- XỨ PHẬT HUYỀN
BÍ
- Nguyên tác: AUTOBIOGRAPHIE D’UN
YOGI
- Của: Tu sĩ PARAMHANSA
YOGANANDA
CHƯƠNG HAI MƯƠI
LĂM
TRỞ
VỀ ẤN ĐỘ
-"Con hãy trở về Ấn Độ. Thầy
đã kiên nhẫn đợi con trong mười lăm năm nay. Không bao lâu nữa Thầy sẽ
bỏ xác phàm để về cõi Tinh Thần. Về đi, con!"
Giọng nói của Sư phụ tôi vang rền
trong chổ bí ẩn thâm sâu nhất của tâm hồn tôi, trong khi tôi đang ngồi
thiền tại trụ sở đạo viện trên sườn đồi ở vùng ngoại ô Los
Angeles. Trong chớp mắt, thông điệp của Sư phụ đã vượt qua mười nghìn
dặm đường để đến với tôi.
Mười lăm năm! Đó là năm 1935 và
tôi đã sống đúng mười lăm năm ở Mỹ quốc để truyền bá giáo lý của
Sư phụ tôi. Bây giờ, người gọi tôi trở về.
Ngày hôm đó tôi thuật lại cái
kinh nghiệm thần bí của tôi cho một ngừơi đệ tử đã đạt tới một
trình độ tiến hoá tâm linh khá cao nhờ pháp môn Kriyâ Yoga. Ngừơi đệ tử
này và nhiều ngừơi khác nữa tình nguyện đài thọ phí tổn cuộc hành
trình. Vân đề tài chánh đã giải quyết xong, tôi mới sắp đặt mọi việc
để trở về Ấn Độ xuyên qua Âu Châu. Tháng ba năm 1935, đạo viện Yoga
của tôi mệnh danh là "Cơ Quan Thực Hiện Chân Ngã", được đăng
bộ như một tổ chức không thương mãi và được hợp pháp hoá theo luật
của tiểu bang Californie, có tính cách như một cơ quan giáo dục được phép
thu nhận tiền đóng góp của công chúng, tiền lợi tức phát hành sách vở,
tạp chí của tôi cùng những nguồn lợi tức khác. Tôi nói với các môn
đệ Yoga của tôi:
-"Tôi sẽ trở lại. Tôi không
bao giờ quên Mỹ quốc."
Tại buổi tiệc tiễn hành do các bạn
tôi tổ chức ở Los Angeles, tôi nhìn một cách biết ơn những gương mặt
thân hữu và nghĩ thầm rằng:"Người nào tôn thờ Thượng Đế và
nhìn nhận Ngài là đấng ban rải mọi phước lành, sẽ không bao giờ thiếu
sót sự ấm áp của tình bằng hữu."
Tôi từ giả NewYork ngày 9 tháng 6 năm
1935 do chuyến tàu "Europa" cùng với hai người môn đệ là ông
Richard Wright, ông này tình nguyện làm bí thơ cho tôi và một bà đã lớn
tuổi là bàEttie Bletch. Chuyến đi trên tàu giúp cho chúng tôi được nghĩ
ngơi sau những tuần lễ cuối cùng rất bận rộn. Nhưng thời giờ nhàn rỗi
của chúng tôi rất ngắn ngủi; tốc lực của những chiếc tàu vượt đại
dương tối tân đôi khi cũng có một khía cạnh đáng tiếc.
Chúng tôi lên bờ ngoạn cảnh khi
tàu ghé bến Luân Đôn. Ngày hôm sau tôi được mời thuyết pháp tại giảng
đường Caxton Hall, tại đây ông Francis Younghusband giới thiệu tôi cho
thính giả Anh quốc.
Chuyến tàu "Rajputana" về
đến cảng Bombay ngày 22 tháng 8 năm 1935. Tôi hít đầy phổi cái không khí
yên lành của xứ Aán Độ.
Vừa lên tới bến, tôi đã nhìn thấy
trước những gì đang chờ đợi tôi ở xứ nhà: đó là mười hai tháng trường
hoạt động không ngừng. Các bạn bè và thân bằng quyến thuộc tiếp đón
chúng tôi trên bến với những tràng hoa tươi. Kế đó, khi chúng tôi đến
khách sạn Taj Mahal, chúng tôi liền bị bao vây bởi những ký giả và nhiếp
ảnh viên. Sau khi đã ký thác cho sở Hỏa Xa chiếc xe Ford của chúng tôi
đem theo xuống tàu từ bên Mỹ quốc, nhóm ba người của chúng tôi hối hả
đáp xe lửa đi Calcutta.
Đến ga Howrah, chúng tôi được tiếp
đón bởi một số người đông đảo đến nỗi chúng tôi phải vất vả
khó khăn mới bước kên tới bến. Vị tiểu vương Kasimbazar và em trai tôi
là Bishnu điều khiển ủy ban tiếp đón; tôi không hề nghĩ rằng mình sẽ
được tiếp đón một cách nồng nhiệt như vậy.
Cha tôi ôm chầm lấy tôi dường
như tôi vừa mới sống lại và chui ra khỏi mồ! Chúng tôi nhìn nhau rất
lâu trong câm lặng vì vui mừng. Các anh chị em tôi, các bà con thân quyến,
học trò và bằng hữu cố tri ngày xưa vây chung quanh chúng tôi, với đôi
mắt đẫm lệ. Đến bây giờ thì cảnh tượng trở về quê nhà trong sự
tiếp đón nồng hậu đầy tình thương yêu ấy chỉ còn là một kỷ niệm
xa vời, nhưng nó sẽ tồn tại mãi mãi trong lòng tôi.
Tôi không tìm thấy ngôn ngữ nào
có thể diễn tả nổi tâm trạng của tôi khi tôi gặp lại Sri Yukteswar, Sư
phụ tôi. Tôi xin trích một đoạn văn của ông Wright, đã tả cảnh tái ngộ
ấy trong tập Du ký của ông như sau:
"Hôm nay, trong sự vui mừng
và trông đợi, tôi lái xe đưa đại đức Yogânanda từ Calcutta đi
Serampore. Chúng tôi đi ngang qua những dãy hàng quán hai bên đường (trong một
quán cơm này, đại đức Yogânanda thường dùng bữa trong những năm còn
ở đại học) và sau cùng, đi rẽ vào một con đường nhỏ hẹp giữa hai
vách tường. Cuối đường xe quẹo về bên trái thì đã tới đạo viện,
một ngôi nhà lầu hai tầng, giản dị nhưng ấm cúng, với một bao lơn kiểu
Tây Ban Nha nhô ra phía ngoài tầng lầu trên. Cảm tưởng chung là một nơi
hẻo lánh và yên tĩnh.
"Tôi đi theo đại đức Yogânanda
vào một cái sân nhỏ bên trong đạo viện. Trong lòng hồi hộp, chúng tôi
bước lên những bậc thang đã cũ mà chắc hẳn là hằng nghìn những người
tìm Đạo đã từng bước qua. Mỗi bước làm cho tôi càng thêm hồi hộp.
Thình lình, tôi thấy xuất hiện phía trên cầu thang, vị Tôn Sư Sri
Yukteswar, trong dáng điệu cao quí của một nhà hiền triết.
"Run lên vì xúc động, tôi cảm
thấy cái ân huệ tốt lành của sự hiện diện cao cả ấy. Đôi mắt tôi
ứa lệ, trong khi đó đại đức Yogânanda, với tất cả sự biết ơn vô hạn
trong tâm hồn, cúi đầu quì xuống chân Sư phụ, đưa tay nắm lấy, rồi kế
đó gục đầu xuống hai chân người để tỏ một sự cung kính rất mực
và tuyệt đối phục tùng. Kế đó, người mới đứng dậy và Sri Yukteswar
ôm lấy người một cách thật đậm đà thân mến.
"Trước hết một cơn im lặng
ngự khắp gian phòng, nhưng cái im lặng đó diễn tả tất cả những khía
cạnh của hai tâm hồn. Hai cặp mắt đều long lanh chiếu một tia sáng hạnh
phúc trước sự tái ngộ giữa hai thầy trò sau bao nhiêu năm xa cách.
"Đến lượt tôi cũng quì trước
mặt Sư phụ, tôi bày tỏ tấm lòng yêu mến và biết ơn người, tôi cũng
cúi xuống nắm lấy hai bàn chân đã tê cứng với thời gian và nhận lãnh
ân huệ của Tôn sư. Kế đó, tôi đứng dậy, nhìn vào đôi mắt của Tôn
sư, một đôi mắt đẹp, lớn, thâm trầm và chiếu sáng vì vui mừng.
Chúng tôi bước qua phòng khách, mà một bên giáp với bao lơn, và có thể
nhìn thấy từ phía đường lộ. Tôn sư ngồi trên một tấm nệm trải dưới
sàn gạch, dựa lưng vào một cái gối lớn. Đại đức Yogânanda và tôi ngồi
dưới chân Tôn sư, trên một chiếc chiếu bằng rơm, và dựa cùi chỏ
trên những cái gối gòn màu vàng sậm.
"Tôi cố gắng theo dõi câu chuyện
đàm thoại bằng tiếng Bengali giữa hai thầy trò đại đức nhưng không hiểu
được gì cả, vì hai vị đều không dùng tiếng Anh, tuy rằng Tôn sư cũng
nói được tiếng Anh trôi chảy. Nhưng sự thánh thiện của Tôn sư được
biểu lộ qua nụ cười hồn nhiên và tia sáng trong cặp mắt. Một đặc
điểm trong tính chất của Tôn sư là sự nhận xét đúng đắn trong mọi
chuyện, đó tức là dấu hiệu minh triết của một người đã cảm thông
được với Thượng Đế.
"Tôi kính cẩn đưa mắt nhìn
Tôn sư thì thấy người vóc vạc cao lớn, vai rộng và dường như được
trui rèn cứng rắn bởi bao nhiêu những cuộc thử thách và hy sinh của cuộc
đời xuất gia. Người có một cái trán cao, cái mũi lớn, đôi mắt nâu sậm,
tóc dài dợn sóng rẽ làm hai phần, đã điểm bạc và thòng xuống đến tận
vai. Hàm râu hơi thưa và ngắn, tuy nhiên bộ râu mép xén kỷ làm tăng vẻ
uy nghiêm trên gương mặt.
"Tôn sư có một giọng cười lớn,
thành thật và cởi mở, hồn nhiên. Toàn thân người toát ra một sức mạnh,
lưng thẳng và dáng điệu hùng vĩ. Tôn sư mặc áo rộng và vận một cái
chăn vải, trước kia chắc hẳn là màu nâu sậm, nhưng nay đã trở thành
màu vàng lợt. Tuy đã 81 tuổi, Tôn sư có vẻ lực lưỡng và khỏe mạnh.
"Tình trạng cũ kỹ của gian phòng
cho thấy rằng Tôn sư ít chú trọng đến vấn đề vật chất. Những vách
tường quét vôi trắng đã trổ màu với thời gian. Ở một góc phòng có một
bức chân dung của đức Lahiri Mahâsaya treo trên vách. Ngoài ra còn có một
bức ảnh của đại đức Yogânanda chụp chung với các vị đại biểu quốc
tế tại Đại Hội Tôn Giáo ở Boston.
"Tôi cũng nhận thấy một sự
chung đụng lạ lùng giữa cổ lẫn kim: một cái chân đèn lớn có đóng mạng
nhện vì đã lâu không dùng đến; trên tường, một quyển lịch không lật
đúng ngày. Từ những thứ đó, toát ra một bầu không khí yên tịnh, êm
đềm. Bên ngoài bao lơn, những cây dừa cao lớn tỏa bóng mát và che chở
khắp đạo viện.
"Tôn sư chỉ cần vỗ hai bàn
tay để sai bảo những vị đệ tử trẻ tuổi trong đạo viện khi người
cần dùng đến họ. Tôi có cảm tình đặc biệt với một người thanh niên
tên là Prafulla, với mái tóc đen dài xỏa xuống vai, đôi mắt đen láy với
cái nhìn sâu sắc thâm trầm, và nụ cười hiền dịu; đôi mắt y chiếu
sáng ngời mỗi khi hai khóe miệng y xếch lên trong một nụ cười, giống
như hai ngôi sao và mặt trăng luỡi liềm vào lúc hoàng hôn.
"Tuy Tôn sư bản tính vui vẻ hồn
nhiên, nhưng sự minh triết thiêng liêng mới là điểm nổi bật trong tác
phong của người, nó khiến cho người không hề bộc lộ tình cảm ra
ngoài.
"Đại đức Yogânanda dâng lên
Tôn sư các món quà biếu theo tục lệ thông thường khi một đệ tử đi
xa trở về gặp lại Sư phụ. Sau đó, một bữa cơm giản dị tươm tất
được dọn ra cho chúng tôi, với các món ăn nấu rất khéo gồm có cơm và
rau đậu. Tôn sư lấy làm thích mà thấy tôi hòa mình với phong tục Aán
Độ và ăn cơm bằng tay.
"Sau nhiều giờ hàn huyên và đàm
luận trong tình thầy trò thân mật đậm đà, chúng tôi vừa kính cẩn kiếu
từ Sư phụ vừa chắp tay đưa lên trán theo phong tục bổn xứ, và trở về
Calcutta với những kỷ niệm khó quên. Tuy rằng cảm tưởng của tôi chỉ
mời là bề ngoài, tôi cũng ý thức được sự cao cả tâm linh của Sư phụ.
Tôi cảm giác được cái sức mạnh tinh thần của người, và cái cảm
giác đó đối với tôi là một ân huệ thiêng liêng".
II
"Bạch Sư phụ, con rất
sung sướng mà được gặp có một mình Sư phụ sáng nay!"
Tôi vừa mới đến đạo viện
Serampore với một giỏ hoa quả thơm phức làm quà biếu Sư phụ. Sư phụ
nhìn tôi với cặp mắt dịu hiền. :
-"Con muốn nói chi?"
-"Bạch Sư phụ, con đến với
Sư phụ từ ngày con còn là học trò; bây giờ con đã là một người trung
niên với hai sợi tóc trắng! Sư phụ đã ban cho con một sự trìu mến thương
yêu thầm lặng từ giờ phút đầu, nhưng chỉ có một lần, một lần
thôi, vào ngày chúng ta gặp nhau Sư phụ đã nói rằng Sư phụ thương
con!"
Cái nhìn của tôi có vẻ tha thiết.
Sư phụ cúi mặt nhìn xuống đất và nói:
-"Yogananda, phải chăng Thầy nên
che đậy tình thương nồng nhiệt của Thầy đối với con bằng những lời
nói lạnh lùng?"
-"Bạch Sư phụ, con biết rằng
Sư phụ thương con nhưng tai phàm của con mong ước được nghe điều đó từ
miệng Sư phụ nói ra."
-"Được, con sẽ như ý. Khi Thầy
còn sống cuộc đời người gia trưởng, Thầy đã mong ước có được một
người con để dạy nó theo pháp môn Yoga. Khi con bước vào cuộc đời Thầy,
Thầy đã được như ý muốn, Thầy đã tìm thấy ở nơi con đức con trai
của Thầy!" Hai giọt lệ đượm trên cặp mắt Sư phụ tôi:
-"Yogânanda, Thầy vẫn thương
con như bao giờ!"
-"Lời nói cuả Sư phụ đã mở
cửa Thiên Đàng cho con!" tôi bất giác thốt lên với tấm lòng nhẹ
nhõm như trút được một gánh nặng.
Tôi vẫn thường ngạc nhiên về
cái im lặng của Sư phụ. Tôi biết rằng Sư phụ tôi tính tình trầm tĩnh
và tự chủ, tuy vậy tôi vẫn e ngại rằng tôi không làm vừa lòng người.
Đối với con mắt người đời, tính chất bí hiểm, lạ lùng của Sư phụ
không bao giờ có thể đoán biết được rõ ràng nhất là khi mà những
giá trị của sự vật trần gian không còn có ý nghĩa gì đối với người
nữa.
Vài ngày sau đó, tôi thuyết pháp
trước một cử toạ đông đảo tại giảng đường Albert Hall ở Calcutta,
trong dịp này Sư phụ tôi bằng lòng ngồi bên cạnh tôi trên diễn đàn
cùng với vị quốc vương Santosh và viên thị trưởng thành phố Calcutta. Sư
phụ không bình phẩm gì nhưng thỉnh thoảng tôi liếc nhìn Sư phụ thì nhận
thấy trong cặp mắt người có hiện ra vẻ hài lòng.
Sau đó ít lâu, Sư phụ làm lễ
đưa tôi lên cấp đẳng Parahamsa của dòng tu sĩ xuất gia. Khi tôi quỳ trước
mặt Sư phụ để thụ lễ tăng cấp, người nói:
-"Quả vị này chánh thức đưa
con lên một cấp cao hơn quả vị Swami của con trước kia. Từ nay, Đạo
nghiệp của Thầy trên thế gian này đã chấm dứt, con sẽ có bổn phận
tiếp tục công việc ấy."
Sư phụ nói với một giọng trầm
tĩnh, đôi mắt của người vẫn giữ nét yên lặng dịu dàng. Tôi bắt đầu
cảm thấy băn khoăn sợ hãi. Kế đó người nói tiếp:
-"Con hãy chỉ định cho Thầy một
người thừa kế để trông nom đạo viện tại Puri. Thầy giao tất cả mọi
việc trong tay con. Từ nay con sẽ lái con thuyền đời của con và đạo của
Thầy đến những bờ bến thiêng liêng."
Hai hàng lệ tuôn tràn, tôi cúi xuống
hôn hai bàn chân thiêng liêng của Sư phụ; người đứng dậy và ban ân huệ
cho tôi một cách thân yêu.
Qua hôm sau, tôi cho mời một đệ tử
tên là Swami Sebânanda từ Ranchi đến và giao cho y trọng trách điều khiển
đạo viện Puri.
Hằng ngày sống bên cạnh Sư phụ,
sống trong bầu không khí đầy tình thương của người, tình thương ấy
tuy thầm lặng nhưng biểu lộ trong từng chi tiết nhỏ nhặt, tôi quên hẳn
những lời nói úp mở của Sư phụ ám chỉ sự từ trần của người sắp
đến.
-"Bạch Sư phụ, thánh lễ
Kumbha Mela năm nay sẽ cử hành tại Allahabad", tôi vừa nói vừa chỉ
cho Sư phụ ngày cuộc lễ có ghi trong một quyển lịch.
-"Con thật muốn dự cuộc lễ
này chăng?"
Không hiểu rằng Sư phụ nói thế
là có ngụ ý bảo tôi đừng đi. Tôi nói thêm:
-"Sư phụ đã có lần gặp đức
Babâji trong một cuộc thánh lễ Kumbha Mela. Biết đâu lần này con lại chẳng
có duyên may được gặp ngài tại đó?"
-"Thầy không tin như vậy."
Nói đến đó, Sư phụ lại im lặng,
vì người không muốn làm trái với ý định của tôi.
Sáng ngày hôm sau, khi tôi cùng một
nhóm nhỏ gồm vài môn đệ lên đưòng đi Allahabad, Sư phụ điềm nhiên
ban ân huệ cho tôi như không có việc gì hệ trọng. Sở dĩ tôi không hiểu
lời cảnh cáo ngầm của Sư phụ tôi, chắc hẳn là bởi vì Thượng Đế
muốn tránh cho tôi khỏi bị sự đau khổ phải chứng kiến cái chết của
Sư phụ tôi mà không làm gì được. Như vậy, đấng Thượng Đế từ bi,
vô lượng đã giữ tôi ở cách xa những giờ phút hấp hối của những người
thân yêu của tôi
Nhóm chúng tôi đến dự thánh lễ
Kumbha Mela ngày 23 tháng1 năm 1936. Một quần chúng đông đảo gần hai triệu
người từ khắp mọi nơi đổ dồn vào thành phố, gây một cảnh tượng
rất náo nhiệt ồn ào. Tôn giáo là lẽ sống của người dân Aán Độ, từ
người nông dân chất phác đến người tu sĩ khất thực đã cắt đứt mọi
sợi dây liên lạc trói buộc thế gian, đi tìm sự giác ngộ tâm linh để
hưởng cái lạc thú vô biên của cõi Tinh Thần. Lẽ tất nhiên cũng có những
kẻ giả mạo bịp đời, đội lốt nhà tu để sống cuộc đời ký sinh,
ăn nhờ của bố thí, nhưng người Aán vẫn trọng vọng tất cả các tu sĩ
vì trong số đó có một thiểu số những bậc chân tu đắc Đạo ban rải
ân huệ thiêng liêng cho toàn thể xứ sở của họ.
Chúng tôi trải qua ngày đầu tiên
để đi nhìn xem cảnh vật chung quanh. Hằng hà sa số những tín đồ Aán
giáo trầm mình dưới sông Hằng linh thiêng để rửa sạch tội lỗi hoặc
dọn mình để cầu phước; trên bờ sông những tín đồ cúng dường lễ
vật dưới chân các vị tu sĩ râu tóc xồm xoàm; những đoàn voi ngựa đeo
yên cương mầu mè sặc sỡ rất đẹp, cùng những đoàn lạc đà xứ
Rajputana từ từ đi diễn hành trước mắt chúng tôi; một cuộc rước lễ
của các tu sĩ sống khõa thân theo phái tự nhiên, tay cầm đạo kỳ bằng
lụa diễn hành khắp nơi.
Những tu sĩ mặc khố vải tụ họp
thành từng nhóm nhỏ, ngồi yên lặng, thân mình bôi tro, trên trán có vẽ
con mắt thánh bằng bột vàng. Những tu sĩ dòng Swâmi đầu cạo trọc, mặc
áo mầu vàng sậm đi qua lại với cây gậy tre và cái bình bát cầm nơi
tay; gương mặt họ biểu lộ sự trầm lặng và an tịnh của nội tâm
trong khi họ đi dạo ngắm cảnh hoặc ngồi thảo luận đạo lý với các
đệ tử.
Rải rác đó đây, dưới cây to
bóng mát, ngồi chung quanh những đám củi lửa vừa đốt lên là những
nhà tu khổ hạnh, búi tóc cột lên trên đỉnh đầu. Vài vị trong số đó
để râu dài đến trên một thước tây, họ phải cột và thắt nút lại
cho gọn. Họ ngồi thiền trong im lặng hoặc đưa tay ban ân huệ cho người
đi đường, trong số này là những người thường dân đi xem lễ, những
người đàn bà mặc áo sari mầu mè sặc sở, những kẻ hành khất và những
vị quốc vương ngồi chễm chệ trên chiếc bành đặt trên lưng voi v.v...;
những người thuật sĩ thân thể gầy còm làm những tư thế vặn vẹo thân
mình coi rất lạ mắt; những nhà hiền triết với tác phong đạo mạo, trầm
mặc, biểu lộ trạng thái bằng an của nội tâm. Trấn áp tất cả những
tiếng động ồn ào là tiếng chuông ngân vang rền trong các ngôi đền thờ.
Qua ngày thứ hai của cuộc lễ,
chúng tôi đi viếng những đạo viện và những túp lều tạm mới dựng
lên để kính chào những nhà tu sĩ thánh đức. Chúng tôi được ân huệ của
vị Đạo trưởng phân bộ Giri của dòng tu Swâmi, một tu sĩ khổ hạnh có
gương mặt gầy ốm và cái nhìn sáng rực như lửa. Kế đó chúng tôi đến
viếng một đạo viện mà vị Sư trưởng đã từng trải qua chín năm tịnh
khẩu và tịnh cốc, chỉ dùng toàn trái cây mà thôi. Nơi hành lang của đạo
viện, có một tu sĩ mù tên là Pragla Chaksu, rất tinh thông kinh điển và
được tất cả các môn phái đều mến chuộng.
Khi tôi đã chấm dứt một bài thuyết
pháp bằng tiếng Hindi về triết phái Vedanta, nhóm chúng tôi từ giã đạo
viện êm đềm này để đến viếng tu sĩ Krishnan ở gần bên, một vị tu
sĩ có gương mặt khôi ngô tươi nhuận và một dáng vóc mạnh khoẽ. Một
con sư tử cái được tập luyện thuần nết, nằm dưới chân tu sĩ. Nhờ
ảnh hưởng tâm linh của tu sĩ, con sư tử này không chịu ăn thịt nữa mà
chỉ ăn cơm và sữa tươi. Tu sĩ đã tập cho nó biết ngân trong cổ họng
một tiếng thánh ngữ AUM bằng một giọng thâm trầm và ấm tiếng: nó có
vẻ như một vật đã biết sùng tín thiêng liêng!
Kế đó, chúng tôi đến viếng một
vị tu sĩ kiêm học giả còn trẻ tuổi. Tôi xin nhường lời cho vị bí thơ
của tôi diễn tả cuộc gặp gở này trong tập Du ký của ông:
-"Chiếc xe Ford của chúng
tôi vượt qua sông Hằng trên một chiếc cầu nổi gập ghềnh và chạy len
lỏi trong đám rừng người qua những con đường nhỏ hẹp quanh co. Chúng
tôi đi qua một chổ nọ trên bờ sông, mà đại đức Yogânanda nói rằng
khi xưa Sri Yukteswa đã gặp đức Babâji. Đi được một quảng khá xa,
chúng tôi ngừng xe bước xuống đi bộ vượt qua đám khói của các tu sĩ
đốt l;ửa củi trên bãi cát và đến những túp lều tạm của các tu sĩ
khác. Một trong những lều tạm này cửa rất thấp, là nơi tạm trú của
Kara Patri, một tu sĩ đi ta bà còn trẻ tuổi, nổi tiếng về học lực
uyên thâm. Tu sĩ ngồi trong lều hai chân kiết dà trên một đống rơm, chỉ
mặc có một bộ áo vàng sậm và không sở hữu vật gì khác.
"Một gương mặt thật tiêu
diêu thanh thoát mỉm cười tiếp đón khi chúng tôi cúi mình xuống thấp để
chui vào lều và làm lễ "pronam" dưới chân tu sĩ, dưới ánh đèn
dầu leo lét phát ra những bóng đen trên vách. Gương mặt tu sĩ tỏ vẻ hân
hoan, đôi mắt và hàm răng trắng đều chiếu sáng trong đêm tối. Người
nói tiếng Hindi, nét mặt của người biểu lộ tình thương, lòng nhiệt
thành vì Đạo và sự cao cả tâm linh; điều đó không ai có thể đoán lầm.
"Chúng ta hãy thử hình dung cuộc
đời lý tưởng của một người đã cắt đứt mọi sự trói buộc với
trần gian, không hề bận tâm lo nghĩ về việc ăn, việc mặc, không ăn thức
ăn nấu chín, không cầm bình bát khất thực, không hề lo nghĩ về tiền bạc,
không cần làm gì để kiếm tiền, không cần mua bán làm ăn và phó mặc mọi
sự cho Thượng Đế, không bận nghĩ đến vấn đề phương tiện di chuyển,
không bao giờ dùng xe cộ mà chỉ đi bộ dọc theo bờ những con sông linh
thiêng, và sau hết, không bao giờ dừng chân ở một nơi nào lâu hơn một
tuần lễ, để khỏi tạo nên những sự lưu luyến, trói buộc. Một người
đức độ khiêm tốn nhưng học vấn uyên thâm về các thánh kinh Phệ Đà
có bằng cấp Tiến Sĩ Văn Khoa và được ban danh hiệu Shastri (bác học về
khoa thánh kinh tôn giáo) tại trường Đại học Bénarès, đó là tu sĩ Kara
Patri. Với một lòng thán phục vô biên, tôi ngồi dưới chân tu sĩ. Tôi cảm
thấy rằng lòng mong ước của tôi được biết xứ Aán Độ thật sự, xứ
Aán Độ thầm lặng và cổ kính, nay đã được thoả mãn. Tu sĩ Kara Patri
chính là người đại diện xứng đáng của xứ Aán Độ thần bí và cao cả
tâm linh đó."…
tôi hỏi thăm Kara Patri về cuộc đời
đi ta bà của ông ta:
-"Tu sĩ có mặc chiếc áo nào
khác không khi trời rét lạnh?"
-"Không, tôi chỉ có một áo cũng
đủ."
-"Tu sĩ có đem theo kinh sách gì
không?"
-"Không, tôi giảng đạo bằng
trí nhớ cho những ai chịu nghe tôi thuyết pháp."
-"Tu sĩ có bận rộn công việc
gì khác không?"
-"Tôi đi dạo trên bờ sông Hằng."
Những lời này làm cho tôi hối tiếc
rằng mình đã không có được một đời sống giản dị như thế! Tôi nhớ
đến Mỹ quốc, và những trách nhiệm nặng nề của tôi. Tôi thầm nghĩ mà
lòng buồn man mác:
-"Không, định mệnh của tôi
trong kiếp này không phải là để đi dạo trên bờ sông Hằng!"
Khi tu sĩ đã nói qua cho tôi biết
đại khái về những thành quả tâm linh của y, tôi hỏi một câu hỏi quyết
định
-"Tu sĩ diễn tả những điều
đó theo kinh Thánh hay là theo kinh nghiệm bản thân?"
Yđáp với một nụ cười thành thật:
-"Một nửa theo kinh sách, và một
nửa theo kinh nghiệm riêng của tôi."
Chúng tôi lại đắm chìm trong im lặng
và ngồi thiền định trong giây lát. Sau khi đã kiếu từ tu sĩ, tôi nói với
ông Wright:
-"Đó là một ông vua ngự trên
chiếc ngai bằng rơm mạ vàng!"
Chiều đến, chúng tôi dùng cơm trên
chiếu trải dưới đất, dưới ánh sao mới mọc trên nền trời xanh đậm.
Chúng tôi còn dự thánh lễ Kumbha
thêm hai ngày nữa! Kế đó chúng tôi lên đường đi Agra, dọc theo bờ sông
Jumna. Tôi lại có dịp chiêm ngưỡng ngôi mộ cổ Taj Mahal, và sau cùng
chúng tôi đến viếng đạo viện ở Brindaban do tu sĩ Keshabâ điều khiển.
III
Cuộc viếng thăm tu sĩ Keshabâ cũng
có liên hệ đến việc con soạn Hồi ký này. Tôi không hề quên lời yêu
cầu của Sư phụ tôi về việc viết lại tiểu sử của đức Lahiri Mahâsaya.
Trong thời gian tôi ở Aán Độ, tôi không bỏ qua cơ hội nào để tiếp xúc
với những vị đệ tử của ngài. Tôi ghi chép những tài liệu thu thập
được và lập thành những tập hồ sơ dầy cộm, tôi kiểm chứng lại
các sự việc, ngày tháng, và lượm lặt những hình ảnh, thơ từ cũ cùng
nhiều tài liệu văn kiện khác. Những tập hồ sơ đã quá dầy, và tôi đã
nhìn thấy trước với sự e ngại rằng công việc soạn thảo đòi hỏi rất
nhiều công phu khó nhọc. Tôi bèn cầu nguyện ơn trên cho tôi đủ sức đảm
nhiệm vai trò làm người viết tiểu sử của đức Tôn sư cao cả. Nhiều
vị đệ tử e ngại rằng trong một bản văn kiện chép lại, hình ảnh của
tôn sư có thể bị giảm thiểu hoặc bóp méo. Một vị đệ tử nói:
-"Ngôn ngữ văn tự không đủ
diễn tả cuộc đời của một bậc thánh nhân."
Những đệ tử thân tín khác cũng
muốn chôn chặt trong đáy lòng những kỷ niệm về vị Tôn sư của họ.
Tuy vậy, trung thành với lời tiên tri của Lahiri Mahâsaya về việc chép tiểu
sử của ngài, tôi không từ bỏ một cố gắng nào để thu thập những tài
liệu từng chi tiết nhỏ nhặt về cuộc đời của ngài.
Ở Brindaban, tu sĩ Keshabâ tiếp đón
chúng tôi một cách rất nồng hậu tại đạo viện của người, một ngôi
kiến trúc đồ sộ bằng gạch có vườn hoa rất đẹp chung quanh. Tu sĩ đã
gần 90 tuổi nhưng vẫn còn tráng kiện và đầy đủ sức khỏe. Râu tóc
dài và trắng như tuyết, đôi mắt tinh anh vui vẻ, tu sĩ giống như một vị
tộc trưởng thời xưa. Tôi cho tu sĩ biết ý định của tôi là sẽ nhắc
đến tên người trong một quyển sách mà tôi sắp viết nói về các bậc
danh sư Aán Độ.
-"Xin đại đức kể cho nghe vài
điều về cuộc đời của ngài."
Tôi cố gây cảm tình, vì những bậc
tu sĩ cao niên thường ít khi hay nói chuyện. Tu sĩ có một cử chỉ rất
khiêm tốn:
-"Đời tôi ít có những sự biến
cố thăng trầm. Tôi trải qua phần lớn cuộc đời trong những vùng hẻo
lánh trên dãy Tuyết Sơn, và đi bộ từ hang này đến động khác. Tôi có
trông nom một đạo viện nhỏ trong một thời gian ở gần Hardwar, giữa những
rừng cây to lớn. Đó là một nơi lý tưỡng, ít có khách viếng thăm vì
vùng ấy có rất nhiều rắn hổ mang."
Tu sĩ nói xong bèn cười.
-"Về sau, một trận lụt của
sông Hằng làm sụp lở cuộc đất, cuốn trôi đi mất cả đạo viện lẫn
cả các ổ rắn. Các đệ tử của tôi mới giúp tôi xây cất đạo viện
Brindaban."
Một người trong nhóm chúng tôi hỏi
tu sĩ làm cách nào để khỏi bị cọp trên dãy Tuyết Sơn làm hại. Tu sĩ
lắc đầu:
-"Người Yogi đạt tới một trình
độ tâm linh khá cao không còn sợ bị loài thú dữ làm hại. Có một lần
ở giữa rừng tình cờ tôi tình cờ chạm trán với một con cọp. Tôi bèn
kêu lên một tiếng vì ngạc nhiên thì con cọp đứng sựng lại và trở
nên bất động dường như một pho tượng đá!"
Tu sĩ Keshabâ lại cười về chuyện
kỷ niệm đó.
-"Đôi khi tôi cũng rời khỏi
chổ trú ẩn để viếng thăm Sư phụ tôi ở Bénarès. Người thường hay nói
đùa về những chuyến đi ta bà của tôi trong những vùng núi non hẻo
lánh. Có lần Sư phụ nói với tôi:
-"Con có mang ở dưới chân con
những ấn chứng của sự phiêu lưu. Thầy cũng mừng vì dãy Tuyết Sơn
cũng khá rộng lớn đối với con".
Tu sĩ Keshba nói tiếp:
-"Có nhiều lần Sư phụ xuất
hiện đến với tôi trong thể xác phàm, bằng xương bằng thịt, dù là trước
hay sau khi đã từ trần! Đối với Sư phụ không có đỉnh núi cao tột
nào mà ngài không thể đến được!"
Hai giờ sau, tu sĩ Keshabâ đưa chúng
tôi vào phòng ăn. Tôi thốt ra một tiếng thở dài: lại một bữa tiệc thịnh
soạn sắp dọn ra! Từ khi trở về Aán Độ đến nay chưa đầy một năm,
tôi đã lên hơn hai chục kílô! Tôi cũng không biết làm sao hơn vì thật
là một điều vô lễ mà từ chối những món ăn cao lương mỹ vị được
nấu đặc biệt để thết đãi tôi. Ở Aán Độ, và không ở một nơi nào
khác, than ôi! lại có sự mâu thuẩn là: một tu sĩ xuất gia có hình vóc mập
mạp, nặng cân, lại được thiên hạ nhìn bằng cặp mắt kính nể!
Sau bữa tiệc, tu sĩ Keshabâ nói
riêng với tôi:
-"Việc đại đức đến đây
không phải là chuyện bất ngờ. Tôi có một thông điệp nhắn với đại
đức."
Tôi lấy làm ngạc nhiên vì không
ai có thể biết rằng tôi có ý định đến thăm tu sĩ Keshabâ. Tu sĩ nói
tiếp:
-"Hồi năm ngoái, tôi đang đi
ngao du trên miền bắc dãy Tuyết Sơn, gần Badrinarayan. Tôi đi lạc đường
và tìm nơi trú ẩn trong một cái động lớn; động ấy hoang vắng, nhưng
tôi thấy có một đống than hồng cháy âm ỉ dưới một lớp tro phủ lên
trên, trong một lỗ trống dưới đất. Tôi tự hỏi không biết ai là người
ở trong động đá này, tôi bèn ngồi gần bên đống lửa và nhìn về
phía cửa hang. Bổng nhiên có tiếng gọi phía sau lưng tôi:
-"Keshaba, ta rất vui vì con đã
đến đây."
Tôi bèn quay đầu nhìn lại, thì lấy
làm ngạc nhiên mà thấy đức Babâji! Đức Tôn Sư cao cả đã hiện hình
ra ở phía sau động đá. Tôi lấy làm vô cùng hân hạnh mà được gặp ngài
trở lại sau bao nhiêu năm xa cách, tôi bèn quì lạy dưới chân ngài. Đức
Babâji bèn giải thích:
-"Ta đã gọi con đến đây. Bởi
đó, con mới đi lạc đường và tìm nơi trú ẩn nơi động đá này, là chỗ
ở tạm thời của ta. Bao nhiêu thời gian đã trôi qua kể từ khi chúng ta gặp
nhau lần trước và ta rất vui mừng mà gặp con trở lại".
Tôn sư bất tử ban ân huệ cho tôi
và nói thêm:
-"Đây là thông điệp mà ta muốn
nhắn nhủ với Yogânanda, y sẽ đến thăm con khi con trở về Aán Độ. Y sẽ
bận rộn nhiều việc liên quan đến Sư phụ y và những đệ tử còn sống
của Lahiri Mahâsaya. Bởi vậy, con hãy nhắn với y rằng ta sẽ không gặp y
lần này như y đang nhiệt thành mong ước, mà sẽ gặp y vào dịp
khác."
Tôi lấy làm vô cùng cảm động mà
nhận được lời hứa hẹn của đức Babâji do tu sĩ Keshabâ chuyển đạt
cho tôi. Sự thất vọng của tôi liền tiêu tan; tôi không còn cảm thấy
bâng khuâng vì Đức Babâji không xuất hiện tại thánh lễ Kumbha Mela như
Sư phụ tôi đã nói trước.
Nhóm chúng tôi ngủ đêm tại đạo
viện để sáng ngày hôm sau lên đường đi Calcutta. Vài ngày sau đó, khi về
đến Calcutta, tôi rất buồn mà được biết Sư phụ tôi đã rời khỏi đạo
viện Serampore để đi Puri, cách đó độ 300 dặm về phía nam.
"Hãy đến Puri ngay lập tức".
Bức điện tín đó do một đệ tử ở Puri gửi ngày 8 tháng 3 năm ấy cho
một đệ tử khác của Sư phụ ở Calcutta. Khi tôi được biết về bức
điện tín đó, hoảng kinh, tôi bèn quì xuống cầu nguyện Thượng Đế hãy
cứu sống cho Sư phụ tôi. Khi tôi sắp sửa rời khỏi nhà để đi ra ga xe
lửa, tôi nghe một tiếng nói từ bên trong nội tâm:
-"Con đừng đi Puri chiều nay. Lời
cầu nguyện của con không được đáp ứng."
Tôi buồn thảm vô cùng, bèn thốt
lên mấy lời:
-"Oâi Thượng Đế! Ngài không
muốn cho con đi Puri bởi vì Ngài đã bác bỏ lời cầu nguyện của con xin
cho Sư phụ được sống. Nếu vậy, cầu xin cho Sư phụ con từ bỏ cõi trần
này để theo đuổi một định mệnh cao cả hơn, nhân danh Ngài!"
Tuân theo mật lệnh từ Chân Ngã của
tôi vọng ra, tôi không đi Puri chiều hôm ấy. Chiều hôm sau, tôi đi ra nhà
ga: dọc đường tôi thấy một đám mây đen như mực bao phủ khắp nền trời.
Sau đó, trong khi chuyến xe lửa chạy về phía Puri, tôi thấy một linh ảnh
Sư phụ đang ngồi, nét mặt nghiêm trọng lạ thường, với một ánh hào
quang sáng chói bên cạnh người.
-"Phải chăng thế là hết?"
Tôi vừa hỏi, vừa chắp hai tay
lên trong một cử chỉ van lơn.
Sư phụ gật đầu, rồi cái linh
ảnh tan biến dần.
Chiều hôm sau, tôi bước lên nhà
ga Puri, và chấp nhận việc đã rồi. Thình lình, một người lạ mặt bước
đến gần tôi và nói:
-"Đại đức biết Tôn sư đã
mất hay chưa?"
Nói xong, y liền đi ngay, không nói
gì thêm nữa. Tôi không hề biết y là ai, và do bởi đâu y đã tìm thấy
tôi.
Tâm thần bấn loạn, tôi dựa vào
tường và hiểu rằng Sư phụ tôi muốn loan báo cho tôi biết tin chẳng
lành đó bằng đủ mọi cách. Về đến đạo viện, tôi gần như muốn xỉu.
Tiếng nói nội tâm lại nhắc nhở tôi: "Con hãy bình tĩnh lại, và giữ
vững tinh thần."
Tôi bước vào phòng, nơi đó tử
thi đã lạnh của Sư phụ đặt ngồi theo tư thế liên hoa, vẫn còn vẻ tươi
như hồi còn sống. Ít lâu trước khi từ trần, Sư phụ đã lên cơn sốt,
nhưng một ngày trước khi viên tịch, người có vẻ đã hoàn toàn bình phục.
Nhìn thi thể Sư phụ lúc ấy, không ai có thể ngờ rằng người đã mất.
Da vẫn mịn màng, bóng láng, nhưng nét mặt biểu lộ một sự bằng an
khôn tả. Sư phụ đã bỏ xác một cách hoàn toàn có ý thức vào giờ đã
điểm, khi Thượng Đế gọi người trở về.
-"Vị Thánh Sư của tỉnh
Bengale không còn nữa!", tôi kêu lên trong cơn thất vọng.
Ngày 10 tháng 3, tôi đứng ra điều
khiển lễ tống táng. Thi hài Sư phụ được đem mai táng theo nghi lễ cổ
truyền của dòng tu Swami trong vườn đạo viện Puri. Về sau, các đệ tử
khắp nơi ở Aán Độ đều tề tựu đến Puri để tưởng niệm Sư phụ
trong những cuộc lễ bốn mùa hằng năm.
Tôi trở về Calcutta. Hằng ngày
tôi bận rộn với nhiều công việc: thuyết pháp công cộng, lớp giảng
Yoga, tiếp quan khách và bằng hữu. Tuy vậy, tâm hồn tôi đã mang một vết
thương sâu đậmsau khi Sư phụ từ trần, và tôi tự hỏi:
-"Bây giờ linh hồn Sư phụ
linh thiêng tiêu diêu ở cõi nào?"
Câu trả lời không thấy đến,
nhưng lý trí của tôi thầm nhủ:
-"Sư phụ đã phản bổn hoàn
nguyên và hợp nhất với Chân Như Đại Thể của vũ trụ, và đó là điều
phúc lạc lớn nhất của người. Từ nay, người sống trong cõi Vô Cùng,
là nơi mà sự chết không còn nữa."
Đồng thời, tình cảm của tôi lại
than van:
-"Từ nay, ngươi sẽ không còn
gặp lại Sư phụ tại đạo viện cổ kính ở Serampore nữa. Ngươi sẽ không
còn đưa bạn bè đến dưới chân Sư phụ mà nói rằng: "Hãy nhìn xem,
đó là bậc thánh sư minh triết của Aán Độ!"
IV
-"Đức Krishna!"
Linh ảnh huy hoàng của đức Krishna
xuất hiện đến với tôi giữa một vầng hào quang sáng chói, khi tôi đang
ngồi trong phòng tại khách sạn Regant Hotel ở Bombay. Linh ảnh ấy xuất hiện
trước đôi mắt kinh ngạc của tôi ngay trên nóc một ngôi biệt thự lớn
ở trước mặt, khi tôi nhìn ra ngoài cửa sổ từng lầu ba.
Hình ảnh thiêng liêng ấy vừa mỉm
cười vừa ra dấu như có thiện cảm đối với tôi. Tôi đang tự hỏi về
cái ý nghĩa của linh ảnh ấy, thì đức Krishna liền biến mất, sau khi đã
ban ân huệ cho tôi. Trong lòng phấn khởi nhẹ nhàng, tôi cảm thấy rằng
linh ảnh này báo hiệu những biến cố quan trọng sắp tới về phương diện
tâm linh.
Nhiều buổi thuyết pháp còn giữ
tôi lại ở Bombay trong ít lâu, sau đó tôi sẽ trở về tỉnh Bengale.
Trong ngày 19 tháng 6, đúng một tuần
sau cơn linh ảnh về đức Krishna, tôi đang tham thiền trong gian phòng khách
sạn nói trên, thì một ánh sáng huyền ảo kéo tôi ra khỏi cơn tĩnh tọa;
khắp phòng đều biến thành một cảnh giới hư ảo, ánh sáng mặt trời bỗng
nhiên biến thành một thứ ánh sáng phi phàm.
Giữa lúc đang say sưa ngây ngất,
tôi nhìn thấy Sri Yukteswar xuất hiện trước mắt tôi, bằng xương bằng
thịt!
-"Hỡi con!"
Sư phụ nói với một giọng êm dịu,
một nụ cười hiền hòa nở trên gương mặt phúc hậu như thiên thần.
Lần đầu tiên trong đời, tôi
không quì xuống dưới chân Sư phụ như mọi khi, mà tôi đưa hai tay ôm lấy
người chặt cứng. Sự bâng khuâng khắc khoải trong những tháng vừa qua
thật không có nghĩa gì so với niềm hạnh phúc vô biên của tôi trong lúc
ấy.
-"Bạch Sư phụ kính yêu, tại
sao Sư phụ đã bỏ con?"
Sự vui mừng quá trớn làm cho lời
nói của tôi đứt đoạn, rời rạc.
-"Tại sao Sư phụ lại để cho
con đi dự thánh lễ Kumbha Mela? Con đã tự trách mình một cách cay đắng
dường nào vì đã bỏ Sư phụ mà đi!"
-"Thầy không muốn làm trái ý
con khi con đang hy vọng gặp đức Babâji ngay tại chỗ mà ngài đã xuất hiện
đến với Thầy. Thầy chỉ bỏ con trong một lúc ngắn ngủi; phải chăng từ
nay Thầy vẫn ở bên cạnh con mãi mãi?"
-"Nhưng có phải Sư phụ thật
chăng? Phải chăng Sư phụ vẫn mang lấy cái thể xác bằng xương bằng thịt
mà con đã chôn dưới lòng đất ở Puri?"
-"Phải, con hỡi, đây chính là
Thầy. Đây là cái thể xác bằng máu thịt của Thầy. Nó vốn tinh anh và
tế nhị đối với nhãn quang siêu đẳng của Thầy, nhưng đối với con,
thì nó là một thể xác vật chất. Thầy đã dùng những nguyên tử của vũ
trụ để cấu tạo nên một thể xác hoàn toàn mới, giống y như cái thể
xác mộng ảo hư giả mà con đã hôn ở Puri, dưới lòng đất lạnh của một
bầu thế giới mộng ảo. Thật vậy, Thầy đã hồi sinh, nhưng không phải
trên cõi trần thế, mà trên một cõi giới thanh cao hơn, trên đó những
nhân vật đều tiến hóa rất cao hơn nhân loại ở cõi trần. Con và những
người thân yêu của con có ngày cũng sẽ thăng lên cõi ấy và sum họp với
Thầy."
Tôi nhìn Sư phụ với một lòng
kính yêu khôn tả, trong khi người nói cho tôi biết trạng thái của người
ở bên kia cửa Tử. Tôi nói:
-"Bạch Sư phụ mến yêu, thể
xác của Sư phụ bây giờ giống y như cái thể xác mà con đã khóc ở đạo
viện Puri".
-"Phải đấy,thể xác mới của
Thầy là một bản sao đúc y như khuôn khổ của thể xác cũ Thầy có thể
tạo nó thành hình hay giải thể cho nó tan biến đi tùy ý muốn, và có thể
làm như vậy thường xuyên hơn ở cõi trần. Khi giải thể, trong chớp mắt
Thầy có thể di chuyển với tốc lực của ánh sáng từ bầu hành tinh này
đến bầu hành tinh khác, từ cõi giới này đến cõi giới khác."
Sư phụ mỉm cười và nói tiếp:
-"Tuy con thường di chuyển trong
những ngày gần đây, Thầy vẫn tìm lại con dễ dàng ở Bombay!"
-"Bạch Sư phụ, cái chết của
Sư phụ đã làm con đau khổ rất nhiều!"
-"Ta đã chết thật chăng? Thật
là một điều vô lý!"
Cặp mắt Sư phụ chiếu lóng lánh
tình thương và biểu lộ sự vui vẻ. Người lại nói thêm:
-"Cõi thế gian là mộng ảo
nên con chỉ nhìn thấy cái thể xác hư ảo của Thầy. Kế đó, con đã
chôn cái xác đó, vốn là một vật hư giả mộng ảo. Bây giờ, cái thể
xác bằng xương bằng thịt này, mà con đang quan sát và ôm chặt lấy nó,
đã hồi sinh trên một cõi giới khác, cũng lại là một điều mộng ảo
khác nữa. Một ngày kia, cái thể xác tinh anh này và cái cõi giới của
nó, cả hai đều là mộng ảo, cũng sẽ tan biến đi mất vì tất cả đều
là phù du giả tạm. Bất cứ ảo mộng nào rốt cuộc cũng phải tan vỡ
khi ta thức tỉnh. Yogânanda con hỡi, con hãy biết phân biệt điều ảo mộng
và điều chân thật!" Cái ý niệm về sự hồi sinh theo triết hệ
Védanta đó làm cho tôi thán phục vô cùng. Tôi lấy làm hổ thẹn mà đã
khóc Sư phụ ở Puri, khi tôi nhìn thấy cái thể xác bất động của người.
Từ nay tôi đã biết rằng Sư phụ vẫn luôn luôn còn sống và thức tỉnh
nơi Thượng Đế; đối với người thì kiếp sống vừa qua chỉ là tạm
thời, cũng như sự hồi sinh của người trong lúc hiện tại, và tất cả
những trạng thái đó đều là những đối tượng trong vòng ảo ảnh của
vũ trụ. Sư phụ nói tiếp:
-"Bây giờ, Yogânanda con hỡi,
con đã biết sự thật về sự sinh tử, và hồi sinh của Thầy. Từ nay con
đừng khóc than vì Thầy nữa, mà hãy báo tin về sự phục sinh của Thầy
cho mọi người biết. Chừng đó, niềm hy vọng sẽ nhen nhóm trở lại
trong lòng người thế gian đau khổ, còn mê muội trong vòng vô minh hắc
ám, mà sự chết vẫn thường làm cho họ sợ sệt!"
-"Bạch Sư phụ, con sẽ hứng
khởi xiết bao mà chia sẻ với toàn thể thế gian cái niềm vui về sự phục
sinh đó!"
Sri Yukteswar còn nói cho tôi biết
nhiều điều huyền bí khác nữa mà tôi không thể tiết lộ nơi đây.
Trong khoảng hai tiếng đồng hồ người xuất hiện đến với tôi trong
phòng khách sạn tại Bombay, người đã trả lời hết tất cả những câu
hỏi của tôi. Nhiều lời tiên tri về tình hình thế giới về sau đã được
thực hiện.
-"Bây giờ, hỡi con yêu quí, Thầy
phải từ giả con!" Nói đến đó, tôi cảm thấy Sư phụ từ từ thoát
ra khỏi cái vòng tay ôm chặt của tôi. Giọng nói của Sư phụ vang rền, gây
nên một tiếng vọng lại từ trong nội tâm của tôi.
-"Mỗi khi con đắm chìm trong cơn
đại định, nhập thiền, và con kêu gọi đến Thầy, Thầy sẽ ở bên cạnh
con bằng xương bằng thịt, cũng như hôm nay!"
Vừa nói dứt lời hứa hẹn thiêng
liêng đó, Sư phụ đã biến mất.
Sự buồn thảm vì chia ly nay đã
tiêu tan. Sự đau xót, bi thương vì cái chết của Sư phụ, nó làm cho tôi
mất sự bằng an của nội tâm, từ nay không còn nữa. Một nguồn phúc lạc
triền miên không dứt, tràn ngập tâm hồn tôi làm cho tôi say sưa ngây ngất.
Những tư tưởng và cảm nghĩ trong lành, tinh khiết nhất vẫn nằm trong tiềm
thức của tôi, nay có dịp thức động và bộc khởi trở lại do cuộc viếng
thăm huyền diệu của Sư phụ.
Trong chương này, tôi tuân lệnh Sư
phụ để loan báo cho người thế gian biết cái tin về sự hồi sinh của
người, dẫu rằng việc ấy sẽ gặp phải sự thờ ơ lãnh đạm của một
thế hệ duy vật, không tin tưởng. Tuy nhiên, bản tính con người vốn không
phải là thấp hèn, sa đọa. Trong tương lai sẽ có lúc một sự cố gắng
vận dụng ý chí cũng đủ gây cho con người một sự thức động tâm
linh, và cứu cánh sẽ thúc đẩy y bước vào con đường giải thoát.
- Mục
lục | Lời tựa | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18 | 19 | 20 | 21 | 22 | 23 | 24 | 25 |
- Chúng tôi chân thành cảm ơn Phật tử
Huỳnh Thanh Hương đã phát tâm đánh máy gởi sách này về tặng cho Ban
biên tập Đạo Phật Ngày Nay.