- XỨ PHẬT HUYỀN
BÍ
- Nguyên tác: AUTOBIOGRAPHIE D’UN
YOGI
- Của: Tu sĩ PARAMHANSA
YOGANANDA
CHƯƠNG MƯỜI TÁM
TÔI TRỞ
THÀNH TU SĨ XUẤT GIA
Kỳ thi Cử Nhân Văn Khoa của
trường đại học Calcutta đã đến. Như bạn đọc đã biết tôi không phải
là một người học trò chăm học, rất ít khi đi đến trường và chỉ học
bài một cách hối hả, gấp rút vào giờ chót, vài ngày trước khi đi thi.
Tuy vậy do một sự may mắn lạ thường, tôi được ưu điểm về môn triết
học, và có vừa đủ số điểm trung bình về các môn học khác.
Cha tôi không còn nỗi vui mừng nào
lớn hơn, khi nghe tin tôi thi đậu. Người nói:
-"Thật cha không dám hy vọng rằng
con sẽ thi đậu, Mukunda. Con dành quá nhiều thời giờ gần bên Sư phụ con
ở đạo viện!"
Trong nhiều năm, tôi không hề dám
ước mong có ngày danh hiệu Cử Nhân Văn Khoa sẽ đi kèm đằng sau tên
tôi. Tôi ít khi dùng danh hiệu ấy mà không nghĩ rằng đó là một ân huệ
của thiêng liêng ban cho tôi vì một lý do bí ẩn nào đó mà tôi không được
biết rõ."
-"Bạch Sư phụ, cha con muốn
cho con nhận một chức vụ trong Công Ty Hoả Xa, nhưng con đã quyết liệt từ
chối". Tôi thưa với Sri Yukteswar vào một ngày nọ, và tôi nói thêm một
cách tuyết vọng:
-"Xin Sư phụ hãy cho con làm lễ
xuất gia."
Tôi nhìn Sư phụ bằng cặp mắt
van xin một cách khẩn thiết. Trong nhiều năm, Sư phụ đã từ chối lời
yêu cầu của tôi để đặt tôi trong một cuộc thử lòng. Nhưng lần này
người vui vẻ nhận lời:
-"Được rồi ngày mai thầy sẽ
làm lễ xuất gia cho con."
Người lại nói thêm:
- "Thầy rất vui mà thấy con vẫn
kiên quyết mong muốn trở thành một tu sĩ. Đức Lahiri Mahâsaya vẫn thừơng
nói:"Nếu ta không mời Thượng Đế vào nhà trong thời kỳ còn xuân
xanh thì ngài sẽ không đến với ta vào lúc mùa đông của cuộc đời."
-"Bạch Sư phụ, con không bao giờ
quên mục đích ấy, là được xuất gia theo giòng tu sĩ Swami, như Sư phụ
vậy."
Tôi mỉm cười nhìn Sư phụ với tất
cả tấm lòng quý mến và nhớ đến một câu trong thánh kinh:
"Người không lập gia đình
thì lo việc Đạo và tìm cách làm vui lòng Thượng Đế; còn người lập
gia đình thì lo việc đời và tìm cách làm vui lòng vợ nhà."
Tôi đã quan sát cuộc đời của
nhiều bãn hữu đã từng lập gia đình sau khi muốn theo đuổi một đời sống
tâm linh. Đắm chìm trong biển trần gian tục luỵ với những lo âu vô bờ
bến, họ đã quên hẳn chí nguyện công phu hành đạo, tham thiền.
Ngày hôm sau là một trong những
ngày đáng ghi nhớ nhất của cuộc đời tôi.Đó là một ngày hè sáng sủa
đẹp trời vào tháng bảy năm 1914, vài tuần sau khi tôi nhận lấy cấp bằng
Cử Nhân Văn Khoa. Trên bao lơn đạo viện ở Serampore, Sư phụ nhuộm màu
vàng sậm, tức màu áo cổ truyền của giới tu sĩ, một mảnh lụa trắng
mới nguyên. Khi mảnh lụa đã khô ráo. Sư phụ quấn nó trên mình tôi để
mặc vào cho tôi, như biểu tượng của sự dứt bỏ cuộc đời trần gian.
Sư phụ giải thích:
-"Một ngày kia, con sẽ sang các
nước Aâu Mỹ, ở nơi đó người ta thích lụa hơn. Với ý nghĩa tượng
trưng. Thầy chọn cho con manh áo lụa, thay vì áo vải theo truyền thống của
các dòng tu sĩ"
Bên Aán Độ là nơi mà các tu sĩ
đều lập nguyện thanh bần, một vị tu sĩ mặc áo lụa là một cảnh tượng
ít có. Tuy nhiên nhiều tu sĩ Yogi cũng mặc áo lụa vì nó gìn giữ những
giòng từ điển của thể xác hơn là áo vải.
Trong dịp làm lễ cho một người
trở thành một tu sĩ xuất gia có nhiều lễ nghi phiền phức nhưng Sri
Yukteswar vốn chủ trương giản dị tối đa trong mọi việc, đã miễn tất
cả những nghi lễ đó và chỉ yêu cầu tôi chọn lấy một pháp danh. Người
mỉm cười và nói:
-"Thầy cho con cái đặc quyền
tự mình chọn lấy một pháp danh."
Sau một lúc suy nghĩ tôi đáp:
-"Pháp danh của con là
Yogânanda."
Danh hiệu này có nghĩa là:
"Phúc lạc (Amanda) sở đắc được nhờ bởi Hợp Nhất với Thiêng
Liêng (Yoga)."
-"Được lắm! kể từ nay con sẽ
từ bỏ tên Mukunda Lal Ghosh và sẽ lấy pháp danh là Yogânanda thuộc dòng tu
sĩ Swami"
Tôi quỳ trước mặt Sư phụ và
khi tôi nghe Sư phụ xướng pháp danh mới của tôi lần đầu tiên, lòng
tôi tràn ngập một niềm biết ơn sâu xa đối với người. Với một tình
thương bao la Sư phụ đã cố gắng huấn luyện không ngừng để đào tạo
chàng thanh niên Mukunda trở nên tu sĩ Yogânanda.
Người tu sĩ Swâmi thuộc về một
giòng tu cổ xưa do đức giáo chủ Sankara thành lập. Dòng tu này đã trải
qua hằng bao nhiêu thế kỷ do một truyền thống liên tục gồm các vị Tăng
thống đạo hạnh cao thâm để duy trì sự nghiệp tâm linh cảu vị thuỷ tổ
Shankara. Dòng tu Swâmi chủ trương lập nguyện thanh bần, khiết bạch và
vâng lời.
Cái lý tưởng phụng sự nhân loại,
dứt bỏ mọi điều tham vọng và ái dục nó trói buộc với cuộc đời thế
gian làm cho phần nhiều các tu sĩ Swâmi đảm trách lấy một công trình cứu
tế hay giáo dục ở Aán Độ và đôi khi cũng ở ngoại quốc. Gạt bỏ tất
cả mọi thành kiến về giai cấp, Tôn giáo, màu da, nam nữ hay chủng tộc,
một tu sĩ Swâmi hoàn toàn thấm nhuần lý tưởng bác ái đại đồng trong
nhân loại. Người nêu cao một mục đích đó là sự hoàn toàn hoà hợp với
Tinh Thần. Dù trong lúc tỉnh giấc hay khi ngủ mê, tâm thức của người tu
sĩ luôn luôn thấm nhuần tư tưởng:"Ta là Chân Ngã hay Chân Như Phật
Tánh." Bởi đó vị tu sĩ Swâmi tuy thân còn ở nơi trần thế, nhưng lòng
đã thoát tục và không còn vướng bận chuyện trần gian. Chỉ khi đó ngừoi
mới xứng đáng với danh hiệu của người, vì danh từ phạn ngữ Swâmi
có nghĩa là: người đang tìm cach hợp nhất với Đại Ngã hay Chân Như Phật
Tánh. Lẽ tự nhiên cũng cần nói thâm rằng không phải tất cả các tu sĩ
Swâmi đều đã đạt tới cái lý tưởng tối cao đó một cách đồng đều
nhau.
Sri Yukteswar vừa là một tu sĩ Swâmi
lại vừa là một người Yogi. Người tu sĩ Swâmi xuất gia theo dòng tu truyền
thống của đức giáo chủ Shankara, không hẳn là một người Yogi. Người
Yogi là người tu luyện theo một pháp môn nhất định dăùt dẫn tới sự
ngộ Đạo hay giao cảm với Thiêng Liêng, y có thể là người độc thân
hay có gia đình, tu tại gia hay xuất gia. Người tu sĩ Swâmi noi theo con
đưong luận thuyết triết lý, và từ bỏ thế gian còn người Yogi thực hành
một pháp môn được quy định một cách chặc chẽ nhằm mục đích chủ
trì thể xác lẫn tinh thần và đưa linh hồn đến mục đích giải thoát.
Ở mỗi thế kỷ pháp môn Yoga đã từng đem đến cho Aán Độ những bậc
sirêu nhân đã đắc đạo giải thoát.
Trái hẳn với người thường, một
người Yogi chân chính có thể sống ngoài thế gian mà vẫn trung thành với
lý tưởng tối cao của mình. Thật là một điều cao quí mà làm tròn những
bổn phận thế gian, đồng thời chủ trị những dục vọng ích kỷ thấp
hèn, để nhằm mục đích trở nên một khí cụ hoạt động có ý thức
và thuận theo Thiên Ý.
II
-"Những ngày tàn của
Ananta đã sắp đến; y sẽ không còn sống được bao lâu nữa!"
Những lời này vang dội trong trí
tôi một buổi sáng, khi tôi đang đắm chìm trong cơn thiền định. Ít lâu
sau khi tôi xuất gia theo dòng tu sĩ Swâmi, tôi trở về quê quán ở Gorakhpur
để thăm nhà, và tạm trú tại nhà của anh tôi. Một cơn bịnh bất ngờ
làm cho anh tôi phải nằm liệt giường, tôi săn sóc anh tôi hết lòng.
Lờu báo điềm gở kể trên làm
cho tôi rất buồn. Tôi cảm thấy không thể ở nán lại Gorakhpur để chứng
kiến một cách bất lực cơn hấp hối của anh tôi. Trước lời xét đoán
gay gắt của cha tôi, tôi rời khỏi Aán Độ do chuyến tàu đầu tiên khởi
hành sang Miến Điện, rồi vượt biển Trung Hoa để sang Nhật Bổn. Tôi bước
chân lên hải cảng Kobé và lưu trú tại đây vài ngày. Trong lòng buồn bực,
tôi cảm thấy không có hứng thú để đi ngoạn cảnh.
Trên đường về Aán Độ, tàu
nghé bến Thượng Hải. Bác sĩ Misra, Y sĩ trên tàu, đưa tôi đi dạo phố
ngắm cảnh. Tôi có dịp viếng những cửa tiệm để mua ít quà lạ đem về
biếu thân nhân và bạn bè. Tôi mua một món quà bổn xứ cho Ananta. Người
chủ tiệm Trung Hoa vừa đưa cho tôi món quà mới mua, tôi liền đánh rơi
xuống đất và nghẹn ngào kêu lên:
-"Anh tôi đã mất rồi!"
Bác sĩ Misra nhìn tôi với một nụ
cười hoài nghi:
-"Đại đức chớ vội bi quan;
để chờ xem có tin gì không đã."
Khi tàu cặp bến Calcutta, tôi cùng
lên bờ với bác sĩ Misra. Em út tôi, Bishnu, đã đợi tôi trên bến. Tôi liền
nói trước, không để cho em tôi có thì giờ mở miệng:
-"Anh biết rằng Ananta đã từ
trần. Em hãy nói trước mặt bác sĩ đây, cho biết xem anh mất vào ngày
nào?"
Bishnu liền nói đúng ngày mà tôi
mua món quà biếu cho Ananta ở Thượng Hải.
Bác sĩ Misra liền nói:
-"Lạ thật! Nhưng chúng ta
không nên loan tin này, kẻo các giáo sư lại thêm một năm học về thần
giao cách cảm vào chương trình ban Y Khoa, vốn dĩ đã nặng nhọc lắm rồi!"
Khi tôi về đến nhà, cha tôi ôm lấy
tôi một cách nồng nhiệt khác thường:
Hai giòng lệ chảy xuống hai bên
gò má cha tôi. Bình nhật không hề biểu lộ tình cảm ra ngoài, người
chưa bao giờ tỏ ra với tôi những cử chỉ yêu mến như thế. Tuy bên
ngoài có vẻ nghiêm nghị, người có bên trong một quả tim ưu ái của một
người mẹ. Trong gia đình, người đóng một vai trò song đôi của bậc phụ
mẫu.
Ít lâu sau khi Ananta từ trần,
Nalini, em gái tôi, được cứu thoát khỏi nanh vuốt của Tử Thần vì em
được chữa khỏi bịnh một cách nhiệm mầu. Trước khi kể lại chuyện
này, tôi xin nói vài lời về cuộc đời của em.
Từ thuở nhỏ, tôi và em gái tôi vẫn
không thuận nhau. Tôi là một thiếu nhi rất gầy ốm, nhưng Nalini lại còn…
gầy hơn nữa! Do bởi một thứ "mặc cảm" vô ý thức nào đo, mà
những nhà phân tâm học có lẽù nhận biết được dễ dàng, tôi thường
hay trêu nghẹo em tôi về hình thù gầy đét như bộ xương của nó, và em
tôi cũng trả đũa lại tôi với một sự thật thà ngây ngô của tuổi thơ
ấu. Đôi khi, mẹ tôi cũng can thiệp vào những cuộc gây gỗ giữa chúng
tôi và kéo lỗ tai tôi vì tôi là anh mà không chịu nhường nhịn em.
Thời gian trôi qua; Nalini được cha
mẹ tôi đính hôn cho một viên y sĩ ở Calcutta, tên Panchanon Bose. Chàng rể
đựoc một món tiền hồi môn dồi dào, chắc hẳn là để bù trừ lại việc
y phải cưới một cô vợ gầy như cây… tre miễu!
Hôn lễ được cử hành rất long
trọng. Tối hôm ấy, tôi cũng có mặt cùng với một nhóm bạn bè thân quyến
vui vẻ tề tựu trong phòng khách nhà chúng tôi ở Calcutta. Chàng rể ngồi
trên nghế dài lót nệm thêu chỉ vàng óng ánh, còn Nalini ngồi bên cạnh với
một chiếc áo cưới tuyệt đẹp, nhưng than ôi, chiếc áo tân hôn vẫn
không thể nào che kín những khía cạnh xương xẩu của cô dâu! Tôi bước
lại ngồi gần bên ông em rể mới của tôi và mỉm cười với y một cách
thân tình. Y chỉ mới nhìn thấy mặt Nalini lần đầu tiên khi cử hành
hôn lễ vào sáng ngày hôm ấy, và lúc ấy y mới biết rõ số phần của y
phải gặp người vợ như thế nào trong cuộc sống trăm năm.
Cảm thấy lòng ưu ái của tôi đối
với y, chàng rễ mói đưa mắt ám chỉ Nalini và kề tai tôi hỏi nhỏ:
-"Cái đó là cái gì vậy?"
Tôi đáp:
-"Cái đó, thưa bác sĩ, là một
bộ xương để cho ông khám nghiệm."
Cả hai chúng tôi đều phát tiếng
cười vang trước cử tọa đông đảo gồm quan khách hai họ, sau khi đã cố
nín cười mà không được!
Trong những năm kế đó, bác sĩ
Bose đã chinh phục được lòng ưu ái của gia đình chúng tôi, và thường
được mời đến nhà xem bệnh mỗi khi trong gia đình có ngừơi đau ốm.
Chúng tôi đã trở nên một đôi bạn
thân và thường nói đua với nhau về cô em gái tôi. Một hôm em rể tôi
tâm sự với tôi:
-"Nó thật là một trường hợp
y khoa kỳ lạ. Tôi đã thử tất cả mọi thứ bổ dưỡng: dầu gan cá thu,
bơ, sữa, mạch nha, mật ong, cá thịt, trứng gà và nhiều thứ thuốc bổ
khác. Rốt cuộc nó vẫn trơ trơ và không mập thêm được tí nào cả.
Chúng tôi lại buông tiếng cười lớn.
Vài ngày sau đó, tôi đến nhà em rể
tôi. Tôi không có ý định ở lâu và định rời khỏi nhà mà không cho
Nalini biết có tôi đến. Khi tôi vừa ra đến cửa thì tôi nghe giọng nói
thân mật của em gái tôi:
-"Anh ơi, hãy ở lại. Lần này
anh sẽ không trốn thoát. Em có chuyện muốn nói với anh."
Tôi bước lên phòng của em tôi và
ngạc nhiên mà thấy em rưng rưng nước mắt:
-"Anh hỡi, chúng ta hãy quên đi
mọi sự hiềm khích thuở xưa! Em biết rằng từ nay anh đã theo con đường
xuất gia tầm đạo và em cũng muốn được như anh."
Kế đó em nói tiếp với niềm hy vọng:
"Anh đã trở nên lực lưởng
khoẻ mạnh như vậy. Anh có thể giúp đở em chăng? Em rất yêu chồng em,
nhưng y lúc nào cũng tránh né em làm em rất hờn duyên tủi phận! Em lo trau
dồi tâm tính và công phu tu niệm, nhưng phải chăng em phải chịu gầy ốm
và vô duyên bạc phước suốt đời?"
Lời khẩn cầu của em tôi làm tôi
rất cảm động Tôi cảm thấy thương xót số phận của em tôi. Một hôm
Nalini yêu cầu tôi nhận em làm đệ tử. Em nói:
-"Anh hãy thử thách em bằng
cách nào tuỳ ý. Từ nay em chỉ đặt đức tin nơi Thương Đế chớ không
còn tin tưởng ở thuốc men."
Nói đoạn em tôi mở nút những
chai thuốc bổ và trút sạch tất cả xuống ống máng xối.
Để thử đức tin của em, tôi dặn
em hãy kiêng cử ăn thịt, cá và trứng, và chỉ dùng toàn là rau trái mà
thôi. Khi Nalini đã ăn chay trường trong nhiều tháng, không quản nhiều nỗi
khó khăn, và đã theo đúng những quy luật khác của tôi đưa ra, tôi mới
trở lại thăm em. Tôi nói:
-"Em đã Tôn trọng và tuân theo
những quy luật của đời spống tâm linh, phần thưởng của em sắp đến"
Tôi mĩm cười và nói một câu
trào phúng:
-"Em có muốn trở nên mập béo
như dì tám nhà mình không, dì không còn thấy hai bàn chân của dì từ nhiều
năm nay."
-"Oâi thôi em chỉ muốn được
như anh vậy thôi."
Tôi bèn long trọng tuyên bố:
-"Do ân huệ thiêng liêng, cũng
như tôi vẫn luôn luôn nói sự thật, điều ước vọng mà tôi tuyên bố
ngày hôm nay sẽ trở thành sự thật Kể từ bây giờ, thân thể em sẽ chịu
một sự thay đổi nhiệm mầu và trong vòng một tháng, em sẽ cân nặng cũng
như tôi.
Điều mong ước mà tôi nói lên bằng
tất cả tâm hồn đã được đáp ứng. Trong vòng một tháng, Nalini đã
cân nặng bằng tôi! Những nét tròn trĩnh duyên dáng làm cho thân hình em trở
nên vô cùng hấp dẫn và chồng em càng yêu em say đắm. Cuộc hôn nhân của
em bắt đầu dưới những điều kiện bất toàn, đã trở thành một cuộc
hôn nhân lý tưởng.
Từ Nhật Bổn trở về, tôi nghe
nói rằng trong khi tôi vắng mặt, Nalini bị đau chứng bịnh thương hàn.
Tôi bèn hối hả đến nhà em và lấy làm kinh ngạc mà thấy em mình gầy
đét như bộ xương và đang mê man bất tỉnh. Em rể tôi thuật lại rằng
khi em hãy còn tỉnh chưa mê, thì em luôn luôn lập đi lập lại nhữhg lời
này:
-"Nếu Mukunda có mặt ở nhà,
thì tôi đã không bị đau đến nỗi này."
Y nói thêm:
-"Tôi và các bác sĩ khác đều
tuyệt vọng, Bịnh kiết lại xuất hiện cùng một lúc với bịnh thương hàn!"
Tôi bèn cầu nguyện với tất cả
tấm lòng thành và áp dụng phương pháp chửa bịnh theo khoa Yoga. Bịnh kiết
của Nalini liền dứt hẳn; nhưng bác sĩ Bose lắc đầu với một vẽ mặt
u ám và nói:
-"Điều ấy chỉ có nghĩa là
nó không còn một chút máu nào nữa!"
Tôi liền trấn tĩnh y với một giọng
quả quyết:
-"Em tôi sẽ hết bịnh. Trong bảy
ngày cơn nóng sốt sẽ dứt hẳn."
Một tuần lễ sau, tôi lấy làm mừng
mà thấy Nalinni mở mắt và nhận ra tôi. Kể từ lúc đó, em đã lần lần
bình phục. Khi em đã thấy khoẻ hẳn và nặng cân như trước, than ôi! Em
lại phải bù trừ cơn bịnh ấy với một giá quá đắt: hai chân em đã trở
nên liệt bại. Những y sĩ chuyên khoa ngừơi Anh và Aán đều tuyên bố rằng
em sẽ mang tật suốt đời.
Mệt mỏi vì sự cố gắng mà tôi
đã làm để cứu Nalini, tôi bèn đến Serampore để yêu cầu Sư phụ giúp
tôi. Sư phụ động lòng trắc ẩn về bịnh trạng nguy kịch của em tôi
và nói:
-"Em con sẽ sử dụng hai chân lại
được vào cuối tháng này. Con bảo nó hãy đeo một hột trân châu nặng
hai ca ra, không đục lỗ và cột dính trên da thịt bằng một sợi
dây."
Tôi quỳ dưới chân Sư phụ để tạ
ơn với sự mừng rỡ trong lòng
-"Bạch Sư phụ, lời nói của
Sư phụ cũng đủ để chửa khỏi bịnh cho em con. ; tuy nhiên nếu Sư phụ
muốn, con sẽ kiếm mua hột trân châu ngay lập tức."
Sư phụ gật đầu bằng lòng, rồi
diễn tả hình dáng, tính tình Nalini, tuy người chưa biết mặt em tôi bao
giờ.
Tôi trở về Calcutta và mua một hột
trân châu cho Nalini. Một tháng sau, hai chân liệt bại của em tôi đã hoàn
toàn được chữa khỏi.
Em tôi yêu cầu tôi chuyển đạt sự
biết ơn sâu xa của em cho Sư phụ. Sư phụ nghe tôi đưa tin lành về trong
cơn im lặng, và khi tôi sửa soạn kiếu từ, người nói:
-"Các bác sĩ đều nói rằng
Nalini sẽ không bao giờ có con. Con hãy chuyển đạt cho em con bức thông điệp
của thầy, rằng trong vài năm nó sẽ sanh hai đứa con gái."
Quả thật sau đó vài năm, Nalini
sanh một con gái, và nhiều năm kế đó, lại sanh thêm một đứa con gái nữa.
Em tôi vui mừng vô hạn và nói:
-"Sư phụ của anh đã ban phước
lành cho em và cả gia đình chúng ta. Một bậc siêu nhân như thế thật là
thánh hoá cả xứ Aán Độ do bởi sự hiện diện của người. Anh hỡi,
anh hãy thưa với Sư phụ rằng nhờ anh mà bây giờ em cũng xin làm đệ tử
của người để được thụ giáo theo pháp môn Kriyâ Yoga."
- Mục
lục | Lời tựa | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18 | 19 | 20 | 21 | 22 | 23 | 24 | 25|
- Chúng tôi chân thành cảm ơn Phật tử
Huỳnh Thanh Hương đã phát tâm đánh máy gởi sách này về tặng cho Ban
biên tập Đạo Phật Ngày Nay.