- XỨ PHẬT HUYỀN
BÍ
- Nguyên tác: AUTOBIOGRAPHIE D’UN
YOGI
- Của: Tu sĩ PARAMHANSA
YOGANANDA
CHƯƠNG MƯỜI BỐN
ĐỂ ĐÁNH
LỪA TINH TÚ
-"Mukunda, tại sao con không
đeo một vật hộ phù chiêm tinh?"
-"Bạch Sư phụ, bởi vì con
không tin khoa chiêm tinh."
-"Vấn đề không phải là tin
hay không tin! Thái độ khoa học duy nhất là tìm hiểu xem một vấn đề có
đúng hay không đúng. Luật hấp dẫn vẫn có trước cũng như sau Newton. Thế
giới này sẽ hỗn loạn nếu những định luật thiên nhiên chỉ hành động
dưới điều kiện là phải được chấp nhận bởi con người.
"Những tay thầy bói giả mạo
đã làm hoen ố khoa học khảo sát tinh tú. Khoa chiêm tinh có một tầm mức
bao quát trên địa hạt toán học và triết lý, nó rộng rãi đến nỗi chỉ
người nào có một tầm kiến thức bao la mới có thể lãnh hội được nó
một cách toàn diện. Bởi thế, kẻ ngu dốt không biết quan sát càn tượng,
chỉ nhìn thấy ở đó một sự rối rắm không ý nghĩa; nhưng bậc hiền
triết lại có một quan niệm khác hẳn."
Sư phụ nói tiếp: -"Những dây
liên lạc vô hình, những sự tương quan ảnh hưởng, vẫn có luôn luôn giữa
vạn vật trong vũ trụ. Nhịp độ điều hòa của vũ trụ căn cứ trên sự
tương quan. Con người, trong cái lớp vỏ bằng xương thịt, phải chiến đấu
với hai thứ mãnh lực: trước hết, sự nhu cầu của thể xác cấu tạo
nên bởi tứ đại giả hiệp : đất, nước, lửa, gió; sau đó là những
mãnh lực phá hoại trong thiên nhiên, thuộc về ngoại cảnh. Khi con người
còn chịu sự chi phối, kiềm tỏa của xác thịt, y còn chịu ảnh hưởng
của những sức mạnh biến chuyển không ngừng trong vũ trụ càn khôn.
"Khoa chiêm tinh nghiên cứu những
phản ứng của con người dưới ảnh hưởng khích động của các bầu
tinh tú. Những bầu tinh tú vốn không lành không dữ, mà chỉ phát ra những
lằn sóng rung động tích cực hay tiêu cực, thuộc âm hay thuộc dương. Chúng
không phù trợ, cũng không làm hại con người, mà chỉ là những khí cụ
trung gian do đó được biểu lộ một cách đúng đắn không hề suy chuyển,
những mối tác động quân bình về nhân quả gây nên bởi những hành động
trong quá khứ.
"Một người sinh ra đời vào một
ngày giờ mà những ảnh hưởng của các bầu tinh tú hòa hợp một cách đúng
đắn với nghiệp quả cá nhân của y. Lá số chiêm tinh của người ấy tiết
lộ cái dĩ vãng và những gì có thể xảy ra trong tương lai. Chỉ những
người nào có khiếu linh giác và minh triết sâu xa mới có thể diễn đạt
lá số ấy một cách đúng đắn, và những người ấy rất hiếm.
"Bức thông điệp khắc trên
tinh tú đúng vào ngày giờ sinh của một người, không phải là để tăng
cường cái định mệnh của y (kết quả của những hành động thiện ác
trong quá khứ) mà để gây ra nơi con người cái ý chí giải thoát khỏi
cái ngục tù kiềm tỏa của vũ trụ. Người ấy không thể xóa bỏ kết
quả của những việc mà y đã làm. Y đã gây ra những duyên nghiệp trong
quá khứ, nó sẽ đơm bông kết quả từ từ trong cuộc đời hiện tại của
y. Y có thể vượt qua mọi chướng ngại bởi vì chính y đã tạo nên các
chướng ngại đó do bởi những hành động của mình, và bởi vì y có những
khả năng tâm linh vượt ra ngoài vòng ảnh hưởng độc đoán của các những
bầu tinh tú.
"Sự sợ sệt dị đoan về khoa
chiêm tinh biến con người thành một vật thụ động, nô lệ của một sức
mạnh mù quáng. Người khôn ngoan sáng suốt thắng đoạt những bầu hành
tinh, tức dĩ vãng của mình. Khi người ta càng nhận thức được sự hợp
nhất tâm linh của mình với Tinh Thần, hay Đại Thể của vũ trụ, người
ta càng thoát khỏi sự kiềm tỏa của vật chất. Linh hồn người vốn tự
do trường cửu; vốn bất sinh bất diệt, nó không thể chịu áp lực trói
buộc của các bầu tinh tú.
"Thượng Đế, chính là Công
lý. Người hành giả hòa hợp bản thể của mình với Thiêng Liêng sẽ
không bao giờ làm một việc bất công. Sự hoạt động của y từ nay sẽ
phù hợp một cách tự nhiên với những định luật chiêm tinh. Sự cầu
nguyện, sự tham thiền quán tưởng sẽ giúp y giao cảm với Thiên YÙ, và
không một mãnh lực nào là cao hơn sự che chở của sức mạnh đó từ
bên trong".
-"Bạch Sư phụ, như vậy tại
sao Sư phụ muốn cho con đeo một vật hộ phù chiêm tinh?" Tôi đưa ra câu
hỏi đó sau một cơn im lặng kéo dài, trong khi đó tôi suy gẫm rất lâu về
những lời vàng ngọc của Sư phụ.
-"Chỉ khi nào người lữ hành
đi đến mục tiêu cuộc hành trình, y mới không còn cần đến bản đồ.
Trên đường thiên lý, y phải biết xử dụng mọi con đường tắt để tiết
kiệm sinh lực và thì giờ. Những vị chân sư thời cổ đã khám phá được
nhiều phương tiện thu ngắn khoảng thời gian mà con người phải trải qua
giữa cảnh vô minh hắc ám của thế gian. Trong cái guồng máy phức tạp của
luật nhân quả, có những bộ phận mà một bàn tay minh triết có thể điều
chỉnh một cách khéo léo.
"Tất cả những tai họa thống
khổ của con người đều do bởi y đã vi phạm những định luật thiên
nhiên. Các Thánh Kinh nói rằng con người phải tuân theo những định luật
thiên nhiên đó trước khi kêu gọi đến quyền lực tối cao của Trời. Y
phải cầu nguyện như sau:
"Con tin nơi Thượng Đế. Con biết
Ngài có thể giúp con; nhưng về phần con, con sẽ cố gắng tối đa để sửa
chữa những điều tội lỗi mà con đã làm."
Sự cầu nguyện, sức mạnh ý chí,
sự tham thiền, sự gần gủi các bậc chân tu, việc sử dụng những vật
hộ phù chiêm tinh giúp cho ta có thể làm dịu bớt hoặc tiêu trừ nghiệp
chướng do quả báo gây nên.
"Cũng như một cái nhà có ống
thu lôi được che chở khỏi bị sét đánh, thì xác thân chúng ta cũng có
thể được che chở bằng nhiều biện pháp. Từ nhiều thế kỷ, các nhà
đạo sĩ Yogi đã nghiệm thấy rằng vài loại kim khí phát ra một thứ hào
quang có thể ngăn ngừa ảnh hưởng khốc hại của các bầu tinh tú. Những
luồng từ khí tinh vi lưu chuyển thường xuyên trong vũ trụ; con người không
hề biết những loại từ điển đó ảnh hưởng ra sao, có lợi hay có hại
cho thân thể, và không thể làm gì được để đề phòng những ảnh hưởng
đó.
"Vấn đề này đã từng khêu gợi
sự chú ý của các vị chân sư thời cổ, các vị ấy khám phá những phối
hợp tốt lành của những loại kim khí, thậm chí cả những loại thảo mộc,
nhưng trên hết là các loại ngọc quí không tì vết nặng ít nhất là hai
carats. Ngoài xứ Ấn Độ, ít có xứ nào đã từng đem việc xử dụng khoa
chiêm tinh vào mục đích ngăn ngừa bệnh tật, tai họa, làm một đầu đề
nghiên cứu quan trọng. Người ta thường không biết rằng những linh vật
hộ phù bằng kim khí, đá quí hay thảo mộc, chỉ có hiệu nghiệm khi nào
người ta đeo những vật ấy dính trên da thịt mình."
-"Bạch Sư phụ, con sẽ nghe
theo lời khuyên của Sư phụ và con sẽ mua một vật hộ phù. Con cảm thấy
thích thú với ý nghĩ có thể đánh lừa được các bầu tinh tú!"
-"Thường thì Thầy khuyên nên
đeo một chiếc neo vàng pha bạc và đồng. Nhưng trong trường hợp riêng của
con, Thầy muốn con đeo một chiếc neo bằng bạc và chì."
Kế đó, Sư phụ đưa ra thêm một
vài chi tiết.
-"Bạch Sư phụ, "trường hợp
riêng" của con là như thế nào ?"
-"Không bao lâu, những tinh tú sẽ
chiếu cố đến con một cách không được thuận thảo lắm, Mukunda! Nhưng
con đừng sợ, con sẽ được che chở. Bịnh ấy đáng lẽ kéo dài đến sáu
tháng, nhưng món vật hộ phù sẽ thu ngắn thời gian ấy lại còn hai mươi
bốn ngày!"
Qua ngày hôm sau, tôi đến một tiệm
kim hoàn và đặt làm một vật hộ phù. Lúc ấy sức khỏe tôi đang dồi dào,
nên tôi quên lửng lời tiên tri của Sư phụ! Người cũng đã rời
Serampore để đi Bénarès. Một tháng sau, tôi cảm thấy đau nhói bên hông
ở chỗ vị trí của lá gan, nhưng tôi do dự không muốn làm phiền Sư phụ
tôi, và hy vọng có đủ sức chịu đựng cơn thử thách.
Nhưng hai mươi bốn ngày đau đớn
đã làm suy yếu quyết định của tôi. Tôi đáp xe lửa đi Bénarès, tại
đây Sư phụ tiếp đón tôi với một lòng ưu ái khác thường, nhưng không
để cho tôi có dịp gặp riêng để nói chuyện với người về chứng bệnh
của tôi. Nhiều đệ tử hôm ấy đến viếng Sư phụ để có dịp chiêm
ngưỡng Tôn nhan. Bị bỏ rơi, lại đau yếu, tôi bèn ngồi riêng một góc.
Sau bữa cơm chiều, những người khách đã rút lui, Sư phụ mới cho gọi tôi
lên bao lơn lầu bát giác của tịnh xá.
-"Phải chăng con đến đây vì
chứng bịnh đau gan?"
Sri Yukteswarr day mặt qua chỗ khác,
rồi đứng dậy đi bách bộ qua lại trong phòng, vóc dáng cao lớn của người
thỉnh thoảng che khuất ánh trăng rọi xuyên qua cửa sổ.
-"Con đã đau 24 ngày, có phải
chăng?"
-"Thưa vâng."
-"Con hãy tập môn thể dục trị
chứng bao tử màThầy đã chỉ dẫn cho con trước đây."
-"Nếu Sư phụ biết rõ con đau
đớn là dường nào thì chắc Sư phụ sẽ không bảo con tập thể dục nữa!"
Tuy vậy, tôi cố gắng vâng lời.
-"Con nói rằng con đau; nhưng Thầy
nói là không. Làm sao có một sự tương phản như thế được?"
Sư phụ nhìn tôi với đôi mắt dò
xét.
Tôi lặng người vì ngạc nhiên.
Thình lình tôi lấy làm vui mừng mà thấy rằng cơn bịnh của tôi đã nhẹ:
tôi không còn cảm thấây sự đau đớn nó đã làm tôi mất ngủ trong nhiều
tuần! Một lời nói của Sư phụ cũng đủ làm tiêu tan sự đau đớn của
tôi dường như là tôi chưa hề bị đau bao giờ.
Với tấm lòng biết ơn, tôi định
quì xuống dưới chân Sư phụ thì người đã chận tôi lại:
-"Đừng làm trò trẻ con! Hãy
đứng dậy và nhìn xem vầng trăng đẹp trên khu rừng già!"
Nhưng đôi mắt Sư phụ long lanh một
niềm hạnh phúc, trong khi tôi đứng im lặng trước mặt người. Nhìn thái
độ của Sư phụ tôi hiểu rằng người muốn tôi hãy cám ơn, không phải
Sư phụ, mà là Thượng Đế.
Đến nay, tôi vẫn còn đeo món vật
hộ phù bằng bạc và chì để tưởng niệm cái ngày đã qua không còn trở
lại, ngày mà tôi hiểu rằng tôi đã sống bên cạnh một bậc siêu nhân.
Trong những dịp khác, khi tôi đưa những bạn bè của tôi đến đạo viện
để nhờ Sư phụ chửa bịnh cho họ, người luôn luôn khuyên họ dùng những
vật hộ phù hay ngọc quí, và giải thích sự hiệu nghiệm của những vật
ấy để ngăn ngừa những sự chẳng lành, căn cứ trên khoa chiêm tinh.
Từ thuở nhỏ, tôi đã từng dùng
những vật hộ phù như vậy, một phần bởi vì tôi thấy rất nhiều người
có thái độ sợ sệt dị đoan đối với khoa chiêm tinh, và cũng bởi vì
nhà chiêm tinh của gia đình tôi đã thốt ra lời tiên tri như sau: "Em sẽ
cưới hỏi ba lần và bị hai lần góa vợ." Tôi ngẫm nghĩ đến số mệnh
đáng buồn của tôi, và có cảm giác như linh hồn của một con trừu sắp
sửa bị hy sinh trước bàn thờ của ba cuộc hôn nhân!
-"Em phải chấp nhận số mệnh",
Ananta khuyên tôi như thế. "Lá số của em đã tiên liệu việc em trốn
lên dãy Tuyết Sơn hồi còn thơ ấu nhưng sẽ bị bắt lại. Như vậy lời
tiên tri về ba cuộc hôn nhân cũng sẽ được thưcï hiện."
Một đêm kia, tôi có linh cảm rõ rệt
rằng lời tiên tri ấy là sai. Tôi bèn đốt lá số của tôi và gói nhúm
tro vào trong một bao giấy, trên đó tôi viết giòng chữ này: "Những mầm
nghiệp quả của quá khứ không còn đâm chồøi mọc nhánh, một khi nó đã
bị cháy tiêu trong ngọn lửa minh triết thiêng liêng." Tôi để cái
gói giấy ở một nơi mà Ananta có thể nhìn thấy rõ ràng, anh tôi đọc
xong lời thách thức của tôi, liền có một nụ cười khinh miệt:
-"Em không thể đốt cháy sự
thật một cách dễ dàng như là đốt lá số này".
Quả thật, trước khi tôi đến tuổi
trưởng thành, gia đình tôi đã ba lần mưu toan xếp đặt việc hôn phối
cho tôi. Mỗi lần như thế, tôi đều phá hỏng kế hoạch của họ, vì
tôi biết rằng lòng yêu Đạo Lý của tôi còn mạnh mẽ hơn ảnh hưởng của
tinh tú gây nên bởi sự hành động của luật nhân quả.
-"Khi một người càng tiến
hóa trên đường tâm linh, thì những rung động tinh vi của y càng ảnh hưởng
đến toàn thể vũ trụ, và y càng ít bị ảnh hưởng hơn bởi những biến
chuyển không ngừng trong hiện tượng giới."
Những lời nói đó của Sư phụ
thường trở lại trong trí nhớ để trấn tĩnh tâm hồn tôi.
Tôi đã từng yêu cầu các nhà
chiêm tinh hãy hoạch định những thời kỳ xung khắc căn cứ theo lá số của
tôi, trong những thời kỳ đó tôi vẫn tiếp tục hành động và coi như không
có chuyện gì; tôi vẫn làm những công việc theo chương trình mà tôi đã
vạch sẵn, không màn để ý đến sự xung khắc hay thất bại. Quả thật,
tôi chỉ đạt được sự thành công bằng một cái giá rất đắt , là va
chạm với những khó khăn trắc trở vô cùng lớn lao. Tuy vậy, tôi đã có
sự quả quyết chắc chắn: đức tin nơi sự che chở thiêng liêng, việc sử
dụng khôn khéo quyền tự do ý chí, là những mãnh lực vô cùng mạnh mẽ
hơn tất cả những sự phối hợp ảnh hưởng của các tinh tú.
Tôi hiểu rằng lá số chiêm tinh của
một người, không có nghĩa là người ấy chỉ là một kẻ nô lệ của
quá khứ. Trái lại, nó có một ý nghĩa vinh diệu hơn: do khoa Chiêm Tinh, đấng
Thiêng Liêng tìm cách thức tỉnh nơi con người cái quyết định tự giải
thoát khỏi mọi sự trói buộc, hạn chế. Thượng Đế sáng tạo ra con người
như một linh hồn có cá tiùnh riêng biệt, một phần tử cần thiết cho cơ
cấu toàn diện của vũ trụ , bất luận trong vai trò tạm thời nào, dù
quan trọng hay nhỏ nhặt, tầm thường. Sự giải thoát của y sẽ là một
việc tối hậu; nó tùy thuộc nơi sự thành công về đường tâm linh, chứ
không phải về phương diện vật chất.
- Mục
lục | Lời tựa | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18 | 19 | 20 | 21 | 22 | 23 | 24 | 25|
- Chúng tôi chân thành cảm ơn Phật tử
Huỳnh Thanh Hương đã phát tâm đánh máy gởi sách này về tặng cho Ban
biên tập Đạo Phật Ngày Nay.