- XỨ PHẬT HUYỀN
BÍ
- Nguyên tác: AUTOBIOGRAPHIE D’UN
YOGI
- Của: Tu sĩ PARAMHANSA
YOGANANDA
CHƯƠNG HAI MƯƠI
HAI
LAHIRI VÀ
BABÂJI
Một buổi sáng đẹp trời, Sri
Yukteswar bình luận thánh kinh Gia tô tại đạo viện ở Serampore. Ngoài ra
vài đệ tử khác, tôi cũng có mặt với một nhóm thiếu sinh của tôi ở
trường học Ranchi.
Sư phụ bình luận đến đoạn phục
sinh nhiệm mầu của thánh Lazare. Xong rồi người xếp quyển thánh kinh đặt
trên đầu gối và đắm chìm trong im lặng. Một lúc sau, Sư phụ nói một
cách trịnh trọng:
-"Thầy đã từng chứng kiến một
phép mầu tương tự; đức Lahiri Mahâsaya đã làm cho một người bạn của
thầy sau khi đã chết rồi được hồi sinh trở lại."
Sự tò mò hiện trong đôi mắt của
những thiếu sinh đứng chung quanh tôi. Phần tôi, tôi luôn thích thú được
nghe những câu chuyện của Sri Yukteswar về đức Tôn sư của người. Sư phụ
bắt đầu nói:
-"Râma với thầy là hai người
bạn thiết không hề rời nhau. Nhút nhát và thích sống cô đơn, y chỉ đến
tịnh thất của Sư phụ vào lúc nửa đêm, hay lúc sáng sớm, là những giờ
ít có những đệ tử ở gần bên. Vì thầy là người bạn thân nhất nên
Râma thường tâm sự cho Thầy biết những tiến bộ tâm linh của mình và
nhờ đó Thầy cũng hưởng thụ được nhiều sự ích lợi.
Gương mặt của Sri Yukteswar dịu hẳn
lại vì kỷ niệm đó.
-"Thình lình Râma bị một cơn
thử thách rất nặng. Y mắc bịnh thời khí Á Châu. Vì Sư phụ thầy không
bao giờ quên kêu gọi đến các bác sĩ trong mọi trường hợp trọng bịnh
nên hai vị y sĩ chuyên khoa được mời đến một cách khẩn cấp. Trong khi
hai vị đang săn sóc người bịnh. Thầy hết lòng cầu nguyện Thượng Đế
để cho Sư phụ ra tay cứu giúp. Thầy bèn hối hả đến gặp Sư phụ và
vừa khóc vừa thuật chuyện lại. Sư phụ nói với một nụ cười khích lệ:
-"Các vị y sĩ đang lo chữa cho
Râma, nó sẽ hết bịnh."
Thầy vui mừng trở về giường bịnh
của Râma, lúc ấy đang nằm trong cơn bất tỉnh! Một trong hai vị y sĩ nói
với thầy với một cử chỉ thất vọng:
-"Y chỉ còn sống chừng vài giờ
nữa thôi."
Thầy lại chạy đến gặp Sư phụ,
người vẫn vui vẽ nói:
-"Các y sĩ đều là những người
có lương tâm. Thầy chắc là Râma sẽ bình phục."
Thầy lại trở về chổ củ thì
các vị y sĩ không còn trực bên giường bịnh nữa; một vị để lại cho
Thầy ít chử:
-"Chúng tôi đã cố gắng hết
sức mình nhưng trường hợp này đã tuyệt vọng!"
Râma dường như đã sắp trút hơi
thở cuối cùng. Thầy không hề nghi ngờ lời nói của Sư phụ. Tuy vậy nhìn
thấy tình trạng của Râma mỗi lúc càng suy sụp dần. Thầy đã nghĩ rằng:"Thôi
thế là hết!". Thầy ráng săn sóc y với hết sức mình. Bổng y mở mắt
kêu lên:
-"Sri Yukteswar, anh hãy chạy mau
cho Sư phụ hay rằng tôi sắp chết. Yêu cầu người ban ân huệ cho thể
xác tôi trước khi làm lễ hoả táng."
Nói vừa dứt lời Râma thở dài một
tiếng và trút linh hồn.
Thầy khóc trọn một giờ trên xác
chết của Râma. Luôn luôn ôn hoà yên tịnh lúc sinh thời, y đã đạt tới
sự yên tĩnh hoàn toàn trong lúc chết. Một đệ tử vừa bước vào, Thầy
yêu cầu y hãy trực tại đó cho đến khi Thầy trở về. Hoàn toàn thất vọng,
Thầy đi đến tịnh thất của Sư phụ. Sư phụ vừa mỉm cười vừa hỏi:
-"Râma mạnh giỏi thế
nào?"
Thầy đáp một cách run rẩy:
-"Bạch Sư phụ, Sư phụ sẽ thấy
y trong giây lát! Trong vài giờ nữa, Sư phụ có thể chiêm ngưởng xác chết
của y trước khi đem đi hoả táng ở nghĩa địa!"
Nói đến đó, Thầy ngưng bặt và
khóc sướt mướt. Sư phụ nói:
-"Con hãy bình tĩnh, Sri
Yukteswar. Hãy ngồi xuống để tham thiền."
Sư phụ liền đắm chìm trong cơn
đại định. Trọn buổi tối và đêm hôm đó diễn ra trong sự im lặng
hoàn toàn. Thầy cố gắng lấy lại sự bình tĩnh nhưng vô hiệu quả. Đến
sáng Sư phụ nhìn Thầy an ủi:
-"Ta thấy con hãy con xúc động.
Tại sao hôm qua con không nói rõ là con ước mong Thầy cứu giúp cho Râma một
cách cụ thể, dưới hình thức một phương thuốc nào đó chẳng hạn?"
Sư phụ bèn chỉ một cái đèn dầu
phọng, tim bấc để nằm trong một cái bình đựng dầu hình giống như cái
chén.
-"Con hãy rót dầu từ trong
bình đó ra một cái lọ; rồi con hãy rót đúng 7 giọt vào trong miệng của
Râma."
Thầy phản đối:
-"Bạch Sư phụ, y đã chết từ
trưa ngày hôm qua, dầu này nay còn dùng để làm gì?"
-"Không sao! Con hãy làm như lời
Thầy dặn!"
Sự vui vẽ của Sư phụ thật không
thể hiểu nổi. Thầy lấy làm buồn bực vô cùng; tuy vậy Thầy cũng lấy
một ít dầu và trở về nhà của Râma.
"Thầy thấy thân mình y cứng
đơ trong trạng thái của xác chết. Tuy vậy, thầy cũng lấy một ngón tay
cậy miệng y và nhỏ dầu vào giữa hai hàm răng cắn chắt của y.
"Khi đã nhỏ đủ 7 giọt dầu
vào miệng của y, Râma cử động mạnh. Những bắp thịt của y run lên từ
đầu đến chân. Y liền ngồi nhỏm dậy và nói:
-"Tôi thấy Sư phụ mình bao bọc
hào quang sáng rỡ như mặt trời, chung quanh có những tia chớp. Người ra lịnh
cho tôi: Con hãy ngồi dậy và hãy quên đi giấc ngủ của con. Hãy cùng với
Sri Yukteswar đến đây với Thầy!"
Thầy còn chưa tin những gì đang diễn
ra trước mắt, thì Râma đã ngồi hẳn dậy và tỏ ra có đủ sức để cùng
đi với Thầy đến nhà Sư phụ. Đi đến nơi, y cuối lạy dưới chân Sư
phụ và vừa khóc vừa tạ ơn.
Sư phụ không còn cảm thấy cái
vui nào hơn. Đôi mắt người long lanh sáng nhìn Thầy với một cái nhìn
có ý nghĩa. Người nói:
-"Yukteswa, Thầy chắc rằng kể
từ nay con sẽ không bao giờ rời khỏi chai dầu phọng! Khi con vừa thấy một
xác chết, con chỉ cần đổ 7 giọt dầu là có thể đẩy lui được thần
chết!"
-"Bạch Sư phụ, Sư phụ chế
diễu con và con chưa hiểu tại sao; xin Sư phụ giải thích rỏ về sự lầm
lạc của con."
Đức Lahiri Mahâsaya bèn giải
thích:
-"Thầy đã nói lập lại hai lần
rằng Râma sẽ khỏi bịnh; nhưng con vẫn chưa hoàn toàn tin lời Thầy. Thầy
không hề nói rằng các y sĩ sẽ cứu y khỏi chết, mà chỉ nói rằng họ
đang săn sóc y. Giữa hai điều đó không hề có một sự liên hệ về
nhân quả. Thầy không muốn can thiệp vào việc làm của các y sĩ; họ
cũng cần phải sống!"
Sư phụ vui vẽ nói tiếp:
-"Con hãy biết rằng Chân Như
Đại Ngã(Paramatman) có thể chữa khỏi bất cứ người bịnh nào, dù rằng
có hay không có thầy thuốc ở gần bên."
Thầy thú nhận một cách bẽn lẽn:
-"Bạch Sư phụ, con đã thấy lỗi
của con. Kể từ nay con biết rằng một lời nói của Sư phụ cũng đủ làm
đảo lộn cả vũ trụ!"
Khi Sri Yukteswar vừa kể xong câu
chuyện bi kịch lạ lùng ấy, một trong những thiếu sinh của tôi đưa ra một
câu hỏi thật ngây thơ:
-"Bạch Tôn sư,, tại sao Đức
Sư tổ lại cho uống dầu phọng?"
-"Con hỡi, chất dầu phọng không
có quan hệ gì cả; vì ta trông mong ở Sư phụ một hành động cụ thể nào
đó, nên người lấy bất cứ vật gì nằm trong tầm tay, như một tượng
trưng để khêu gợi nơi ta một đức tin mãnh liệt. Sư phụ để cho Râma
chết bởi vì ta đã có sự nghi ngờ. Nhưng sư phụ biết rằng khi người
tuyên bố rằng Râma sẽ khỏi bịnh, thì việc đó phải xảy ra đúng y như
vậy, dẫu rằng phải làm cho Râma hồi sinh sau khi đã chết, vì bịnh thời
khí này thường làm chết người!"
Sri Yukteswar cho nhóm thiếu sinh đi về,
người bảo tôi ngồi trên nệm gần bên, và nói với một giọng nghiêm trọng
khác thường:
-"Yogânanda con hỡi, từ thuở lọt
lòng mẹ con đã luôn luôn sống gần những vị đệ tử của đức Lahiri
Mahâsaya ở chung quanh con. Sư phụ ta đã sống cuộc đời siêu việt của
người trong sự ẩn dật, và nhiệt liệt từ chối không cho phép các đệ
tử thành lập một cơ quan tinh thần nào căn cứ trên giáo lý của người.
Tuy nhiên, người đã đưa ra một lời tiên đoán có ý nghĩa:
-"Vào khoảng năm chục năm sau
khi Thầy từ trần, cuộc đời Thầy sẽ được ghi chép lại vì pháp môn
Yoga sẽ gây nên một sự thích thú sâu xa ở phương Tây. Tiểu sử Thầy sẽ
là một thông điệp Yoga lưu truyền đi khắp thế giới để giúp cho việc
thiết lập một nền thân hữu đại đồng trong nhân loại"
Sri Yukteswar nói:
-"Yogânanda con hỡi, con phải thực
hiện việc lưu truyền bức thông điệp đó bằng cách viết tiểu sử của
Sư phụ ta."
Lahiri Mahâsaya từ trần năm 1895 và
quyển sách này được viết xong vào năm 1945. Tôi phải lưu ý sự kiện năm
1945 lại trùng hợp với sự kiện là năm mở màn cho một kỷ nguyên mới
đó là kỷ nguyên của nguyên tử lực. Hơn bất cứ lúc nào hết vấn đề
hoà bình và tình thương trong nhân loại laị đươc nêu ra vì nếu không
có hai điều này thì việc lạm dụng nguyên tử lực sẽ tiêu diệt nhân
loại trên mặt quả địa cầu, với tất cả những vấn đề khó khăn của
họ.
Ít có sử gia nào đã vạch rõ sự
kiện này, là sự tồn tại của nền văn minh Aán Độ như một quốc gia cổ
nhất thế giới, không phải là việc ngẫu nhiên tình cờ mà là cái hậu
quả hợp lý của lòng sùng thượng của dân tộc Aán đối với những chân
lý trường cữu muôn đời. Những chân lý này, nền văn minh cỗ Aán Độ
đã từng nêu cao và làm sáng tỏ trải qua các thời đại do bởi các bậc
thánh nhân hiền triết. Chính điều ấy đã làm cho nền văn minh Aán Độ
có thể thách thức thời gian, trong khi thời gian đã tiêu diệt nhiều nền
văn minh khác.
Trong thánh kinh Bible có thuật chuyện
Abraham cầu nguyện đấng thiêng liêng che chở cho dân tộc Sodome, và được
câu trả lời của đấng vô cùng:"Dân tộc ấy sẽ không bị tiêu diệt,
nhờ bởi mười vị hiền giả của nó." Câu chuyện này gieo một tia
ánh sáng mới giúp cho ta hiểu vì sao xứ Aán Độ đã thoát khỏi số phận
của Babylone, Ai cập và những nước lớn khác của thời đại cổ xưa,
cũng đồng thời với nó. Câu trả lời của đấng Thiêng Liêng chỉ rõ rằng
một dân tộc được tồn tại không phải nhờ sự tiến bộ vật chất,
mà nhờ bởi sống thuận theo đạo lý.
Mong sao nhân loại ngày nay có thể
nghe lời cảnh cáo thiêng liêng đó, trong một thế kỷ đã từng trải qua
hai cuộc Thế Chiến đẩm máu. Một quốc gia nào không đếm được ít nhứt
là mười người hiền đức chắc chắn là sẽ đi vào con đường diệt
vong. Xứ Aán Độ được che chở là nhờ bởi những bậc thánh nhân hiền
triết của nó. Từ thế kỷ này sang thế kỷ khác, những bậc sứ giả của
Thiêng Liêng đã từng thánh hoá xứ Aán Độ. Những bậc hiền giả hiện
kim như Lahiri Mahâsaya và vị đệ tử của người là Sri Yukteswar đã xuất
hiện để tuyên bố rằng pháp môn Yoga là sự cần thiết cho nền hạnh
phúc và sự sinh tồn của một quốc gia, một dân tộc hơn cả những thành
quả tiến bộ vật chất, kỷ thuật.
Cho đến nay chỉ có rất ít tài liệu
được công bố về đời sống của đức Lahiri Mahâsaya và giáo lý của
người. Trong khoảng 30 năm tôi đã gặp ở Aán Độ, Mỹ quốc và Aâu
Châu một sự thích thú nồng nhiệt về pháp môn Yoga qua sự diễn đạt và
phổ biến của Tôn sư. Do đo,ù ngày nay, người ta cảm thấy cần công bố
một bản tiểu sử của Tôn sư bên các nước Tây phương, là nơi người
ta biết rất ít về đời sống của các vị đạo sĩ Yogi hiện đại.
Lahiri Mahâsaya sinh ngày 30 tháng 9, năm
1828 dương lịch, tại làng Ghurni, quận Nadia, gần Krishnagar, tỉnh Bengale,
Aán Độ. Sinh trưởng trong một gia đình Bà La Môn đạo hạnh, ông là con
út của bà Muktakashi, vợ kế của Gaua Mohan Lahiri. Bà mẹ từ trần từ
ngày ông còn thơ ấu.
Người thiếu niên tên gọi Shyama
Charan Lahiri trải qua thởi kỳ thơ ấu tại nhà cha mẹ tại quận Nadia. Hồi
mới lên ba, bốn tuổi, Lahiri đã biết ngồi thiền theo tư thế Yoga.
Tài sản của gia đình Lahiri bị
tàn phá vào mùa đông năm 1833, khi con sông Jalangi ở gần nhà thình lình đổi
giòng nước và đổ vào sông Hằng. Một ngôi đền thờ thần Shiva do gia
đình Lahiri dựng lên cùng với ngôi nhà đều bị giòng nước cuốn đi mất.
Tôn ông Gaur Mohan Lahiri và gia đình
bèn rời khỏi Nadia và định cư tại Bénarès, tại đây ông mới xây dựng
một ngôi đền Shiva khác. Tôn ông điều khiển gia đình theo giới luật Phệ
Đà, gồm có những nghi thức lễ bái, thực hành hạnh bố thí, và học
thánh kinh. Tâm hồn ngay chính và khoáng đạt, Tôn ông vẫn không xa cách với
trào lưu tư tưởng cận đại.
Thuở nhỏ Lahiri theo học các môn
Phạn ngữ và sinh ngữ, thánh kinh và từng tham dự một cách say mê những
cuộc thảo luận triết lý giữa các nhà bác học Bà La Môn.
Lahiri là một thanh niên tốt bụng,
dễ thương và được các bạn hữu mến chuộng. Thân hình cân đối khoẻ
mạnh, chàng rất giỏi về môn bơi lội và các môn thể dục khác.
Năm 1846, Lahiri cưới Kashi Moni, con
gái của một vị nhân sĩ khả kính trong vùng. Là một hiền phụ gương mẫu,
Kashi Moni đảm trách mọi việc nội trợ một cách hoàn hảo theo truyền thống
cổ Aán Độ. Trong vài năm sau, gia đình Lahiri sanh được hai người con
trai, là Tincuri và Ducuri.
Năm 1851, vào năm 23 tuổi, Lahiri Mahâsaya
làm kế toán viên sở quản trị hành chánh trong quân đội Anh và đã được
thăng chức nhiều lần trong thời gian phục vụ. Như thế người không phải
chỉ là một vị Tôn sư có sứ mạng thiêng liêng mà còn làm tròn những bổn
phận thế gian trong đời sống hằng ngày mà có một vai trò phải đóng
góp.
Khi các công sở được chỉnh đốn
lại, Lahiri Mahâsaya lần lượt được chuyển đến Gazipur, Mirjapur, Danapur,
Naini Tal, Bénarès v.v…Khi lịnh Tôn qua đời, Lahiri phải hoàn toàn đảm lấy
trách nhiệm coi sóc gia đình, lúc ấy cư ngụ tại khu vực yên tĩnh
Garudeswa Mohula, gần Bénarès.
Chính vào năm 33 tuổi là lúc mà
Lahiri Mahâsaya mới biết rõ cái định mệnh nó dắt dẫn người đầu thai
chuyển kiếp xuống thế gian. Ngọn lửa tàn âm ĩ dưới lớp tro thình
lình bốc cháy phừng lên thành một ngọn lửa hồng rực rỡ sáng chói. Một
định luật thiêng liêng, ẩn dấu dưới mắt phàm của người đời, hành
động một cách bí mật để biểu lộ mọi sự việc vào đúng lúc, khi
ngày giờ đã điểm. Lahiri đã gặp gỡ sư phụ của ngừơi, đức Babâji,
ở gần Ranikhet, trên dãy Tuyết Sơn, và được thụ giáo pháp môn Kriyâ
Yoga.
Cơ hội tốt lành ấy xảy ra không
phải vì sự tiến hoá của riêng Lahiri mà thôi, mà toàn thể nhân loại sẽ
được hưởng thụ cái kho tàng kiến thức và minh triết thâm sâu của
pháp môn Kriyâ Yoga. Mất đi từ nhiều thế kỷ, và sau cùng được đưa ra
ánh sáng trở lại, pháp môn Kriyâ Yoga ví như ngọn suối nước cam lồ để
giải thoát cho những linh hồn khát khao đạo lý đi tìm sự hợp nhất với
thiêng liêng, phải là vật sở hữu chung cho tất cả mọi người trần
gian đau khổ đi tìm sự giải thoát.
II
Những vùng cao nguyên miền Bắc
dãy Tuyết sơn ngày nay đã được thánh hoá bởi sự hiện diện của Đức
Babâji, sư phụ của Lahiri Mahâsaya . Vị Tôn sư ấy vẫn giữ gìn nguyên vẹn
một thể xác từ nhiều thế kỷ hoặc có thể từ nhiều ngàn năm. Đức
Babâji trường sinh bất tử đó vốn là một đấng "lâm
phàm"(avatar), một danh từ Phạn ngữ có nghĩa là "hạ giáng, giáng
phàm", tức là đấng Thiêng Liêng hạ giáng xuống cõi vật chất.
Sri Yukteswar giải thích cho tôi nghe
rằng:
-"Trình độ tâm linh của
Babâji vượt khỏi tầm hiểu biết của con người. Tầm nhãn quang thiển cận
của người không thể nhìn thấu suốt vầng hào quang tâm linh cao cả
thiêng liêng của ngài. Người ta không thể dùng trí phàm của mình để diễn
tả tánh chất của một đấng "lâm phàm", mà con ngừơi không thể
quan niệm được một cách rõ rệt.
Kinh Ưu Bà Ni Tát (Upanishnd) của
Aán độ có phân loại những trạng thái sở đắc tâm linh khác nhau. Một
bậc toàn thiện (sidda) đã tiến hoá từ trạng thái jivanmukta (giải thoát
trong khi còn sống ngoài thế gian) đến trạng thái paramukta (tự do tối thượng,
tuyệt đối chế ngự được sự chết): vị này đã vĩnh viễn chấm dứt
mọi sự trói buộc của nghiệp quả, và hoàn toàn thoát khỏi vòng trói buộc
luân hồi sinh tử. Đấng Paramukta ít khi đầu thai vào một thể xác vật
chất và nếu trừơng hợp này xảy ra thì người trở nên một đấng
"lâm phàm" được giao phó một sứ mạng cứu thế lớn lao trên thế
gian.
Như vậy một đấng "lâm
phàm" là một ngoại lệ trong cái guồng máy kinh tế của vũ trụ. Thể
xác của ngài hoàn toàn tinh khiết là một sự kết linh của những tia ánh
sáng và không bị lệ thuộc bởi sự vay trả vật chất với thiên nhiên.
Mới nhìn thoáng qua thể xác ấy không có gì khác thường, nhưng nó không
toả ra một cái bóng và không để dấu vết trên mặt đất khi đi đứng.
Nói theo ý nghĩa tượng trưng thì đó là những bằng chứng chỉ rằng
trong con ngừơi ấy không hề có bóng tối của sự vô minh hay những sự
trói buộc vật chất. Một bậc siêu nhân như thế đã thấu triệt mọi vấn
đề sinh tử và đạt tới chân lý cùng tột.
Krishna, Râma, Phật Thích Ca và
Patânjali đều là những vị trong số các đấng "lâm phàm" của xứ
Aán Độ thời cổ . Ngoài ra người ta để lại rất nhiều tài liệu, văn
chương nói về đức Agastya, một đấng lâm phàm ở miền Nam Aán Độ đã
từng làm nhiều phép la ïtrong những thế kỷ trước và sau kỷ nguyên
Thiên Chúa. Người ta nói rằng đức Agastya vẫn giử thể xác của ngài
cho đến bây giờ.
Ở Aán Độ, vai trò của Babâji là
trợ giúp những bậc sứ giả tiên tri trong sứ mạng của các ngài. Bằng
cách đó, ngài xứng đáng với danh hiệu Mahâvatar (đại lâm phàm) như được
diễn tả trong các kinh thánh. Truyền thuyết cho rằng ngài đã đích thân
làm phép điểm đạo cho vị giáo chủ Shankara, nhà sáng lập ra giòng tu sĩ
xuất gia Swâmi, và cho vị thánh nhân Hồi giáo Kabir. Ở thế kỷ 19, vị đệ
tử chính của ngài là Lahiri Mahâsaya đã từng làm sống lại và chấn chỉnh
pháp môn Kriyâ Yoga, sau khi pháp môn này đã bị mất đi và đắm chìm trong
quên lãng trải qua hằng mấy nghìn năm.
Vị đại lâm phàm (Mahâvatar) này
giao cảm tâm thức với đấng Christ; cả hai cùng ban rải ân huệ thiêng
liêng và thiết lập nên một phép tu cứu rỗi cho nhân loại. Công trình của
hai đấng Tôn sư cao cả này, một vị còn giữ thể xác, và một vị chỉ
còn là Tinh Thần, nhằm gây nên cho người đời cái cảm hứng chán nghét
chiến tranh, những sự tranh chấp xã hội, sự chia rẽ thù nghịch Tôn
giáo và chủ nghĩa duy vật. Đức Babâji hoàn toàn biết rõ mối nguy cơ
đang đe dọa thế giới Tây Phương, và bởi đó ngài muốn truyền bá đạo
giải thoát của Yoga sang Phương Tây cũng như Phương Đông.
Nếu lịch sử không nói gì đến
Babâji, điều ấy không nên làm cho ta ngạc nhiên. Tôn sư không hề xuất
hiện dưới thế gian bất cứ ở vào thời đại nào; vấn đề làm cho người
đời biết danh là một điều không hề có trong kế hoạch trường cửu
nghìn đời của ngài! Cũng như đấng Sáng Tạo, sinh hóa vạn vật trong im
lặng và ẩn khuất, Babâji vẫn hoạt động âm thầm và trong vòng bí mật.
Những bậc Đại Giáo Chủ như đấng
Christ và Krishna chỉ xuất hiện trên thế gian vì một mục đích nhất định,
với một sứ mạng to tát vĩ đại, rồi tịch diệt sau khi mục đích của
các ngài đã được hoàn thành. Trái lại những đấng "lâm phàm"
khác như Babâji đảm nhiệm một công trình nhằm mục đích tiến bộ tuần
tự lâu dài trải qua hàng nhiều thế kỷ, hơn là một công trình lớn lao
phải được thành tựu vào một thời kỳ nhất định trong lịch sử văn
minh nhân loại. Những vị Tôn sư ấy ẩn dấu cuộc đời mình trước mắt
của kẻ thế nhân phàm tục và có quyền năng tàng hình tùy ý muốn. Bởi
đó, và cũng bởi vì các ngài chỉ huấn luyện đệ tử trong vòng bí mật,
nên một số các đấng cao cả không được người đời biết đến. Trong
những trang sách này, tôi chỉ tường thuật vắn tắt cuộc đời của đức
Babâji, với vài sự việc mà tôi nghĩ rằng có thể được tiết lộ một
cách hữu ích cho công chúng.
Người ta không biết gì cả về
gia đình hoặc về nơi sinh trưởng của Babâji. Ngài thường nói tiếng
Hindi, thổ ngữ miền Bắc Aán, nhưng cũng nói chuyện trôi chảy bằng tất
cả mọi thứ sinh ngữ.
Đức Tôn sư Babâji không mang dấu
vết gì của sự già nua; ngài có hình dáng của một thanh niên độ 25 tuổi.
Nước da trắng, dáng vóc trung bình, lực lưởng và đẹp đẽ, thân mình của
ngài phóng ra những tia sáng có thể nhìn thấy được bằng cặp mắt phàm.
Đôi mắt đen huyền, yên lặng và dịu hiền, tóc dài và bóng, óng ánh
màu đồng đỏ. Một điều lạ lùng là Babâji giống hệt đệ tử Lahiri
Mahâsaya y như đúc: giống đến nỗi khi trở về già, người ta lầm tưởng
Lahiri là cha của Babâji.
Tu sĩ Kebalâ, vị thầy dạy Phạn
ngữ của tôi, đã từng trải qua một thời gian sống gần bên đức Babâji
trên dãy Tuyết Sơn. Tu sĩ thuật chuyện như sau:
-"Tôn sư thường đi ta bà khắp
chốn trên các vùng cao nguyên dãy Tuyết sơn cùng với một nhóm đệ tử,
trong số đó có hai vị đệ tử người Mỹ đã tiến hoá rất cao. Ngài
không bao giờ ở lâu một chổ. Ngài thường cầm một cây gậy tre nơi tay
và mỗi khi ngài ra hiệu lịnh di chuyển thì cả nhóm đều biến mất trong
nháy mắt để xuất hiện ở một chỗ khác. Tuy nhiên, không phải lúc nào
ngài cũng dùng phương pháp thần thông đó để di chuyển; đôi khi ngài cũng
vui lòng đi bằng hai chân.
"Người ta chỉ có thể nhìn thấy
và nhận ra đức Babâji khi nào ngài muốn. Truyền thuyết cho rằng ngài đã
từng xuất hiện trước đám môn đồ dưới một hình thức mỗi lần mỗi
khác, đôi khi có râu cằm và râu mép, đôi khi lại không. Thể xác bất biến
của ngài không cần dùng đến đồ vật thực, Tôn sư rất ít khi ăn uống.
Tuy vậy, vì lịch sự, đôi khi ngài cũng nhận trái cây, cơm nấu với sữa
hoặc bơ, của các đệ tử đem dâng."
Tu sĩ Kebalâ nói tiếp:
-"Tôi được biết hai việc lạ
lùng xảy ra trong đời của đức Babâji. Một đêm nọ, ngài và các đệ tử
đang ngồi chung quanh một đám lửa hồng được đốt lên nhân dịp cử
hành một cuộc lễ Tôn giáo Phệ Đà. Thình lình, Tôn sư rút một khúc gỗ
đang cháy trong đám lửa và đánh một cái trên vai một đệ tử đang ngồi
gần bên. Lahiri Mahâsaya lúc ấy cũng có mặt, thấy vậy lấy làm ngạc
nhiên bèn hỏi:
-"Bạch Sư phụ, sao Sư phụ lại
chơi ác như thế?"
-"Con muốn thấy y bị chết cháy ngay trước mắt con chăng, theo nghiệp
quả mà y phải trả"
Nói xong, Babâji đưa bàn tay vuốt
nhẹ lên vai bị phỏng lửa của người đệ tử và người này liền hết
đau. Tôn sư giải thích:
-"Đêm nay, thầy đã cứu con
thoát khỏi bị chết cháy do nơi quả báo của con. Cán cân nhân quả đã
được lập lại thăng bằng do bởi cái vết phỏng trên vai này!"
"Một lần khác, trong khi cả
đoàn thầy trò đang tụ họp ở một chổ hẻo lánh trên dãy Tuyết Sơn, bỗng
có một người lạ mặt thình lình xuất hiện, sau khi y đã lần mò vượt
qua vùng núi non hiểm trở dựng lên như vách và đột nhập vào chổ cắm
trại của Babâji.
-"Bạch Tôn sư, chắc hẳn ngài
là đức Babâji?"
Người lạ mặt vừa hỏi, vừa biểu
lộ một vẽ Tôn kính vô biên trên nét mặt. Y nói tiếp:
-"Từ nhiều tháng nay, con đã
tìm kiếm Tôn sư không hề biết mệt giữa những vách núi đá cheo leo
này. Cầu xin Tôn sư hãy ban cho con cái hân hạnh là được ngài thu nhận
làm đệ tử."
Thấy Tôn sư không đáp lại, người
ấy chỉ cái vực thẳm gần bên:
-"Nếu Tôn sư từ chối không
nhận, con sẽ lao mình xuống vực sâu. Cuộc đời không còn giá trị gì đối
với con nữa, nếu con không xứng đáng được nhập môn học Đạo dưới
sự dìu dắt tâm linh của Tôn sư."
Babâji lạnh lùng đáp:
-"Nếu vậy, người hãy nhảy
xuống vực nếu ngươi muốn! Ta không thể chấp nhận một người với trình
độ tiến hoá của ngươi hiện nay."
Không nói một lời, người kia tức
khắc lao mình xuống vực thẳm trước sự hoang mang ngơ ngác của mọi người.
Babâji bèn ra lịnh cho các đệ tử đi vớt xác người ấy lên. Khi họ trở
về với cái xác không hồn đã bị dập nát, Tôn sư bèn đưa hai bàn tay
đặt nhẹ lên xác chết, người ấy liền mở hai mắt ngồi dậy và cúi lạy
dưới chân đức Tôn sư.
"Bây giờ, thì con đã sẵn
sàng để trở thành đệ tử của ta."
Babâji mỉm cười một cách trìu mến
với người đệ tử mới hồi sinh:
-"Con vừa mới vượt qua một
cơn thử thách kinh khủng. Kể từ nay, sự chết không còn có thể xâm phạm
đến con được nữa: Con sẽ có chân trong nhóm bất tử của chúng
ta."
Nói xong, ngài ra hiệu lịnh di chuyển
đi chỗ khác, và cả đoàn đều biến mất dạng."
Trong thời gian tôi ở tại nhà của
tu sĩ Ram Gopal, vị "tu sĩ không ngủ" ở Ranbajpur, tu sĩ đã thuật
lại cho tôi nghe câu chuyện gặp gỡ mầu nhiệm của người với Babâji như
sau:
-"Đôi khi tôi đã rời khỏi động
đá thâm u của tôi để đến ngồi dưới chân của đức Lahiri Mahâsaya
ở Bénarès. Có một lần vào lúc nửa đêm, trong khi tôi đang ngồi thiền
trong im lặng giữa các đệ tử khác, Tôn sư Lahiri nói với tôi một câu lạ
lùng:
-"Ram Gopal, con hãy lập tức đi ngay đến những bực thềm đá trên bờ
sông Hằng ở khu Dasasamedh."
"Tôi vâng lời và trong giây
lát tôi đã đến nơi hẻo lánh đó. Giữa lúc đêm thanh trăng tỏ tôi ngồi
im lặng trong một lúc, khi ấy một tấm đá lớn dưới thềm làm cho tôi
chú ý. Phiến đá rộng và vuông nhắc lên từ từ, và để lộ cái miệng
hang sâu thẳm. Kế đó, phiến đá chuyển động một cách dị kỳ và một
người đàn bà đẹp tuyệt trần từ trong hang xuất hiện và khinh thân nhẹ
bổng lên trên không! Bao phủ trong một vầng hào quang sáng dịu, vĩ giai nhân
từ từ hạ xuống trước mặt tôi rồi ngồi im lặng, đắm chìm trong một
cơn đại định. Sau cùng, giai nhân cử động và nói với tôi những lời
này:
"Ta là Matâji, hiền muội của
Babâji. Ta đã yêu cầu đạo huynh ta cùng với Lahiri Mahâsaya đêm nay hãy đến
viếng động của ta để thảo luận về một vấn đề tối quan trọng."
"Lúc ấy, một vầng ánh sáng
nhạt mờ như sương bay lơ lửng trên sông Hằng, và phản chiếu ánh sáng
dị kỳ của nó dưới mặt nước. Vầng hào quang ấy từ từ tiến lại gần
mỗi lúc càng mau hơn và sau cùng nó phóng ra một tia sáng rạng ngời và xuất
hiện bên cạnh Matâji dưới hình thể của một ngừơi: đó là Lahiri
Mahâsaya. Lahiri bèn cuối đầu làm lễ một cách rất Tôn kính dưới chân
của vị nữ thánh.
"Trước khi tôi định tĩnh tinh
thần sau cơn kinh ngạc vừa qua, tôi lại thấy một khối hào quang sáng rỡ
trên nền trời. Trong nháy mắt, vầng ánh sáng ấy xoay tít thành một con
trốt lửa và hiện ra hình thể của một người thanh niên dạng mạo khôi
ngô, cốt cách thanh kỳ, và tôi liền hiểu rằng đó là đức Babâji. Ngài
coi giống Lahiri Mahâsaya một cách lạ thường, duy có khác là Ngài có vẻ
trẻ hơn nhiều và có những lọn tóc vàng óng ánh. Ngài nói:
-"Này đạo muội, ta có ý định
rời bỏ xác thân để hoà hợp với Nguồn Sống vô cùng."
-"Thưa đạo huynh, em đã đoán
biết ý nghĩ ấy. Chính vì đó mà đêm nay em muốn cùng đạo huynh thảo luận
lại vấn đề ấy. Tại sao đạo huynh định bỏ xác?"
Vị nữ thánh vừa nhìn anh vừa
nói với một giọng cầu khẩn. Babâji nói:
"Tinh thần ta ví như biển cả.
Dẫu ta có khoác lấy bên ngoài nó một lớp sóng hữu hình hay vô hình,
thì điều ấy có khác chi?"
Nhân một lúc cảm hứng, Matâji liền
đáp:
-"Thưa đạo huynh, nếu điều
ấy không có gì khác biệt, vậy tại sao đạo huynh lại muốn rời khỏi xác
phàm?"
Babâji trịnh trọng nói:
-"Nếu vậy, ta sẽ y theo lời
ấy, và sẽ không bao giờ từ bỏ xác phàm. Thể xác của ta sẽ có thể
nhìn thấy được ít nhất bởi một thiểu số người được chọn lọc.
Thượng Đế đã phán quyết qua giọng nói của hiền muội đó."
"Trong khi tôi nghe câu chuyện đối
thoại giữa hai đấng cao cả ấy đức Babâji quay lại phía tôi và nói một
cách đầy hảo ý:
"Con đừng sợ gì cả, Ram
Gopal, con có phúc lành mà được chứng kiến câu chuyện hy hữu ngày hôm
nay!"
Babâji nói vừa dứt lời, hình
dáng của ngài và của Lahiri Mahâsaya từ từ thăng lên không trung phía
trên sông Hằng. Mọât vầng hào quang như ánh lửa bao phủ lấy thân mình
của hai vị và cả hai đều biến mất dạng trong đêm tối. Vị nữ thánh
Matâji cũng biến mất trong hang động; phiến đá lớn đóng sập lại lấp
mất cửa hang dường như một cánh cửa bí mật.
"Trong cơn say sưa ngây ngất,
tôi trở về tịnh thất của đức Lahiri Mahâsaya. Lúc trời hừng sáng, khi
tôi về đến nơi và quỳ dưới chân người, thì Sư phụ vừa mỉm cười
vừa nói với tấm lòng ưu ái:
-"Thầy mừng cho con, Ram Gopal:
con thường mong muốn được gặp Babâji và Matâji, nay điều ước vọng của
con đã được thoả mãn rồi đó."
Các bạn đồng môn của tôi cho
tôi biết rằng Sư phụ không hề bứơc ra khỏi tịnh thất từ chiều hôm
qua. Một vị đệ tử nói với tôi:
-"Sau khi sư huynh vừa ra đi để
tới các bực thềm đá ở Dasasamedh, thì Sư phụ có nói một bài thuyết
pháp hùng hồn về sự bất tử của linh hồn."
Lần đầu tiên, tôi mới hiểu những
đoạn trong Thánh kinh nói rằng một người đã đạt tới sự giác ngộ
thiêng liêng có thể đồng thời xuất hiện ở nhiều nơi khác nhau. Ram
Gopal kết luận:
-"Về sau, đức Lahiri Mahâsaya
có giải thích cho tôi rõ nhiều điểm thiên cơ huyền bí liên quan đến quả
địa cầu này. Thượng Đế đã chọn Babâji để xuất hiện xuyên qua cái
thể xác bằng xương thịt của ngài trong suốt chu kỳ hiện tại của bầu
thế giới. Các thế kỷ sẽ nối tiếp theo nhau trải qua giòng thời gian
vô tận, nhưng đức Tôn sư bất diệt chứng kiến màn bi kịch của trần
gian sẽ luôn luôn tồn tại, bất biến."
- Mục
lục | Lời tựa | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18 | 19 | 20 | 21 | 22 | 23 | 24 | 25|
- Chúng tôi chân thành cảm ơn Phật tử
Huỳnh Thanh Hương đã phát tâm đánh máy gởi sách này về tặng cho Ban
biên tập Đạo Phật Ngày Nay.