- Kinh Trường bộ
34. KINH THẬP
THƯỢNG
Như vầy tôi nghe.
1.Một thời Thế Tôn trú tại Campa
(Chiêm-bà) trên bờ hồ Gaggara (Già-già), cùng với đại chúng Tỷ kheo khoảng
năm trăm vị. Rồi tôn giả Sàriputta bảo các vị Tỳ kheo: "Này các Hiền
giả Tỷ kheo". "Thưa Hiền giả" các vị Tỷ kheo ấy đáp ứng
tôn giả Sàriputta, tôn giả Sàriputta nói như sau:
- Tôi nói Thập thượng pháp,
- Pháp đưa đến Niết-bàn,
- Diệt trừ mọi khổ đau,
- Giải thoát mọi triền phược.
2. Này các Hiền giả, một pháp có
nhiều tác dụng, một pháp cần phải tu tập, một pháp cần phải biến
tri, một pháp cần phải đoạn trừ, một pháp chịu phần tai hại, một
pháp đưa đến thù thắng, một pháp rất khó thể nhập, một pháp cần
được sanh khởi, một pháp cần được thắng tri, một pháp cần được tác
chứng.
i) Thế nào là một pháp có nhiều
tác dụng? Bất phóng dật đối với các thiện pháp. Đó là một pháp có
nhiều tác dụng.
ii) Thế nào là một pháp cần được
tu tập? Niệm thân câu hữu với khả ý. Đó là một pháp cần được tu tập.
iii) Thế nào là một pháp cần phải
biến tri? Xúc hữu lậu hữu thủ. Đó là một pháp cần phải biến tri.
iv) Thế nào là một pháp cần phải
đoạn trừ? Ngã mạn. Đó là một pháp cần phải đoạn trừ.
v) Thế nào là một pháp chịu phần
tai hại? Bất chánh tác ý. Đó là một pháp chịu phần tai hại.
vi) Thế nào là một pháp đưa đến
thù thắng? Chơn chánh tác ý. Đó là một pháp đưa đến thù thắng.
vii) Thế nào là một pháp rất khó
thể nhập? Vô gián tâm định. Đó là một pháp rất khó thể nhập.
viii) Thế nào là một pháp cần
được sanh khởi? Bất động trí. Đó là một pháp cần được sanh khởi.
ix) Thế nào là một pháp cần được
thắng tri? Tất cả loài hữa tình do ăn uống mà an trú. Đó là một pháp
cần được thắng tri.
x) Thế nào là một pháp cần được
tác chứng? BẤt động tâm giải thoát. Đó là một pháp cần được tác
chứng.
Như vậy, mười pháp này là thực,
chân, như thị, không phải không như thị, không thể sai khác, được Như
Lai giác ngộ, chánh đẳng chánh giác.
3. Có hai pháp có nhiều tác dụng,
có hai pháp cần phải tu tập, có hai pháp cần phải biến tri, có hai pháp
cần phải đoạn trừ, có hai pháp chịu phần tai hại, có hai pháp đưa đến
thù thắng, có hai pháp cần được sanh khởi, có hai pháp cần được thắng
tri, có hai pháp cần được tác chứng.
i) Thế nào là hai pháp có nhiều
tác dụng? Niệm và tỉnh giác. Đó là hai pháp có nhiều tác dụng.
ii) Thế nào là hai pháp cần phải
tu tập? Chỉ và quán. Đó là hai pháp cần phải tu tập.
iii) Thế nào là hai pháp cần được
biến tri? Danh và sắc. Đó là hai pháp cần được biến tri.
iv) Thế nào là hai pháp cần phải
đoạn trừ? Vô minh và hữu ái. Đó là hai pháp cần phải đoạn trừ.
v) Thế nào là hai pháp chịu phần
tai hại? Ác ngôn và ác hữu. Đó là hai pháp chịu phần tai hại.
vi) Thế nào là hai pháp hướng đến
thù thắng? Thiện ngôn và thiện hữu. Đó là hai pháp hướng đến thù thắng.
vii) Thế nào là hai pháp rất khó
thể nhập? Nhơn và duyên làm ác nhiễm các loài hữu tình. Nhân và duyên
làm thanh tịnh các loài hữu tình. Đó là hai pháp rất khó thể nhập.
viii) Thế nào là hai pháp cần được
sanh khởi? Tận trí và vô sanh trí. Đó là hai pháp cần được sanh khởi.
ix) Thế nào là hai pháp cần được
thắng tri? Hai giới: hữu vi giới và vô vi giới. Đó là hai pháp cần được
thắng tri.
x) Thế nào là hai pháp cần được
tác chứng? Minh và giải thoát. Đó là hai pháp cần được tác chứng.
Như vậy hai mươi pháp nài là thực,
chân, như thị, không phải không như thị, không thể sai khác, được Như
Lai giác ngộ, chánh đẳng chánh giác.
4. Có ba pháp có nhiều tác dụng,
ba pháp cần được tu tập... ba pháp cần được tác chứng.
i) Thế nào là ba pháp có nhiều
tác dụng? Giao thiệp với thiện nhân, nghe diệu pháp, hành trì pháp và
tùy pháp. Đó là ba pháp có nhiều tác dụng.
ii) Thế nào là ba pháp cần phải
tu tập? Ba định: Hữu tầm hữu tứ định, vô tầm hữu tứ định, vô tầm
vô tứ định. Đó là ba pháp cần phải tu tập.
iii) Thế nào là ba pháp cần phải
biến tri? Ba thọ: Lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ. Đó là ba
pháp cần phải biến tri.
iv) Thế nào là ba pháp cần phải
đoạn trừ? Ba ái: Dục ái, hữu ái, phi hữu ái. Đó là ba pháp cần phải
đoạn trừ.
v) Thế nào là ba pháp chịu phần
tai hại? Ba bất thiện căn: Tham bất thiện căn, sân bất thiện căn, si thiện
căn. Đó là ba pháp chịu phần tai hại.
vi) Thế nào là ba pháp đưa đến
thù thắng? Ba thiện căn: Vô tham thiện căn, vô sân thiện căn, vô si thiện
căn. Đó là ba pháp đưa đến thù thắng.
vii) Thế nào là ba pháp rất khó thể
nhập? Ba xuất yếu giới: Xuất ly khỏi các dục vọng, tức là ly dục; xuất
lu khỏi các sắc pháp, tức là vô sắc; phàm pháp gì hiện hữu, hữu vi,
do duyên khởi, sự xuất ly khỏi pháp ấy tức là diệt. Đó là ba pháp rất
khó thể nhập.
viii) Thế nào là ba pháp cần phải
sanh khởi? Ba trí: Trí đối với quá khứ, trí đối với tương lai, trí đối
với hiện tại. Đó là ba pháp cần phải sanh khởi.
ix) Thế nào là ba pháp cần được
thắng trí? Ba giới: Dục giới, sắc giới, vô sắc giới. Đó là ba pháp cần
được thắng tri.
x) Thế nào là ba pháp cần được
tác chứng? Ba minh: Túc mạng trí minh, Hữu tình sanh diệt trí minh, chư Lậu
tận trí minh. Đó là ba pháp cần được tác chứng.
Như vậy ba mươi pháp này là thực,
chân, như thị, không phải không như thị, không thể sai khác, được Như
Lai giác ngộ, chánh đẳng chánh giác.
5. Có bốn pháp có nhiều tác dụng,
bốn pháp cần được tu tập... bốn pháp cần được tác chứng.
i) Thế nào là bốn pháp có nhiều
tác dụng? Bốn bánh xe: Trú ở trung quốc, thân cận thắng nhân, chánh nguyện
tự thân, tạo phước trong quá khứ. Đó là bốn pháp có nhiều tác dụng.
ii) Thế nào là bốn pháp cần phải
tu tập? Bốn niệm xứ. Này các Hiền giả, ở đây vị, Tỳ kheo quán thân
trên thân, tinh cần, tỉnh giác, chánh niệm, để diệt trừ tham sân ở đời;
quán thọ trên các cảm thọ... quán tâm trên các tâm... quán pháp trên các
pháp, tinh cần, tỉnh giác, chánh niệm, để diệt trừ tham sân ở đời.
Đó là bốn pháp cần phải tu tập.
iii) Thế nào là bốn pháp cần phải
biến tri? Bốn thực: Đoàn thực loại cứng hay loại mềm, xúc thực là thứ
hai, tư niệm thực là thứ ba, thức thực là thứ tư. Đó là bốn pháp cần
phải biến tri.
iv) Thế nào là bốn pháp cần phải
đoạn trừ? Bốn bộ lưu: Dục bộc lưu, hữu bộc lưu, kiến bộc lưu, vô
minh bộ lưu. Đó là bốn pháp cần phải đoạn trừ.
v) Thế nào là bốn pháp chịu phần
tai hại? Bốn ách: Dục ách, hữu ách, kiến ách, vô minh ách. Đó là bốn
pháp chịu phần tai hại.
vi) Thế nào là bốn pháp hướng đến
thù thắng? Bốn ly ách: Ly dục ách, ly hữu ách, ly kiến ách, ly vô minh
ách. Đó là bốn pháp hướng đến thù thắng.
vii) Thế nào là bốn pháp rất khó
thể nhập? Bốn định: Xả phần định, chỉ phần định, thắng phần định,
quyết trạch phần định. Đó là bốn pháp rất khó thể nhập.
viii) Thế nào là bốn pháp cần
được sanh khởi? Bốn trí: Pháp trí, loại trí, tha tâm trí, thế tục
trí. Đó là bốn pháp cần được sanh khởi.
ix) Thế nào là bốn pháp cần được
thắng tri? Bốn Thánh đế: Khổ thánh đế, Khổ tập thánh đế, Khổ diệt
thánh đế, Khổ diệt đạo thánh đế. Đó là bốn pháp cần được thắng
tri.
x) Thế nào là bốn pháp cần được
tác chứng? Bốn Sa-môn quả: Dự lưu quả, Nhất lai quả, Bất lai quả,
A-la-hán quả. Đó là bốn pháp cần được tác chứng.
Như vậy là bốn mươi pháp chân,
thực, như thị, không phải không như thị, không phải sai khác, được
Như Lai giác ngộ, chánh đẳng chánh giác.
6. Có năm pháp có nhiều tác dụng,
có năm pháp cần phải tu tập... có năm pháp cần pháp cần phải tác chứng.
i) Thế nào là năm pháp có nhiều
tác dụng? Năm cần chi. Này các Hiền giả, ở đây, Vị Tỷ kheo có lòng
tin... (Như kinh Phúng Tụng, II, 1, xvi) Đó là năm pháp có nhiều tác dụng.
ii) Thế nào là năm pháp cần được
tu tập? Năm chánh định chi: Hỷ biến mãn, lạc biến mãn, tâm biến mãn,
quang biến mãn, quán sát tướng. Đó là năm pháp cần được tu tập.
iii) Thế nào là năm pháp cần phải
biến tri? Năm thủ uẩn, thọ thủ uẩn, tưởng thủ uẩn, hành thủ uẩn,
thức thủ uẩn. Đó là năm pháp cần phải biến tri.
iv) Thế nào là năm pháp cần phải
đoạn trừ? Năm triền cái: Tham dục triền cái, sân triền cái, thụy miên
hôn trầm triền cái, trạo cử hối quá triền cái, nghi triền cái. Đó là
năm pháp cần phải đoạn trừ.
v) Thế nào là năm pháp chịu phần
tai hại? Năm tâm hoang vu. Này các Hiền giả, ở đây, vị Tỷ kheo có lòng
nghi đối với bậc Đạo Sư... (như kinh Phúng Tụng, II,1, xix). Đó là năm
pháp chịu phần tai hại.
vi) Thế nào là năm pháp hướng đến
thù thắng? Năm căn : Tín căn, tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn. Đó
là năm pháp hướng đến thù thắng.
vii) Thế nào là năm pháp rất khó
thể nhập? Năm giới hướng đến giải thoát. Này các Hiền giả, ở đây
vị Tỷ kheo tác ý đến dục... (như kinh Phúng Tụng, II, 1, xxiv). Đó là năm
pháp rất khó thể nhập.
viii) Thế nào là năm pháp cần được
sanh khởi? Năm chánh định trí: "Đây là định đưa đến hiện tại lạc
và lạc quả tương lại", tự mình khởi trí như vậy. "Định này
thuộc bậc Thánh, xuất thế", tự mình khởi trí như vậy. "Định
này thuộc hàng hiền thiện thực hành", tự mình khởi trí như vậy.
"Định này là thanh lương, thù thắng, hướng đến an tịnh, quy về nhất
tâm, không cần nhắc bảo, không bị chống đối, không bị thất bại",
tự mình khởi trí như vậy. "Tôi với chánh niệm nhập định này, và
với chánh niệm xuất định này", tự mình khởi trí như vậy. Đó là
năm pháp cần được sanh khởi.
ix) Thế nào là năm pháp cần được
thắng tri? Năm giải thoát xứ.. Này các Hiền giả, ở đây, bậc Đạo Sư
hay một vị đồng phạm hạnh đáng được tôn kính thuyết pháp cho vị Tỷ
kheo... (như kinh Phúng Tụng II, 1, xxv). Đó là năm pháp cần được thắng
tri.
x) Thế nào là năm pháp cần được
tá chứng? Năm pháp uẩn: Giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát, giải
thoát tri kiến uẩn. Đó là năm pháp cần được tác chứng.
Như vậy năm mươi pháp này là thực,
chân, như thị, không phải không như thị, không thể sai khác, được Như
Lai giác ngộ, chánh đẳng chánh giác.
7. Có sáu pháp có nhiều tác dụng,
có sáu pháp cần phải tu tập... có sáu pháp cần được tác chứng.
i) Thế nào là sáu pháp có nhiều
tác dụng? Sáu hòa kính pháp. Này các Hiền giả, vị Tỷ kheo an trú từ
thân nghiệp... (như kinh Phúng Tụng II, 2, xiv). Đó là pháp có nhiều tác dụng.
ii) Thế nào là sáu pháp cần phải
tu tập? Sáu tùy niệm xứ: Phật tùy niệm, Pháp tùy niệm, Tăng tùy niệm,
Giời tùy niệm, Thí tùy niệm, Thiên tùy niệm. Đó là sáu pháp cần phải
tu tập.
iii) Thế nào là sáu pháp cần phải
biến tri? Sáu nội xứ: Nhãn xứ, nhĩ xứ, tỷ xứ, thiệt xứ, thân xứ,
ý xứ. Đó là sáu pháp cần phải biến tri.
iv) Thế nào là sáu pháp cần phải
đoạn trừ? Sáu ái thân: Sắc ái, thanh ái, hương ái, vị ái, xúc ái,
pháp ái. Đó là sáu pháp cần phải đoạn trừ.
v) Thế nào là sáu pháp chịu phần
tai hại? Sáu bất cung kính pháp. Này các Hiền giả, ở đây vị Tỷ kheo sống
không cung kính, chống đối bậc Đạo Sư, đối với Pháp... đối với
Tăng... đối với học pháp... đối với bất phóng dật... Sống không cung
kính, chống đối sự tiếp đón niềm nở. Đó là sáu pháp chịu phần tai
hại.
vi) Thế nào là sáu pháp hướng đến
thù thắng? Sáu cung kính pháp. Này các Hiền giả, ở đây vị Tỷ kheo cung
kính, không phản đối bậc Đạo sư... đối với Pháp... đối với
Tăng... đối với học pháp... đối với bất phóng dật... cung kính, không
chống đối sự tiếp đón niềm nở. Đó là sáu pháp hướng đến phù thắng.
vii) Thế nào là sáu pháp rất khó
thể nhập? Sáu xuất ly giới. Này các Hiền giả, ở đây vị Tỷ kheo nói
như sau: "Từ tâm giải thoát của tôi đã được tu tập... (như kinh Phúng
Tụng, II, 2, xvii). Đó là sáu pháp rất khó thể nhập.
viii) Thế nào là sáu pháp cần phải
sanh khởi? Sáu hằng trú pháp. Này các Hiền giả, ở đây vị Tỷ kheo mắt
thấy sắc không có hoan hỷ, không có ưu phiền, an trú xả, chánh niệm
tinh giác; tai nghe tiếng... mũi ngửi hương... lưỡi niếm vị... thân cảm
xúc... ý nhận thức pháp không có hoan hỷ, không có ưu phiền, an trú xả,
chánh niệm tinh giác. Đó là sáu pháp cần được sanh khởi.
ix) Thế nào là sáu pháp cần được
thắng tri? Sáu vô thượng chi: Kiến vô thượng, văn vô thượng, lợi đắc
vô thượng, giới vô thượng, hành vô thượng, ức niệm vô thượng. Đó
là sáu pháp cần được thắng tri.
x) Thế nào là sáu pháp cần được
tác chứng? Sáu thắng trí. Này các Hiền giả, ở đây vị Tỷ kheo chứng
được thần túc sai biệt... với thân có thể đến Phạm thiên giới; với
thiên nhĩ thanh tịnh vượt khỏi loài Người, nghe được hai loại tiếng,
chư Thiên và loài Người, xa và gần; với tâm của mình có thể biết tâm
của các loài hữu tình khác, của các loài người khác, như tâm có tham...
tâm không giải thoát, biết tâm không giải thoát; nhớ đến rất nhiều các
đời trước, như một đời, hai đời... nhớ đến các đời trước với
các chi tiết và các hình thức; với thiên nhãn thanh tịnh vượt quá loài
Người... biết được cái loài hữu tình tùy theo nghiệp của mình; với sự
diệt trừ các lậu hoặc; sau khi tự tri, tự chứng ngay trong đời hiện tại;
đạt đến và an trú vô lậu Tâm giải thoát, Tuệ giải thoát. Đó là sáu
pháp cần được tác chứng. Như vậy sáu mươi pháp này là chân, thực, như
thị, không phải không như thị, không có sai khác, được Như Lai giác ngộ,
chánh đẳng chánh giác.
8. Có bảy pháp có nhiều tác dụng,
có bảy pháp cần được tu tập... có bảy pháp cần được tác chứng.
i) Thế nào là bảy pháp, có nhiều
tác dụng? Bảy tài sản: Tín tài, giới tài, tàm tài, quí tài, văn tài,
thí tài, tuệ tài. Đó là bảy pháp có nhiều tác dụng.
ii) Thế nào là bảy pháp cần tu tập?
Bảy giác chi: Niệm Giác chi, Trạch pháp Giác chi, Tinh tấn Giác chi, Hỷ
Giác chi, Khinh an Giác chi, Định Giác chi, Xả Giác chi. Đó là bảy pháp cần
phải tu tập.
iii) Thế nào là bảy pháp cần phải
biến tri? Bảy thức trí. Này các Hiền giả, có những loài hữu tình,
thân sai biệt, tưởng sai biệt... (như kinh Phúng Tụng, II, 3, x). Đó là bảy
pháp cần được biến tri.
iv) Thế nào là bảy pháp cần được
đoạn trừ? Bảy tùy miên: Tham dục tùy miên, sân tùy miên, kiến tùy
miên, nghi tùy miên, mạn tùy miên, hữu tham tùy miên, vô minh tùy miên. Đó
là bảy pháp cần phải đoạn trừ.
v) Thế nào là bảy pháp chịu phần
tai hại? Bảy phi diệu pháp. Này các Hiền giả, ở đây, có vị Tỷ kheo bất
tín, vô tàm, vô quý, thiểu văn, giải đãi, thất niệm, ác huệ. Như vậy
là bảy pháp chịu phần tai hại.
vi) Thế nào là bảy pháp hướng đế
thù thắng? Bảy diệu pháp. Này các Hiền giả, ở đây, có vị Tỷ kheo
có lòng tin, có tàm, có quý, đa văn, tinh cần, niệm hiện tiền, có trí tuệ.
Như vậy là bảy pháp hướng đến thù thắng.
vii) Thế nào là bảy pháp rất khó
thể nhập? Bảy thượng nhân pháp. Này các Hiền giả, ở đây vị Tỷ
kheo tri pháp, tri nghĩa, tri ngã, tri lượng, tri thời, tri chúng và tri nhân.
Như vậy là bảy pháp rất khó thể nhập.
viii) Thế nào là bảy pháp cần phải
sanh khởi? Bảy tướng: Vô thường tưởng, vô ngã tưởng, bất tịnh tượng,
quá hoạn tưởng, đoạn trừ tưởng, ly tham tưởng, diệt tưởng. Như vậy
là bảy pháp cần phải sanh khởi.
ix) Thế nào là bảy pháp cần phải
thắng tri? Bảy thù diệu sự. Này các Hiền giả, ở đây, vị Tỷ kheo tha
thiết hành trì học pháp và khát vọng hành trì học pháp trong tương
lai... (như kinh Phúng Tụng, II, 3, vii). Như vậy là bảy pháp cần phải thắng
tri.
x) Thế nào là bảy pháp cần được
tác chứng? Bảy lậu tận lực.
Này các Hiền giả, ở đây, vị lậu
tận Tỷ kheo, chánh quán như chân tánh vô thường của tất cả pháp hữu
vi với chánh tuệ. Này các Hiền giả, vị Lậu tận, Tỷ kheo chánh quán như
chân với chánh tuệ tánh vô thường của tất cả pháp hữu vi, chánh quán
ấy là sức mạnh của vị Lậu tận Tỷ kheo ấy. Nhờ sức mạnh ấy, vị
Lậu tận Tỷ kheo biết được sự diệt tận các lậu hoặc: "Các lậu
hoặc của ta đã được diệt tận".
Này các Hiền giả, lại nữa, vị
Lậu tận Tỷ kheo, chánh quán như chân với chánh tuệ các dục vọng như lửa
than hừng... "Các lậu hoặc của ta đã được diệt tận". Này
các Hiền giả, lại nữa, vị Lậu tận Tỷ kheo tâm hướng xuất ly, tâm
thiên xuất ly, tâm nặng về xuất ly, tâm lấy xuất lu làm mục đích, tâm
hoan hỷ ly dục, đoạn trừ hoàn toàn mọi lậu hoặc trú. Này các Hiền giả,
đối với vị Lậu tận Tỷ kheo... "Các lậu hoặc của ta đã được
diệt tận". Này các Hiền giả, lại nữa, đối với vị Lậu tận Tỷ
kheo, bốn niệm an trú được tu tập, khéo tu tập. Này các Hiền giả, đối
với vị Lậu tận Tỷ kheo... "Các lậu hoặc của ta đã được diệt
tận". Này các Hiền giả, lại nữa, đối với vị Lậu tận Tỷ kheo,
năm căn được tu tập, khéo tu tập. Này các Hiền giả, đối với vị Lậu
tận Tỷ kheo... "Các lậu hoặc của ta đã được diệt tận".
Này các Hiền giả, lại nữa đối
với vị Lậu tận Tỷ kheo, Bảy Giác chi đã được tu tập, khéo tu tập.
Này các Hiền giả, đối với vị Lậu tận Tỷ kheo... "Các lậu hoặc
của ta đã được diệt tận". Này các Hiền giả, lại nữa, đối với
vị Lậu tận Tỷ kheo, Bát Thánh đạo đã được tu tập, khéo tu tập.
Này các Hiền giả, đối với vị Lậu tận Tỷ kheo, Bát Thánh đạo đã
được tu tập, khéo tu tập, như vậy là sức mạnh của vị Lậu tận Tỷ
kheo. Nhờ sức mạnh ấy, vị Lậu tận Tỷ kheo biết được: "Các lậu
hoặc của ta đã được diệt tận". Như vậy là bảy pháp cần được
tu chứng. Như vậy bảy mươi pháp này là chơn, thực như thị, không phải
không như thị, không phải sai khác, được Như Lai giác ngộ, chánh đẳng
chánh giác.
II
1. Có tám pháp có nhiều tác dụng...
có tám pháp cần phải tu chứng.
i) Thế nào là tám pháp có nhiều
tác dụng? Có tám nhân, tám duyên đưa đến chứng đắc trí tuệ căn bản
phạm hạnh nếu chưa chứng được, đưa đến bội tăng, quảng đại, phát
triển, viên mãn nếu đã chứng được. Này các Hiền giả, ở đây, ai sống
gần bậc Đạo Sư, hoặc một vị đồng Phạm hạnh dáng tôn kính được
an trú. Như vậy là nhân thứ nhất, duyên thứ nhất đưa đến chứng đắc
trí tuệ căn bản phạm hạnh nếu chưa chứng được, đưa đến sự bội
tăng, quảng đại, phát triển, viên mãn nếu đã chứng được. Ai sống gần
bậc Đạo Sư, hoặc một vị đồng Phạm hạnh đáng tôn kính, nhờ vậy
mà tàm quý được sắc sảo, ái lạc và cung kính được an trú. Người này
thỉnh thoảng đến các vị ấy và đặt những câu hỏi: "Này Tôn giả,
vấn đề này là thế nào? Vấn đề này nghĩa như thế nào?" Và các vị
này đối với người ấy, nêu rõ những gì bị che khuất, phơi bày ra những
gì bị giấu kín, và diệt trừ mọi nghi ngờ đối với những vấn đề
đang còn nghi ngờ. Như vậy là nhân thứ hai, duyên thứ hai đưa đến sự
bội tăng, quảng đại, phát triển, viên mãn nếu đã chứng được. Sau
khi đã nghe pháp, vị này được hai sự an tịnh, an tịnh về thân và an tịnh
về tâm. Như vậy là nhân thứ ba, duyên thứ ba... đưa đến... Này các Hiền
giả, lại nữa, vị Tỷ kheo giữ giới, sống chế ngự với sự chế ngự
giới bổn Patimokka, đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy nguy hiểm trong những
lỗi nhỏ nhặt, thọ lãnh và tu học trong các học pháp. Như vậy là nhân
thứ tư, duyên thứ tư... đưa đến... Này các Hiền giả, lại nữa, vị Tỷ
kheo đa văn, ghi nhớ điều đã nghe, chất chứa điều đã nghe. Với các
pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, nghĩa văn đầy đủ, đề cao Phạm
hạnh hoàn toàn viên mãn thanh tịnh. Những pháp ấy, vị ấy nghe nhiều,
gìn giữ, ghi nhớ, nhờ lặp đi lặp lại, tâm ý suy tư, khéo thành đạt
chánh trí. Như vậy là nhân thứ năm, duyên thứ năm... đưa đến... Này
các Hiền giả, lại nữa, vị Tỷ kheo sống tinh cần, tinh tấn, đoạn trừ
các ác pháp, thành tựu các thiện pháp, vững chắc, kiên trì đối với các
thiện pháp. Như vậy là nhân thứ sáu, duyên thứ sáu... đưa đến... Này
các Hiền giả, lại nữa, vị Tỷ kheo có chánh niệm, có chánh niệm tối
thượng và phân tích rõ ràng ghi nhận, nhớ rõ điều làm đã lâu ngày,
nói đã lâu ngày. Như vậy là nhân thứ bảy, là duyên thứ bảy... đưa đến...
Này các Hiền giả, lại nữa vị Tỷ kheo sống quán sát sự sanh diệt của
năm thủ uẩn: Đây là sắc, đây là tập của sắc, đây là diệt của sắc.
Đây là thọ... Đây là tưởng... Đây là hành... Đây là thức. Đây là tập
của thức, đây là diệt của thức. Như vậy là nhân thứ tám, duyên thứ
tám, đưa đến chứng đắc trí tuệ căn bản phạm hạnh nếu chưa chứng
được; đưa đến sự bội tăng, quảng đại, phát triển, viên mãn, nếu
đã chứng được. Như vậy là tám pháp có nhiều tác dụng.
ii) Thế nào là tám pháp cần phải
tu tập? Bát Thánh đạo: Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp,
Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định. Đây là tám pháp cần
phải tu tập.
iii) Thế nào là tám pháp cần phải
biến tri? Tám thế pháp: Đắc và không đắc, không có thanh danh và có
thanh danh, chê và khen, lạc và khổ. Như vậy là tám pháp cần phải biến
tri.
iv) Thế nào tám pháp cần được
đoạn trừ? Tám tà: Tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà
tinh tấn, tà miệm, tà định. Như vậy là tám pháp cần phải đoạn trừ.
v) Thế nào là tám pháp chịu phần
tai hại? Tám giải đãi sự. Này các Hiền giả, vị Tỷ kheo phải làm một
công việc... (như kinh Phúng Tụng III, 1, iv). Như vậy là tám pháp chịu phần
tai hại.
vi) Thế nào là tám pháp hướng đến
thù thắng? Tám tinh tấn sự. (Như kinh Phúng Tụng, III, 1, v). Như vậy là
tám pháp hướng đến thù thắng.
vii) Thế nào là tám pháp rất khó
thể nhập? Phạm hạnh trú, tám bất thời bất tiết, (như kinh Phúng Tụng,
III, 2, iv), chín phạm hạnh trú, trừ đoạn nói về sanh A-tu-la thân, thành
ra chỉ còn tám). Như vậy là tám pháp rất khó thể nhập.
viii) Thế nào là tám pháp cần được
sanh khởi? Tám Đại nhân tầm: Pháp này cho người thiểu dục, pháp này
không phải cho người đa dục; pháp này cho người tri túc, pháp này không
phải cho người không tri túc; pháp này cho người an tịnh độc cư, pháp
này không phải cho người ưa tụ hội; pháp này cho người siêng năng tinh
tấn, pháp này không phải cho người giải đãi; pháp này cho người có niệm
hiền tiền, pháp này không phải cho người thất niệm; pháp này là cho người
có định tâm, pháp này không phải cho người không có định tâm; pháp
này cho người có trí tuệ, pháp này không phải cho người có ác tuệ;
pháp này cho người không ưa thích lý luận, pháp này không phải cho người
ưa thích lý luận. Như vậy là tám pháp cần được sanh khởi.
ix) Thế nào là tám pháp cần được
thắng tri? Tám thắng xứ... (như kinh Phúng Tụng, III, 1, x). Như vậy là
tám pháp cần được thắng tri.
x) Thế nào là tám pháp cần được
chứng ngộ? Tám giải thoát... (như kinh Phúng Tụng, III, 1, x). Như vậy là
tám pháp cần được chứng ngộ.
Như vậy tám mươi pháp này là chơn,
thực, như thị, không phải không như thị, không phải sai khác, được
Như Lai giác ngộ, chánh đẳng chánh giác.
2) Có chín pháp có nhiều tác dụng...
có chín pháp cần được chứng ngộ.
i) Thế nào là chín pháp có nhiều
tác dụng? Chín pháp tư duy về căn pháp. Do chánh tư duy, hân hoan sinh; do
hân hoan, hỷ sanh; do tâm hoan hỷ, thân được khinh an; do thân khinh an, lạc,
thọ sanh; do lạc thọ, tâm được định tỉnh; do tâm định tỉnh, biết
được, thấy được sự vật như chân; do biết, nhờ thấy như chơn, yểm
ly sanh; do yểm ly, ly dục sanh; do ly dục, vị ấy được giải thoát. Như vậy
là chín pháp có nhiều tác dụng.
ii) Thế nào là chín pháp cần phải
tu tập? Chín thanh tịnh cần chi: Giới hạnh thanh tịnh thanh tịnh cần chi,
tâm thanh tịnh thanh tịnh cần chi, kiến thanh tịnh thanh tịnh cần chi, đoạn
nghi thanh tịnh thanh tịnh cần chi, đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh thanh
tịnh cần chi, tri kiến thanh tịnh thanh tịnh cần chi, tuệ thanh tịnh thanh
tịnh cần chi, giải thoát thanh tịnh thanh tịnh cần chi. Như vậy là chín
pháp cần được tu tập.
iii) Thế nào là chín pháp cần được
biến tri? Chín hữu tình trú. (Như kinh Phúng Tụng, III, 2, iii). Như vậy là
chín pháp cần được biến tri.
iv) Thế nào là chín pháp cần phải
đoạn trừ? Chín ái căn pháp. Do duyên ái, tầm cầu sanh; do duyên tầm cầu,
đắc lợi sanh; do duyên đắc lợi, phân biệt sanh; do duyên phân biệt, tham
dục sanh; do duyên tham dục, thủ trước sanh; do duyên thủ trước sanh; chấp
trì sanh; do duyên chấp trì, xan tham sanh; do duyên xam tham; hộ trì sanh; do
duyên hộ trì, chấp trượng, chấp kiến, tránh tụng, tranh luận, tương phản,
ly gián ngữ, vọng ngôn, và các ác bất thiện pháp khai sanh. Như vậy là
chín pháp cần phải đoạn trừ.
v) Thế nào lá chín pháp chịu phần
tai hại? Chín hại tâm. (Như kinh Phúng Tụng, III, 2, i). Như vậy là chín
pháp chịu phần tai hại.
vi) Thế nào là chín pháp hướng đến
thù thắng? Chín điều phục hại tâm. (Như kinh Phúng Tụng III, 2, ii). Như
vậy là chín pháp hướng đến thù thắng.
vii) Thế nào là chín pháp rất khó
thể nhập? Chín loại sai biệt. Do duyên giới sai biệt, xúc sai biệt sanh;
do duyên xúc sai biệt, thọ sai biệt sanh; do duyên thọ sai biệt; tưởng sai
biệt sanh; do duyên tưởng sai biệt, tư duy sai biệt sanh; do duyên tư duy sai
biệt, dục sai biệt sanh; do duyên dục sai biệt, nhiệt tình sai biệt sanh;
do duyên nhiệt tình sai biệt; tầm cầu sai biệt, đắc lợi sai biệt sanh.
Như vậy là chín pháp rất khó thể nhập.
viii) Thế nào là chín pháp cần
được sanh khởi? Chín tưởng: Bất tịnh
__yểm ly tưởng, nhứt thiết thế
gian bất lạc tượng, vô thường tưởng, khổ tâm tưởng trên vô thường,
vô ngã tưởng trên ngã, đoạn trừ tưởng, vô tham tưởng. Như vậy là
chín pháp cần được sanh khởi.
ix) Thế nào là chín pháp cần được
thắng tri? Chín thứ đệ trú. (Như kinh Phúng Tụng III, 2, v). Như vậy là
chín pháp cần được thắng trí.
x) Thế nào là chín pháp cần được
chứng ngộ? Chín thứ đệ diệt. (Như kinh Phúng Tụng III, 2, vi). Như vậy
là chín pháp cần được chứng ngộ.
Như vậy là chín mươi pháp này là
chơn, thực, như thị, không phải không như thị, không phải sai khác, được
Như Lai giác ngộ, chánh đẳng chánh giác.
3) Có mười pháp có nhiều tác dụng...
có mười pháp cần được giác ngội.
i) Thế nào là mười phát có nhiều
có tác dụng? Mười pháp hộ trì nhân pháp. (Như kinh Phúng Tụng III, 3, i).
Như vậy là mười pháp có nhiều tác dụng.
ii) Thế nào là mười pháp cần phải
tu tập? Mười biến xứ. (Như kinh Phúng Tụng III, 3, ii) Như vậy là mười
pháp cần phải tu tập.
iii) Thế nào là mười pháp cần phải
biến tri? Mười xứ: Nhãn xứ, sắc xứ, tỷ xứ, thanh xứ, nhĩ xứ,
hương xứ, thiệt xứ, vị xứ, thân xứ, xúc xứ. Như vậy là mười pháp
cần được biến tri
iv) Thế nào là mười pháp cần phải
đoạn trừ? Mười tà pháp: Tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng,
tà tinh tấn, tà niệm, tà định, tà trí, tà giải thoát. Như vậy là mười
pháp cần được đoạn trừ.
v) Thế nào là mười pháp chịu phần
tai hại? Mười bất thiện nghiệp đạo. (Như kinh Phúng Tụng III, 3, iii).
Như vậy là mười pháp chịu phần tai hại.
vi) Thế nào là mười pháp hướng
đến thù thắng? Mười thiện nghiệp đạo. (Như kinh Phúng Tụng III, 3,
iv). Như vậy là mười pháp hướng đến thù thắng.
vii) Thế nào là mười pháp rất
khó thể nhập? Mười thánh tri. (Như kinh Phúng Tụng III, 3, v). Như vậy là
mười pháp rất khó thể nhập.
viii) Thế nào là mười pháp cần
được sanh khởi? Mười tưởng: Bất tịnh tưởng, tư tưởng, thực yểm
ly tưởng, nhứt thiết thế gian bất lạc tưởng, vô thường tưởng, khổ
tưởng trên vô thường, vô ngã tưởng trên khổ, đoạn tưởng, ly tham tưởng,
diệt tưởng. Như vậy là mười pháp cần được sanh khởi.
ix) Thế nào là mười pháp cần
được thắng tri? Mười đoạn tận sự: Tà kiến do chánh kiến đoạn tận;
do duyên tà kiến, các ác bất thiện pháp khởi lên, các pháp này được
đoạn tận; do duyên chánh kiến các thiện pháp được tăng cường, viên
mãn; tà tư duy do chánh tư duy đoạn tận... tà ngữ do chánh ngữ đoạn tận...
tà nghiệp cho chánh nghiệp đoạn tận... tà mạng do chánh mạng đoạn tận...
tà niệm do chánh niệm đoạn tận... tà định do chánh định đoạn tận...
tà trí do chánh trí đoạn tận... tà giải thoát do chánh giải thoát đoạn
tận... do duyên tà giải thoát, các ác bất thiện pháp khởi lên, các pháp
này được đoạn tận; do duyên chánh giải thoát, các thiện pháp này được
tăng cường viên mãn. Như vậy là mười pháp cần được thắng tri.
x) Thế nào là mười pháp cần được
chứng ngộ? Mười vô học pháp. (Như kinh Phúng Tụng III, 3, v). Như vậy là
mười pháp cần được chứng ngộ.
Như vậy một trăm pháp này là chơn,
thực, như thị, không phải không như thị, không phải sai khác được Như
Lai giác ngộ, chánh đẳng chánh giác.
Như vậy tôn giả Sàriputta thuyết
giảng. Các vị Tỷ kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời dạy của tôn giả
Sàriputta.
Phẩm Pàtìka
Pàtìka, Udumbarika, Cakkavathi và
Aggannaka Sampasàdaniya, Pàsàdika, Mahàpurisalakkhanam, Sigàlovàda, Àtànàtiyà,
Sangìtì, Dasuttara...
Với mười một kinh này, được gọi
là phẩm Pàtika.
- Đoạn trừ mọi khổ đau,
- Đem lại chân lạc thọ,
- Chứng bất tử, an tịnh,
- Dưới bậc Đại Pháp Vương.
-