- XỨ PHẬT HUYỀN
BÍ
- Nguyên tác: AUTOBIOGRAPHIE D’UN
YOGI
- Của: Tu sĩ PARAMHANSA
YOGANANDA
CHƯƠNG BỐN
TÔI TRỐN LÊN DÃY TUYẾT
SƠN
-"Anh hãy bỏ lớp học đi
ra với một lý do nào đó, anh gọi một chiếc xe ngựa rồi ngừng lại ở
dọc đường, ở một nơi mà không ai nhìn thấy từ nhà tôi."
Tới đó chấm dứt lời dặn dò của
tôi với Amar Mitter, một bạn cùng lớp ở trường đại học, sẵn sàng trốn
theo tôi lên dãy Tuyết Sơn. Chúng tôi phải đề phòng cẩn mật, vì Ananta
theo dõi chúng tôi với cặp mắt nghi ngờ, luôn luôn sẳn sàng phá hỏng kế
hoạch thoát ly ra khỏi nhà mà tôi đã ôm ấp từ lâu.
Món linh vật gây cho tôi một ảnh
hưởng thầm kín mà tôi không ngờ. Chính trên dãy Tuyết Sơn đầy băng giá
là nơi tôi định gặp vị Tôn sư mà dung nhan thường xuất hiện trong những
linh ảnh của tôi.
Gia đình tôi lúc ấy ngụ tại
Calcutta, cha tôi đã được thuyên chuyển đến đây một cách vĩnh viễn.
Theo phong tục cổ truyền ở Aán độ, anh cả tôi Ananta đã đem vợ về
ở chung với đại gia đình chúng tôi ở số 4 đường Gurpar Road. Trong nhà
có một cái gác nhỏ trên đó tôi tham thiền hằng ngày và tự chuẩn bị
để gặp gỡ Tôn sư.
Buổi sớm mai đáng ghi nhớ đó đến
với một con mưa báo điềm không tốt. Khi tôi nghe tiếng bánh xe ngựa của
Amar lăn trên đường lộ, tôi hối hả tom góp một cái mền, một đôi
dép, bức chân dung của Đức Lahiri Mahasaya, một quyển Bhagavad Gita, một xâu
chuổi bồ đề và hai cái chăn vải. Tôi ném gói đồ qua khung cửa sổ. Kế
đó, tôi vội vàng chạy xuống cầu thang và gặp cậu tôi đứng trước cửa
đang mua rau cải.
-"Mày làm gì mà vội vàng thế?"
cậu tôi hỏi và nhìn tôi một cách nghi ngờ.
Tôi mỉm cười một cách vô tư và
bước ra đường cái. Với gói đồ trong tay tôi đến chổ hẹn với Amar,
bước lên xe ngựa và cho xe chạy về khu thương mại Chandni Chowk. Từ nhiều
tháng nay chúng tôi đã để dành tiền từng xu từng đồng để sắm đồ
Aâu phục với ý định mặc vào để đánh lạc hướng anh tôi, vì Ananta
khi hữu sự cũng có lúc biết hành động như một thám tử đại tài.
Chúng tôi dừng xe ở giữa đường
đi đến nhà ga để đón người anh họ tôi là Jatinda đã bị tôi thuyết
phục về đức tin nơi việc tầm sư học Đạo. Y khoác vào bộ âu phục mới
chúng tôi đã dành sẵn cho y. Với lối ngụy trang sang trọng này chúng tôi
cảm thấy trong lòng tràn ngập một niềm vui sướng nhẹ nhàng.
-"Bây giờ chúng ta phải mang
giày bố."
-"Tôi dắt bạn tôi đến một
tiệm giày và nói:
-"Những đồ vật dụng bằng
da toàn là do sự giết chóc loài vật mà có, phải được tuyệt đối cấm
nhặt đối với những người hành hương!". Tôi ngừng lại để xé bỏ
cái bìa da bọc ngoài quyển kinh Bhagavad Gita và tháo gỡ sợi giày da trên
cái nón của tôi.
Đến nhà ga chúng tôi mua vé xe lữa
đi Burwan, tại đây chúng tôi sẽ sang chuyến xe lửa khác để đi Hardwar,
ở dưới chân dãy Tuyết sơn. Khi xe lửa lăn bánh, chở chúng tôi đi trên
lộ trình đã vạch sẵn, tôi mới thả tâm hồn trôi theo cái đà của sự
tưởng tượng.
-"Này các bạn hãy nghĩ xem! Chúng
ta sẽ nhập môn học đạo với các chân sư và sẽ trải qua kinh nghiệm
tâm thức siêu đẳng. Những tế bào trong thân xác chúng ta sẽ chứa đầy
một thứ từ điển siêu linh đến nổi những loài thú dữ trên dãy Tuyết
Sơn sẽ hiền lành đến liếm chân chúng ta! Những con cọp trên núi cũng sẽ
đến với chúng ta như những con mèo khổng lồ và ngoan ngoãn xin chúng ta
ban cho những cái vuốt ve trìu mến!"
Cái viễn ảnh có vẻ hấp dẫn đó
làm Amar nở một nụ cười hứng khởi. Nhưng Jatinda thì lại có vẻ tư lự,
y day mặt về phía cửa sổ và ngắm nhìn cảnh vật bên ngoài.
"Chúng ta hãy chia tiền"
Jatinda đề nghị sau một cơn im lặng kéo dài. Mỗi người sẽ tự động
mua vé khi tới Burdwan. Như vậy không ai nghi ngờ rằng chúng ta cùng đi trốn
tập thể"
Tôi đồng ý không một mảy may
nghi ngờ. Đến chiều, xe lửa ngừng tại ga Burdwan. Jatinda đến ghi sê mua
vé còn Amar và tôi đứng đợi trên bến. MoÄt khắc đồng hồ trôi qua
chunùg tôi không nghe động tịnh gì, bèn đi tìm Jatinda và kêu réo tên y tở
mở với một niềm thất vọng rõ rệt . Nhưng y đã biến mất dạng trong
bóng tối của nhà ga.
Hoàn toàn chán nản tôi cảm thấy
tuyệt vọng và xuống tinh thần. Cầu xin thượng đế che chở cho chúng
tôi khỏi cơn thử thách nặng nề như vầy! Kế hoạch tầm sư học Đạo
mà tôi đã nghiền ngẫm cặn kẽ từ bấy lâu nay đã bị phá hỏng một
cách đau đớn chua cay khó bề cứu vãn.
-"Amar, chúng ta phải trở về
nhà", tôi vừa nói vừa khóc như một đứa trẻ nhỏ. Sự phản bội của
Jatinda là một điềm gở. Chuyến đi hành hương của chúng ta đã thất bại."
-"Công phu tầm Đạo của anh chỉ
có vậy thôi sao? Anh không đủ sức chịu đựng cơn thử thách do sự phản
bội của một bạn đồng hành chăng?"
Lời ngụ ý về một sự thử
thách có ý nghĩa thiêng liêng ấy đủ gây ảnh hưởng cấp thời là nâng
cao tinh thần của tôi ngay lập tức. Chúng tôi giải lao với những loại kẹo
mứt ngon có tiếng của tỉnh Burdwan trong khi chờ đợi chuyến xe lửa khác
đi Hardwar qua ngã Bareilly. Khi đổi xe ở trạm Moghul Seral, chúng tôi bước
lên bến và thảo luận về một vấn đề tối quan trọng.
-"Amar lát nữa những nhân viên
hoả xa sẽ hỏi chúng ta rất nhiều chuyện. Tôi lại càng không dám coi thường
lòng quỷ quyệt của anh tôi! Dầu việc gì xảy ra tôi cũng nhất định không
nói dối!"
-"Mukunda, anh hãy bình tĩnh ngồi
yên. Nhất là đừng cười và đừng nói gì cả cứ để tôi trả lời".
Ngay khi đó một nhân viên hoả xa
người Anh bước đến gần chúng tôi. Y đưa cho tôi xem một bức điện tín
màu xanh mà tôi đoán ra ngay tầm quan trọng của nó.
-"Có phải vì oán hận gia đình
mà các anh bỏ nhà trốn đi?"
-"Không"
Tôi sung sướng vì câu hỏi vụng về
của y giúp cho tôi khỏi phải nói dối. Tôi trốn đi không phải vì oán hận
cai cả mà vì lòng khát khao chân lý.
Người nhân viên quay sang Amar, cụôc
đối thoại tiếp theo đó làm cho tôi phải cố gắng tự chủ mới giữ
được sự nghiêm trang của tôi.
-"Còn người thanh niên thứ ba
đâu?"
-"Im lặng người nhân viên lên
giọng uy quyền:
-"Hãy nói mau và phải nói thật"
-"Thưa ông, tôi nhận thấy ông
đang đeo kính. Ông há chẳng nhìn thấy rằng chúng tôi đang có hai người?"
Amar vừa cười ranh mãnh vừa nói
tiếp:
-"Vì tôi không phải là một
nhà phù thuỷ nên tôi tự thấy không có khả năng tạo ra một người thứ
ba!"
Người nhân viên hơi có vẻ lạc hướng,
bèn tấn công chúng tôi trên một địa hạt khác:
-"Anh tên chi?"
-"Tôi là Thomas, mẹ tôi là người
Anh và cha tôi là người Ấn theo đạo Thiên chúa."
-"Còn bạn anh tên chi?"
-"Y tên Thompson"
Tôi phải bò bốn cẳng mới khỏi
bật cười và luôn dịp lao mình tới trước toa xe lửa khi tiếng còi rú
lên và xe sắp chạy. Amar chạy theo tôi cùng với người nhân viên hoả xa,
người này tin tưởng câu chuyện vừa rồi là thật đến nỗi y xếp chúng
tôi vào một toa thượng hạng dành cho người Aâu! Hẳn là y đau lòng mà
thấy những người thiếu niên có giòng máu Anh Quốc trong huyết quản lại
đi du lịch một cách vất vả trong toa dành cho người bổn xứ! Khi y đã lễ
phép cáo từ và rút lui, tôi mới lăn mình ra trên nệm "cút xét"
mà cười mãi quên thôi. Bạn tôi thì cảm thấy không có gì sung sướng
hơn là đánh lừa được một nhân viên hoả xa người Ấn.
Lúc ở trên bến tôi đã đọc được
bức điện tín anh tôi gởi cho sở Hoả xa:"Ba thanh niên Bengali mặc Âu
phục đi trốn về hướng Hardwar, qua Moghul Serai. Yêu cầu bắt giữ lại chờ
tôi đến nơi. Sẽ xin hậu tạ"
-" Amar tôi đã dặn anh cẩn thận
đừng bỏ quên trên bàn tấm thời khắc biểu có ghi lộ trình của chúng
ta", tôi trách bạn tôi bằng một giọng cay cú. " Anh tôi chắc đã
tìm thấy bản lộ trình rồi."
Bạn tôi cúi đầu không nói gì.Chúng tôi ngừng lại ở Barelly, tại đây
Dwarka Prasad đã đợi chúng tôi với một điện tín của Ananta. Người bạn
thâm giao này cố giữ chúng tôi lại nhưng vô ích: tôi thuyết phục y rằng
cuộc hành trình của chúng tôi không phải thực hiện với mục đích bâng
quơ vô căn cứ. Cũng như lần trứơc Dwarka từ chối không chịu đi theo tôi.
Đêm hôm đó trong khi chuyến xe lửa
của chúng tôi ngừng tại một nhà ga ở dọc đường và tôi đang ngủ
ngon giấc, Amar bị một nhân viên hoả xa khác đánh thức dậy và chất vấn
nhưng không bao lâu người này cũng bị thuyết phục bởi câu chuyện bịa
đặt về Thomas và Thompson". Sáng hôm sau chúng tôi đặt chân một cách
đắc thắng vẻ vang lên thị trấn Hardwar. Những ngọn núi hùng vĩ dựng lên
chơm chởm ở đằng xa tận chân trời. Chúng tôi bèn đi mau ra khỏi ga để
lẫn lộn với đám rừng người ở chung quanh. Việc làm đầu tiên của
chúng tôi là thay bộ Aâu phục và khoác vào người bộ y phục bổn xứ, vì
Ananta đã biết rõ cách nguỵ trang của chúng tôi. Trong trí tôi lỡn vỡn
cái ý nghĩ báo điềm rằng có lẽ chúng tôi sẽ bị bắt trở lại.
Sự lo xa bắt buộc chúng tôi phải
đi ngay, chúng tôi bèn mua vé đi Rishikesh, thị trấn này là một linh địa
mà các chân sư đã từng thánh hoá tự muôn đời trước. Tôi đã bước vào
toa xe và Amar còn ở trên bến thì tôi nghe tiếng kêu của một cảnh sát
viên…Người này hộ tống chúng tôi đến một gian phòng của nhà ga, tịch
thâu số tiền còn lại của chúng tôi và kế đó giải thích cho chúng tôi
nghe một cách lịch sự rằng y có bổn phận giữ chúng tôi lại để chờ
anh tôi đến.
Khi nghe chúng tôi định đi lên dãy
Tuyết sơn, người cảnh sát viên thuật lại cho chúng tôi nghe một chuyện
dị kỳ:
-"Tôi nhận thấy các anh đang
say mê với ý định gặp các vị thánh nhân hiền triết! Các anh sẽ không
bao giờ gặp được một vị cao cả hơn người mà tôi đã gặp mới ngày
hôm qua! Tôi và một bạn hữu đã tiếp xúc với người lần đầu tiên
cách đây năm ngày. Chúng tôi đang đi tuần cảnh trên bờ sông Hằng với
mục đích truy nã một kẻ sát nhân; chúng tôi được lịnh phải bắt cho
được y dầu còn sống hay chết. Chúng tôi biết y đã cải trang làm một
tu sĩ để lường gạt những người hành hương. Bỗng nhiên chúng tôi
nhìn thấy cách đó vài bước có một tu sĩ giống hình dáng mô tả của kẻ
sát nhân nọ. Chúng tôi bèn ra lịnh cho y đứng lại, y không nghe và cứ
điềm nhiên đi thẳng. Chúng tôi bèn đuổi theo bén gót, khi đến nơi tôi
bèn dùng toàn lực giáng cho y một búa, y giơ tay đỡ thì nhát búa chặt y
gần đứt lìa một cánh tay.
Không một tiếng kêu la cũng không
để ý chút nào đến vết thương kinh khủng, người lạ mặt vẫn tiếp tục
tiến bước. Chúng tôi vượt lên tới trước mặt để chặn đừơng y,
khi đó y mới lặng lẽ nói:
-Tôi không phải là kẻ sát nhân
mà các ông tìm kiếm.
Hoàn toàn hối hận vì đã chém nhằm
một vị tu sĩ thánh thiện, tôi bèn quỳ xuống chân người để xin người
tha lỗi và lột chiếc khăn trên đầu tôi để xin rịt lại vết thương
đang chảy máu lênh láng.
-Con ơi! Đó là một lỗi lầm
không cố ý của con, vị tu sĩ vừa nói một cách đầy hảo ý, con hãy đi
đi, và đừng hối hận gì. Đức Phật Mẫu thiêng liêng sẽ lo cho tôi.
Người tu sĩ bèn gắn lại cánh tay
đã gần rời khỏi thân mình, cánh tay liền dính vào chỗ cũ như không có
việc gì xảy ra; máu cũng ngừng chảy một cách mầu nhiệm.
-Con hãy đến tìm tôi dưới bóng
cây này trong vòng ba ngày và con sẽ thấy tôi hoàn toàn bình phục. Như vậy
con sẽ không còn hối hận gì."
Chiều hôm qua tôi với người bạn
tôi cùng đến chỗ hẹn thì người tu sĩ đã có mặt ở đó. Người cho
chúng tôi xem lại vết thương thì cánh tay đã lành và không để lại một
vết tích gì cũng chẳng thấy có một cái thẹo nào!
-Tôi sẽ đi qua ngã Rishikesh để đến
những vùng hoang vắng trên dãy Tuyết Sơn. Người nói xong liền ban ân huệ
cho chúng tôi và đi khuất dạng.
Cử chỉ ban ân huệ đó đã làm
cho tôi hoàn toàn thay đổi và trở nên một người khác hẳn."
Người cảnh sát viên kết luận bằng
những lời như trên. Cái kinh nghiệm đó đã làm cho y vượt trội hẳn lên
trên trình độ của y lúc bình thường. Bằng một cử chỉ trịnh trọng,
y đưa cho tôi như để xác nhận câu chuyện vừa rồi, một tờ báo tường
thuật sự mầu nhiệm ấy. Có điều là, cũng như mọi tờ báo đăng những
chuyện kinh dị có tính cách "giật gân" ở trên thế gian này, dầu
là ở Aán Độ cũng vậy, người phóng viên thuật lại hơi lố, và nói rằng
người tu sĩ đã bị chém gần đứt đầu!
Amar và tôi cảm thấy thất vọng
mà không được chiêm ngưỡng vị tu sĩ đã tha thứ cho người làm hại
mình một cách thản nhiên như một bậc thánh. Xứ Aán Độ nghèo nàn từ
nhiều thế kỷ về phương diện vật chất, lại có một kho tàng tâm linh
dồi dào phong phú bất tận. Thậm chí những nhân viên công lực cũng đụng
đầu với những tu sĩ chân chính trên bước đường đời!
Chúng tôi cám ơn người cảnh sát
viên vì đã cho chúng tôi nghe một chuyện nó làm nâng cao tinh thần. Có lẽ
y muốn tỏ rằng y sung sướng hơn chúng tôi nhiều vì y không mất công bao
nhiêu mà đã phát hiện một bậc thánh nhân, còn sự tìm tòi vất vả khó
nhọc của chúng tôi đã kết thúc không phải ở dưới chân thầy mà ở
trong bót cảnh sát!
Vừa gần mà lại cũng vừa xa dãy
Tuyết Sơn, vì lúc ấy chúng tôi ở trong tình trạng bị bắt giữ, tôi
nói cho Amar biết rằng tôi quyết định đi trốn. Tôi bèn nở một nụ cười
khuyến khích:
-"Chúng ta hãy trốn đi khi có dịp
thuận tiện, rồi chúng ta có thể đi bộ đến Rishikesh."
Nhưng bạn tôi đã thối chí vì số
tiền còn lại của chúng tôi đã bị tịch thâu.
-"Đi bộ trong rừng già đầy
nguy hiểm e rằng chúng ta sẽ không đổ bộ lên đất thánh mà sẽ chui
vào bụng cọp!."
Ba ngày sau Ananta và người anh của
Amar cũng đến nơi. Amar tiếp đón anh mình một cách trìu mến và mừng rỡ,
còn tôi thì giận ra mặt.
-"Anh hiểu tâm trạng của
em", anh tôi nói để vỗ về an ủi tôi."Anh chỉ yêu cầu em đi với
anh đến Bénarès để viếng một nhà mô phạm và đến Calcutta trong vài
ngày để thăm cha. Rồi sau đó em có thể đi tìm thầy."
Đến đây Amar xen vào câu chuyện
để cho biết rằng y không có ý định tìm chân sư nữa. Y đang được sum
họp trong bầu không khí gia đình, về phần tôi vôi đã nguyện không bỏ
ý định tầm sư học đạo. Chúng tôi bèn đi Bénarès, tại đây những điều
sở cầu của tôi được đáp ứng một cách lạ lùng.
II
Amar đã sắp đặt một mưu kế
tinh vi. Trước khi y đến tìm tôi ở Hardwar, y có nghé ngang Bénarès và đã
thăm dò một nhà bác học mô phạm về việc của tôi. Nhà bác học này
và con trai ông đã hứa sẽ cố gắng thuyết phục tôi đừng theo con đường
xuất gia.
Ananta dắt tôi đến nhà vị bác học.
Người con trai, một thanh niên lanh lẹ tiếp đón tôi ở ngoài sân và đưa
tôi vào một cuộc thảo luận triết lý dông dài. Y tự cho là có năng khiếu
thần nhãn để đánh đổ ý nghĩ muốn xuất gia của tôi.
-"Anh sẽ gặp đủ thứ tai hoạ
và sẽ không thể nào gặp Đạo nếu anh muốn trốn trách nhiệm hằng
ngày. Người ta không thể thắng đoạt nghiệp quả của mình nếu chưa thâu
thập kinh nghiệm của trường đời."
Những lời nói bất hủ của Sri
Krishna lúc đó hiện ra trong tâm trí tôi:"Dẫu cho những kẻ tội lỗi
nhất biết dốc lòng thờ kính Thiêng liêng, y sẽ được coi như một kẻ
thiện nhân vì thật ra y đã hành động như một thiện nhân. Y sẽ biết
làm đúng bổn phận và thẳng tiến đến cõi bình an trường cửu. Hởi thí
sinh con nên biết rằng kẻ nào biết thờ kính Thiêng Liêng sẽ trở nên bất
tử."
Tuy nhiên những lời luận thuyết
hùng hồn của người thanh niên đã làm cho tôi bị lay chuyển ít nhiều.
Tôi bèn cầu nguyện với tất cả tâm hồn:
-"Cầu xin thượng Đế hãy soi
sáng cho con trong sự nghi nan và hãy chúng tỏ cho con biết ngay rằng Ngài muốn
cho con đi theo con đừơng xuất gia, hay con đường của người thế tục?"
Ngay khi ấy tôi nhìn thấy ở cách
nhà vị bác học một quãng không xa, một vị tu sĩ đạo mạo bước đi chậm
rãi. Hình như vị tu sĩ đã nghe lóm được cuộc đàm luận của tôi với
người thanh niên tự xưng là có thần nhãn vì người gọi tôi đến gần.
Tôi bị thu hút bởi luồng từ điển diệu huyền trong đôi mắt yên lặng
của người.
-"Con hỡi, đừng nghe lời kẻ
ngu dốt này. Đáp lại lời cầu nguyện của con, Thượng Đế đã dạy ta
nói cho con biết rằng trong kiếp này con đường duy nhất của con sẽ là
con đường xuất gia."
Ngạc nhiên và biết ơn vì lời
khuyên nhủ quyết định ấy, tôi mĩm cười một cách thoải mái.
-"Đừng đến gần người ấy",
tên "ngu dốt" gọi tôi từ trong sân nhà.
Vị tu sĩ ban ân huệ cho tôi và từ
từ bước đi.
-"Người tu sĩ ấy cũng điên
như anh!"
Lời này chính nhà bác học mô phạm
tóc bạc hoa râm đã nói câu nói lịch sự ấy. Cả hai cha con y đều nói với
một vẻ mặt u ám:
-"Chắc ông ta cũng đã bỏ nhà
ra đi với mục đích viễn vông là đi tìm Thượng Đế!"
Tôi bèn lui gót và cho Ananta biết rằng
tôi không muốn tiếp tục câu chuyện với chủ nhà.
Anh tôi đành nghe theo và chúng tôi
đáp xe lửa đi Calcutta.
-"Này ông thám tử, ông làm thế
nào mà biết rằng tôi đã ra đi với hai người bạn?" tôi tò mò hỏi
Ananta trong chuyến đi trở về.
Anh tôi mỉm cừơi châm biếm:
-"Tại trường anh nghe nói rằng
Amar đã bỏ lớp học ra đi không trở lại. Sáng hôm sau anh đến nhà y và
tìm thấy một bản thời khắc biểu hoả xa có ghi dấu lộ trình. Cha của
Amar cũng vừa gọi một chiếc xe ngựa và nói với người phu xe với giọng
rên rỉ:
-"Sáng nay tôi không đưa con tôi
đến trừơng, nó vừa đi biệt tích."
Người phu xe đáp:
-"Tôi nghe một bạn đồng nghiệp
nói rằng con ông cùng hai thanh niên khác mặc Aâu phục đã đáp chuyến xe
lửa tại Howrah. Họ bỏ lại mấy đôi giày da cho người bạn tôi."
"Như vậy anh nắm được ba yếu
tố: Bản lộ trình, ba người thnah niên và họ mặc Aâu phục."
Tôi nghe Ananta tiết lộ những đìêu
ấy với một cảm giác lẫn lộn vừa khen thầm vừa chán nản. Sự rộng
rãi của chúng tôi đối với tên phu xe thật là không đúng chỗ!".
Ananta nói tiếp:
-"Lẽ tự nhiên anh liền gởi
ngay mấy bức điện tín cho nhân viên các trạm xe lửa mà Amar đã ghi trong
thời khắc biểu. Trạm Bareilly có ghi dấu, anh điện cho Dwarka, bạn của
em tại đó. Do sự dọ hỏi những người láng giềng ở Calcutta anh biết
Jatinda đã vắng mặt suốt đêm nhưng đã trở về sáng hôm sau và mặc
Aâu phục. Anh bèn đến tìm y và mời y dùng cơm tối. Thấy anh vui vẻ và
thân tình, y bèn nhận lời.
Dọc đường trong khi y không nghi ngờ
gì cả, anh đưa y ngay vào sở cãnh sát, tại đây đã chực sẵn những cảnh
sát viên mà anh đã thông đồng từ trước và anh đã chọn lựa những người
có vẽ mặt hung tợn. Dưới cái nhìn hung ác của họ, Jatinda phải thú thật
với anh tất cả:
-"Tôi bước chân ra đi với một
lòng vui vẽ nhẹ nhàng, tôi lấy làm sung sướng với ý nghĩ sẽ gặp các
vị chân sư. Nhưng khi Mukunda nói rằng:"Đắm chìm tron g cơn đại định
trong các động đá, chúng ta sẽ chinh phục cả đến loài thú dữ. Những
con cọp lớn sẽ vây quanh chúng ta thành một vòng tròn và ngoan ngoãn dễ
thương như những con mèo", tôi bèn cảm thấy rợn xương sống và mồ
hôi lạnh toát ra như tắm. Tôi nghĩ rằng nếu sự giác ngộ tâm linh của
chúng tôi chưa đủ mạnh để chinh phục loài cọp dữ thì liệu chúng có
được ngoan ngoãn với chúng tôi như mèo không? Tôi đã tưởng tượng rằng
tôi chui vào bụng cọp, không phải chui nguyên con một lần, mà là bị rứt
ra từng mảnh!"
Sự oán hận của tôi đối với
Jatinda bèn đổi thành một trận cười giòn giã, nó bù lại tất cả những
sự lo âu mà y đã gây ra cho tôi sau khi trốn biệt tích.
Tôi phải thú thật là tôi đã cảm
thấy hơi khoái chí vì chính Jatinda cũng không thoát khỏi lọt vào lưới cảnh
sát!.
-"Ananta, quả thật anh có tâm hồn
của một con chó săn!"
Tôi vừa nhìn y một cách thích thú
nhưng không khỏi đượm một nét chán chường:
-"Tôi sẽ nói với Jatinda rằng
tôi lấy làm sung sướng mà thấy y đã hành động không phải với ý định
phản bội chúng tôi như tôi đã lầm tưởng mà chỉ vì bản năng tự tồn!"
Đến Calcutta, cha tôi khuyên tôi
hãy thắng bớt lòng ham thích ngao du, dầu rằng chỉ trong ít lâu, cho đến
cuối niên học ban tú tài. Trong khi tôi vắng mặt, người đã dọ hỏi một
vị tu sĩ kiêm bác học , đại đức Kebala, vị này hứa sẽ đến nhà thường
xuyên để dạy tôi học. Cha tôi nói:
-"Vị tu sĩ này sẽ là thầy dạy
Phạn ngữ của con"
Cha tôi hy vọng thoả mãn lòng khát
khao học Đạo của tôi bằng cách đem cho tôi một vị học giả uyên bác
làm thầy. Nhưng ý định đó hoàn toàn bị đảo lộn: vị thầy học của
tôi thay vì dạy cho tôi một môn học khô khan lại càng làm cho tôi tăng thêm
lòng khát khao chân lý. Cha tôi cho biết rằng đại đức Kebala là một vị
đệ tử cao niên của đức Tôn sư Lahiri Mahasaya. Tôn Sư có đến hàng
nghìn đệ tử bị hấp dẫn bởi luồng từ điển mãnh liệt có sức lôi
cuốn phi thường của ngài. Về sau tôi nghe nói rằng Tôn Sư thường coi Đại
Đức Kebala như một vị thánh đã ngộ Đạo.
Vị thầy học của tôi có một gương
mặt đẹp lồng trong một khung tóc đen huyền mà những lọn tóc quăn thòng
xuống tận vai. Đôi mắt đen của người có một nét tinh anh và ngây thơ
như trẻ con. Mỗi cử động của thân hình mảnh giẻ của người biểu hiện
một sự cương quyết dũng mãnh. Luôn luôn dịu hiền và khả ái, người
đã đạt tới cõi tâm thức vô cùng. Chúng tôi đã trải qua nhiều giờ
thú vị bên nhau để thực hành môn thiền định.
Đại đức Kebala rất tinh thông
các kinh điển cổ và các thánh kinh Aán giáo. Tuy nhiên tôi không tiến bộ
được bao nhiêu về môn Phạn Ngữ. Tôi viện bất cứ một lý do nhỏ mọn
nào để bỏ qua việc học văn phạm, để nói đạo lý và để nói về đức
Lahiri Mahasaya. Một hôm vị thầy học của tôi thuật cho tôi nghe một giai
đoạn đời sống của người bên cạnh đức Tôn Sư:
-" Do một diễm phúc hiếm có,
tôi có hân hạnh sống trong mười năm bên cạnh đức Tôn Sư. Mỗi buổi
chiều, đạo viện của người ở Bénarès là một nơi hành hương của tôi.
Tôn Sư thường có mặt ở một phòng khách nhỏ trên lầu. Ngài ngồi kiết
dà theo thế "liên hoa" trên một chiếc ghế gỗ và các đệ tử ngồi
thành một vòng bán nguyệt chung quanh ngài đắm chìm trong cơn đại định,
ngài ngồi im đôi mắt lim dim mở hé trụ vào những cõi giới bằng an vô
tận. Ngài ít khi nói chuyện. Đôi khi nhãn quang của ngài trụ vào một đệ
tử đang gặp khó khăn và cần được giúp đỡ; khi đó những lời nói đầy
nhân từ của ngài tuôn tràn như suối chảy.
"Một sự bằng an tuyệt vời
tràn ngập cõi lòng tôi dưới cái nhìn của Tôn sư. Hương thơm minh triết
của người thấm nhuần vào người tôi như hương thơm của hoa sen. Sống
gần bên ngài dầu cho chúng tôi không trao đổi với nhau một lờinào, cũng
đủ làm cho tâm hồn tôi hoàn toàn thay đổi. Trong cơn tham thiền nếu tôi
gặp một chướng ngại vô hình nào, tôi chỉ cần đến ngồi thiền dưới
chân Tôn sư cũng đủ làm cho tôi vượt qua trở lực đó dễ dàng! Ngồi
thiền một bên ngài những trạng thái tâm thức siêu đẳng đều nằm
trong tầm tay tôi trong khi tôi không thể đạt tới những trạng thái đó dưới
sự chỉ dẫn của những vị minh sư khác. Đức Tôn sư quả thật là một
thánh điện thiêng liêng mà những cửa bí mật đều được mở rộng cho
tất cả các đệ tử trên đường sùng tín.
"Đức Lahiri Mahasaya không phải
là một nhà học giả uyên bác về các kinh thánh. Không cần cố gắng
ngài dường như có sẵn trong lòng cả một kho tàng kinh điển thiêng
liêng. Sự minh triết của ngài tràn ngập chunùg tôi như một biển đại
dương muôn trùng. Ngài nắm giữ cái chìa khoá diệu huyền mở cửa kho
tàng minh triết của kinh Phệ Đà, từ nghìn xưa vẫn từng là nơi tích trử
những viên ngọc quý vô giá của nền đạo thâm sâu, vi diệu. Khi người
ta yêu cầu ngài giải thích những trạng thái tâm thức khác nhau được
ghi trong các thánh kinh cổ, ngài gật đầu với một nụ cười:
-"Để tôi trắc nghiệm những
trạng thái đó và tôi sẽ nói cho quý vị biết tôi thấy những gì."
Ngài thật khác xa với những đạo
sư tự nhồi sọ bằng kinh điển, rồi sau đó chỉ tuôn ra những lý thuyết
trừu tượng không thể nào thực hiện được!
Tôn sư không bao giờ khuyên chúng
tôi hãy tin tưởng một cách mù quáng. Ngài thường nói: "Những danh từ
chỉ là những cái vỏ bề ngoài. Quý vị hãy tự mình kinh nghiệm lấy
Chân Như Đại Thể bằng cách thực hành môn thiền định"
"Dầu cho những người đệ tử
gặp phải những sự khó khăn như thế nào, Tôn Sư đều khuyên thực hành
môn Kriya Yoga như một phương tiện để giải quyết:
-"Cái chìa khoá của pháp môn
này sẽ duy trì hiệu lực của nó dẫu cho đến khi tôi không còn ở gần
bên quý vị. Cái kỹ thuật của nó không thể mất đi, hoặc trở nên khô
cạn hay lãng quên như sự hiểu biết qua sách vở và lý thuyết suông. Quý
vị hãy kiên tâm bền chí trên con đường giải thoát của pháp môn Kriya
Yoga, cái sức mạnh của nó là ở sự thực hành". Tu sĩ Kebala kết luận:
-"Riêng tôi, tôi coi pháp môn
Kriya Yoga như cái khí cụ lý tưởng để tự giải thoát bằng sự cố gắng
trên đường tu luyện"
Tu sĩ Kebala từng chứng kiến một
sự mầu nhiệm do đức Tôn Sư thực hiện. Một ngày nọ người thuật lại
cho t ôi nghe câu chuyện này:
-"Trong các đệ tử của Tôn sư
có huynh Ramu làm cho tôi động lòng trắc ẩn. Hai mắt của huynh đã mù
không còn nhìn thấy ánh sáng, trong khi huynh vẫn hết lòng phục vụ Tôn Sư
một cách sùng tín và trung thành. Một ngày nọ tôi định nói chuyện với
Ramu, nhưng huynh đang ngồi dưới chân thầy và quạt cho thầy bằng một
cái quạt đương bằng lá dừa mà huynh đã ra công làm lấy. Khi huynh bước
ra khỏi tịnh xá tôi mới theo dõi và hỏi huynh:
-"Ramu, huynh bị mù mắt từ bao
giờ?"
-"Tôi không hề nhìn thấy ánh
mặt trời từ khi mới sinh ra"
-"Đức Tôn Sư toàn năng có thể
chữa bệnh cho huynh, huynh phải đi ra mà cầu khẩn người."
"Ngày hôm sau, Ramu rón rén bước
đến gần Thầy. Y có vẻ hầu như hổ thẹn mà cầu xin thêm một ân huệ
vật chất ngoài ra những ân huệ tâm linh mà y đã được hưởng .
-"Bạch Tôn Sư, Aùnh sáng của
vũ trụ vốn ở nơi Tôn Sư. Xin Tôn Sư hãy ban cho con một ít ánh sáng huyền
diệu đó để cho con có thể nhìn thấy Mặt Trời."
-"Ramu, chắc hẳn là có kẻ
nào định gây sự khó khăn cho Thầy. Thầy không có quyền năng chữa bệnh
bao giờ."
-"Bạch Tôn Sư, Phật tánh
thiêng liêng ẩn tàng nơi ngài có cái quyền năng đó!"
-"Aø, Ramu, nếu vậy thì lại
khác. Quyền năng của Thượng Đế vốn vô biên! Đấng Tối Cao có quyền
năng thắp sáng các bầu tinh tú vào cơ thể, tế bào các loài động vật,
hẳn là có thể phục hồi nhãn quang lại cho con."
Kế đó Tôn Sư đưa tay điểm vào
trán của Ramu, ở một chỗ giữa hai chân mày:
-"Con hãy tập trung tư tưởng vào
điểm này, và tưởng niệm danh hiệu đức Phật Di Đà trong bảy ngày.
Aùnh sáng mặt trời chừng đó sẽ chói rạng trước đôi mắt kinh ngạc của
con."
"Một tuần lễ sau, lời tiên
đoán của Tôn Sư đã được thưcï hiện. Ramu đã có thể chiêm ngưỡng
những sự vật kỳ thú của cõi thiên nhiên. Tôn sư đã dặn Ramu hãy chú
niệm danh hiệu đức Phật Di Đà mà y Tôn sùng hơn tất cả các vị khác.
Lòng sùng tín của Ramu là cái mảnh đất thuận lợi để cho Tôn Sư gieo hột
giống tốt của sự bình phục trường cửu."
Đại đức Kebalâ im lặng một
lúc, rồi nói tiếp:
-"Hiển nhiên là trong tất cả
những sự màu nhiệm của ngài làm, Tôn Sư không bao giờ để cho một mảy
may lòng ích kỷ ảnh hưởng đến ý đồ của ngài. Tôn Sư hành động một
cách hồn nhiên vô tư, như một đường vận hà để cho nguồn Thần Lực
thiêng liêng, vốn có năng lực chữa trị mọi bệnh tật, được tự do
lưu thông xuyên qua ngài."
"Vô số những thể xác được
đức Lahiri Mahâsaya chữa khỏi bệnh tật một cách màu nhiệm như thế, dầu
sao cũng phải có ngày xuống mồ hoặc đem hỏa táng. Nhưng còn sự thức tỉnh
tâm linh chớm nở trong tâm hồn của các vị đệ tử do bởi sự tiếp xúc
của ngài, đó mới là sự màu nhiệm bất biến và bất tử của
ngài!".
Tôi không bao giờ trở nên một học
giả ưu tú về môn Phạn ngữ; đại đức Kebalâ đã dạy tôi một thứ
ngôn ngữ khác còn thiêng liêng hơn nhiều.
- Mục
lục | Lời tựa | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18 | 19 | 20 | 21 | 22 | 23 | 24 | 25|
- Chúng tôi chân thành cảm ơn Phật tử
Huỳnh Thanh Hương đã phát tâm đánh máy gởi sách này về tặng cho Ban
biên tập Đạo Phật Ngày Nay.