- XỨ PHẬT HUYỀN
BÍ
- Nguyên tác: AUTOBIOGRAPHIE D’UN
YOGI
- Của: Tu sĩ PARAMHANSA
YOGANANDA
CHƯƠNG HAI MƯƠI
MỘT TRƯỜNG
YOGA TẠI RANCHI
Trước khi tôi xuất gia theo
giòng tu sĩ Swâmi, một hôm Sri Yukteswar có nói với tôi một chuyện khá bất
ngờ.
-"Con có cảm thấy thiếu một
người vợ hiền để ssăn sóc con lúc tuổi già chăng? Con nghĩ rằng một
người gia trưởng làm một công việc hữu ích để nuôi dưỡng vợ con há
lại không làm đẹp lòng Thượng Đế sao?"
Tôi phản kháng trong sự kinh ngạc:
-"Bạch Sư phụ, Sư phụ đã biết
rằng ước vọng duy nhất của con trong kiếp này là xuất gia tầm đạo
kia mà!"
Sri Yukteswar cười lớn một cách cởi
mở đến nỗi tôi hiểu rằng người chỉ muốn thử thách tôi mà thôi.
Đoạn Sư phụ nói một cách chậm rãi:
-"Con hãy nhớ rằng người nào
từ bỏ những bổn phận thế gian, phải biện minh cho thái độ của mình
bằng cách đảm đương những trách nhiệm nặng nề đối với một gia đình
đông hơn nhiều, đó tức là đại gia đình nhân loại."
Tôi vẫn thường nuôi cái lý tưởng
giáo dục có thể phát triển tất cả mọi khía cạnh tính chất con ngừơi.
Tôi biết quá rõ cái hậu quả của nền giáo dục thông thường, nó chỉ
phát triển xác thể và trí tuệ. Những giá trị tinh thần và tâm linh là
những điều kiện thiết yếu của hạnh phúc, lại hoàn toàn thiếu hẳn
trong những chương trình giáo dục chính thức. Tôi bèn quyết định thành
lập một trường học đem cho thiếu niên học sinh một nền giáo dục
toàn mỹ để giúp cho họ trở nên nhữhg ngừơi tài đức vẹn toàn. Tôi
bắt đầu thâu nhận 7 thiếu sinh ở Dihika, một thành phố nhỏ ở tỉnh
Bengale.
Sau đó một năm nhờ lòng hào hiệp
giúp đỡ của vị quốc vương Kasimbazar, tôi đã có thể dời lớp học của
tôi đến Ranchi và lớp học càng ngày càng đông học trò, Ranchi, thành phố
của tỉnh Bihar cách Calcutta độ hai trăm dặm, có một khí hậu tốt lành,
được liệt vào hàng những nơi khí hậu lành mạnh nhất ở Aán Độ, các
đạo viện giữa vườn cây u nhàn tịch mịch, tự muôn đời về trước vẫn
là những trung tâm giáo dục ban bố cả hai nền học vấn thế tục và
giáo dục tâm linh.
Tại Ranchi, để dạy ban tiểu học
và trung học, tôi thiết lập chương trình gồm cả các môn canh nông, kỷ
nghệ và thương mại không kể những môn kỷ luật thông thường. Các học
sinh cũng học những pháp môn Yoga về tập trung tư tưởng và tham thiền
và một môn thể dục mệnh danh Yogoda mà tôi đã khám phá những nguyên tắc
đại cương vào năm 1916.
Sau khi năm học đầu tiên mãn
khoá, những đơn xin gia nhập năm sau lên đến số hai nghìn thiếu sinh. Nhưng
trường học chỉ có đủ chổ nội trú cho độ một trăm học sinh, và những
lớp mới cho học sinh ngoại trú được tổ chức thêm sau đó.
Tại học đường tôi phải lo săn
sóc những trẻ thiếu nhi và giải quyết những vấn đề gay go về phương
diện tổ chức. Những lời nói của đấng Jésus Christ thường trở lại
trong trí nhớ của tôi:"Ta nói thật cho các người biết, người nào
vì ta và chánh nghĩa của ta mà từ bỏ nhà cửa hay anh em, chị em, cha mẹ,
con cái hay đất vườn của họ sẽ nhận được ngay trong đời này nhiều
gấp trăm lần những nhà cửa hay anh em, chị em, cha mẹ, con cái hay đất
ruộng cùng với những sự khủng bố hay ngược đãi của người thế
gian, và trong đời sau họ sẽ được sống trường cữu muôn đời."
Sri Yukteswar bình luận những lời
ấy như sau:
-"Người hành giả đã từ bỏ
hôn nhân và cuộc sống gia đình, sẽ đổi những nỗi lo âu phiền luỵ của
một tiểu gia đình và của những hoạt động trần gian để đảm đương
lấy một trách nhiệm lớn lao hơn là phụng sự nhân loại; trong công
trình này y thừơng đụng chạm với sự hiểu lầm của người đời,
nhưng trái lại y sẽ nhận được phần thưởng là sự an lạc bên trong
thuộc về tính chất thiêng liêng."
Có lần cha tôi đến Ranchi để
thăm tôi sau một thời gian im lặng kéo dài, vì tôi đã làm trái ý cha tôi
khi tôi từ chối không nhận một địa vị của người dành cho tôi trong
Công Ty Hoả Xa. Cha tôi nói:
-"Con hỡi, cha đã thông cảm sự
chọn lựa của con. Cha sung sướng mà thấy con hoạt động giữa những thiếu
nhi vui tười và hồn nhiên. Cha nhìn nhận đó mới là chí hướng của con,
thay vì những văn phòng của công ty với những bản đồ vô tri bất động."
Cha tôi chỉ một nhóm độ 12 thiếu
nhi đang quanh quẩn bên cạnh tôi.
-"Cha chỉ có 8 người con,
nhưng cha hiểu những gì con đang kinh nghiệm!"
Trường có một khu vườn độ 26 mẫu,
tại đây các giáo viên và học trò cùng làm việc trong một lớp học lộ
thiên dưới bóng mát của các cây cổ thụ giữa một khung cảnh thiên
nhiên đầy thú vị."
Vào năm 1946, trường đã sống được
28 năm. Một trong những quan khách tai mắt đến viếng trường trong năm đầu
tiên, là tu sĩ Pranabâ, vị tu sĩ phân thân ở Bénarès. Tu sĩ lấy làm vô
cùng cảm động mà thấy những lớp học lộ thiên dưới bóng mát của
cây cối sầm uất, và những thiếu nhi tập ngồi tham thiền mỗi buổi chiều
dưới gốc cây giữa cảnh thanh u tịch mịch. Tu sĩ nói:
-"Tôi lấy làm sung sướng mà
thấy lý tưởng giáo dục thanh thiếu niên do đức Lahiri Mahâsaya chủ trương,
được đem ra thực hiện ở trường này. Cầu xin ân huệ của sư phụ ta
đến với con."
Một thanh niên đứng gần bên tôi
lúc ấy bèn hỏi vị tu sĩ:
-"Bạch Đại Đức, sau này con
có thể trở nên một tu sĩ chăng? Con có thể hiến dâng cuộc đời con cho
Thượng Đế chăng?"
Tu sĩ Pranabâ mĩm cười một cách
nhẹ nhàng và phóng tầm nhỡn quang về tương lai:
-"Con hỡi, khi con trưởng thành,
có một vị hôn thê rất đẹp sẽ chờ đợi con."
Quả thật, người thiếu sinh về
sau đã thành gia thất sau nhiều năm ước nguyện xuất gia để theo giòng
tu sĩ Swâmi.
Ít lâu sau cuộc viếng thăm của tu
sĩ Pranabâ, tôi theo cha tôi đến tịnh thất của tu sĩ ở Calcutta, khi đó
lời tiên tri của tu sĩ thốt ra từ nhiều năm về trước mới trở lại ký
ức của tôi. Hồi đón người đã nói rằng:
-"Tôi sẽ gặp lại con và cha
con một ngày về sau."
Khi cha tôi bước vào phòng tu sĩ,
người liền đứng dậy và ôm chầm lấy cha tôi một cách trọng hậu và
quý mến. Người nói:
-"Bhagabati, anh nên tự hào về
cái phước lớn của anh. Anh há chẳng thấy rằng con anh đang lao mình vào
lòng của đấng Vô Cùng?"
Tôi hổ thầm vì được khen tặng
dường ấy trước mặt cha tôi. Tu sĩ Pranabâ mà tôi đã gặp với một
vóc dáng mạnh khoẽ lực lưỡng trong cuộc viếng thăm lần đầu ở Bénarès
trước đây, nay đã có vẻ già nhiều, tuy người vẫn còn đi đứng ngay
thẳng, tôi hỏi và nhìn tu sĩ ngay vào tận mắt:
-"Bạch Đại Đức, Đại Đức
có cảm thấy sự già nua đến gần hay chăng? Khi xác thân yếu dần, sự
chiêm ngưỡng Thiêng Liêng có bị thương tổn chút nào chăng?"
Tu sĩ mỉm cười một cách êm ái:
-"Đấng Thiêng Liêng còn gần
tôi hơn bất cứ lúc nào!"
Sự quả quyết mãnh liệt này gây
một ấn tượng mạnh mẽ trong tâm hồn tôi. Người nói tiếp:
-"Tôi vẫn thụ hưởng hai món
hưu bổng: một của Bhagabati và một của Thượng Đế!"
Vừa đưa một ngón tay lên trời,
tu sĩ liền rơi vào trạng thái xuất thần đại định và gương mặt người
chiếu dịu một vầng ánh sáng thiêng liêng huy hoàng: thật là một cách trả
lời hùng biện nhất.
Nhận thấy phòng tu sĩ Pranabâ chứa
đầy những chậu cây và những hột giống, tôi hỏi những thứ ấy để
dùng làm gì? Tu sĩ giải thích:
-"Tôi sẽ rời khỏi Bénarès một
cách vĩnh viễn để lên dãy Tuyết Sơn, tại đó tôi sẽ lập một đạo
viện cho các đệ tử tôi. Những hột giống này là để sản xuất các loại
rau trái. Các đệ tử tôi sống rất giản dị và dành hết thời giờ cho
việc tu luyện. Ở đời còn gì cần hơn nữa?"
Cha tôi hỏi tu sĩ có định trở về
Calcutta một ngày gần đây không? Tu sĩ đáp:
-"Không bao giờ. Theo lời tiên
đoán của đức Lahiri Mahâsaya, năm nay là năm mà tôi phải rời khỏi đất
Bénarès mến yêu của tôi để lên dãy Tuyết Sơn, tại đó tôi sẽ bỏ
xác trong kiếp này."
Nghe đến đó, tôi rưng rưng hai giòng
nước mắt. Nhưng tu sĩ vẫn mỉm cười trong im lặng, người có vẻ rất
ung dung tự tại như một người con yêu của Đức Phật Mẫu đặt vận mạng
mình trong vòng tay của ngài. Một người Yogi chân chính đã đạt tới sự
giác ngộ tâm linh, không còn sợ những năm tàn, tháng lụn. Người có thể
đổi mới những tế bào trong thân thể mình tuỳ ý; tuy nhiên đôi khi người
cũng không màng trì hoãn sự tàn phá của thời gian mà cứ để cho nghiệp
quả tự do hành động và dứt tuyệt ngay trong cuộc sống hiện tại để
không còn phải lo trả trong một kiếp khác.
Vài tháng sau đó tôi gặp một người
bạn cũ tên Sanandan, đệ tử của tu sĩ Pranabâ. Y vừa khóc vừa nói:
-"Sư phụ tôi không còn nữa.
Sau khi thành lập đạo viện gần Rishikesh, người dạy chúng tôi trong tình
thương. Khi chúng tôi đã yên nơi chỗ và đang tiến bộ mau chóng dưới sự
hướng dẫn của người thì một ngày nọ Sư phụ mở tiệc lớn đãi một
số đông người ở Rishikesh. Tôi mới hỏi lý do vì sao Sư phụ lại làm
như vậy thì Người nói:
-"Đó sẽ là một dịp long trọng
cuối cùng của Thầy." Lúc đó tôi không hiểu ý nghĩa những lời nói
của Sư phụ. Ngày đại nhật hôm ấy, Sư phụ tôi dặn mua rất nhiều lương
thực. Chúng tôi đãi ăn hơn hai ngàn người. Kế đó Sư phụ ngồi lên một
bậc thềm cao và ứng khẩu thuyết pháp về Đấng Tuyệt Đối. Thuyết pháp
xong, trước mặt mọi người, Sư phụ day qua phía tôi lúc ấy đang đứng
bên cạnh người, và nói với một giọng mạnh mẽ lạ thường:
-"Con hãy sẳn sàng, Sanandan, Thầy
sắp bỏ xác."
Sau một cơn im lặng vì ngạc
nhiên, tôi la lên:
-"Bạch Sư phụ, đừng, Sư phụ
đừng làm thế."
Đám quần chúng ngạc nhiên vì câu
chuyện lạ lùng đó, trố mắt nhìn chúng tôi một cách tò mò. Sư phụ mỉm
cười nhìn tôi nhưng nhãn quang người đã hướng về cõi Vô Cùng. Người
đáp:
-"Con đừng ích kỷ và đừng nên
sầu thảm vì sự ra đi của Thầy. Bây giờ con hãy vui lên vì Thầy sắp
trở về với Đấng Tuyệt Đối!"
Trong một hơi thở dài, Sư phụ nói
thêm:
-"Thầy sẽ tái sinh trở lại một
ngày gần đây. Sau khi đã trải qua một thời kỳ ngắn ngủi trong niềm
phúc lạc vô biên, thầy sẽ trở lại thế gian để theo đức Bâbâji.
Không bao lâu con sẽ được biết Thầy chuyển kiếp ở đâu và vào lúc
nào linh hồn Thầy lại khoác lấy một thể xác mới."
Sư phụ lại kêu lên, Sanandan con hỡi,
thầy từ giã thể xác bằng đệ nhị pháp môn Kriyâ Yoga!"
"Khi ấy Sư phụ mới nhìn vào
đám đông người và đưa tay làm một cử chỉ ban ân huệ. Sau khi đã thu
thập tinh thần nhìn vào bên trong theo phép hồi quang phản chiếu, người bèn
ngồi yên bất động. Chính vào lúc mà quần chúng tưởng rằng người
đang lọt vào trạng thái đại định xuất thần, thì Sư phụ đã bỏ xác
và hoà hợp linh hồn với Đại Thể vô biên của vũ trụ. Các đệ tử đến
sờ vào thân mình của Sư phụ. Vẫn còn giử tư thế liên hoa, nhưng xác
thân đã lạnh, linh hồn người đã thoát lên cõi giới trường tồn bất
diệt."
Tôi bèn hỏi Sanandan về địa điểm
tại đó Sư phụ y sẽ tái sinh trở lại. Y đáp:
-"Đó là một điều bí mật
mà tôi không được tiết lộ cho bất cứ người nào. Sau này có lẽ anh sẽ
tự mình biết được điều đó bằng cách này hay cách khác."
Về sau tu sĩ Keshabâ cho tôi biết rằng
tu sĩ Pranabâ ít năm sau khi tái sinh trở lại, đã đến Badrinârayan, trên
dãy Tuyết Sơn để gia nhập nhóm đệ tử cao cấp của đức Bâbâji.
II
-"Các em đừng lội xuống
ao. Các em hãy tắm bằng cách lấy gáo nước dội lên mình mà thôi."
Tôi dặn các thiếu sinh trường học
Ranchi của tôi, khi các em cùng với tôi đi dạo lên một ngọn đồi gần bên,
cách đó độ mười hai cây số.
Trên đồi có một cái ao đầy nước
có vẽ hấp dẫn, nhưng khi nhìn thấy ao, tôi có cảm giác rờn rợn một
cách bí mật, không thể giải thích lý do. Phần đông các thiếu sinh nghe
theo lời khuyên của tôi, nhưng có vài bị quyến rũ bởi nước trong và
mát; khi các em vừa lặn xuống áo thì các con rắn liền vây phủ chung
quanh; để thoát thân các em phải hối hả nhảy vọt lên bờ một cách thật
buồn cười.
Tắm xong tôi đưa các em thiếu sinh
lên đồi và chúng tôi dùng bữa ăn trưa trên bãi cỏ. Ngồi dưới bóng
mát một cây to tôi bị các em vấn nạn với nhiều câu hỏi, vì các em tửơng
rằng tôi có nhiều linh cảm thiêng liêng sau vụ bị rắn rượt dưới ao.
Một em hỏi tôi:
-"Bạch Thầy sau này con có thể
nào xuất gia tu hành theo thầy được không?"
-"Không," tôi đáp"Cha mẹ
em sẽ bắt em về và sau này em sẽ lập gia đình."
Em không tin và phản đối kịch liệt:
-"Con chỉ bị bắt về khi nào
con chết."
Nhưng sau đó vài tháng cha mẹ em tới
trường bắt em về, mặc dù em kháng cự rất mãnh liệt. Về sau, em ấy đã
lập gia đình.
Sau khi tôi đã trả lời nhiều câu
hỏi, một thiếu sinh tên là Kashi, độ mười hai tuổi mới bắt đầu hỏi
tôi. Em là một học trò giỏi và được mọi người thương mến.
-"Bạch Thầy, số mạng của
con sau này ra sau?"
-"Em sẽ qua đời một ngày gần
đây."
Câu trả lời này vô tình từ miệng
tôi thốt ra mà tôi không cưởng lại được. Lời tiên tri bất ngờ và chẳng
lành đó làm cả nhóm thiếu sinh đều xúc động và buồn thảm. Tôi bèn hối
hận trong âm thầm và từ chối không trả lời thêm những câu hỏi khác nữa.
Khi trở về trường, Kashi đến tìm
tôi trong phòng riêng.
-"Bạch Thầy, nếu con chết, Thầy
có tìm lại con chăng khi con tái sinh trở lại, để dìu dắt con trên đường
Đạo?"
Em vừa nói vừa khóc nức nở.
Tôi bắt buộc phải từ chối việc
nhận lãnh một trách nhiệm nặng nề như thế về phương diện huyền
linh. Nhưng trong những tuần lễ sau đó, Kashi cứ theo nài nỉ van xin tôi một
cách khẩn thiết đến nỗi tôi phải bằng lòng chấp thuận để an ủi
em. Tôi nói:
-"Được rồi, nếu Thượng Đế
chịu giúp Thầy. Thầy hứa sẽ cố gắng hết sức để tìm lại em."
Trong những tháng nghỉ hè, tôi phải
đi một chuyến du lịch ngắn hạn. Rất buồn vì không đem Kashi đi theo, tôi
gọi em vào phòng và căn dặn em đừng bỏ trường đi đâu, mà phải ở lại
trong bầu không khí tâm linh có chứa đựng từ điển tốt lành của trường.
Tôi cảm thấy rằng, nếu em đừng về nhà trong những tháng hè, em có thể
tránh khỏi điều tai hoạ đang chờ đợi em.
Khi tôi vừa rời khỏi Ranchi, thì
cha của Kashi đã đến trường. Trong suốt hai tuần lễ y cố gắng thuyết
phục Kashi hãy trở về nhà thăm mẹ ở Calcutta trong bốn ngày, và hứa sẽ
đem em trở lại trường, Kashi từ chối không chịu đi. Sau cùng người cha
nói rằng y sẽ nhờ cảnh sát can thiệp để bắt em trở về. Lời hăm doạ
đó làm cho Kashi phân vân, và sợ rằng điều đó sẽ gây tai tiếng không
tốt cho trường, em đành phải chịu vâng lời.
Vài ngày sau, tôi trở về trường
và khi tôi nghe nói Kashi đã bị cha đến bắt đi, tôi liền hối hả đáp
chuyến xe lửa đi Calcutta. Khi đến nơi, tôi thuê một chiếc xe ngựa. Khi cổ
xe đi qua cầu Howrah trên sông Hằng, thì… lạ thay tôi thấy cha của Kashi
đang mặc đồ tang. Tôi bảo người phu xe ngừng lại, tôi nhảy vọt ra
ngoài xe và phóng đến trước mặt người cha vô phước.
-"Kìa, ông già sát nhân!",
tôi kêu lên với một giọng hơi vô lý, "ông đã giết chết học trò
của tôi!"
Người cha đã hiểu sự lỗi lầm
của mình khi cưỡng bách con y trở về Calcutta. Trong những ngày đầu tiên
về ở thành phố này, Kashi đã ăn nhằm thức ăn bị nhiễm trùng, làm cho
em mắc bịnh thời khí và đã trút linh hồn.
Tình thương của tôi đối với
Kashi và lời hứa của tôi sẽ tìm lại em khi em đầu thai trở lại, ám
ảnh tôi ngày đêm. Bất cứ tôi đi đâu, tôi đều thấy gương mặt của
em hiện ra trưóc mắt tôi. Tôi bắt đầu cuộc tìm kiếm một cách sốt sắng
tuyệt vọng cũng như tôi đi tìm mẹ tôi vậy.
Tôi cảm thấy rằng nếu Thượng
Đế đã cho tôi có một lý trí, tôi có thể sử dụng nó theo một chiều
hướng nhằm mục đích khám phá những luật huyền bí cai quản sự tác động
của một linh hồn ở bên kia cửa tử, như vậy để trắc nghiệm cái khả
năng và bản lĩnh mà tôi đã thu thập nhờ pháp môn Yoga. Từ nay Kashi là một
linh hồn, rung động với những ước vọng chưa được thoả mãn, một điểm
linh quang phưởng phất trong số hằng triệu linh hồn khác trên cõi trung giời.
Giữa tất cả những âm ba rung động toát ra từ vô số những linh hồn
khác, tôi làm cách nào để có thể tiếp nhận sự rung động của linh hồn
Kashi?
Sử dụng một bí thuật Yoga, tôi tập
trung tất cả tình thương của tôi đến linh hồn Kashi xuyên qua bí huyệt
của Linh Nhỡn nằm giữa hai chân mày. Dùng hai bàn tay và các ngón tay làm
những dây "ăng ten", tôi đi xoay vòng ở một chỗ trên hai bàn
chân để định phương hướng do đó tôi phải tìm ra linh hồn đã nhận
được thông điệp của tôi. Bằng cách đó tôi hy vọng nhận được một
sự trả lời, trong trường hợp này, tôi dùng bí huyệt ở quả tim làm
cái trạm thu thanh vô tuyến
Trực giác cho tôi biết rằng Kashi
không bao lâu sẽ đầu thai trở lại thế gian, và nếu tôi cứ tiếp tục
kêu gọi không ngừng, thì linh hồn em sẽ đáp ứng. Tôi biết rằng tôi sẽ
cảm xúc được một cách chắc chắn mọi cảm ứng của Kashi trên những
ngón tay, bàn tay, trên lưng và thần kinh hệ của tôi.
Không hề nản chí tôi kiên tâm thực
hành bí thuật Yoga kể trên trong sáu tháng trường kể từ ngày Kashi qua đời.
Một buổi sáng, tôi cùng với vài người bạn đi chơi ở khu Bowbazar tại
Calcutta, là một khu rất đông người. Như thường lệ, tôi đưa bàn tay
lên, và lần đầu tiên tôi cảm thấy có sự trả lời! Một sự rung cảm
truyền khắp thân mình khi tôi phát hiện ra một luồng điện chạy trong mấy
ngón tay và hai bàn tay tôi. Luồng điện ấy liền truyền lên óc tôi thành
một tư tưởng cụ thể và kêu gọi liên tiếp:
-"Con là Kashi. Con là Kashi đây.
Thầy hãy đến với con."
Khi tôi thu thập tinh thần vào chỗ
bí huyệt ở quả tim, thì cái tư tưởng ấy trở nên rõ ràng gần như có
thể nghe được. Tôi nghe giọng nói hơi khàn khàn đặc biệt của Kashi lập
đi lập lại lời kêu gọi của em luôn luôn không ngừng. Tôi nắm lấy
cánh tay của một người bạn trong nhóm, là Prokash Das, và mỉm cười với
y một cách hứng khởi.
-"Hình như tôi đã tìm ra chổ
đầu thai của Kashi!"
Tôi bèn xoè mười ngón tay và đi
xoay vòng ở một chổ trên hai bàn chân tôi để định hướng. Các bạn
tôi và người đi đường thấy thế đều buồn cười. Khi tôi đi rẽ vào
một con đường nhỏ, thì tôi cảm giác được luồng điện giật nhè nhẹ
lăn lăn trên những ngón tay tôi. Tôi thử quay đầu đi ngược chiều để
qua một lối khác, thì luồng điện lại ngưng bặt. Tôi bất giác kêu
lên:
-"A! linh hồn Kashi chắc là nằm
trong bụng một ngừơi mẹ cư ngụ tại con đường này!"
Khi chúng tôi đến gần con đường
nhỏ nói trên thì những rung động lăn tăn của luồng điện mỗi lúc
càng mạnh thêm và càng rõ rệt trong hai bàn tay tôi. Tôi có cảm giác dường
như một viên đá nam châm hấp dẫn tôi từ phía tay mặt của con đường
nhỏ này. Khi đi vừa tới cửa một nhà nọ, một sự xúc cảm thình lình
xâm chiếm lấy tôi. Tim đập mạnh vì hồi hộp, tôi vừa nín thở vừa
gõ cửa với ý nghĩ rằng sự tìm kiếm kiên nhẫn và lạ kỳ của tôi sắp
sửa thành công!
Một người gia nô ra mở cửa và
cho biết có chủ y ở nhà; ngay lúc ấy người chủ nhà cũng bước ra để
gặp tôi. Tôi không biết phải mở lời như thế nào cho tiện vì câu hỏi
của tôi trong trừơng hợp này có vẻ như một sự tò mò.
-"Thưa ông, có phải bà đang có
mang độ chừng sáu tháng nay?"
-"Thưa phải"
Nhìn thấy tôi là một tu sĩ xuất
gia khoác bộ áo vàng sậm, chủ nhà lễ phép hỏi:
-"Xin Đại Đức cho biết vì
sao Đại Đức biết như vậy?"
Tôi bèn kể chuyện về Kashi và lời
hứa của tôi. Người chủ nhà lấy làm ngạc nhiên và tin lời tôi nói.
-"Bà nhà sẽ sinh ra một con
trai, nước da trắng, gương mặt hơi rộng bề ngang và có những khả năng
tâm linh khá phát triển."
Tôi nói thế vì tôi chắc rằng đứa
bé sẽ giống Kashi như đúc!
Về sau, tôi đến thăm đứa bé mà
cha mẹ nó đặt tên là Kashi. Em bé này giống một cách lạ thừơng người
thiếu sinh yêu mến của tôi ở Ranchi. Khi em vừa thấy tôi em liền có cảm
tình ngay, tình yêu mến thuở xưa lại bộc lộ một cách mãnh liệt hơn
trước.
Năm em lên mười tuổi, em bé ấy
viết thơ cho tôi, lúc ấy đang ở bên Mỹ quốc và bày tỏ sự mong ước
nồng nhiệt của em là theo con đường tu hành. Tôi liền gửi gấm em cho một
vị minh sư trên dãy Tuyết Sơn, vị này hiện nay đang hướng dẫn Kashi tái
sinh, và huấn luyện em trên đường Đạo.
- Mục
lục | Lời tựa | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18 | 19 | 20 | 21 | 22 | 23 | 24 | 25|
- Chúng tôi chân thành cảm ơn Phật tử
Huỳnh Thanh Hương đã phát tâm đánh máy gởi sách này về tặng cho Ban
biên tập Đạo Phật Ngày Nay.