- XỨ PHẬT HUYỀN
BÍ
- Nguyên tác: AUTOBIOGRAPHIE D’UN
YOGI
- Của: Tu sĩ PARAMHANSA
YOGANANDA
CHƯƠNG MƯỜI BẢY
MỘT CUỘC
HOÁN CẢI LẠ LÙNG
-"Với tư cách một người
vợ hiền Aán Độ, chị không phiền trách chồng chị. Nhưng chị mong ước
làm sao cho y từ bỏ những quan điểm duy vật của y. Y thường chế diễu
những hình ảnh treo trong phòng tham thiền của chị! Em hỡi, chị tin tưởng
chắc chắn rằng em có thể giúp chị."
Roma, chị cả tôi, nhìn tôi với cặp
mắt van lơn. Tôi đến viếng chị tôi trong giây lát tại nhà chị ở
Calcutta. Lời yêu cầu của chị làm tôi cảm động, vì chị tôi từ thuở
nhỏ vẫn gây cho tôi một ảnh hưởng tâm linh rất lớn và từ khi mẹ
tôi mất, chị đã cố gắng điền khuyết sự trống trải đó trong gia đình
bằng tình thương của chị đối với chúng tôi.
-"Thưa chị, lẽ tự nhiên em sẽ
cố gắng hết sức để giúp chị."
Tôi mỉm cười để tìm cách dẹp
tan sự buồn rầu hiện trên gương mặt của chị, trái hẳn với nét mặt
bình thản và vui tươi hằng ngày.
Một năm trước đây chị tôi đã
yêu cầu tôi chỉ dẫn pháp môn thiền định và chị đã thực hiện những
tiến bộ đáng kể trên con đường đó.
Bỗng nhiên tôi có một ý kiến:
-"Ngày mai tôi sẽ đi viếng ngôi
đền đức Phật Mẫu Quan Aâm ở Dakshineswa. Chị hãy cùng đi và cố gắng
thuyết phục chồng chị cùng đi với chúng ta. Tôi cảm thấy rằng tại nơi
đền miếu trang nghiêm đó, đức Phật Mẫu sẽ cảm động lòng y. Nhưng
chị đừng nói cho y biết lý do của cuộc hành hương này.
Chị tôi nhận lời với tấm lòng
tràn đầy hy vọng. Sáng ngày hôm sau, tôi sung sướng mà thấy chị và anh
rể tôi sẵn sàng lên đường. Trong khi cổ xe ngựa của chúng tôi dong ruổi
trên đường lộ trực chỉ Dakshineswa, anh rể tôi, Satish Chandra Bose, buông
lời diễu cợt những vị Chân sư của quá khứ, hiện tại và tương lai.
Tôi nhận thấy Roma khóc thầm trong im lặng. Tôi an ủi chị:
-"Chị hãy can đảm lên. Đừng
cho y có sự thoả mãn mà thấy chúng ta bực tức vì những lời chế nhạo
của y."
Satish nói mỉa mai:
-"Mukunda, làm sao cậu có thể bị
hấp dẫn bởi những kẻ bịp đời, giả mạo đó? Chỉ nội một cái
hình dáng của người tu sĩ cũng làm cho ta dội ngược: có người gầy đét
như bộ xương, có người lại to béo như một con voi!"
Tôi bất giác bật cười vang lên,
sự phản ứng này làm cho Satish cụt hứng, y bèn rơi vào một cơn im lặng
trầm ngâm. Khi cổ xe vừa tới Dakshineswa, y bèn đùa cợt và nói với một
giọng châm biếm:
-"Có phải chăng cuộc đi chơi
này có dụng ý để thuyết phục tôi?"
Tôi không nói gì nhưng y lại nắm
lấy tay tôi:
-"Này ông tu sĩ, ông đừng quên
thương lượng trước với nhà chùa về bữa cơm trưa nay của chúng
ta!"
-"Bây giờ tôi còn phải tham
thiền. Anh đừng lo lắng về bữa cơm trưa. Đức Phật Mẫu sẽ đảm nhiệm
việc đó."
-"Tôi không cần biết đức Phật
Mẫu là ai! Nhưng cậu phải chịu trách nhiệm về bữa cơm trưa của tôi!"
Giọng nói của Satish có vẽ như một sự hăm doạ.
Tôi đi một mình về phía hành lang
có nhiều cột của ngôi đền thờ đức Quan Thế Aâm. Tôi chọn một góc
có bóng mát gần một cây cột, và ngồi xếp bằng theo tư thế liên hoa.
Tuy lúc ấy mới có độ bảy giờ sớm mai, nhưng ánh nắng mặt trời có vẽ
sắp sửa nóng gắt. Quên hẳn sự vật ở ngoại cảnh tôi sửa soạn ngồi
thiền. Tâm trí tôi tập trung vào Đức Phật Mẫu Quan Thế Aâm, mà vị tu
sĩ Ramakrishna trước đây đã từng chiêm ngưỡng một cách nhiệt thành tại
Dakshineswa. Đáp ứng những lời kêu gọi khẩn thiết của tu sĩ pho tượng
Đức Phật Mẫu đã cử động và đã nói chuyện với tu sĩ ở chính ngôi
đền này.
Tôi cầu nguyện:"Hỡi đức Phật
Mẫu Quan Thế Aâm từ bi vô lượng, hằng im lặng trong pho tượng bằng đá,
ngài đã từng cử động sinh hoạt trước sự khẩn cầu của đức
Ramakrishna, xin ngài cũng chiếu cố đến lời cầu xin khẩn thiết của con
hằng khao khát được chiêm ngưỡng sự có mặt của ngài."
Sự nhiệt thành của tôi mỗi lúc
càng tăng không ngừng, kèm theo với một sự bằng an thiêng liêng trong tâm
hồn. Tuy nhiên năm tiếng đồng hồ đã trôi qua, đức Phật Mẫu mà tôi
ghi khắc hình dáng trong tư tưởng, vẫn không đáp ứng; tôi cảm thấy hơi
thất vọng. Đôi khi Thiêng Liêng cũng thử thách người hành giả bằng
cách chậm ứng đáp lời cầu nguyện của y. Nhưng ngài thường xuất hiện
trước mắt người tu sĩ kiên tâm bền chí dưới một hình thức mà y thường
chiêm bái. Người Gia Tô có khi nhìn thấy đức Giê Su, người Phật giáo
nhìn thấy đức Thích Ca hay đức Quan Aâm, hoặc thấy một vầng hào quang
từ từ nới rộng nếu sự chiêm bái của y khoác lấy một hình thức trừu
tượng.
Tôi mở đôi mắt một cách luyến
tiếc và thấy vị tăng lữ bước tới đóng cửa đền vào giờ trưa như
thường lệ. Tôi bèn đứng dậy rời khỏi chổ ngồi và bước ra sân. Mặt
trời giữa trưa rọi thẳng xuống nền gạch như thiêu đốt, làm cho hai
bàn chân của tôi rất đau đớn như bị phỏng. Tôi vừa đứng giữa sân
day mặt vào chánh điện vừa cầu nguyện một lần cuối cùng:
-"Oâi Phật Mẫu, ngài đã
không xuất hiện trong linh ảnh trước nhãn quang của con, và bây giờ ngài
đã khuất dạng trong đền thờ, phía sau những cánh cửa đã đóng. Hôm
nay con đặc biệt cầu xin Phật Mẫu độ cho anh rể con."
Lời cầu nguyện đó tức khắc đã
được đáp ứng. Trước hết một luồng từ điển mát rượi tốt lành từ
trên đi xuống dọc theo xương sống sau lưng tôi, xuống dưới tận hai bàn
chân và đem cho tôi một cảm giác khoan khoái dễ chịu vô cùng. Kế đó
tôi vô cùng ngạc nhiên mà thấy ngôi đền từ từ nới rộng đến những
kích thước khổng lồ không thể tưởng tượng! Những cánh cửa vĩ đại
từ từ mở rộng để lộ pho tượng đá của đức Phật Mẫu lúc đầu còn
đứng yên, sau đó ngài từ từ cử động và nở một nụ cười tiếp đón
làm cho tôi say sưa ngây ngất. Hơi thở toát ra từ hai buồng phổi của
tôi, dường như bị thu hút bởi một thứ đá nam châm khổng lồ! Toàn
thân tôi vẫn yên tịnh nhưng không phải là bất động.
Tâm thức tôi đắm chìm trong cơn
đại định, đã nới rộng một cách kinh khủng; tầm nhởn quang của tôi
phóng ra xa đến mấy dặm đường cho thấy sông Hằng ở bên tay trái và
bên mặt là khung cảnh bao quát của vùng Dakshineswa. Những vách tường của
ngôi đền đều trong suốt, xuyên qua đó tôi nhìn thấy ở đằng xa những
ngừơi nông dân đang cày bừa trên những vùng đồng ruộng diễn ra tận
chân trời. Tuy tôi đã mất hơi thở và toàn thân tôi đắm chìm trong một
sự yên tĩnh lạ lùng, nhưng tôi vẫn có thể cử động tay chân. Trong nhiều
phút, tôi chỉ mở mắt và nhắm mắt trong cả hai trưòng hợp tôi đều nhìn
thấy rõ ràng khung cảnh bao quát của vùng Dakshineswa. Cũng như quang tuyến
X, nhãn quang tâm linh soi thấu mọi vật, vì con mắt thần thông đặt trung
tâm ở khắp chốn nhưng không đặt chu vi ở đâu cả. Tôi lại hiểu thêm
một lần nữa, trong sân đền nóng như thiêu đốt dưới ánh nắng gắt của
mặt trời, rằng chỉ khi nào con người không còn say mê vật chất, đắm
chìm trong cơn mơ ảo vọng của cuộc đời thế gian, chừng đó y mới có
sự sống trường cửu muôn đời.
Trong cái linh ảnh của tôi tại
Dakshineswa, những vật duy nhất được phóng đại lạ thường là ngôi đền
và pho tượng đức Phật Mẫu. Kỳ dư đều hiện ra với hình bóng bình thường
tuy rằng bao bọc trong một ánh hào quang lạ lùng, với đủ tất cả các
màu sắc rực rỡ của chiếc cầu vồng. Thể xác tôi dường như mỏng
như sương và sẵn sàng bay bổng! Hoàn toàn ý thức được cảnh vật chung
quanh, tôi nhìn quanh tôi và thậm chí bước đi vài bước mà không làm
gián đoạn giây phút huyền diệu đó. Bên ngoài các bức tường của ngôi
đền thình lình tôi thấy anh rể tôi ngồi dưới bóng mát của một cây
đại thọ. Tôi theo dõi một cách dễ dàng giòng tư tưởng của y: bầu không
khí thiêng liêng của ngôi đền làm cho y có đôi chút giảm bớt những ý
nghĩ trần tục nhưng y lại có ý nghĩ oán trách tôi. Tôi bèn quay lại pho
tượng khổng lồ của đức Quan Thế Aâm:
-"Bạch Phật Mẫu! Xin ngài hãy
cứu độ tâm linh cho anh rể con!"
Pho tượng từ trước vẫn câm lặng
bèn thốt ra những lời này:
-"Lời cầu nguyện của con đã
được đáp ứng"
Tôi sung sướng nhìn Satish. Dường
như một giọng nói bí mật nào đã cho y biết rằng y đang chịu ảnh hưởng
của một quyền năng thiêng liêng, y bèn đứng dậy và đi tới ngôi đền.
Hầm hầm nét mặt, y đi đến gần tôi với hai bàn tay nắm chặt.
Cái linh ảnh thiêng liêng liền biến
mất. Tôi không còn nhìn thấy đức Phật Mẫu; ngôi đền lúc nãy vẫn to
lớn vĩ đại nay đã trở lại với quy mô bình thường và không còn trong
suốt nữa. Một lần nữa thân thể tôi lại quằn quại dưới những tia nắng
gắt của mặt trời. Tôi lao mình vào bóng mát của dãy hành lang nhiều cột,
Satish bèn giận dữ đuổi theo tôi. Tôi nhìn đồng hồ: lúc ấy vừa đúng
một giờ trưa! Cái linh ảnh thiêng liêng đã kéo dài đúng sáu mươi phút.
-"Thằng ngốc", anh rể tôi
la lên,"Thế là mày vẫn khoanh tay khoanh chân ở một chổ suốt sáu tiếng
đồng hồ không nhúc nhích! Tao bắt gặp mày tại trận đó nhé! Bữa cơm
trưa của tao đâu? Bây giờ đền đã đóng cửa; mày đã không dặn trước
cho họ nấu cơm: thế là chúng tao phải ngồi trơ mõm ra đây phải
không?"
Sự xuất hiện của Đức Quan Thế
Aâm trong linh ảnh của tôi lúc nãy hãy còn làm cho tôi say sưa ngây ngất.
Tôi bèn đáp:
-"Đức Phật Mẫu sẽ cho chúng
ta ăn no"
Satish nổi cơn thịnh nộ đến cực
điểm:
-"Đây là lần cuối cùng tao muốn
xem thấy đức Phật Mẫu dọn cơm cho chúng tao ăn mà không cần có sự thoả
thuận của nhà chùa."
Y vừa nói dứt lời thì một vị tăng
lữ đi ngang qua sân đền và đến gần chúng tôi:
-"Con hỡi, ta đã nhìn thấy
ánh hào quang hiện trên gương mặt con trong những giờ tham thiền vừa rồi.
Sáng nay khi nhóm các con vừa đến, ta cảm thấy cần để phần cơm dành
cho bữa ăn trưa của các con. Thật là trái luật lệ nhà chùa mà mời
khách dùng bữa khi họ không dặn trước, tuy vậy ta cũng vui lòng dành một
ngoại lệ cho nhóm các con."
Tôi cám ơn vị tăng lữ và nhìn
Satish thẳng vào đôi mắt y. Sự cảm xúc làm cho y đỏ mặt và cúi đầu.
Khi một bữa ăn thịnh soạn được dọn ra cho chúng tôi thậm chí có cả
xoài ngon và trái mùa, tôi nhận thấy ông anh rể tôi chỉ ăn lấy lệ
nhưng tâm hồn y vơ vẩn ở đâu đâu. Y có vẻ đắm chìm trong một cơn
suy tư thâm trầm. Trong chuyến đi trở về Calcutta, Satish lòng đã lắng dịu,
nhìn tôi như có ý xin lỗi. Nhưng y vẫn lẳng lặng không nói gì kể từ
khi vị tăng lữ mời chúng tôi dùng cơm trưa, việc này có cái tác dụng
như một phép mầu nó làm đảo lộn tất cả những ý nghĩ duy vật của
y.
Ngày hôm sau, tôi đến thăm chị tôi.
Chị đón tiếp tôi một cách nồng nhiệt và nói:
-"Này em, thật là một phép lạ!
Tối hôm qua Satish đã khóc trên đầu gối của chị. Y vừa khóc vừa nói:
-"Em yêu quý, anh thật sung sướng
vô bờ bến mà thấy rằng Mukunda đã thành công trong ý định muốn hoán cải
anh. Anh sẽ sửa chữa lại tất cả những điều lầm lỗi của anh đối với
em. Kề từ đêm nay, buồng ngủ của chúng ta sẽ dành riêng cho sự cầu
nguyện mà thôi, còn em sẽ ngủ trong phòng tham thiền nhỏ của em. Anh cảm
thấy vô cùng hối tiếc mà đã diễu cợt Mukunda. Anh sẽ cứu chuộc lại
tội lỗi đó bằng cách sẽ giữ im lặng đối với Mukunda cho đến khi nào
anh đã tiến bộ khá nhiều trên đường Đạo. Kể từ ngày nay anh sẽ
Tôn thờ Đức Phật Mẫu Quan Thế Aâm, và hy vọng một này kia sẽ được
Đức Phật Mẫu ban phước lành!"
Nhiều năm sau, tôi đến viếng anh
rể tôi ở Delhi. Tôi lấy làm vô cùng vui sướng mà thấy y đã đạt tới
một trình độ tâm linh khá cao và Đức Phật Mẫu đã hạ cố mà xuất hiện
trong những linh ảnh cuả y. Tôi trong những ngày tôi tạm trú ở nhà y,
tôi nhận thấy Satish trải qua một phần lớn của mỗi đêm để tham thiền
trong vòng bí mật, dẫu trong những khi đau ốm và ban ngày còn phải làm việc
tại văn phòng.
Đó là câu chuyện hoán cải lạ
lùng của anh rể tôi, từ một người duy vật đã trở thành một vị tu sĩ
thánh thiện.
- Mục
lục | Lời tựa | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18 | 19 | 20 | 21 | 22 | 23 | 24 | 25|
- Chúng tôi chân thành cảm ơn Phật tử
Huỳnh Thanh Hương đã phát tâm đánh máy gởi sách này về tặng cho Ban
biên tập Đạo Phật Ngày Nay.