- XỨ PHẬT HUYỀN
BÍ
- Nguyên tác: AUTOBIOGRAPHIE D’UN
YOGI
- Của: Tu sĩ PARAMHANSA
YOGANANDA
CHƯƠNG MƯỜI CHÍN
PHÁP
MÔN KRIYÂ YOGA
Pháp môn KriyâYoga thường được
đề cập đến trong quyển này, đã từ được phổ biến rộng rãi ở xứ
Aán Độ hiện kim nhờ bởi đức Lahiri Mahâsaya, vị Tôn sư của thầy tôi.
Danh từ Kriyâ do Phạn ngữ Kri có nghĩa là làm, hành động; và cùng một gốc
rễ với danh từ Karma, nguyên lý tự nhiên về nhân quả. Kriyâ Yoga có nghĩa
là "Hợp Nhất với Đấng Vô Cùng do sự trung gian của một nghi thức
hay hành động" Người Yogi thực hành đúng đắn pháp môn này sẽ lần
lần tự giải thoát khỏi sự trói buộc của nghịêp quả.
Theo một nguyên tắc cổ xưa vẫn có
tự nghìn đời về trước, tôi không thể tiết lộ trọn cả pháp môn
Kriyâ Yoga trong một quyển sách dành cho đại chúng. Chỉ có người đạo
sĩ Kriyâ Yogi mới có thẩm quyền truyền dạy pháp môn này, mà tôi sẽ
trình bày dưới những nét đại cương.
Pháp môn Kriyâ Yoga là một phương
pháp giản dị về cả hai mặt tâm linh và thể chất, giúp con người bài
tiết chất thán khí của cơ thể ra ngoài và tiếp thêm dưỡng khí vào
máu. Những nguyên tử dưỡng khí phụ trội sẽ chuyển thành một luồng
sinh khí phục hồi sinh lực cho bộ thần kinh tủy não. Người Yogi có thể
trì hoãn, hoặc ngăn ngừa sự già cỗi của các tế bào bằng cách ngăn chặn
sự tích tụ của máu đen; những nhà đạo sĩ tiến hóa cao có thể thay đổi
các tế bào của họ thành chất tinh lực thuần túy. Elie, Jesus, Kabir và
các nhà tiên tri khác đều biết rõ pháp môn Kriyâ hay một pháp môn tương
tự có thể giúp các ngài biến thể hay tàng hình tùy theo ý muốn.
Kriyâ Yoga là một pháp môn rất cổ,
mà Lahiri Mahâsaya đã thụ giáo của Tôn sư Babâji, vị này đã phát hiện
và chấn chỉnh lại pháp môn ấy sau nhiều thế kỷ bị đắm chìm trong
quên lãng. Babâji đã nói với Lahiri Mahâsaya:
-"Pháp môn Kriyâ Yoga mà thầy
dùng con làm trung gian để truyền bá cho đời vào giữa thế kỷ 19 này,
chính là cái pháp môn mà cách đây nhiều ngàn năm, đức Krishna đã truyền
dạy cho Arjuna. Đạo sư Pantanjali, đấng Christ, thánh Jean, thánh Paul và những
vị thánh Tông đồ khác cũng đã từng biết rõ pháp môn ấy.
Krishna, đấng Tiên Tri lớn nhất của
Aán Độ, đã đề cập đến pháp môn Kriyâ Yoga trong một câu thánh kinh
Bhagavad Gita: "Những người khác vận chuyển luồng sinh khí bằng cách
điều chỉnh hơi thở ra hít vào, và tập luyện phép khí công
(pranâyama)."
Câu ấy có nghĩa là: "Người
Yogi ngăn chặn sự già nua của thể xác bằng cách tiếp thêm luồng sinh
khí, và ngăn chặn sự trưởng thành bằng phương tiện bài tiết. Bằng
cách hóa giải sự già nua và trưởng thành của thể xác, và điều hòa nhịp
độ của quả tim, người Yogi nắm vững cái bí quyết của vấn đề sanh
tử."
Krishna cũng nói rằng trong một tiền
kiếp, ngài đã truyền dạy pháp môn Yoga bất tử này cho Vivasvat, bậc
giác ngộ của thời đại cổ, vị này truyền lại cho đức Manu, nhà sáng
lập nên luật pháp Aán Độ. Đức Manu truyền lại cho Ixvâku, nhà sáng lập
nên triều đại vương tướng của Aán Độ. Được truyền khẩu từ thế
kỷ này qua thế kỷ khác, pháp môn Yoga này được các đấng Chân Sư gìn
giữ trải qua thời gian cho đến kỷ nguyên duy vật. Nhưng vì các vị tăng
lữ thời xưa bao trùm nó trong một bức màn bí mật và cũng do bởi sự thản
nhiên của người đời, nên rốt cuộc khoa pháp môn thiêng liêng này đã lần
lần biến mất.
Đạo sư Pâtanjali viết như sau:
"Pháp môn Kriyâ Yoga gồm có: kỷ
luật của xác thân, kiểm soát tư tưởng, và tham thiền về thánh ngữ
AUM." Pâtanjali cho rằng Thượng Đế, tức là sự rung động trong vũ trụ
của thánh ngữ AUM mà người hành giả nghe được trong cơn tham thiền. Aum
tức là danh từ sáng tạo, là tiếng động cơ của vũ trụ. Người hành
giả tu luyện Yoga sẽ có lúc nghe được âm thanh văng vẳng của thánh ngữ
Aum vang lên từ chỗ sâu thẳm của nội tâm mình. Trong khi y nhận được một
sự khích lệ tâm linh như thế, người hành giả biết rằng y đã tiếp
xúc với cõi thiêng liêng.
Trong trạng thái tiếp xúc sơ khởi
với Thiêng Liêng như vừa kể trên (savikalpa samâdhi), tâm thức của người
hành giả đắm chìm trong Tâm Thức của Vũ Trụ; nguồn sinh lực thoát ra
khỏi xác thân y, làm cho xác thân y có vẻ như chết, cứng đơ, bất động.
Người Yogi hoàn toàn ý thức được sự sống chậm lại của thể xác y.
Khi y đạt tới trạng thái cao siêu hơn (nirvikalpa samâdhi), tâm thức của y
hòa hợp với Thiêng Liêng trong khi y vẫn tỉnh táo và hoàn toàn ý thức
được mọi chuyện xảy ra chung quanh mình .
Sri Yukteswarr giảng giải cho các đệ
tử như sau:
-"Pháp môn Kriyâ Yoga là một phương
pháp hối thúc sự tiến hóa của con người. Từ thời cổ xưa, các nhà đạo
sĩ Yogi đã khám phá ra điều bí mật này, là tâm thức vũ trụ được nối
liền chặt chẽ với sự kiểm soát hơi thở; đó là sự góp phần bất hủ
và độc đáo của Aán Độ vào cái kho tàng kiến thức của nhân loại.
Nguồn sinh lực của con người, lúc bình thường bị hao tán do bởi sự
náo động hằng ngày, phải được gom lại để dùng trong hoạt động tâm
linh cao siêu hơn bằng cách thực hành pháp môn Yoga làm lắng dịu nhịp độ
hơi thở.
Người Yogi dùng tư tưởng dẫn luồng
sinh lực đi theo một đường vòng xuyên qua sáu bí huyệt của tủy xương
sống, (từ bí huyệt trên đỉnh đầu xuống các bí huyệt ở cuống họng,
ở tim, ở rún, ở lá lách và xương mông) rồi đi ngược trở lên, để
khép một vòng tròn tương đương với mười hai cung Hoàng Đạo, tượng
trưng vũ trụ trong con người (tiểu thiên địa). Một lần công phu chừng
nửa phút đồng hồ vòng quanh xương sống theo pháp môn Kriyâ, giúp cho con
người thực hiện một sự tiến bộ bằng một năm tiến hóa tâm linh
thông thường.
Một lần phép công phu Kriyâ thực
hiện trong vòng một ngày đem đến cho người Yogi một sự tiến hóa tâm
linh tương đương với một ngàn năm tiến hóa tự nhiên, và công phu của
một năm tu luyện sẽ đưa đến kết quả bằng 365.000 năm. Như thế, pháp
môn Kriyâ Yoga giúp cho người hành giả trong ba năm tu luyện công phu, một
sự tiến bộ vượt bậc mà theo đà tiến hóa tự nhiên, nó phải cần đến
10.000 thế kỷ. Tuy nhiên, muốn theo con đường tắt của pháp môn Kriyâ
Yoga, chỉ có những người Yogi đã được huấn luyện thuần thục dưới
sự chỉ dẫn của các vị chân sư, nhờ đó họ chuẩn bị thể xác lẫn
tinh thần đến mức tuyệt đỉnh, khả dĩ tiếp nhận cái quyền năng phát
triển bằng sự công phu tu luyện thường xuyên.
Người sơ cơ mới tập luyện pháp
môn Kriyâ chỉ nên tu luyện từ 14 đến 28 lần vào mỗi thờicông phu, mỗi
ngày 2 thời. Thường thì các nhà đạo sĩ Yogi chỉ hoàn tất công phu tu
luyện trong 6 năm, 12 năm, 24 năm hay 48 năm. Người Yogi chết trước khi đạt
được mục đích tối cao sẽ đem theo căn quả tốt do nơi công phu tu luyện
trong quá khứ; và trong kiếp sau y sẽ có điều kiện tốt để tiếp tục
công phu tu luyện cho đến lúc thành công.
Thể xác của một người thường
cũng ví như một ngọn đèn 50 watt, không thể chịu nỗi một điện thế 1
triệu volt gây ra bởi sự thực hành quá mức pháp môn Kriyâ Yoga. Sự gia tăng
một cách tuần tự và hợp lý số lượng công phu Kriyâ sẽ từ từ thay
đỗi xác thân đến mức có thể chịu đựng nỗi luồng thần lực mạnh
mẽ của vũ trụ, tức là sự biểu lộ đầu tiên của Tinh Thần.
Sự bồi dưỡng sinh lực trong giấc
ngủ là do bởi sự kiện rằng con người tạm thời mất đi cái ý thức về
xác thân và hơi thở của mình. Trong khi ngủ người ta vô tình trở nên một
người Yogi; mỗi đêm, vô tình và không hề hay biết, y thực hiện pháp
môn Yoga là thoát ra ngoài mọi ý thức về xác thân và để cho nguồn sinh
lực thấm nhuần vào bộ óc và sáu trung tâm bí yếu phụ thuộc trong tuỷ
xương sống. Như vậy trong giấc ngủ, người ta đắm chìm một cách vô thức
trong cái kho tinh lực của vũ trụ, nguồn sống của mọi sự sinh tồn.
Trái hẳn với người ngủ, người
Yogi áp dụng có ý thức một phương pháp giản dị và tự nhiên cùng một
loại. Người Yogi dùng pháp môn Kriyâ Yoga để đem ánh sáng bất diệt thấm
nhuần và nuôi dưỡng các tế bào của thể xác, và duy trì chúng trong một
trạng thái thấm nhuần từ điển một cách thường xuyên. Y khiến cho sự
hô hấp trở nên không còn cần thiết, nhưng không vì thế mà đưa đến
giấc ngủ say hay sự hôn mê bất tỉnh.
Nhờ luyện pháp môn Kriyâ, nguồn
sinh lực của con người không bị hao tán, hay lãng phí bởi sự loạn động
của giác quan mà được gom về những trung tâm bí yếu trên tuỷ xương sống
để được thấm nhuần một thứ thần lực tinh anh. Chính bởi đó mà thể
xác và những tế bào trong óc của người Yogi được truyền vào một sức
mạnh tâm linh, nó tăng cường sự sống. Khi đó người Yogi không còn tuân
theo chặc chẽ những định luật thiên nhiên, như là ăn uống thanh đạm,
sống gần với thiên nhiên với ánh nắng và khí trời, nuôi tư tưởng tốt
lành v.v…. là những phương tiện quanh co, nó chỉ đưa y đến mục đích
trong một thời kỳ lâu dài là 10.000 thế kỷ. Một người thường có sức
khoẻ tốt phải mất 12 năm tu luyện mới gây nên sự thay đổi khả quan
trong cơ cấu của bộ óc; và phải cần đến 1 triệu năm để tinh luyện
bộ óc cho đến mức có thể khai triển tâm thức vũ trụ (conscience
cosmique).
Cuộc đời của người đạo sĩ
Kriyâ Yogi không còn tuỳ thuộc vào những nghiệp quả của quá khứ, mà chỉ
tuỳ thuộc nơi những mệnh lệnh của linh hồn. Do đó, người hành giả
tránh khỏi tiến bước chậm chạp do những hành động tốt xấu của cuộc
đời hằng ngày, chẳng khác nào như sự tiến triển thô sơ của con ốc
không còn phù hợp với đôi cánh bay xa của con chim phụng hoàng.
Một phương pháp sinh hoạt tâm linh
rất cao siêu giúp cho con người Yogi thoát ra khỏi cái ngục tù của bản
ngã để thở bầu không khí tự do của trạng thái siêu thức. Cuộc đời
thế gian, trái lại đưa con người vào một ngõ bí không có lối thoát.. Dẫu
cho con người noi theo con đường tiến hoá, y cũng phải chịu lệ thuộc những
định luật thiên nhiên, dù cho y không vi phạm một định luật nào về vật
chất hay tinh thần, y cũng không khỏi mắc kẹt vào vòng luân hồi sinh tử
trải qua một thời gian mười ngàn thế kỷ trước khi đạt tới sự giải
thoát cuối cùng.
Để thoát ra khỏi cái vòng lẩn quẩn
đó, pháp môn Kriyâ Yoga là cái bí quyết để trả lời cho những người nào
bất mãn với cái chu kỳ một triệu năm. Cái chu kỳ đó còn kéo dài hơn
nữa đối với những người tuy có thức tĩnh đôi chút để nghĩ đến sự
sống tâm linh, nhưng hãy còn theo đuổi những thú vui phàm tục, và làm tổn
thương đến tính chất thiêng liêng của họ bằng hành động và tư tưởng.
Đối với họ thì hai triệu năm cũng còn chưa đủ để tự giải thoát!
Con người tự lầm lộn mình với
cái phàm ngã; y tưởng rằng chính y suy tư cảm xúc mong muốn, ước vọng
hay hành động việc nọ, việc kia, chứ không biết rằng trong cuộc đời
hằng ngày y chỉ là một kẻ bù nhìn bị cai quản bởi những nghiệp quả
của quá khứ mà nguồn gốc có thể truy ra hoặc trong kiếp này hoặc ở một
tiền kiếp. Thoát khỏi sự lệ thuộc chặc chẽ đó chỉ có Linh Hồn, một
thực thể bất biến mà pháp môn Kriyâ Yoga có sự mạng phải giải thoát
bằng cách xé tan bức màn vô minh, nguồn gốc của mọi chướng ngại và
trói buộc Linh Hồn vào vòng luân hồi sinh tử.
Đức giáo chủ Shankara viết trong
quyển sách bất hủ "Những Thế Kỷ"û (Centuries) của ngài như
sau:
"Những nghi thức lễ bái bề
ngoài không thể dẹp tan sự vô minh, hai điều đó có khi lại còn đi đôi
với nhau. Chỉ có sự hiểu biết mới có thể dẹp tan được sự vô minh.
Sự hiểu biết hay kiến thức chỉ có thể đạt tới bằng sự tìm tòi tọc
mạch về lý trí. Tôi là ai? Tôi từ đâu đến? Vũ trụ từ đâu mà có?
Ai sáng tạo ra nó? Nguồn gốc nó do đâu mà ra?…Đó là sự tọc mạch
tìm tòi mà tôi muốn nói đến."
Trí óc con người đành chịu bất
lực không thể giải đáp những câu hỏi đó. Bởi đó, những đấng Chân
sư thời cổ mới đem đến cho chúng ta pháp môn Yoga để làm cho ta thoả
mãn sự khát khao hiểu biết.
- Mục
lục | Lời tựa | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18 | 19 | 20 | 21 | 22 | 23 | 24 | 25|
- Chúng tôi chân thành cảm ơn Phật tử
Huỳnh Thanh Hương đã phát tâm đánh máy gởi sách này về tặng cho Ban
biên tập Đạo Phật Ngày Nay.