- XỨ PHẬT HUYỀN
BÍ
- Nguyên tác: AUTOBIOGRAPHIE D’UN
YOGI
- Của: Tu sĩ PARAMHANSA
YOGANANDA
CHƯƠNG HAI MƯƠI BỐN
CUỘC
HÀNH TRÌNH SANG MỸ QUỐC
-"Á! Đây là Mỹ quốc! Những
người này chắc hẳn là người Mỹ!" Đó là một ý nghĩ đầu tiên
đến với tôi khi một cơn linh ảnh diễn ra mau lẹ trước nhãn quang siêu
linh của tôi. Đắm chìm trong cơn thiền định, tôi ngồi trong một gian
phòng trống tại trường học của tôi ở Ranchi.
Cơn linh ảnh vẫn tiếp tục; trong
tầm nhãn quang tôi thấy một đám đông người da trắng mặc Âu phục
đang chăm chú nhìn tôi.
Cánh cửa phòng tự nhiên mở, một
thiếu sinh đã tìm ra được nơi trú ẩn của tôi! Tôi gọi em ấy và nói:
-"Bimai, em lại đây, tôi cho em
hay một tin lạ. Thượng Đế đã gọi tôi sang Mỹ quốc!"
-"Mỹ quốc?"
Em thiếu xinh lập lại hai chử ấy
với một vẽ kinh ngạc, chẳng khác nào như nghe tôi sắp sửa đi lên mặt
trăng!
-"Phải! Tôi sẽ khám phá Châu
Mỹ theo gương Kha Luân Bố khi ông ta vượt biển định tìm ra xứ Aán Độ.
Hẳn là phải có một sợi dây nhân duyên liên hệ giữa hai xứ ấy!"
Bimai liền chạy đi và trong giây
lát cả trường đều biết rõ tin ấy. Không kéo dài thời giờ, tôi bèn tập
hợp các vị giáo viên còn đang ngơ ngác vì cái tin bất ngờ đó và phó
thác trường học cho họ trông nom. Tôi nói:
-"Tôi biết rằng các vị sẽ
giử vững lý tưởng giáo dục của Đức Lahiri Mahâsaya tại trường này.
Tôi sẽ thơ từ liên lạc thường xuyên với quý vị. Nếu Thượng Đế muốn
có ngày tôi sẽ trở lại"
Tôi rưng rưng giọt lệ khi tôi
nhìn các em học sinh thân yêu và các lớp học nhà trường dưới ánh nắng
mặt trời trong sáng của tỉnh Ranchi. Cả một giai đoạn trong cuộc đời
tôi vừa chấm dứt. Kể từ nay, tôi phải sống ở ngoại quốc, cách biệt
xa xứ nhà. Vài giờ sau cơn linh ảnh vừa rối, tôi đã ngồi trên chuyến
xe lửa đi Calcutta. Qua ngày hôm sau, tôi nhận được thơ mời làm Đại biểu
xứ Aán Độ để tham dự Đại Hội Tôn Giáo Hoàn Cầu bên Mỹ quốc năm
đó (1920) tổ chức tại Boston, dưới sự bảo trợ của Hội Tôn giáo Thống
Nhất Hoa Kỳ.
Trong lòng còn đang phân vân, tôi
bèn đến đạo viện Serampore để hỏi ý kiến Sư phụ:
-"Bạch Sư phụ, con vừa được
chỉ định làm Đại biểu dự Đại Hội Tôn Giáo bên Mỹ. Vậy con có
nên nhận lời chăng?". Sư phụ mỉm cười đáp:
-"Đó là một dịp may hiếm
có, một cơ hội ngàn năm một thuở."
-"Nhưng thưa Sư phụ! Con không biết nói chuyện trước công chúng! Con
không quen thuyết pháp trên diễn đàn, nhất là bằng Anh ngữ!"
-"Anh ngữ hay không, những buổi
giảng của con về Đạo pháp Yoga sẽ được hoan nghênh bên phương Tây"
Tôi bật cười:
-"Bạch Sư phụ, con không tin
là người Mỹ sẽ học tiếng Bengali. Xin Sư phụ hãy giúp sức cho con để
vượt qua những chướng ngại về văn phạm Anh ngữ."
Khi tôi đem chuyện này nói với cha
tôi. Người lấy làm hoàn toàn kinh ngạc. Mỹ quốc đối với người dường
như quá xa xôi và cha tôi sợ rằng người sẽ không bao giờ gặp tôi trở
lại nữa. Cha tôi hỏi:
-"Con đi bằng cách nào? Và ai sẽ
đài thọ công cuộc này?"
Cha tôi hy vọng rằng vấn đề đó
sẽ làm cho tôi bị trở ngại để tôi đừng đi. Tôi đáp:
-"Thượng Đế sẽ lo cho
con!"
Việc này làm tôi nhớ lại một
câu trả lời tương tự của tôi cho Ananta, anh cả tôi, tại Agra cách đây
nhiều năm về trước. Tôi nói thêm:
-"Thưa cha, có lẽ Thượng Đế
sẽ xui khiến cho cha giúp con?"
Tôi chỉ nói cầu may mà thôi,
không ngờ ngày hôm sau, cha tôi làm tôi ngạc nhiên khi người cầm đưa cho
tôi một ngân phiếu với một số bạc khá lớn và nói:
-"Cha cho con số tiền này không
phải do bổn phận của người cha, mà của một đệ tử trung thành của
đức Lahiri Mahâsaya. Con hãy sang Tây phương để truyền bá giáo lý thâm
sâu của Đạo pháp Kriyâ Yoga."
Sư hy sinh mà cha tôi đã chứng tỏ
bằng cách đè nén những xúc cảm của lòng mình, làm cho tôi vô cùng cảm
động. Trong đêm vừa qua, người đã hiểu rằng cuộc hành trình của tôi
không phải vì mục đích du lịch ngoạn cảnh mà thôi.
-"Có thể cha con ta sẽ không
còn gặp lại nhau trong kiếp này." Cha tôi lúc ấy đã 67 tuổi, nói với
một giọng băn khoăn. Tôi đáp theo linh cảm của tôi:
-"Nhờ trời, con sẽ gặp cha trở
lại."
Trong khi chuẩn bị từ giã Sư phụ
và xứ sở mến yêu của tôi, tôi không khỏi bị xâm chiếm bởi một sự
lo ngại. Tôi thường nghe nói về chủ nghĩa duy vật ở phương Tây, nơi mà
người ta sống dưới một bầu không khí khác hẳn với bầu không khí đạo
vị thâm trầm của xứ Aán Độ. Tôi nghĩ rằng:
-"Thở bầu không khí của phương
Tây, đòi hỏi nhiều can đảm hơn là chịu đựng những cơn rét lạnh kinh
khủng trên dãy Tuyết Sơn!"
Một buổi sáng tôi thức dậy sớm
ngồi cầu nguyện, với lòng cương quyết sẽ tiếp tục cho đến khi tôi
nhận được một sự trả lời, dẫu cho tôi phải ngồi chết luôn tại chổ.
Tôi muốn được sự ân huệ và bảo đãm thiêng liêng rằng tôi sẽ không
bị đi lạc vào chốn mê đồ của nền văn minh vật chất. Tôi đã quyết
định đi sang Mỹ, nhưng tôi cũng muốn nhận được sự chấp thuận của
Thiêng Liêng.
Tôi cầu nguyện với hết cả tâm
hồn và đè nén cơn xúc động trong lòng tôi. Sự trả lời vẫn chưa đến.
Sự khẩn cầu thầm lặng của tôi tăng gia ráo riết đến nỗi vào lúc trưa,
khối óc của tôi đã quá căng thẳng đến mức không còn chịu nỗi sự cố
gắng: tôi có cảm tưởng rằng óc tôi sẽ nổ tung nếu tôi phát ra thêm một
lời cầu nguyện nữa. Ngay khi đó tôi nghe có tiếng gõ cửa. Tôi đứng dậy
mở cửa và thấy một người gương mặt còn trẻ mặc áo mầu vàng sậm
của giới tu sĩ xuất gia. Ngừơi ấy bước vào khép cửa lại cẩn thận
và từ chối không chịu ngồi ghế ra ám hiệu chỉ rằng người muốn đứng
nói chuyện mà thôi. Tôi ngạc nhiên và nghĩ thầm rằng vị tu sĩ này có lẽ
là đức Babâji, vì người ấy giống đức Lahiri Mahâsaya như đúc, tuy gương
mặt còn trẻ hơn.
Người ấy liền đáp ngay tư tưởng
của tôi:
-"Phải, ta là Babâji."
Ngài nói tiếng Hindi, thổ ngữ miền
Bắc Aán, với một giọng du dương trong trẻo.
-"Thượng Đế đã nghe lời cầu
nguyện của con. Ngài nói cho con biết rằng:Con hãy tuân lệnh Sư phụ con và
hãy đi sang Mỹ quốc. Con đừng sợ gì cả vì con sẽ được che chở."
Sau khi ngừng một lúc, đức Babâji
nói tiếp:
-"Con là người ta đã chọn lựa
để truyền bá Đạo pháp Kriyâ Yoga sang Tây phương. Nhiều năm về trứơc,
ta đã gặp Sư phụ con tại Thánh Lễ Kumbha Mela, và đã cho Sư phụ con biết
rằng ta sẽ gửi con đến cho người huấn luyện."
Tôi câm lặng vì ngạc nhiên, và lấy
làm cảm động vô cùng mà được nghe từ cửa miệng Sư tổ nói rằng
chính ngài đã dìu dắt tôi đến gặp Sư phụ tôi. Tôi bèn quỳ lạy dưới
chân thiêng liêng của Sư tổ và ngài đỡ tôi đứng dậy với đầy hảo
ý. Ngài tiết lộ cho tôi biết nhiều điều về cuộc đời của tôi, đưa
ra cho tôi vài chỉ thị và thốt ra vài điều tiên tri bí mật.
Sau cùng, ngài nói một cách trịnh
trọng:
-"Đạo pháp Kriyâ Yoga, một phương
pháp khoa học để tiếp xúc với Thượng Đế sẽ được truyền bá khắp
thế giới và giúp vào việc thiết lập sự điều hoà giữa các quốc gia,
khi con người biết cãm thông một cách trực tiếp với Thượng Đế."
Với một cái nhìn im lặng Sư tổ
bèn truyền cho tôi một linh ảnh về tâm thức siêu đẳng của ngài. Trong
chốc lát, ngài đã bước ra đến cửa và nói:
-"Con đừng đi theo ta. Vã lại
con cũng không thể theo được đâu."
Tôi khẩn cầu ngài liên tiếp:
-"Bạch Sư tổ, xin ngài đừng
đi mất! Xin Sư tổ hãy đem con đi theo với."
Babâji quay lại và nói:
-"Bây giờ con không đi được.
Hãy để lần khác."
Trong cơn xúc cảm, tôi không nghe lời
cảnh cáo đó. Tôi thử chạy theo ngài, thì thấy rằng hai chân tôi dính chặt
dưới đất. Đức Babâji còn quay lại nhìn tôi với cái nhìn trìu mến,
đưa tay ban ân huệ và lẳng lặng đi thẳng.
Sau một lúc, hai chân tôi đã cử
động được. Tôi ngồi xuống và đắm chìm trong cơn thiền định. Tôi tạ
ơn Thượng Đế không những đã đáp lời cầu nguyện của tôi, mà còn
ban cho tôi cái diễm phúc được gặp đức Babâji. Toàn thân tôi dường
như được thánh hoá bởi cuộc tiếp xúc với đức Sư tổ luôn luôn trẻ
mãi không già. Từ lâu tôi hằng ước mong được chiêm ngưỡng dung nhan của
ngài, thì nay lòng tôi đã thoả nguyện.
Cho đến nay, tôi không hề thổ lộ
với ai về cuộc gặp gỡ này; đó là một cơ hội nhiệm mầu nhất trong
đời tôi, mà tôi mãi mãi chôn chặt dưới tận đáy lòng. Nhưng tôi nghĩ
rằng độc giã sẽ tin tưởng một cách dễ dàng hơn về sự hiện diện của
đức Babâji và những trách nhiệm cao cả của ngài đối với vận mạng của
thế giới, nếu tôi quả quyết đã nhìn thấy ngài tận mắt. Tôi đã
giúp ý kiến cho một hoạ sĩ vẽ lại bức chân dung của ngài, một vị tổ
sư về Đạo pháp Yoga của xứ Aán Độ hiện kim.
Trước ngày tôi lên đường sang Mỹ
quốc, tôi đến viếng Sư phụ tôi. Người dặn dò tôi mấy lời sau đây:
-"Con nên có một thái độ cởi
mở, đừng quá thiên lệch về phía Aán Độ nhưng cũng đừng trở nên
quá "Mỹ" vì lẽ đó con hãy dung hoà những đức tính tốt của cả
hai chủng tộc. Con hãy luôn luôn giữ cái vị thế của mình là một đứa
con của Thượng Đế, một sứ giã của Thiêng Liêng."
Kế đó, Sư phụ ban ân huệ cho
tôi và nói:
-"Tất cả những ngừơi mộ Đạo
tìm đến con với một đức tin, sẽ được giúp đỡ. Dưới cái nhìn của
con, luồng điển lực tâm linh toát ra từ đôi mắt con sẽ thấm nhuần
vào trí óc của họ, làm cho họ thay đổi cuộc đời, và thức tỉnh nơi
họ cái tâm thức của Thượng Đế."
Sư phụ nói tiếp:
-"Con sẽ gây một ảnh hưởng
rất lớn đối với những linh hồn thành thật tìm Chân lý bất cứ nơi nào
con đi đến, dẫu cho ở những nơi hẻo lánh, con cũng sẽ thu hút nhiều bạn
tốt."
Hai điều tiên tri đó đã được
thực hiện. Tôi đến Mỹ quốc có một mình, không bạn bè quen thuộc, nhưng
tôi đã tìm thấy hàng nghìn linh hồn sẳn sàng thụ giáo đạo pháp Yoga cổ
truyền tự muôn đời.
Tôi từ giã Aán Độ vào tháng 8 năm
1920, do chiếc tàu"City of Sparta", tức chiếc tàu đầu tiên vượt
biển sang Mỹ quốc từ khi trận Đệ Nhất Thế Chiến chấm dứt. Tôi đã
trải qua rất nhiều khó khăn mới mua được vé tàu với tấm thẻ thông
hành của tôi.
Trong thời gian hành trình trên mặt
biển, một hành khách dưới tàu phát hiện rằng tôi là viên đại biểu Aán
Độ tại Đại Hội Tôn Giáo ở Boston.
Y bèn gợi chuyện:
-"Bạch đại đức, xin đại đức
vui lòng thuyết pháp cho các vị hành khách dưới tàu nghe vào tối ngày thứ
Năm tới đây về một đề tài nào đó, như "Cuộc đấu tranh tìm sống"
chẳng hạn."
Than ôi! Đó thật là một cuộc đấu
tranh để vớt vát thanh danh và sự sống của tôi trong buổi thuyết pháp tối
thứ Năm như tôi đã nhận thấy ngay sau đó! Sau những cố gắng vất vã
để soạn bài thuyết pháp của tôi bằng tiếng Anh nhưng vô hiệu quả,
sau cùng tôi phải bỏ cuộc vì những tư tưởng của tôi không chịu uốn
nắn dễ dàng theo những mẹo luật rắc rối kinh khủng của văn phạm Anh
ngữ! Tin tưởng nơi những lời nói của Sư phụ, tôi xuất hiện buổi tối
ngày thứ Năm trong phòng khách của chiếc tàu. Nhưng tôi không thể thốt
ra một lời nào, và vẫn im lặng đứng yên một chỗ trong khoảng trên mười
phút đồng hồ, sau cùng, cả cử toạ đều nhận thấy tình trạng lúng
túng của tôi bèn bất giác cười ầm lên.
Riêng tôi, tôi không cảm thấy muốn
cười chút nào, tôi bèn âm thầm cầu nguyện xin Sư phụ tôi hãy giúp đỡ
tôi.
_"Con phải nói!"
Giọng nói của Sư phụ vang rền
trong chỗ bí ẩn của tiềm thức tôi, sau khi tôi cầu nguyện đến người.
Kế đó những tư tưởng của tôi liền hoà điệu ngay tức khắc với những
mẹo luật khó khăn của Anh ngữ. Tôi nói thao thao bất tuyệt trong 45 phút
đồng hồ, làm cho cử toạ chăm chú nghe muốn đứng hơi thở. Nhờ bài
thuyết pháp này mà về sau tôi nhận được lời mời của nhiều hiệp hội
tôn giáo Hoa Kỳ để đi thuyết pháp tại các giảng đừơng của họ.
Tuy vậy, tôi không còn nhớ một chử
nào về những gì tôi vừa nói. Một cuộc thăm dò kín đáo trong giới
hành khách trên tàu cho biết rằng tôi đã giảng "một thời pháp đầy
cảm hứng bằng một thứ tiếng Anh rất trôi chảy". Được nghe tin tốt
lành đó, tôi thầm tạ ơn Sư phụ tôi về sự giúp đỡ của người; lại
một lần nữa tôi biết chắc chắn rằng những trở ngại về thời gian
và không gian không bao giờ có đối với Sư phụ tôi, và người luôn ở một
bên tôi.
Trong khi hành trình, thỉnh thoảng
tôi thấy băn khoăn sợ sệt với ý nghĩ rằng tôi còn phải thuyết trình
trước một cử toạ gồm những thính giả Anh và Mỹ tại Đại Hội Tôn
Giáo ở Boston. Tôi cầu nguyện Thượng Đế hãy giúp nguồn cảm hứng cho
tôi, nhưng không phải ở giữa những tiếng cừơi của toàn thể cử toạ!
Chuyến tàu "City of Sparta"
đến Boston vào cuối tháng 9. Ngày 6 tháng 10, tôi thuyết pháp lần đầu tiên
trên đất Mỹ. Tại Đại Hội Tôn Giáo, buổi thuyết trình được hoan nghênh
và tôi thở dài một tiếng nhẹ nhõm. Viên bí thơ của Hiệp Hội Tôn
Giáo Thống Nhất Hoa Kỳ có viết bài tường thuật về buổi thuyết pháp
của tôi. Nhờ cái ngân phiếu dồi dào của cha tôi, tôi có thể ở lại Mỹ
quốc sau ngày bế mạc Đại Hội. Tôi đã ở lại 4 năm tại Boston, trong
thời gian đó tôi đi thuyết pháp, mở lớp giảng pháp môn Yoga và xuất bản
một tập thi thơ về đạo lý nhan đề "Tiếng Hát của Linh Hồn".
Mùa hè năm 1924, tôi thực hiện một
chuyến đi vòng quanh Mỹ quốc, và thuyết pháp ở mỗi thành phố lớn trứơc
hàng nghìn thính giả. Năm 1925, nhờ sự trợ cấp tài chánh của những học
viên hảo tâm, tôi thiết lập tổng hành dinh trên một sườn đồi ở Los
Angeles. Dinh thự này là một kiến trúc đã xuất hiện trong linh ảnh của
tôi từ nhiều năm trước ở Kasmir. Tôi đã gởi ngay cho Sư phụ tôi một
tập hình ảnh và người đã trả lời tôi trên một tấm bưu thiếp viết
bằng tiếng Bengali, mà tôi xin dịch ra dưới đây:
Serampore, 11 tháng 8, 1926.
Yogananda, con yêu quý của thầy.
Thầy nhìn xem các bức ảnh đạo
viện và các môn đệ Yoga của con, mà lòng Thầy tràn ngập một niềm vui
khôn tả. Thầy lấy làm sung sướng mà nhìn thấy trong đó những môn sinh
Yoga của nhiều thành phố khác nhau bên Mỹ quốc.
Thầy nhìn tấm ảnh đạo viện với
cái cổng ngoài, con đường đưa lên sườn đồi và cái viễn ảnh cùng cảnh
vật xung quanh nhìn từ trên đồi mà lòng Thầy chỉ ứơc mơ một điều:
là có ngày Thầy sẽ ngắm nhìn những cảnh ấy tận mắt.
Bên này mọi sự đều tốt lành. Cầu
xin ân phước thiêng liêng được ban xuống cho con mãi mãi
SRI YUKTESWA GIRI
Thời gian trôi qua đã ghi dấu
khắp mọi nơi những hoạt động của tôi ở rải rác khắp mọi nơi bên
Mỹ quốc Tôi đi thuyết pháp tại hàng trăm các câu lạc bộ, trường học,
giảng đường, các nhà thờ và những tổ chức tinh thần khác nhau. Hằng
muôn hằng nghìn người Mỹ đã nhập môn để thụ pháp về đạo pháp
Yoga, và đã có dịp thấm nhuần nền minh triết thâm sâu của xứ Aán Độ
muôn đời bất diệt.
Đôi khi, thường là vào những
ngày đầu tháng, tôi cảm thấy nhớ nhà, nhớ xứ Aán Độ mến yêu với
sự trầm lặng yên tĩnh nghìn đời của nó. Nhưng với mỗi ngày qua, tôi
cảm thấy vui mừng mà nhận thấy một sự thông cảm rộng rãi lớn lao hơn
đã được xây dựng giữa Đông phương và Tây phương.
- Mục
lục | Lời tựa | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18 | 19 | 20 | 21 | 22 | 23 | 24 | 25|
- Chúng tôi chân thành cảm ơn Phật tử
Huỳnh Thanh Hương đã phát tâm đánh máy gởi sách này về tặng cho Ban
biên tập Đạo Phật Ngày Nay.