ấy là thiết thực hiện tại, vượt
ngoài thời gian, đến mà thấy, có hiệu năng hướng thượng, chỉ người
có trí mới tự mình giác hiểu". Vị ấy thành tự lòng tin tuyệt đối
chúng Tăng: "Chúng Tăng đệ tử của Thế Tôn là đầy đủ diệu hạnh,
chúng Tăng đệ tử của Thế Tôn là đầy đủ như lý hạnh, chúng Tăng đệ
tử của Thế Tôn là đầy đủ chánh hạnh, tức là bốn đôi, tám vị.
Chúng tăng đệ tử của Thế Tôn này đáng cung kính, đáng tôn trọng, đáng
được cúng dường, đáng được chấp tay, là phước điền vô thượng
ở đời", thành tựu giới đức được các bậc Thánh ái mộ, không bị
hư hoại, không bị tỳ vết, được thực hành liên tục, không bị khiếm
khuyết con người tự tại, được bậc Thánh tán thán, không bị nhiễm
ô, hướng đến thiền định.
xv) Bốn Sa môn quả: Dự lưu quả,
Nhứt lai quả, Bất lai quả, A-la-hán quả.
xvi) Bốn giới: Địa giới, thủy
giới, hỏa giới, phong giới.
xvii) Bốn thực: Đoàn thực, thô
hay tế; xúc thực là thứ hai; tự niệm thực là thứ ba; thức thực là thứ
tư.
xviii) Bốn thức trú: Này các Hiền
giả, khi duyên sắc, thức khởi lên và an trú, thức ấy lấy sắc làm cảnh,
lấy sắc làm sở y, lấy sắc làm căn cứ thọ hưởng, được tăng trưởng,
tăng thịnh, tăng quảng. Này các Hiền giả, hay duyên thọ, thức... hay
duyên tưởng... Này các Hiền giả, hay duyên hành, thức khởi lên và an
trú, thức ấy lấy hành làm cảnh, lấy hành làm sở y, lấy hành làm căn
cứ thọ hưởng, được tăng trưởng, tăng thịnh, tăng quảng.
xix) Bốn bất hành xứ lạnh: Tham dục
bất hành xứ hạnh, sân bất hành xứ hạnh, si bất hành xứ hạnh, bố
úy bất hành xứ hạnh.
xx) Bốn ái sanh: Này các Hiền giả,
do nhơn y nhục, vị Tỷ-kheo khởi lên lòng tham ái. Này các Hiền giả, do
nhơn đồ ăn khất thực, vị Tỷ-kheo khởi lên lòng tham ái. Này các Hiền
giả, do nhơn phòng xá, vị Tỷ-kheo khởi lên lòng tham ái. Này các Hiền giả,
do nhơn hữu và phi hữu, vị Tỷ-kheo khởi lên lòng tham ái.
xxi) Bốn hành: Khổ hành trì chứng,
khổ hành tốc chứng, lạc hành trì chứng, lạc hành tốc chứng.
xxvii) Bốn lại hành khác: Bất kham
nhẫn hành, kham nhẫn hành, điều phục hành, tịch tịnh hành. xxiii) Bốn
pháp túc: Vô tham pháp túc, vô sân pháp túc, chánh niệm
pháp túc, chánh định pháp túc.
xxiv) Bốn pháp thọ: Này các Hiền
giả, có pháp thọ, hiện tại khổ và tương lai quả báo khổ. Này các Hiền
giả, có pháp thọ, hiện tại khổ và tương lai quả báo lạc. Này các Hiền
giả, có pháp thọ, hiện tại lạc và tương lai quả báo khổ. Này các Hiền
giả có pháp thọ, hiện tại lạc và tương lai quả báo lạc.
xxy) Bốn pháp uẩn: Giới uẩn, định
uẩn, công đức uẩn, giải thoát uẩn.
xxvi) Bốn lực: Tinh tấn lực, niệm
lực, định lực, tuệ lực.
xxvii) Bốn thắng xứ: Tuệ thắng xứ,
đế thắng xứ, xả thắng xứ, chi tức thắng xứ (Bốn nguyện).
xxviii) Bốn cách trả lời câu hỏi:
Trả lời câu hỏi một cách dứt khoát, trả lời câu hỏi bằng cách phân
tích, trả lời câu hỏi bằng cách cật vấn, trả lời câu hỏi bằng
cách giả lơ, bỏ qua.
xxix) Bốn nghiệp: Này các Hiền giả,
có hắc nghiệp hắc báo. Này các Hiền giả, có bạch nghiệp bạch báo.
Này các Hiền giả, có hắc bạch nghiệp, hắc bạch báo. Này các Hiền giả,
có phi hắc phi bạch nghiệp, phi hắc phi bạch báo, và đưa đến sự tận
diệt các nghiệp.
xxx) Bốn phát cần phải chứng ngộ:
Túc mạng cần phải chứng ngộ bởi niệm. Sanh tử cần phải chứng ngộ
bởi nhãn. Tám giải thoát cần phải chứng ngộ bởi thân. Lậu tận cần
phải chứng ngộ bởi Tuệ.
xxxi) Bốn bộc lưu: Dục bộc lưu,
hữu bộc lưu, kiến bộc lưu, vô minh bộc lưu.
xxxii) Bốn ách: Dục ách, hữu ách,
kiến ách, vô minh ách.
xxxiii) Bốn ly ách: Ly dục ách, ly hữu
ách, ly kiến ách, ly vô minh ách.
xxxiv) Bốn hệ phược: Tham thân hệ,
sân thân hệ, gới cấm thủ thân hệ, thử thực chấp thân hệ.
xxxv) Bốn thủ: Dục thủ, kiến thủ,
giới cấm thủ, ngã thuyết thủ.
xxxvi) Bốn sanh: Noãn sanh, thai sanh,
thấp sanh, hóa sanh.
xxxvii) Bốn nhập thai: Này các Hiền
giả, ở đây, có loài không tinh giác nhập mẫu thai, không tinh giác trú mẫu
thai, không tinh giác xuất mẫu thai. Đó là loại nhập thai thứ nhất. Lại
nữa, này các Hiền giả, ở đây, có loại tinh giác nhập mẫu thai, không
tinh giác trú mẫu thai, không tỉnh giác xuất mẫu thai. Đó là loại nhập
thai thứ hai. Lại nữa, này các Hiền giả, ở đây, có loại tỉnh giác nhập
mẫu thai, tỉnh giác trú mẫu thai, không tỉnh giác xuất mẫu thai. Đó là
loại nhập thai thứ ba. Lại nữa, này các Hiền giả, ở đây, có loại tỉnh
giác nhập mẫu thai, tỉnh giác trú mẫu thai, tỉnh giác xuất mẫu thai. Đó
là loại nhập thai thứ tư.
xxxviii) Bốn phương cách được tự
thể mới: Này các Hiền giả, có tự thể mới được, do ý chí của
mình, không do ý chí của người khác. Này các Hiền giả, có tự thể mới
được, do ý chí của người khác, không do ý chí của mình. Này các Hiền
giả, có tự thể mới được, do ý chí của mình và ý chí của người khác.
Này các Hiền giả, có tự thể mới được không do ý chí của mình,
không do ý chí của người khác.
xxxix) Bốn sự cúng dường thanh tịnh:
Này các Hiền giả, có sự cúng dường, người cúng dường thanh tịnh,
người nhận cúng dường không thanh tịnh. Này các Hiền giả, có sự cúng
dường, người nhận cúng dường thanh tịnh, người cúng dường không
thanh tịnh. Này các Hiền giả, có sự cúng dường, cả người cúng dường
và người nhận cúng dường đều không thanh tịnh. Này các Hiền giả, có
sự cúng dường, người cúng dường và người nhận sự cúng dường đều
thanh tịnh.
xl) Bốn nhiếp pháp: Bố thí, ái ngữ,
lợi hành, đồng sự.
xli) Bốn phi Thánh ngôn: Vọng ngữ,
lưỡng thiệt, ác khẩu, ỷ ngữ.
xlii) Bốn Thánh ngôn: Ly vọng ngữ,
ly lưỡng thiệt, lu ác khẩu, ly ỷ ngữ.
xliii) Bốn phi Thánh ngôn khác:
Không thấy nói thấy, không nghe nói nghe, không nghĩ nói nghĩ, không biết
nói biết.
xliv) Bốn Thánh ngôn khác: Không
tháy nói không thấy, không nghe nói không nghe, không nghĩ nói không nghĩ, không
biết nói không biết.
xlv) Bốn phi Thánh ngôn khác: Thấy
nói không thấy, nghe nói không nghe, nghĩ nói không nghĩ, biết nói không biết.
xlvi) Bốn Thánh ngôn khác: Thấy
nói thấy, nghe nói nghe, nghĩ nói nghĩ, biết nói biết.
xlvii) Bốn loại người: Này các Hiền
giả, ở đây, có người tự làm khổ mình và siêng năng làm khổ mình.
Này các Hiền giả, ở đây, có loại người làm khổ người khác, siêng năng
làm khổ người khác. Này các Hiền giả, ở đây, có loại người làm khổ
mình, siêng năng làm khổ mình; làm khổ người, siêng năng làm khổ người.
Này các Hiền giả, ở đây, có loại người không làm khổ mình, không
siêng năng làm khổ mình; không làm khổ người người, không siêng năng làm
khổ người. Vị này không làm khổ mình, không làm khổ người ngay trong
hiện tại sống ly dục, tịch tịnh, thanh lương, an lạc thánh thiện.
xlviii) Lại bốn loại người khác:
Này các Hiền giả, ở đây, có loại người hành tự lợi, không hành lợi
tha. Này các Hiền giả, ở đây, có loại người hành lợi tha, không hành
tự lợi. Này các Hiền giả, ở đây, có loại người, không hành tự lợi
và không hành lợi tha. Này các Hiền giả, ở đây, có loại người hành tư
lợi và hạnh lợi tha".
xlix) Lại bốn loại người khác: Sống
trong bóng tối và hướng đến bóng tối, sống trong bóng tối hướng đến
ánh sáng, sống trong ánh sáng hướng đến bóng tối, sống trong ánh sáng hướng
đến ánh sáng.
l) Bốn loại người khác: Bất động
Sa môn, Xích liên hoa Sa môn, Bạch liên hoa Sa môn, Diệu thiện Sa môn.
Này các Hiền giả, bốn Pháp này
được Thế Tôn chơn chánh giảng dạy, vị đã biết, đã thấy, bậc A la
Hán, Chánh Đẳng Giác. Ở đây, mọi người cần phải cùng nhau tụng đọc,
không có tranh luận... vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên
và loài Người.
II
1. Này các Hiền giả, có năm Pháp
được Thế Tôn chơn chánh giảng dạy, vị đã biết, đã thấy, bậc A la
hán, Chánh Đẳng Giác. Ở đây, mọi người cần phải cùng nhau tụng đọc,
không có tranh luận... vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên
và loài Người.
i) Năm uẩn: Sắc uẩn, thọ uẩn,
tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn.
ii) Năm thủ uẩn: Sắc thủ uẩn,
thọ thủ uẩn, tưởng thủ uẩn, hành thủ uẩn, thức thủ uẩn.
iii) Năm dục công đức: Sắc do nhãn
nhận thức. Sắc này khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, kích thích lòng
dục, hấp dẫn. Tiếng do tai nhận thức... Hương do mũi nhận thức... Vị
do lưỡi nhận thức... Xúc do thân cảm xúc là khả ái, khả hỷ, khả lạc,
khả ý, kích thích lòng dục, hấp dẫn.
iv) Năm thú: Địa ngục, bàng sanh,
ngạ quỷ, Người, chư Thiên.
v) Năm xan tham: Xan tham dối với trú
xứ, xan tham đối với gia đình, xan tham đối với các vật thâu hoạch,
xan tham đối với sắc, xan tham đối với pháp.
vi) Năm triền cái: Tham dục triền
cái, sân triền cái, hôn trầm thụy miên cái, trạo cử hối quá triền
cái, nghi triền cái.
vii) Năm hạ phần kiết sử: Thân
kiến, nghị giới cấm thủ, tham, sân.
viii) Năm thượng phần kiết sử: Sắc
tham, vô sắc tham, mạn, trạo cử, vô minh.
ix) Năm học xứ: Không sát sanh,
không trộm cắp, không tà dâm, không vọng ngôn, không uống các loại rượu.
x) Năm bất năng xứ: Này các Hiền
giả, một vị Lậu tận Tỷ kheo không thể cố sát hại đời sống loài hữu
tình. Một vị Lậu tận Tỷ kheo không thể cố ý lấy của không cho gọi
là trộm cắp. Một vị Lậu tận Tỷ kheo không thể có ý hành dâm. Một vị
Lậu tận Tỷ kheo không thể cố ý tự mình biết mà nói láo. Một vị Lậu
tận Tỷ kheo không thể tiêu dùng các vật chứa cất vào các thú vui dục
lạc như khi còn là cư sĩ.
xi) Năm sự tổn thất: Thân thuộc
tổn thất, tài sản tổn thất, tật bệnh tổn thất, giới tổn thất, kiến
tổn thất. Này các Hiền giả, không có loài hữu tình nào, vì thân thuộc
tổn thất, vì tài sản tổn thất, hay vì tật bệnh tổn thất, sau khi
thân hoại mạng chung sanh vào khổ giới, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Này
các Hiền giả, có loài hữu tình, vì giới tổn thất hay vì kiến tổn thất,
sau khi thân hoại mạng chung... sanh vào địa ngục.
xii) Năm sự thành tựu: Thân thuộc
thành tựu, tài sản thành tựu, vô bệnh thành tựu, giới thành tựu, kiến
thành tựu. Này các Hiền giả, không có loài hữu tình nào, vì thân thuộc
thành tựu, vì tài sản thành tựu hay vì vô bệnh thành tựu, được sanh lên
thiện thú, Thiên giới, đời này. Này các Hiền giả, có các loài hữu
tình, vì giới thành tựu hay vì kiến thành tựu được sanh lên thiện
thú, Thiên giới, đời này.
xiii) Năm điều nguy hiểm của người
ác giới, phạm giới: Này các Hiền giả, người ác giới, vì phạm giới
luật, do phóng dật thiệt hại nhiều tài sản. Đó là điều nguy hiểm thứ
nhất của người ác giới, phạm ác giới. Lại nữa, này các Hiền giả,
với người ác giới, phạm ác giới, tiếng xấu đồn khắp. Đó là điều
nguy hiểm thứ hai của người ác giới. Lại nữa, này các Hiền giả, với
người ác giới, phạm ác giới, khi vào hội chúng nào, hội chúng Sát đế
ly, hội chúng Bà la môn, hội chúng Cư sĩ hay hội chúng Sa môn, người ấy
vào một cách sợ sệt và dao động. Đó là điều nguy hiểm thứ ba của
người ác giới, phạm ác giới, khi mệnh chung, chết một cách mê loạn,
phạm ác giới. Lại nữa, này các Hiền giả, người ác giới, phạm ác giới,
ác thú, đọa xứ, địa ngục. Đó là điều nguy hiểm thứ năm của người
ác giới, phạm ác giới.
xiv) Năm điều lợi ích của người
đủ giới, giữ giới: Này các Hiền giả, ở đây người đủ giới, giữ
giới, nhờ không phóng dật nên được tài sản sung túc. Đó là điều lợi
ích thứ nhất cho người đủ giới, giữ giới. Này các Hiền giả, lại nữa
người đủ giới, giữ giới được tiếng tốt đồn khắp. Đó là điều
lợi ích thứ hai cho người đủ giới, giữ giới. Này các Hiền giả, với
người đủ giới, giữ giới, khi vào hội chúng nào, hội chúng Sát đế
ly, hội chúng Ba la môn, hội chúng Cư sĩ, hội chúng Sa môn, vị ấy vào một
cách đàng hoàng, không dao động. Đó là điều lợi ích thứ ba cho người
đủ giới, giữ giới. Này các Hiền giả, lại nữa người đủ giới, giữ
giới khi mệnh chung chết một cách không sợ sệt và không dao động. Đó
là điều lợi ích thứ tư cho người đủ giới, giữ giới. Này các Hiền
giả, lại nữa người đủ giới, giữ giới, sau khi thân hoại mạng chung
được sanh lên thiện thú, Thiên giới, cõi đời này. Như vậy là điều lợi
ích thứ năm cho người đủ giới, giữ giới.
xv) Này các Hiền giả, năm pháp nội
tâm một vị Tỷ kheo cần phải có nếu muốn chỉ trích một vị khác:
"Tôi nói đúng thời, không phải phi thời. Tôi nói đúng sự thật,
không sai sự thật. Tôi nói một cách từ tối, không nói lời ác khẩu.
Tôi nói lời có lợi ích, không nói lời không có lợi ích. Tôi nói lời
có lòng từ, không phải lời sân hận". Này các Hiền giả, như vậy là
năm pháp nội tâm một vị Tỷ kheo cần phải có, nếu muốn chỉ trích một
vị khác.
xvi) Năm cần chi: Này các Hiền giả,
ở đây vị Tỷ kheo có lòng tin, tin tưởng sự giác ngộ của Như Lai -
"Đây là Thế tôn, bậc A la hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện
Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư,
Phật, Thế Tôn". Vị ấy thiếu bệnh, thiểu não, sự tiêu hóa được
điều hòa, không lạnh quá, không nóng quá, trung bình hợp với sự tinh tấn.
Vị ấy không lường đảo, dối gạt, nêu rõ tự mình như chơn đối với
bậc Đạo Sư, đối với các vị sáng suốt hay đối với các vị đồng
phạm hạnh. Vị ấy sống siêng năng, tinh tấn, từ bõ các ác pháp, thành
tựu các thiện pháp, cương quyết, kiên trì nỗ lực, không tránh né đối
với các thiện pháp. Vị ấy có trí tuệ, thành tựu trí tuệ hướng đến
sự sanh diệt của các pháp, thành tự Thánh quyết trạch, đưa đến sự
đoạn diệt chơn chánh các khổ đau.
xvii) Năm tịnh cư: Vô Phiền thiên,
Vô Nhiệt thiên, Thiện Hiện thiên, Thiện Kiến thiên, Sắc Cứu Cánh
thiên.
xviii) Năm bất hoàn: Trung gian Bát
Niết bàn, Sanh Bát Niết bàn, Vô hành Bát Niết bàn, Hữu hành Bát Niết
bàn, Thượng lưu thú A-ca-ni-sá.
xix) Năm tâm hoang vu: Này các Hiền
giả, ở đây vị Tỷ kheo nghi ngờ, do dự, không quyết đoán, không có thỏa
mãn đối với vị Đạo Sư. Này các Hiền giả, vị Tỷ kheo nào nghi ngờ,
do dự, không quyết đoán, không có thỏa mãn đối với vị Đạo Sư, vị
Tỷ kheo ấy không hướng về nỗ lực, hăng hái, kiên trì và tinh tấn. Khi
tâm của vị ấy không hướng về nỗ lực, hăng hái, kiên trì và tinh tấn,
như vậy gọi là tâm hoang vu thứ nhất. Này các Hiền giả, lại nữa vị
Tỷ kheo nghi ngờ đối với Pháp... đối với Tăng... đối với học Pháp...
tức giận đối với các vị đồng phạm hạnh, không hoan hỷ, tâm đạo
đồng, trở thành hoang vu. Này các Hiền giả, khi một vị Tỷ kheo tức giận
đối với các vị đồng phạm hạnh, không hoan hỷ, tâm dao động, trở thành
hoang vu, vị Tỷ kheo ấy không hướng về nỗ lực, hăng hái, kiên trì và
tinh tấn. Như vậy gọi là tâm hoang vu thứ năm.
xx) Năm tâm triền phược: Này các
Hiền giả, ở đây vị Tỷ kheo tâm không ly tham, không lu dục, không ly
ái, không ly khao khát, không ly nhiệt tình, không ly ái nhiễm đối với các
dục vọng. Này các Hiền giả, vị Tỷ kheo tâm không ly tham, không ly dục,
không ly ái, không ly khao khát, không ly nhiệt tình, không ly ái nhiễn đối
với ác dục vọng, tâm của vị ấy không hướng về nỗ lực, hăng hái,
kiên trì và tinh tấn. Tâm của vị nào không hướng về... như vậy là
tâm triền phược thứ nhất. Này các Hiền giả, lại nữa vị Tỷ kheo,
tâm không ly tham đối với các thân... Như vậy là tâm triền phược thứ
hai... Đối với các sắc, tâm không ly tham... Đây là tâm triền phược thứ
ba. Này các Hiền giả, lại nữa vị Tỷ kheo không ăn quá sức bao tử có
thể chịu nổi, hướng thọ sự sung sướng về nằm ngủ, sự sung sướng
về xúc chạm, sự sung sướng về thụy miên... Đây là tâm triền phược
thứ tư. Này các Hiền giả, lại nữa vị Tỷ kheo sống đời sống phạm
hạnh với hy vọng mong được thành một loại chư Thiên: "Với luật
phát này, với giới luật này, với khổ hạnh này hay với phạm hạnh
này, tôi sẽ trở thành loại chư Thiên này hay loại chư Thiên khác".
Này các Hiền giả, khi vị Tỷ kheo sống đời sống phạm hạnh với hy vọng
được thanh một loại chư Thiên: "Với luật phát này, với giới luật
này, với khổ hạnh này hay với phạm hạnh này, tôi sẽ trở thành loại
chư Thiên này hay chư Thiên khác". Tâm của vị này không hướng về nỗi
lực, hăng hái, kiên trì và tinh tấn. Tâm của vị nào... như vậy là tâm
triền phược thứ năm.
xxi) Năm căn: Nhãn căn, nhĩ căn, tỷ
căn, thiệt căn, thân căn.
xxii) Lại năm căn khác: Lạc căn,
khổ căn, hỷ căn, ưu căn, xả căn.
xxiii) Lại năm căn khác: Tín căn,
tinh tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn.
xxiv) Năm xuất ly giới: Này các Hiền
giả, ở đây vị Tỷ kheo, có tác ý đối với dục vọng, tâm không hướng
nhập dục vọng, không tín lạc, không an trú, không bị chi phối bởi dục
vọng. Khi vị này có tác ý đối với ly dục, tâm hướng nhập ly dục, tín
lạc, an trú và bị chị phối bởi ly dục, tâm của vị ấy khéo ly, khéo
tu, khéo khởi, khéo giải thoát, khéo ly hệ đối với các dục lạc. Và
các lậu hoặc, các tổn hại, các nhiệt não khởi lên do duyên, các dục lạc,
vị ấy đối với chúng được giải thoát, không còm cảm thọ cảm giác
ấy. Như vậy được gọi là giải thoát đối với các dục vọng. Này
các Hiền giả, lại nữa, vị Tỷ kheo có tác ý đối với sân hận, tâm
không hướng nhập sân hận, không tín lạc, không an trú, không bị chi phối
bởi sân hận. Khi vị này có tác ý đối với vô sân, tâm hướng nhập vô
sân, có tín lạc, có an trú, có bị chi phối bởi vô sân, tâm vị ấy
khéo ly, khéo tu, khéo khởi, khéo giải thoát, khéo ly hệ đối với vô
sân. Và các lậu hoặc, các tổn hoại, các nhiệt não khởi lên do duyên với
sân, vị ấy đối với chúng được giải thoát, không còn cảm thọ cảm
giác ấy. Như vậy được gọi là giải thoát đối với sân hận. Này các
Hiền giả, lại nữa vị Tỷ kheo, có tác ý đối với hại tâm, tâm không
hướng nhập hại tâm, không tín lạc, không an trú, không bị chi phối bởi
hại tâm. Khi vị này có tác ý đối với ly hại tâm, tâm hướng nhập ly
hại tâm, tín lại, an trú, bị chi phối bởi ly hại tâm. Tâm vị ấy khéo
ly, khéo tu, khéo khởi, khéo giải thoát, khéo ly hệ hại tâm. Và các lậu
hoặc, các tổn hại, các nhiệt não khởi lên do duyên với hại tâm, vị
ấy đối với chúng đượccgiải thoát, không còn cảm thọ cảm giác ấy.
Như vậy được gọi là giải thoát đối với hại tâm. Này các Hiền giả,
lại nữa, vị Tỷ kheo, có tác ý đối với sắc, tâm không hướng nhập vào
sắc, không tín lạc, không an trí, không bị chi phối bởi sắc. Khi vị
này có tác ý đối với vô sắc, tâm hướng nhập vô sắc, tín lạc, an
trú, bị chi phối bởi vô sắc. Tâm vị ấy khéo ly, khéo tu, khéo khởi,
khéo giải thoát, khéo ly hệ đối với sắc. Và các lậu hoặc, các tổn hại,
cái nhiệt não khởi lên do duyên với sắc, vị ấy đối với chúng được
giải thoát, không còn cảm thọ cảm giác ấy. Như vậy được gọi là giải
thoát đối với sắc. Này các Hiền giả, lại nữa, vị Tỷ kheo có tác ý
đối với tự thân, tâm không hướng nhập tự thân, không tín lạc, không
an trí, không bị chi phối bởi tự thân. Khi vị này có tác ý đối với
thân diệt, tâm hướng nhập thân diệt, tín lạc, an trú, bị chi phối bởi
thân diệt. Tâm vị ấy khéo ly, khéo tu, khéo khởi, khéo giải thoát, khéo
ly hệ thân diệt. Và các lậu hoặc, các tôn hại, các nhiệt não khởi
lên do duyên với tự thân, vị ấy đối với chúng được giải thoát,
không còn cảm thọ cảm giác ấy. Như vậy được gọi là giải thoát đối
với tự thân.
xxv) Năm giải thoát xứ: Này các Hiền
giả, ở đây vị Tỷ kheo, khi nghe bậc Đạo Sư, hay một vị đồng phạm
hạnh đáng kính nào thuyết pháp. Này các Hiền giả, khi vị Tỷ kheo nghe bậc
Đạo Sư hay một vị đồng phạm hạnh đáng kính nào thuyết pháp, vị ấy,
đối với pháp ấy, hiểu được nghĩa lý và hiểu cả văn cú. Nhờ hiểu
được nghĩa lý và hiểu cả văn cú, khoan khoái sanh. Nhờ khoan khoái, hỷ
sanh. Nhờ hỷ tâm, thân khinh an sanh. Nhờ thân khinh an, lạc thọ sanh. Nhờ
lạc thọ, tâm được định tỉnh. Đó là giải thoát xứ thứ nhất.
Này các Hiền giả, lại nữa, vị
Tỷ kheo không nghe bậc Đạo Sư hay một vị đồng phạm hạnh đáng kính
nào thuyết pháp. Như vị ấy, theo điều đã nghe, theo điều đã học, thuyết
pháp một cách rộng rãi cho các người khác. Này các Hiền giả, khi vị Tỷ
kheo theo điều đã nghe, theo điều đã học, thuyết pháp một cách rộng
rãi cho các người khác, vị ấy đối với pháp ấy, hiểu được nghĩa lý
và hiểu được văn cú. Nhờ hiểu được nghĩa lý và hiểu được văn cú,
khoan khoái sanh. Nhờ khoan khoái, hỷ sanh. Nhờ hỷ tâm, thân khinh an sanh. Nhờ
thân khinh an, lạc thọ sanh. Nhờ lạc thọ, tâm được định tỉnh. Đó
là giải thoát xứ thứ hai. Này các Hiền giả, lại nữa vị Tỷ kheo,
không được nghe bậc Đạo Sư hay một vị đồng phạm hạnh đáng kính
nào thuyết pháp, cũng không theo điều đã nghe, điều đã học thuyết
pháp một cách rộng rãi cho các người khác. Vị ấy theo điều đã nghe,
theo điều đã học, tụng đọc pháp một cách rõ ràng. Này các Hiền giả,
vị Tỷ kheo, theo điều đã nghe, theo điều đã học, tụng đọc pháp một
các rõ ràng, do vậy đối với pháp ấy, hiểu được nghĩa lý và hiểu
được văn cú, thân khinh an sanh. Nhờ thân khinh an, lạc thọ sanh. Nhờ lạc
thọ, tâm được định tỉnh. Đó là giải thoát xứ thứ ba. Này các Hiền
giả, lại nữa, vị Tỷ kheo, không nghe bạc Đạo sư hay một vị đồng phạm
hạnh đáng kính thuyết pháp, cũng không theo điều đã nghe, điều đã học
thuyết pháp một cách rộng rãi cho các người khác, cũng không theo điều
đã nghe, điều đã học, tụng đọc pháp một cách rõ ràng. Vị ấy, theo
điều đã nghe, theo điều đã học, dùng tâm tầm cầu, suy tư, quán sát
pháp ấp. Này các Hiền giả, vị Tỷ kheo, theo điều đã nghe, theo điều
đã học, dùng tâm tầm cầu, suy tư, quán sát pháp ấy. Này các Hiền giả,
vị Tỷ kheo, theo điều đã nghe, theo điều đã học, dùng tâm tầm cầu,
suy tư, quán sát pháp ấy nên đối với pháp ấy hiểu được nghĩa lý, hiểu
được văn cú. Nhờ hiểu được nghĩa lý, hiểu được văn cú, khoan
khoái sanh. Nhờ khoan khoái sanh, hỷ tâm sanh. Nhờ hỷ tâm, thân khinh an
sanh. Nhờ khinh an, lạc thọ sanh. Nhờ lạc thọ, tâm được định tính. Đó
là giải thoát xứ thứ tư. Này các Hiền giả, lại nữa, vị Tỷ kheo,
không nghe bậc Đạo Sư hay một vị đồng phạm hạnh đáng kính nào thuyết
pháp, cũng không theo điều đã nghe, theo điều đã học, thuyết pháp một
cách rộng rãi cho các người khác, cũng không điều đã nghe, theo điều đã
học dùng tâm tầm cầu, suy tư, quán sát pháp ấy, vị Tỷ kheo đã khéo nắm
giữ một định tướng nào, khéo tác ý, khéo thọ trì, khéo thể nhập nhờ
trí tuệ. Này các Hiền giả, vị Tỷ khoe nắm giữ một định tướng nào,
khéo tác ý, khéo thọ trì, khéo thể nhập nhờ trí tuệ. Này các Hiền giả,
vị Tỷ kheo tùy theo khéo nắm giữ một định tướng nào, khéo tác ý,
khéo thọ trì, khéo thể nhập nhờ trí tuệ, nên đối với pháp ấy, hiểu
được nghĩa lý, hiểu được văn cú. Nhờ hiểu được nghĩa lý, hiểu
được văn cú, nên khoan khoái sanh. Nhờ khoan khoái sanh, hỷ tâm sanh. Nhờ
hỷ tâm, thân khinh an sanh. Nhờ thân khinh an, lạc thọ sanh. Nhờ lạc thọ,
tâm được định tĩnh. Đó là giải thoát xứ thứ năm.
xxvi) Năm giải thoát thành thục tưởng:
Vô thường tưởng, khổ tưởng trong vô thường, vô ngã tưởng trong khổ,
đoạn trừ tưởng, vô tham tưởng.
Này các Hiền giả, năm pháp này
được Thế Tôn chơn chánh giảng dạy, vị đã biết, đã thấy, bậc A la
hán, Chánh Đẳng Giác. Ở đây mọi người cần phải cùng nhau tụng đọc,
không có tranh luận... vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên
và cho loài Người.
2. Này các Hiền giả, có sáu pháp
được Thế Tôn chơn chánh giảng dạy, vị đã biết, đã thấy, bậc A la
hán, Chánh Đẳng Giác. Ở đây, mọi người cần phải cùng nhau tụng đọc,
không có tranh luận... vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên
và cho loài Người. Thế nào là sáu?
i) Sáu nội xứ: Nhãn xứ, nhĩ xứ,
tỷ xứ, thiệt xứ, thân xứ, ý xứ.
ii) Sáu ngoại xứ: Sắc xứ, thanh xứ,
hương xứ, vị xứ, xúc xứ, pháp xứ.
iii) Sáu thức thân: Nhãn thức, nhĩ
thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức.
iv) Sáu xúc thân: Nhãn xúc, nhĩ xúc,
tỷ xúc, thiệt xúc, thân xúc, ý xúc.
v) Sáu thọ thân: Nhãn xúc sở sanh
thọ, nhĩ xúc sở sanh thọ, tỷ xúc sở sanh thọ, thiệt xúc sở sanh thọ,
thân xúc sở sanh thọ, ý xúc sở sanh thọ.
vi) Sáu tưởng thân: Sắc tưởng,
thanh tưởng, hương tưởng, vị tưởng, xúc tưởng, pháp tưởng.
vii) Sáu tư thân: Sắc tư, thanh tư,
hương tư, vị tư, xúc tư, pháp tư.
viii) Sáu ái thân: Sắc ái, thanh
ái, hương ái, vị ái, xúc ái, pháp ái.
ix) Sáu không cung kính pháp: Này
các Hiền giả, ở đây vị Tỷ kheo, sống không cung kính, không tùy thuận
bậc Đạo Sư; sống không cung kính, không tùy thuận Pháp; sống không cung
kính, không tùy thuận Tăn; sống không cung kính, không tùy thuận học
Pháp; sống không cung kính bất phóng dật, không tùy thuận bất phóng dật;
sống không cung kính, không tùy thuận sự lễ phép xã giao.
x) Sáu cung kính pháp: Này các Hiền
giả, ở đây vị Tỷ kheo sống cung kính, tùy thuận bậc Đạo Sư; sống
cung kính, tùy thuận Pháp; sống cung kính, tùy thuận Tăng; sống cung kính
tùy thuận học pháp; sống cung kính, tùy thuận bất phóng dật; sống cung
kính; tùy thuận lễ phép xã giao.
xi) Sáu sư tư đến hỷ: Khi mắt thấy
sắc, hoan hỷ khởi lên, sắc ấy được suy tư. Khi tai nghe tiếng... Khi
mũi ngửi hương... Khi lưỡi nếm vị... Khi thân chạm xúc... Khi ý nhận
pháp, hoan hỷ khởi lên, pháp ấy được suy tư.
xii) Sáu suy tư đến ưu: Khi mắt thấy
sắc, ưu khởi lên, sắc ấy được suy tư... như trên... khi ý nhận pháp,
ưu khởi lên, pháp ấy được suy tư.
xiii) Sáu suy tư đến xả: Khi mắt
thấy sắc, xả khởi lên, sắc ấy được suy tư... Khi tai nghe tiếng... Khi
mũi ngửi hương... Khi lưỡi nếm vị... Khi thân chạm xúc... Khi ý nhận
pháp, xả khởi lên, pháp ấy được suy tư.
xiv) Sáu hòa kính pháp: Này các Hiền
giả, ở đây khi vị Tỷ kheo thành tựu từ thân nghiệp, trước mặt hay
sau lưng đối với các vị đồng phạm hạnh, như vậy là một pháp hòa
kính, tạo ra từ ái, tạo ra cung kính, đưa đến đoàn kết, không tranh luận,
hòa hợp, đồng tâm, ý hợp. Này các Hiền giả, lại nữa khi vị Tỷ kheo
thành tự từ khẩu nghiệp trước mặt hay sau lưng... từ ý nghiệp trước
mặt hay sau lưng, đối với các vị đồng phạm hạnh, như vậy là một
pháp hòa kính, tạo ra từ ái, tạo ra cung kính, đưa đến đoàn kết,
không tranh luận, hòa hợp, đồng tâm, ý hợp. Này các Hiền giả, lại nữa,
vị Tỷ kheo, đối với các đồ vật được cúng dường một cách hợp
pháp cho đến đồ vật nhận trong bình bát, đều đem chia đồng đều giữa
các vị Tỷ kheo có giới hạnh, như vậy là một pháp hòa kính, tạo ra từ
ái, tạo ra cung kính, đưa đến đoàn kết, không tranh luận, hòa hợp, đồng
tâm, ý hợp. Này các Hiền giả, lại nữa, vị Tỷ kheo, khi những giới luật
của vị này không bị phá hoại, không vi phạm, được kiên trì tuân
hành, không có tỳ vết, làm con người được giải thoát, được người
trí tán thán, không uế tạp, hướng đến thiền định, vị Tỷ kheo ấy
giữ giới hạnh Sa môn như vậy, sống trước mặt hay sau lưng với các vị
đồng phạm hạnh như vậy là một pháp hòa kính, tạo ra từ ái, tạo ra
cung kính, đưa đến đoàn kết, không tranh luận, hòa hợp, đồng tâm, ý hợp.
Này các Hiền giả, lại nữa, vị Tỷ kheo sống đời sống được Chánh
kiến hướng dẫn, chơn chánh, đoạn diệt khổ đau, vị ấy sống thành tựu
với Chánh kiến như vậy, sống với các vị đồng phạm hạnh, trước mặt
hay sau lưng, như vậy là một pháp hòa kính, tạo ra từ ái, tạo ra cung
kính, đưa đến đoàn kết, trong tranh luận, hòa hợp, đồng tâm, ý hợp.
xv) Sáu tránh căn: Này các Hiền giả,
ở đây vị Tỷ kheo phẫn nộ, uất hận. Này các Hiền giả, vị này phẫn
nộ, uất hận, sống không cung kính, không tùy thuận vị Đạo Sư, sống
không cung kính, không tùy thuận Pháp, không cung kính, không tùy thuận Tăng,
không thành tựu đầy đủ các học pháp. Này các Hiền giả, vị Tỷ kheo
sống không cung kính không tùy thuận bậc Đạo Sư, không cung kính, không
tùy thuận Pháp, không cung kính, không tùy thuận Tăng, không thành tựu đầy
đủ các học pháp, vị ấy khởi lên tranh luận giữa chư Tăng. Tranh luận
như vậy khiến chúng sanh không hạnh phúc, khiến chúng sanh không an lạc,
khiến chúng sanh không lợi ích, và khiến chư Thiên và loài Người không hạnh
phúc, mà đau khổ. Này các Hiền giả, nếu Hiền giả thấy được tránh căn
ấy giữa các vị hay ngoài các vị, Hiền giả phải cố gắng đoạn trừ
ác tránh căn ấy. Này các Hiền giả, nếu Hiền giả không thấy tránh căn
ấy giữa các vị hay ngoài các vị, các vị hãy gìn giữ đừng cho ác
tránh căn ấy có cơ hội làm hại trong tương lai. Như vậy là ngăn chặn
nguy hại ác tránh căn ấy trong tương lai. Này các Hiền giả, lại nữa vị
Tỷ kheo che dấu và giả dối... tất đố và xan tham... lừa đảo và lường
gạt... ác dục và tà kiến... chấp trước sở kiến, kiên trì gìn giữ rất
khó rời bỏ. Này các Hiền giả, vị Tỷ kheo chấp trước sở kiến, kiên
trì gìn giữ, rất khó rời bỏ, vị ấy sống không cung kính, không tùy
thuận bậc Đạo Sư, không cung kính, không tùy thuận Pháp, không cung kính,
không tùy thuận Tăng, không thành tựu đầy đủ các học pháp. Này các Hiền
giả, vị Tỷ kheo không cung kính, không tùy thuận bậc Đạo Sư... Pháp...
Tăng... không thành tựu đầy đủ các học pháp, vị ấy khởi lên tranh luận
giữa chư Tăng. Tranh luận như vậy khiến chúng sanh không hạnh phúc, khiến
chúng sanh không an lạc, khiến chúng sanh không lợi ích, khiến chư Thiên
vào loài Người không hạnh phúc, mà đau khổ. Này các Hiền giả, nếu Hiền
giả thấy được tránh căn ấy giữa các vị hay ngoài các vị, Hiền giả
phải cố gắng đoạn trừ ác tránh căn ấy. Này các Hiền giả, nếu Hiền
giả không thấy tránh căn ấy giữa các vị hay ngoài các vị, các vị hãy
gìn giữ đừng cho ác tránh căn ấy có cơ hội làm hại trong tương lai.
Như vậy là sự đoạn trừ ác tránh căn ấy, như vậy là ngăn chận nguy hại
ác tránh căn ấy trong tương lai.
xvi) Sáu giới: Địa giới, thủy giới,
hỏa giới, phong giới, không giới, thức giới.
xvii) Sáu xuất ly giới: Này các Hiền
giả, ở đây vị Tỷ kheo nói như sau: "Ta đã tu tập từ tâm giải
thoát, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ, an trú, chất chứa
và khéo léo tinh cần. Tuy vậy sân tâm vẫn ngự trị tâm ta". Vị ấy
cần phải được nói như sau: "Chớ có như vậy, chớ nói như vậy, Đại
đức! Chớ có hiểu lầm Thế Tôn, vu khống Thế Tôn như vậy thật không
tốt. Thế Tôn không nói như vậy". Này các Hiền giả, sự kiện không
phải như vậy, trường hợp không phải như vậy. Ai tu tập từ tâm giải
thoát, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ, an trú, chất chứa
và khéo léo tinh cần, mà sân tâm vẫn ngự trị, an trí, sự kiện không thể
xảy ra như vậy. Này các Hiền giả, từ tâm giải thoát có khả năng giải
thoát sân tâm. Này các Hiền giả, ở đây vị Tỷ kheo nói như sau: "Ta
đã tu tập bi tâm giải thoát, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm thành
căn cứ, an trú, chất chứa và khéo léo tinh cần. Tuy vậy hại tâm vẫn ngự
trị tâm ta". Vị ấy cần phải được nói như sau: "Chớ có hiểu
lầm Thế Tôn, vu khống Thế Tôn như vậy thật không tốt. Thế Tôn không
nói như vậy". Này các Hiền giả, sự kiện không phải như vậy. Trường
hợp không phải như vậy. Nếu tu tập bi tâm giải thoát, làm cho sung mãn,
làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ, an trú, chất chứa và khéo léo tinh cần,
mà hại tâm vẫn ngự trị an trú, sự kiện không xảy ra như vậy. Này
các Hiền giả, bi tâm giải thoát có khả năng giải thoát hại tâm. Này
các Hiền giả, ở đây vị Tỷ kheo nói như sau: "Ta đã tu tập hỷ
tâm giải thoát, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ, an trú,
chất chứa và khéo léo tinh cần. Tuy vậy bất lạc tâm vẫn ngự trị tâm
ta". Vị ấy cần phải được nói như sau: "Chớ có như vậy, chớ
nói như vậy, Đại đức! Chớ có hiểu lầm Thế Tôn, vu khống Thế Tôn
như vậy". Này các Hiền giả, sự kiện không phải như vậy. Trường
hợp không phải như vậy. Nếu tu tập hỷ tâm giải thoát, làm cho sung
mãn, làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ, an trú, chất chứa và khéo léo
tinh cần, bất lạc tâm vẫn ngự trị an trú, sự kiện không xảy ra như vậy.
Này các Hiền giả, hỷ tâm giải thoát có khả năng giải thoát bất lạc
tâm. Này các Hiền giả, ở đây vị Tỷ kheo nói như sau: "Ta đã tu tập
xả tâm giải thoát, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ,
an trú, chất chứa và khéo léo tinh cần. Tuy vậy thâm tâm vẫn ngự trị
tâm ta". Vị ấy cần được nói như sau: "Chớ có như vậy, chớ nói
như vậy, Đại Đức! Chớ có hiểu lầm Thế Tôn, vu khống Thế Tôn như vậy
thật không tốt. Thế Tôn không nói như vậy". Này các Hiền giả, sự
kiện không phải như vậy. Trường hợp không phải như vậy. Nếu tu tập
xả tâm giải thoát, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ,
an trú, chất chứa và khéooléo tinh cần mà tham tâm vẫn ngự trị an trú,
sự kiện không xảy ra như vậy. Này các Hiền giả, xả tâm giải thoát,
có khả năng giải thoát tham tâm. Này các Hiền giả, lại nữa ở đây vị
Tỷ kheo nói như sau: "Ta đã tu tập vô tướng tâm giải thoát, làm cho
sung mãn, làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ, an trú, chất chứa và khéo
léo tinh cần. Tuy vậy thức của tôi vẫn chạy theo các tướng". Vị
ấy cần phải được nói như sau: "Chớ có như vậy, chớ nói như vậy,
Đại Đức! Chớ có hiểu lầm Thế Tôn, vu khống Thế Tôn như vậy không
tốt. Thế Tôn không nói như vậy". Này các Hiền giả, sự kiện không
phải như vậy. Trường hợp không phải như vậy. Nếu tu tập vô tướng tâm
giải thoát, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ, an trú, chất
chứa và khéo léo tinh cần, mà thức vẫn chạy theo các tướng, sự kiện
không xảy ra như vậy. Nếu tu tập vô tướng tâm giải thoát, làm cho sung
mãn, làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ, an trú, chất chứa và khéo léo
tinh cần, mà thức vẫn chạy theo các tướng, sự kiện không xảy ra như vậy.
Này các Hiền giả, vô tướng tâm giải thoát có khả năng giải thoát tất
cả tướng. Này các Hiền giả, lại nữa, ở đây vị Tỷ kheo nói như
sau: "Quan điểm "tôi có mặt" bị tôi từ khước. Quan điểm
"tôi là cái này" không được tôi chấp nhận. Tuy vậy mũi tên
nghi ngờ do dự vẫn ám ảnh an trú tôi". Vị ấy cần phải được nói
như sau: "Chớ có như vậy, chớ nói như vậy, Đại Đức! Chớ có hiểu
lầm Thế Tôn, vu khống Thế Tôn như vậy không tốt. Thế Tôn không nói như
vậy". Này các Hiền giả, sự kiện không phải như vậy. Trường hợp
không phải như vậy. "Quan điểm "tôi có mặt" bị tôi từ khước.
Quan điểm "tôi là cái này" không được tôi chấp thuận. Tuy vậy
nghi ngờ, do dự vẫn ám ảnh an trú nơi tôi". Sự kiện không xảy ra
như vậy. Này Hiền giả, chính nhờ khước từ sự ngạo mạn "tôi có
mặt", mà mũi tên do dự nghi ngờ được giải thoát.
xviii) Sáu vô thượng: Kiến vô thượng,
văn vô thượng, lợi đắc vô thượng, học giới vô thượng, hành vô thượng,
ức niệm vô thượng.
xix) Sáu niệm xứ: Niệm Phật, niệm
Pháp, niệm Tăng, niệm Giới, niệm Thí, niệm Thiên.
xx) Sáu hằng trú: Này các Hiền giả,
ở đây vị Tỷ kheo mắt thấy sắc, không có hoan hỷ, không có ưu phiền,
an trú xả, chánh niệm, giác tỉnh; tai nghe tiếng... mũi ngửi hương... lưỡi
nếm vị... thân cảm xúc... ý nhận thức pháp, không có hoan hỷ, không có
ưu phiền, trú xả, chánh niệm, tinh giác.
xxi) Sáu sanh loại: Này các Hiền giả,
ở đây có người hắc sanh và sống tạo hắc pháp. Này các Hiền giả,
ở đây, có người hắc sanh và sống tạo bạch pháp. Này các Hiền giả,
ở đây, có người hắc sanh và sống tạo Niết bàn, phi hắn phi bạch
pháp. Ở đây, có người bạch sanh và sống tạo bạch pháp. Ở đây, có
người bạch sanh và sống tạo hắc pháp. Ở đây, có người bạch sanh và
sống tạo Niết bàn, phi hắc phi bạch pháp.
xxii) Sáu quyết trạch phần thưởng:
Vô thường tưởng, khổ tưởng trên vô thường, vô ngã tưởng trên khổ,
đoạn tưởng, vô tham tưởng, diệt tưởng.
Này các Hiền giả, sáu pháp này
được Thế Tôn chơn chánh giảng dạy, vị đã biết, đã thấy, bậc A la
hán, Chánh Đẳng Giác. Ở đây, mọi người cần phải cùng nhau tụng đọc...
vị lợi ích, vì hành phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài Người.
8. Này các Hiền giả, có bảy pháp
được Thế Tôn chơn chánh giảng dạy, vị đã biết, đã thấy, bậc A la
hán, Chánh Đẳng Giác. Ở đây, mọi người phải cùng nhau tụng đọc... vị
lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài Người. Thế nào
là bảy?
i) Bảy tài sản: Tín tài, giới
tài, tàm tài, quý tài, văn tài, thí tài, tuệ tài.
ii) Bảy giác chi: Niệm Giác chi, Trạch
pháp Giác chi, Tinh tấn Giác chi, Hỷ Giác chi, Khinh an Giác chi, Định Giác
chi, Xả Giác chi.
iii) Bảy định cụ: Chánh tri kiến,
Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm.
iv) Bảy phi diệu pháp: Này các Hiền
giả, ở đây, có vị Tỷ kheo bất tín, vô tàm, vô quý, thiểu văn, giải
đải, thất niệm, liệt huệ.
v) Bảy diệu pháp: Này các Hiền giả,
ở đây, có vị Tỷ kheo có lòng tín, có tàm, có quý, đa văn, tinh tấn, niệm
được an trú, có trí tuệ.
vi) Bảy thượng nhân pháp: Này các
Hiền giả, ở đây có vị Tỷ kheo tri pháp, tri nghĩa, tự tri, tri lượng,
tri thời, tri chúng và tri nhân.
vii) Bảy thù diệu sự: Này các Hiền
giả, ở đây vị Tỷ kheo tha thiết hành trì học pháp và khát vọng hành
trì học pháp trong tương lai; tha thiết quán phát và khát vọng quán pháp
trong tương lai; tha thiết điều phục các dục vọng và khát vọng điều
phục các dục vọng trong tương lai; tha thiết sống an tịnh và khát vọng
sống an tịnh trong tương lai; tha thiết sống tinh tấn và khát vọng sống
tinh tấn trong tương lai; tha thiết quán sát tự niệm và khát vọng quán
sát tự niệm trong tương lai; tha thiết với kiến giải và khát vọng hiểu
biết sở kiến trong tương lai.
viii) Bảy tưởng: Vô thường tưởng,
vô ngã tưởng, bất tịnh dưỡng, hoạn nạn tưởng, đoạn tưởng, ly tham
tưởng, diệt tưởng.
ix) Bảy lực: Tín lực, tinh tấn lực,
tâm lực, quý lực, niệm lực, định lực, tuệ lực.
x) Bảy thức trú: Này các Hiền giả,
có các loại hữu tình, thân sai biệt và tưởng sai biệt, như loài Người,
một số chư Thiên và một số thuộc đọa xứ. Đó là loại thức trú thứ
nhất. Này các Hiền giả, có những loài hữu tình thân sai biệt nhưng tưởng
đồng loại, như các vị Phạm Chúng thiên vừa mới sanh lần đầu tiên
(hay do tu sơ thiền). Đó là loại thức trú thứ hai. Này các Hiền giả,
có những loại hữu tình, thân đồng loại, nhưng tưởng sai biệt, như
chư Quang Âm thiên. Đó là loại thức trú thứ ba. Này các Hiền giả, có
những loại hữu tình thân đồng loại và tưởng đồng loại, như chư Thiên
Biến Tịnh thiên. Đó là loại thức trú thứ tư. Này các Hiền giả, có
những loại hữu tình, vượt khỏi mọi tưởng về sắc, điều phục mọi
tưởng về sân, không tác ý đến các tướng sai biệt, chứng Không vô
biên xứ: "Hư không là vô biên". Đó là loại thức trú thứ năm.
Này các Hiền giả, có những loại hữu tình, vượt khỏi hoàn toàn hư không
vô biên xứ, chứng thức vô biên xứ: "Thức là vô biên". Đó là
loại thức trú thứ sáu. Này các Hiền giả có những loại hữu tình vượt
khỏi hoàn toàn Thức vô biên xứ, chứng Vô sở hữu xứ: "Không có vật
gì cả". Đó là loại thức trú thứ bảy.
xi) Bảy loại người đáng kính trọng:
Câu phần giải thoát, Tuệ giải thoát, Thân chứng, Kiến chí, Tín giải
thoát, Tùy pháp hành, Tùy tín hành.
xii) Bảy tùy miên: Dục ái tùy
miên, sân tùy miên, kiến tùy miên, nghi tùy miên, mạn tùy miên, hữu tham
tùy miên, vô minh tùy miên.
xiii) Bảy kiết sử: Ái kiết sử,
sân kiết sử, kiến kiết sử, nghi kiết sử, mạn kiết sử, hữu tham kiết
sử, vô minh kiết sử.
xiv) Bảy diệt tránh pháp: Có khả
năng đình chỉ, trừ diệt các tránh pháp đang khởi lên: Ưng dữ hiện tiền
tỳ ni, ưng dữ ức niệm tỳ ni, ưng dữ bất si tỳ ni, ưng dữ tự ngôn
trị, đa mích tội tướng, đa nhơn mích tội, như thảo phú địa.
Này các Hiền giả, bảy pháp này
được Thế Tôn chơn chánh giảng dạy, vị đã biết, đã thấy, bậc A la
hán, Chánh Đẳng Giác. Ở đây mọi người cần phải cùng nhau tụng đọc...
vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài Người.
III
1. "Này các Hiền giả, có tám
pháp được Thế Tôn chơn chánh giảng dạy, vị đã biết, đã thấy, bậc
A la hán, Chánh Đẳng Giác. Ở đây mọi người cần phải cùng nhau tụng
đọc... Vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài Người.
Thế nào là tám?
i) Tám tà: Tà tri kiến, ta tư duy, tà
ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà tinh tấn, tà niệm, tà định.
ii) Tám chánh: Chánh tri kiến...
Chánh định.
iii) Tám người đáng cung kính: Hạng
Dự lưu, hạng đã thành tựu và chứng Dự lưu quả; hạng Nhất lai, hạng
đã thành tựu và chứng Nhất lai quả; hạng Bất lai, hạng đã thành tựu
và chứng Bất lai quả; hạng A la hán và hạng đã thành tựu A la hán quả.
iv) Tám giải đãi sự: Này các Hiền
giả, ở đây có việc vị Tỷ kheo phải làm. Vị này nghĩ: "Có công
việc ta sẽ phải làm. Nếu ta làm việc, thời thân ta sẽ mệt mỏi. Vậy
ta nên nằm xuống". Vị ấy nằm xuống, không có tinh tấn để đạt
được điều chưa đạt được, để thành tựu điều chưa thành tựu, để
chứng ngộ điều chưa chứng ngộ được, như vậy là giải đãi sự thứ
nhất. Này các Hiền giả, lại nữa, một việc đã được vị Tỷ kheo làm.
Vị này nghĩ: "Ta đã làm một công việc. Do ta làm một công việc nên
thân ta mệt mỏi. Vậy ta nên nằm xuống". Vị ấy nằm xuống, không
có tinh tấn... như vậy là giải đãi sự thứ hai. Này các Hiền giả, lại
nữa, có con đường vị Tỷ kheo phải đi. Khi ta đi con đường ấy, thân
ta sẽ mệt mỏi. Vậy ta nên nằm xuống". Vị ấy nằm xuống, không
có tinh tấn... Như vậy là giải đãi sự thứ ba. Này các Hiền giả, lại
nữa, con đường vị Tỷ kheo đã đi. Vị này nghĩ: "Ta đã đi con đường,
do ta đã đi con đường nên thân ta mệt mỏi. Vậy ta nên nằm xuống".
Vị ấy nằm xuống, không có tinh tấn... Như vậy là giải đãi sự thứ tư.
Này các Hiền giả, vị Tỷ kheo đi khất thực ở làng hay tại đô thị
không nhận được các đồ ăn loại cứng hay đồ ăn loại mềm, đầy đủ
như ý muốn. Vị ấy nghĩ: "Ta đi khất thực ở làng hay đô thị,
không nhận được các đồ ăn loại cứng hay đồ ăn loại mềm đầy đủ
như ý muốn. Thân này của ta bị mệt mỏi không lợi ích gì. Vậy ta nên
nằm xuống". Vị ấy nằm xuống, không có tinh tấn. Như vậy là giải
đãi sự thứ năm. Này các Hiền giả, lại nữa, vị Tỷ kheo, trong khi đi
khất thực tại làng hay thị xã nhận được các đồ ăn loại cứng hay
đố ăn loại mềm đầy đủ như ý muốn. Vị ấy nghĩ: "Ta đi khất
thức tại làng hay tại thị xã, nhận được các đồ ăn loại cứng hay
đồ ăn loại mềm, đầy đủ như ý muốn. Thân này của ta nặng nề,
không làm được gì, như một nhóm đậu. Vậy ta nên nằm xuống". Vị
ấy nằm xuống, không có tinh tấn... Như vậy là giải đãi sự thứ sáu.
Này các Hiền giả, lại nữa, vị Tỷ kheo bị đau bệnh nhẹ. Vị này nghĩ:
"Nay ta bị đau bệnh nhẹ, cần phải nằm nghỉ. Vậy ta nên nằm xuống".
Vị ấy nằm xuống, không có tinh tấn... Như vậy là giải đãi sự thứ bảy.
Này các Hiền giả, lại nữa, vị Tỷ kheo mới đau bệnh dậy, mới khỏi
bẹnh không bao lâu. Vị ấy nghĩ: "Ta mới đau bệnh dậy, mới khỏi bệnh
không bao lâu. Thân này của ta yếu đuối, không làm được việc gì, vậy
ta hãy nằm xuống". Vị ấy nằm xuống, không có tinh tấn để đạt
được điều chưa đạt được, để thành tựu điều chưa thành tựu được,
để chứng ngộ điều chưa chứng ngộ được. Như vậy là giải đãi sự
thứ tám.
v) Tám tinh tấn sự: Này các Hiền
giả, ở đây có việc vị Tỷ kheo phải làm, vị ấy nghĩ: "Có công
việc, ta sẽ phải làm, nếu ta làm việc, thì không dễ gì ta có thể suy tư
đến giáp pháp chư Phật. Vậy ta hãy cố gắng tinh tấn để đạt được
điều gì chưa đạt được, để thành tựu điều gì chưa thành tựu được,
để chứng ngộ điều gì chưa chứng ngộ được". Và vị ấy tinh tấn
để đạt được điều gì chưa đạt được, để thành tựu điều gì chưa
thành tựu được, để chứng ngộ điều gì chưa chứng ngộ được. Như
vậy là tinh tấn sự thứ nhất. Này các Hiền giả, lại nữa, vị Tỷ
kheo đã làm xong công việc, vị ấy nghĩ: "Ta đã làm xong công việc.
Khi ta làm công việc, ta không thể suy tư đến giáo pháp của chư Phật. Vậy
ta phải cố gắng tinh tấn..." Vị ấy tinh tấn... Như vậy là tinh tấn
sự thứ hai. Này các Hiền giả, lại nữa, có con đường vị Tỷ kheo phải
đi. Vị này nghĩ: "Đây là con đường mà ta có thể sẽ phải đi. Khi
ta đi con đường ấy, không dễ gì ta có thể suy tư đến giáo pháp của
chư Phật. Vậy ta hãy cố gắng tinh..." Vị ấy tinh tấn... Như vậy là
tinh tấn sự thứ ba. Này các Hiền giả, lại nữa, vị Tỷ kheo đã đi con
đường. Vị này nghĩ: "Ta đã đi con đường ấy. Khi ta đi con đường,
ta không có thể suy tư đến giáo pháp của chư Phật. Vậy ta hãy cố gắng
tinh tấn..." Vị ấy tinh tấn... Như vậy là tinh tấn sự thứ tư. Này
các Hiền giả, lại nữa, vị Tỷ kheo trong khi đi khất thực tại làng hay
tại đô thị, không nhận được các loại đồ ăn loại cứng hay đồ ăn
loại mềm đầy đủ như ý muốn. Vị này nghĩ: "Ta trong khi đi khất
thực tại làng hay tại đô thị, không nhận được các loại đồ ăn loại
cứng hay đồ ăn loại mềm, đầy đủ như ý muốn. Thân ta như vậy nhẹ
nhàng có thể làm việc. Vậy ta hãy cố gắng tinh tấn..." Và vị ấy
tinh tấn... Như vậy là tinh tấn sự thứ năm. Này các Hiền giả, lại nữa,
vị Tỷ kheo trong khi đi khất thực tại làng hay tại đô thị được các
loại đồ ăn loại cứng hay loại đồ ăn loại mềm, đầy đủ như ý muốn.
Vị này nghĩ: "Ta trong khi đi khất thực tại làng hay tại đô thị
được các loại đồ ăn loại cứng hay đồ ăn loại mềm, đầy đủ như
ý muốn. Như vậy thân ta mạnh, có thể làm việc, vậy Ta hãy cố gắng
tinh tấn..." Và vị ấy tinh tấn... Như vậy là tinh tấn sự thứ sáu.
Này các Hiền giả, lại nữa, vị Tỷ kheo bị đau bệnh nhẹ. Vị ấy
nghĩ: "Ta nay bị đau bệnh nhẹ, sự kiến này có thể xảy ra, bệnh
này có thể trầm trọng hơn. Vậy ta hãy cố gắng tinh tấn..." Và vị
ấy tinh tấn... Như vậy là tinh tấn sự thứ bảy. Này các Hiền giả, lại
nữa, vị Tỷ kheo mới đau bệnh dậy, mới khỏi bệnh không bao lâu. Vị
ấy nghĩ: "Ta mới đau bệnh dậy, mới khỏi bệnh không bao lâu. Sự kiện
này có thể xảy ra, bệnh của ta có thể trở lại. Vậy ta hãy cố gắng
tinh tấn để đạt được điều gì chưa đạt được, thành tựu điều gì
chưa thành tựu được, chứng ngộ điều gì chưa chứng ngộ được".
Và vị ấy tinh tấn để đạt được điều gì chưa đạt được, thành tựu
điều gì chưa thành tựu được, và chứng ngộ điều gì chưa chứng ngộ
được. Đó là tinh tấn sự thứ tám.
vi) Tám bố thí sự: Có người đến
nên bố thí. Vì sợ nên bố thí. Vì "người ấy cho tôi", nên bố
thí. Vì "người ấy sẽ cho tôi", nên bố thí. Vì suy nghĩ: "Bố
thí là tốt lành", nên bố thí. Vì suy nghĩ: "Ta nấu, họ không nấu.
Thật không phải, nếu ta nấu mà không cho gì những người không nấu",
nên bố thí. Vì suy nghĩ: "Nay ta bố thí, tiếng đồn tốt đẹp sẽ
được truyền đi", nên bố thí. Vì muốn trang nghiêm tâm và tư trợ tâm
nên bố thí.
vii) Tám thí sanh: Này các Hiền giả,
có người bố thí cho Sa môn hay Bà la môn, đồ ăn, đồ uống, vải, xe cộ,
hoa man, hương xông, hương thoa, sàng tọa, phòng xá, đèn sáng. Đồ vật vị
này bố thí, vị này mong được bố thí trở lại. Người này thấy người
Sát đế lỵ có nhiều tài sản, người Ba la môn có nhiều tài sản, hay người
gia chủ có nhiều tài sản, được sung mãn, cụ túc, thụ hưởng năm món
dục lạc. Vị này nghĩ: "Mong rằng, sau khi thân hoại mạng chung, ta sẽ
được sanh là một trong những người Sát đế lỵ có nhiều tài sản, người
Bà la môn có nhiều tài sản hay người gia chủ có nhiều tài sản". Vị
này nắm vững tâm ấy, an trú tâm ấy, tu tập tâm ấy. Tâm này được giải
thoát trong tầm hạ liệt, không tu tập cao hơn, nên đưa đến tái sanh
trong tầm ấy. Và tôi xác nhận, đây là trường hợp một vị đầy đủ
giới luật, không phải vị phá giới luật. Này các Hiền giả, tâm nguyện
của một vị giữ giới được thành tựu nhờ sự thanh tịnh. Này các Hiền
giả, lại nữa, ở đây, có người bố thí cho Sa môn hay Bà la môn, đồ
ăn, đồ uống, vải, xe cộ, hoa man, hương xông, hương thoa, sàng tọa,
phòng xá, đèn sáng. Đồ vật vị này bố thí, vị này mong được trở lại.
Vị này nghe: "Tứ Đại Thiên vương thọ mạng lâu dài, đẹp trai và
nhiều an lạc". Vị này nghĩ: "Mong rằng sau khi thân hoại mạng
chung, ta được sanh thành một trong hàng Tứ Đại Thiên vương". Vị này
nắm vững tâm ấy, an trú tâm ấy, tu tập tâm ấy. Tâm này được giải
thoát trong tầm hạ liệt, không tu tập cao hơn, nên đưa đến tái sanh
trong tầm ấy. Và tôi xác nhận đây là trường hợp một vị đầy đủ
giới luật, không phải vị phá giới luật. Này các Hiền giả, tâm nguyện
của một vị giữ giới được thành tựu nhờ sự thanh tịnh.
Này các Hiền giả, lại nữa, ở
đây, có người bố thí cho Sa môn hay Bà la môn, đồ ăn, đồ uống, vải,
xe cộ, hoa man, hương xông, hương thoa, sàng tọa, phòng xá, đèn sáng. Đồ
vật vị này bố thí, vị này mong được trở lại. Vị này nghe: "Chư
Thiên Tam thập tam thiên... chư Thiên Dạ ma... chư Thiên Đâu suất... chư
Thiên Hóa Lạc... chư Thiên Tha Hóa Tự tại được sống lâu, đẹp trai,
được nhiều an lạc". Vị này nghĩ: "Mong rằng sau khi thân hoại mạng
chung, ta được sanh thành một trong hàng chư Thiên Thoa Hóa Tự tại". Vị
này nắm vững tâm ấy, an trú tâm ấy, tu tập tâm ấy. Tâm này được giải
thoát trong tầm hạ liệt, không tu tập cao hơn, nên đưa đến tái sanh
trong tầm ấy. Và tôi xác nhận, đây là trường hợp một vị đầy đủ
giới luật, không phải vị phá giới luật. Này các Hiền giả, tâm nguyện
của một vị giữ giới được thành tựu nhờ sự thanh tịnh. Này các Hiền
giả, lại nữa, ở đây, có người bố thì cho Sa môn hay Bà la môn, đồ
ăn, đồ uống, vải, xe cộ, hoa man, hương xông, hương thoa, sàng tọa,
phòng xá, đèn sáng. Đồ vật vị này bố thí, vị này mong được trở lại.
Vị này nghe: "Chư Thiên Phạm Chúng thọ mạng lâu dàu, đẹp trai và
nhiều an lạc". Vị này nghĩ: "Mong rằng, sau khi thân hoại mạng
chung, ta được sanh thành một trong hàng Phạm Chúng thiên". Vị này nắm
vững tâm ấy, an trú tâm ấy, tu tập tâm ấy. Tâm này được giải thoát
trong tầm hạ liệt, không tu tập cao hơn, nên đưa đến tái sanh trong tầm
ấy. Và tôi xác nhận đây là…trường hợp một vị đầy đủ giới luật,
không phải vị phá giới luật. Này các Hiền giả, tâm nguyện của một vị
giữ giới được thành tựu nhờ sự thanh tịnh.
viii) Tám chúng: Chúng Sát đế lỵ,
chúng Bà la môn, chúng Gia chủ, chúng Sa môn, chúng Tứ Đại Thiên vương,
chúng Tam thập tam thiên, chúng (Thiên) Ma, chúng Phạm thiên.
ix) Tám thế pháp: Đắc, bất đắc,
danh văn, ác văn, phỉ báng, tán thán, lạc và khổ.
x) Tám thắng xứ: Một vị quán tưởng
nội sắc, thấy các loại ngoại sắc có hạn lượng, đẹp, xấu. Vị ấy
nhận thức rằng: "Sau khi nhiếp thắng chúng, ta biết, ta thấy", đó
là thắng xứ thứ nhất.
Một vị quán tưởng nội sắc, thấy
các loại ngoại sắc vô lượng, đẹp, xấu. Vị ấy nhận thức rằng:
"Sau khi nhiếp thắng chúng, ta biết, ta thấy", đó là thắng xứ thứ
hai.
Một vị quán tưởng vô sắc ở nội
tâm thấy các loại ngoại sắc có hạn lượng, đẹp, xấu. Vị ấy nhận
thức rằng: "Sau khi nhiếp thắng chúng, ta biết, ta thấy", đó là
thắng xứ thứ ba.
Một vị quán tưởng vô sắc ở nội
tâm thấy các loại ngoại sắc vô lượng, đẹp, xấu. Vị ấy nhận thức
rằng: "Sau khi nhiếp thắng chúng, ta biết, ta thấy", đó là thắng
xứ thứ tư.
Một vị quán tưởng vô sắc ở nội
tâm thấy các loại ngoại sắc màu xanh, sắc màu xanh, tướng sắc xanh, hình
sắc xanh, ánh sáng xanh - như bông gai màu xanh, sắc màu xanh, tướng sắc
xanh, hình sắc xanh, ánh sáng xanh - như lụa Ba la nại, cả hai mặt láng trơn,
màu xanh, sắc màu xanh, tướng sắc xanh, hình sắc xanh, ánh sáng xanh. Như vậy
vị này quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy các loại ngoại sắc màu
xanh, sắc màu xanh, tướng sắc xanh, hình sắc xanh, ánh sáng xanh. Vị ấy
nhận thức rằng: "Sau khi nhiếp thắng chúng, ta biết, ta thấy", đó
là thắng xứ thứ năm.
Một vị quán tưởng vô sắc ở nội
tâm thấy các loại ngoại sắc màu vàng, tướng sắc vàng, hình sắc vàng,
ánh sáng vàng - như bông kanikàra màu vàng, tướng sắc vàng, hình sắc
vàng, ánh sáng vàng - như lụa Ba la nại cả hai mặt láng trơn màu vàng, sắc
màu vàng, tướng sắc vàng, hình sắc vàng, ánh sáng vàng. Như vậy vị này
quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy sắc vàng, hình sắc vàng, ánh sáng
vàng, vị ấy nhận thức rằng: "Sau khi nhiếp thắng chúng, ta biết, ta
thấy", đó là thắng xứ thứ sáu.
Một vị quán tưởng vô sắc ở nội
tâm thấy các loại ngoại sắc màu đỏ, sắc màu đỏ, tướng màu đỏ, hình
sắc đỏ, ánh sáng đỏ - như bọng bandhujĩvaka màu đỏ - như lụa Ba la nại
cả hai mặt láng trơn màu đỏ, sắc màu đỏ, tướng màu đỏ, hình sắc
đỏ, ánh sáng đỏ. Như vậy vị này quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy
các loại ngoại sắc màu đỏ, sắc màu đỏ, tướng sắc đỏ, hình sắc
đỏ, ánh sáng đỏ, vị ấy nhận thức rằng: "Sau khi nhiếp thắng chúng,
ta biết, ta thấy", đó là thắng xứ thứ bảy.
Một vị quán tưởng vô sắc ở nội
tâm thấy các loại ngoại sắc màu trắng, sắc màu trắng, tướng sắc trắng,
hình sắc trắng, ánh sáng trắng - như sao mai osadhi màu trắng, sắc màu trắng,
tướng sắc trắng, hình sắc trắng, ánh sáng trắng, như lụa Ba la nại cả
hai mặt láng trớn màu trắng, sắc màu trắng, tướng sắc trắng, hình sắc
trắng, ánh sáng trắng. Như vậy vị này quán tưởng vô sắc ở nội tâm
thấy các loại ngoại sắc màu trắng, sắc màu trắng, tướng sắc trắng,
hình sắc trắng, ánh sáng trắng, vị ấy nhận thứ rằng: "Sau khi nhiếp
thắng chúng, ta biết, ta thấy", đó là thắng xứ thứ tám.
xi) Tám giải thoát:
Tự mình có sắc, thấy các sắc;
đó là giải thoát thứ nhất.
Quán tưởng nội sắc là vô sắc,
thấy các ngoại sắc; đó là giải thoát thứ ba.
Vượt khỏi hoàn toàn sắc tưởng,
diệt trừ các tưởng hữu đối, không suy tư đến những tưởng khác biệt,
với suy tư "Hư không là vô biên" chứng và trú Không vô biên xứ;
đó là giải thoát thứ tư.
Vượt khỏi hoàn toàn Hư không vô
biên xứ, với suy tư "Thức là vô biên" chứng và trú Thức vô
biên xứ; đó là giải thoát thứ năm.
Vượt khỏi hoàn toàn Thức vô
biên xứ, với suy tư "không có vật gì" chứng và trú Vô sở hữu
xứ; đó là giải thoát thứ sáu.
Vượt khỏi hoàn toàn Vô sở hữu
xứ, chứng và trú Phi tưởng phi phi tưởng xứ, đó là giải thoát thứ bảy.
Vượt khỏi hoàn toàn Phi tưởng
phi phi tưởng xứ, chứng và trú Diệt thọ tưởng, đó là giải thoát thứ
tám.
Này các Hiền giả, tám pháp này
được Thế Tôn chơn chánh giảng dạy, vị đã biết, đã thấy, bậc A la
hán, Chánh Đẳng Giác. Ở đây, mọi người phải cùng nhau tụng đọc, không
có tranh luận... vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và
loài Người.
2. Này các Hiền giả, có chín pháp
được Thế Tôn chơn chánh giảng dạy, vị đã biết, đã thấy, bậc A la
hán, Chánh Đẳng Giác. Ở đây, mọi người phải cùng nhau tụng đọc... vì
lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài Người. Thế nào
là chín?
i) Chín xung đột sự: "Người
ấy đã làm hại tôi", xung đột khởi lên. "Người ấy đang làm hại
tôi", xung đột khởi lên. "Người ấy sẽ làm hại tôi", xung
đột khởi lên. "Người ấy đã làm hại người tôi thương, người tôi
mến"... "người ấy đang làm hại... người ấy sẽ làm hại...",
xung đột khởi lên. "Người ấy đã làm lợi cho người tôi không thương,
không mến... người ấy đang làm lợi... người ấy sẽ làm lợi...",
xung đột khởi lên.
ii) Chín sự điều phục xung đột:
"Người ấy đã làm hại tôi. Có ích lợi gì mà nghĩ như vậy?"
Nhờ vậy xung đột được điều phục. "Người ấy đang làm hại
tôi. Có ích lợi gì mà nghĩ như vậy?". Nhờ vậy xung đột được điều
phục. "Người ấy sẽ làm hại tôi. Có ích lợi gì mà nghĩ như vậy?"
Nhờ vậy, xung đột được điều phục. "Người ấy đã làm hại người
tôi thương, người ấy đang làm hại... người ấy sẽ làm hại người tôi
thương, người tôi mến. Có ích lợi gì mà nghĩ như vậy?" Nhờ vậy
xung đột được điều phục. "Người ấy đã làm lợi cho người tôi
không thương, không mến... người ấy đang làm lợi... người ấy sẽ làm
lợi... Có ích lợi gì mà nghĩ như vạy?" Nhờ vậy xung đột được
điều phục.
iii) Chín chỗ an trú của loài hữu
tình: Này các Hiền giả, có những loài hữu tình, thân sai biệt, tưởng
sai biệt, như loài Người, một số chư Thiên, một số ở tại các đọa
xứ. Đó là hữu tình trú xứ thứ nhất. Này các Hiền giả, có những
loài hữu tình, thân sai biệt, tưởng đồng nhất, như Phạm Chúng thiên
khi mới tái sanh. Đó là hữu tình trú xứ thứ hai. Này các Hiền giả, có
loài hữu tình, thân đồng nhất, tưởng sai biệt như chư Quang Âm thiên.
Đó là hữu tình trú xứ thứ ba. Này các Hiền giả, có loài hữu tình
trú xứ thứ ba. Này các Hiền giả, có loài hữu tình, thân đồng nhất,
tưởng đồng nhất như chư Tịnh Cư thiên. Đó là hữu tình trú xứ thứ
tư. Này các Hiền giả, có những loài hữu tình không có tưởng, không có
thọ, như chư Vô Tưởng thiên. Đó là hữu tình trú xứ thứ năm. Này các
Hiền giả, có những loài hữu tình vượt khỏi sắc tưởng một cách
hoàn toàn, diệt trừ các sân tưởng, không có tác ý sai biệt tương, chứng
được Hư không vô biên xứ: "Hư không là vô biên". Đó là hữu
tình trú xứ thứ sáu. Này các Hiền giả, có những loài hữu tình vượt
khỏi Hư không vô biên xứ một cách hoàn toàn, chứng Thức vô biên xứ:
"Thức là vô biên". Đó là hữu tình trú xứ thứ bảy. Này các Hiền
giả, có những loài hữu tình vượt khỏi Thức vô biên xứ một cách
hoàn toàn, chứng Vô sở hữu xứ: "Không có gì tấc cả". Đó là
hữu tình trú xứ thứ tám. Này các Hiền giả, có những loài hữu tình vượt
khỏi Vô sở hữu xứ một cách hoàn toàn, chứng Phi tưởng phi phi tưởng
xứ. Đó là hữu tình trú xứ thứ chín.
iv) Phạm hạnh trú, chín bất thời
bất tiết: Này các Hiền giả, có Như Lai xuất hiện ở đời, bậc A la hán,
Chánh Đẳng Giác, Pháp được thuyết giảng, đưa đến an tịnh, hướng đến
Niết bàn, tiến tới giác ngộ, được Thiện Thệ khai thị. Và người ấy
sanh vào địa ngục. Đó là Phạm hạnh trú, bất thời bất tiết thứ nhất.
Này các Hiền giả, lại nữa, có Như Lai xuất hiện ở đời, bậc A la hán,
Chánh Đẳng Giác, Pháp được thuyết giảng, đưa đến an tịnh, hướng đến
Niết bàn, tiến tới giác ngộ, được Thiện Thệ khai thị. Và người ấy
sanh vào bàng sanh. Đó là Phạm hạnh trú, bất thời bất tiết thứ hai...
sanh vào ngạ quỷ... sanh vào hàng A tu la... sanh vào hàng chư Thiên được
thọ mạng lâu dài... sanh vào các biên địa, giữa các loài mọi rợ vô
trí, những chỗ mà các hàng Tỷ kheo, Tỷ kheo ni, Nam cư sĩ, Nữ cư sĩ không
có đất đứng. Đó là Phạm hạnh trú, bất thời bất tiết thứ sáu.
Này các Hiền giả, lại nữa, có Như Lai xuất hiện ở đời, bậc A la hán,
Chánh Đẳng Giác, Pháp được thuyết giảng, đưa đến an tịnh, hướng đến
Niết bàn, tiến tới giác ngộ, được Thiện Thệ khai thị. Và người ấy
được sanh vào các trung quốc, nhưng lại theo tà kiến điên đảo: "Không
có bố thí, không có cúng dường, không có cúng tế, không có quả báo
các hành vi thiện ác, không có đơì này, không có các loài hóa sanh, không
có các vị Sa môn, Bà la môn đã chứng đạt chơn chánh, đã thực thành chơn
chánh, đã tự mình chứng tri, chứng ngộ thế giới này với thế giới
sau và tuyên thuyết. Đó là Phạm hạnh trú, bất thời bất tiết thứ bảy.
Này các Hiền giả, lại nữa, Thế Tôn xuất hiện ở đời, bậc A la hán,
Chánh Đẳng Giác, Pháp được thuyết giảng, đưa đến an tịnh, hướng đến
Niết bàn, tiến đến giác ngộ, được Thiện Thệ khai thị. Và người
ấy sinh vào tại các nước trung quốc, nhưng ác huệ, ngu si, điếc, ngọng,
không biết nghĩa lý được khéo nói hay vụng nói. Đó là Phạm hạnh trú,
bất thời bất tiết thứ tám. Này các Hiền giả, lại nữa Thế Tôn xuất
hiện ở đời, bậc A la hán, Chánh Đẳng Giác, nhưng Pháp không được
thuyết giảng, đưa đến an tịnh, hướng đến Niết bàn, tiến đến giác
ngộ, được Thiện Thệ khai thị, và người ấy sanh vào tại các nước
trung quốc nhưng có trí tuệ, không ngu si, không điếc ngọng, biết nghĩa lý
được khéo nói hay vụng nói. Đó là Phạm hạnh trú, bất thời bất tiết
thứ chín.
v) Chín thứ đệ trú: Này các Hiền
giả, ở đây có vị Tỷ kheo, ly ác bất thiện pháp, chứng và trú vào Thiền
thứ nhất, có tầm có tứ có hỷ lạc do ly dục sanh. Diệt tầm diệt tứ...
Thiền thứ hai... Thiền thứ ba... chứng và trú vào Thiền thứ tư. Sau khi
vượt qua các sắc tưởng một cách hoàn toàn, sau khi trừ diệt các hữu
đối tưởng, không có tác ý với các sai biệt tưởng, chứng và trú Hư
không vô biên xứ: "Hư không là vô biên". Sau khi vượt qua Hư không
vô biên xứ một cách hoàn toàn, chứng và trú Vô sở hữu xứ: "Không
có sự vật gì tất cả". Sau khi vượt qua một cách hoàn toàn Vô sở
hữu xứ, chứng và trú Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Sau khi vượt qua Phi
tưởng phi phi tưởng xứ một cách hoàn toàn, chứng và trú Diệt thọ tưởng
định.
vi) Chín thứ đệ diệt: Thành tự
Sơ thiền, các dục tưởng bị đoạn diệt; thành tựu đệ Nhị thiền, các
tầm tứ bị đoạn diệt; thành tựu đệ Tam thiền, hỷ bị đoạn diệt;
thành tựu đệ Tứ thiền, hơi thở vào hơi thở ra bị đoạn diệt; thành
tựu Hư không vô biên xứ, sắc tưởng bị đoạn diệt, thành tựu Phi tưởng
phi phi tưởng xứ, Vô sở hữu xứ tưởng bị đoạn diệt; thành tựu Diệt
thọ tưởng (định), các tưởng và các thọ bị đoạn diệt.
Này các Hiền giả, chín pháp này
được Thế Tôn chơn chánh giảng dạy, vị đã biết, đã thấy, bậc A la
hán, Chánh Đẳng Giác. Ở đây, mọi người phải cùng nhau tụng đọc... vì
lợi ich, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài Người.
3. Này Hiền giả, có mười pháp
được Thế Tôn chơn chánh giảng dạy, vị đã biết, đã thấy, bậc A la
hán, Chánh Đẳng Giác. Ở đây, mọi người phải cùng nhau tụng đọc... vì
lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài Người. Thế nào
là mười?
i) Mười hộ trì nhân pháp: Này
các Hiền giả, ở đây, vị Tỷ kheo có giới hạnh, sống chế ngự với sự
chế ngự của giới bổn Pàtimokkha, đầy đủ oai nghi, chánh hạnh, thấy
nguy hiểm trong những lỗi nhỏ nhặt, thọ lãnh và tu học trong giới pháp.
Này các Hiền giả, vị Tỷ kheo nào có giới hạnh, sống chế ngự với sự
chế ngự của giới bổn Pàtimokkha, đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy
nguy hiểm trong những lỗi nhỏ nhặt, thọ lãnh và tu học trong giới pháp.
Pháp như vậy là hộ trì nhân. Này các Hiền giả, lại nữa, vị Tỷ kheo
nghe nhiều, gìn giữ những gì đã nghe, chất chứa những gì đã nghe, Những
pháp ấy, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, nghĩa lý căn cú cụ túc, đề
cao đời sống phạm hạnh, hoàn toàn đầy đủ thanh tịnh những pháp ấy,
vị đã nghe nhiều, đã nắm giữ, đã ghi nhớ nhờ tụng đọc nhiều lần,
chuyên ý quán sát, khéo thành tựu nhờ chánh kiến. Này các Hiền giả, vị
Tỷ kheo nào, đa văn... khéo thành tựu nhờ chánh kiến, pháp như vậy là hộ
trì nhân. Này các Hiền giả, lại nữa, vị Tỷ kheo là thiện hữu, thiện
bạn lữ, là thiện bạn đảng, là hộ trì nhân. Này các Hiền giả, vị Tỷ
kheo nào là thiện hữu, là thiện bạn lữ, là thiện bạn đảng. Pháp như
vậy là hộ trì nhân. Này các Hiền giả, lại nữa vị Tỷ kheo thiện
ngôn, đầy đủ sự nhu hòa và khiêm nhường, nhẫn nại và nhận sự chỉ
trích một cách cung kính. Này các Hiền giả, vị Tỷ kheo nào thiện
ngôn... nhận sự chỉ trích một cách cung kính. Pháp như vậy là hộ trì
nhân. Này các Hiền giả, khi nào có những trách nhiệm cần phải làm đối
với các vị đồng phạm hạnh niên lạp cao hơn, vị ấy khéo léo, không
có biếng nhác, suy tư một cách đầy đủ các phương tiện, vừa đủ để
làm, vừa đủ để tổ chức. Này các Hiền giả, một vị Tỷ kheo nào, đối
với các vị đồng phạm hạnh... vừa đủ để tổ chức. Pháp như vậy là
hộ trì nhân. Này các Hiền giả, lại nữa có vị Tỷ kheo ưa Pháp, ái luyến
nói Pháp, Thắng luật. Này các Hiền giả, vị Tỷ kheo nào ưa Pháp... vô
cùng hoan hỷ đối với Thắng pháp, Thắng luật. Pháp như vậy là hộ trì
nhân. Này các Hiền giả, lại nữa, vị Tỷ kheo tự mình bằng lòng với
các vật dụng nhận được như y phục, ẩm thực, sàng tọa, bệnh dược.
Này các Hiền giả, vị Tỷ kheo nào tự bằng lòng... Pháp như vậy là hộ
trì nhân. Này các Hiền giả, lại nữa vị Tỷ kheo sống tinh tấn siêng năng
đoạn trừ các ác pháp, thành tựu các thiện pháp, cương quyết, kiên trì
tinh tấn, nhẫn trì không phế bỏ các thiện pháp. Này các Hiền giả, một
vị Tỷ kheo nào sống tinh tấn siêng năng... nhẫn trì không phế bỏ các
thiện pháp. Pháp như vậy là hộ trì nhân. Này các Hiền giả, lại nữa,
vị Tỷ kheo chánh niệm, đầy đủ tối thượng niệm và tỉnh giác, nhớ
đến và ghi nhớ những điều nói và làm từ lâu. Này các Hiền giả, vị
Tỷ kheo nào có chánh niệm, ghi nhớ những điều đã nói và làm từ lâu.
Pháp như vậy là hộ trì nhân. Này các Hiền giả, lại nữa, vị Tỷ kheo
có huệ trí, đầy đủ sanh diệt trí, hướng đến sự quyết trạch các bậc
Thánh, chơn chánh diệt trừ mọi đau khổ. Này các Hiền giả, vị Tỷ kheo
nào có huệ trí... chơi chánh diệt trừ mọi đau khổ. Pháp như vậy là bộ
trì nhân.
ii) Mười biến xứ: Một vị nào
biết được địa biến xứ: trên, dưới, ngang, bất nhị, vô lượng. Một
vị biết được thủy biến... Một vị biết được hỏa biến... Một vị
biết được phong biến... Một vị biết được thanh biến... Một vị biết
được hoàng biến... Một vị biết được xích biến... Một vị biết
được bạch biến... Một vị biết được hư không biến... Một vị biết
được thức biến, trên dưới, ngang, bất nhị, vô lượng.
iii) Mười bất thiện nghiệp đạo:
Sát sanh, thâu đạo, tà dâm, vọng ngôn, lưỡng thiệt, ác khẩu, ỷ ngữ,
tham, sân, tà kiến.
iv) Mười thiện nghiệp đạo: Ly sát
sanh, ly thâu đạo, lỳ tà dâm, ly vọng ngôn, ly lưỡng thiệt, ly ác khẩu,
ly ỷ ngữ, ly tham, ly sân, ly siu.
v) Mười Thánh cư: Này các Hiền giả,
ở đây, vị Tỷ kheo đoạn trừ năm chi, đầy đủ sáu chi, một hộ trì,
thực hiện bốn y, loại bỏ các giáo điều, đoạn tận các mong cầu, tâm
tư không trệ phược, thân thể khinh an, tâm thiện giải thoát, tuệ thiện
giải thoát. Này các Hiền giả, thế nào là vị Tỷ kheo đoạn trừ năm
chi? Này các Hiền giả, ở đây, vị Tỷ kheo đoạn trừ tham dục, đoạn
trừ sân, đoạn trừ hôn trầm thụy miên, đoạn trừ trạo hối, đoạn trừ
nghi. Này các hiền giả, như vậy là đoạn trừ năm chi. Này các Hiền giả,
thế nào là vị Tỷ kheo đầy đủ sáu chi? Này các Hiền giả, ở đây, vị
Tỷ kheo mắt thấy sắc, không có thích ý, không có phật ý, an trú xả,
chánh niệm, tỉnh giác, tại nghe tiếng... mũi ngửi hương... lưỡi nếm vị...
thân cảm xúc... ý nhận thức pháp, không có thích ý, không có phật ý,
trú xả, chánh niệm, tỉnh giác. Này các Hiền giả, như vậy là vị Tỷ
kheo đầy đủ sáu chi. Này các Hiền gaỉ, thế nào là vị Tỷ kheo một hộ
trì? Này các Hiền giả, ở đây, vị Tỷ kheo thành tựu sự hộ trì về
niệm. Này các Hiền giả, như vậy là vị Tỷ kheo một hộ trì. Này các
Hiền giả, thế nào là vị Tỷ kheo có thực hiện bốn y? Này các Hiền giả,,vị
Tỷ kheo sau khi suy tư, thọ dụng một pháp; sau khi suy tư, nhẫn thọ một
pháp; sau khi suy tư, đoạn trừ một pháp; sau khi suy tư tránh xa một pháp.
Này các Hiền giả, như vậy là vị Tỷ kheo thực hiện bốn y. Này các Hiền
giả, thế nào là vị Tỷ kheo loại bỏ các giáo điều? Này các Hiền giả,
ở đây, tất cả những giáo điều thông thường mà các vị Sa môn thông
thường chủ trương, vị Tỷ kheo đều loại bỏ, phóng xả. Này các Hiền
giả, như vậy gọi là Tỷ kheo loại bỏ các giáo điều. Này các Hiền giả,
thế nào là vị Tỷ kheo đoạn tận các mong cầu? Này các Hiền giả, ở
đây, vị Tỷ kheo đoạn trừ các mong cầu về dục vọng, đoạn trừ các
mong cầu về hiện hữu, làm cho an tịnh các mong cầu về phạm hạnh. Này
các Hiền giả, như vậy là vị Tỷ kheo đoạn tận các mong cầu. Này các
Hiền giả, thế nào là vị Tỷ kheo, tâm tư không trệ phược? Này các Hiền
giả, ở đây, vị Tỷ kheo đoạn trừ các tâm tư dục vọng, đoạn trừ các
tâm tư sân hận, đoạn trừ các tâm tư não hại. Này các Hiền giả, như
vậy là vị Tỷ kheo, tâm tư không trệ phược. Này các Hiền giả, thể
nào là vị Tỷ kheo, thân hành được khinh an? Này các Hiền giả, ở đây,
vị Tỷ kheo đoạn trừ lạc, đoạn trừ khổ, diệt các hỷ ưu từ trước,
chứng và an trú thiền thứ tư, không lạc, không khổ, xả niệm thanh tịnh.
Này các Hiền giả, như vậy vị Tỷ- kheo thân hành được khinh an. Này cá
Hiền giả, thế nào là vị Tỷ- kheo, tâm thiện giải thoát? Này các Hiền
giả, ở đây, vị Tỷ- kheo tâm giải thoát khỏi tham, tâm giải thoát khỏi
sân, tâm giải thoát khỏi si. Này các Hiền giả, như vậy vị Tỷ kheo tâm
thiện giải thoat. Này các Hiền giả, thế nào là vị Tỷ kheo tuệ thiện
giải thoát? Này các Hiền giả, ở đây vị Tỷ- kheo biết rằng: "Tham
tâm của ta đã được trừ, cắn tận gốc rễ, như cây ta-la bị chặt,
đi đến chỗ không hiện hữu, không có khả năng sanh khởi trong tương
lai". Vị ấy biết rằng: "Sân tâm của ta đã đoạn trừ, cắt tận
gốc rễ, như cây ta-la bị chặt, đi đến chỗ không hiện hữu, không có
khả năng sanh khởi trong tương lai". Vị ấy biết rằng: "Si tâm của
ta đã đoạn trừ, cắt tận gốc rễ, như cây ta-la bị chặt, đi đến chỗ
không hiện hữu, không có khả năng sanh khởi trong tương lai. Này các Hiền
giả, như vậy là vị Tỷ kheo tuệ thiện giải thoát.
vi) Mười pháp vô học: Vô học
Chánh tri kiến, vô học Chánh tư duy, vô học Chánh ngữ, vô học Cháng nghiệp,
vô học Chánh mạnh, vô học Chánh tinh tấn, vô học Chánh niệm. vô học
Chánh định, vô học Chánh trí, vô học Chánh giải thoát.
Này các Hiền giả, mười pháp này
được Thế Tôn chơn chánh giảng dạy, vị đã biết, đã thấy, bậc
A-la-hán, Chánh Đẳng Giác. Ở đây, mọi người phải cùng nhau tụng đọc,
không có tranh luận, để phạm hạnh này được trường tồn, được duy
trì lâu dài, vì hạnh phúc cho mọi loài, vì an lạc cho mọi loài, vì lòng
thương tưởng cho dời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên
và loài Người.
4. Rồi Thế Tôn ngồi dậy và bảo
tôn giả Sàriputta:
- Lành thay, lành thay Sàriputta! Này
Sàriputta, Ngươi đã khéo giảng, khéo tụng kinh này cho chúng Tỷ kheo.
Tôn giả Sàriputta thuyết giảng như
vậy. Bậc Đạo Sư chấp thuận. Các vị Tỷ kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời
dạy của tôn giả Sàriputta.
-