- XỨ PHẬT HUYỀN
BÍ
- Nguyên tác: AUTOBIOGRAPHIE D’UN
YOGI
- Của: Tu sĩ PARAMHANSA
YOGANANDA
CHƯƠNG
HAI
MÓN LINH VẬT HỘ PHÙ
Điều mong ước lớn nhất của mẹ
tôi là lập gia đình cho anh cả tôi."A! khi nào tôi nhìn thấy gương mặt
vợ của Ananta tôi sẽ có cảm giác như sống trong thiên đàng ở hạ giới!"
Đó lời của mẹ tôi thốt ra để bày tỏ lòng mong ước điển hình của
người Aán độ là được bảo đãm sự nối tiếp của giòng dõi của gia
đình.
Khi Ananta thành hôn tôi mới lên bảy
tuổi, mẹ tôi lúc ấy đang ở Calcutta lo chuẩn bị mọi việc để cử hành
hôn lể. Chỉ còn có cha tôi và tôi ở nhà tại Bareilly, trên miền Bắc
Aán, cha tôi vừa đổi đến đây sau ba năm làm việc tại Lahore.
Tôi đã từng dự các cuộc hôn lễ
rực rở tưng bừng của hai chị tôi là Roma và Uma. Đối với Ananta là anh
cả trong gia đình thì những nghi lể cưới hỏi lại càng đặc biệt và
long trọng hơn nữa. Tại Calcutta mẹ tôi tiếp nhiều quan khách đến từ các
vùng xa và để họ tá túc ở một ngôi nhà rộng rãi, đầy đủ tiện
nghi vừa mua được ở số 50 đường Amherst. Mọi việc đều đã chuẩn bị
sẵn sàng: những món ăn cao long mỹ vị, chiếc kiệu lót lụa thêu trên đó
Ananta sẽ được đăït ngồi lên và khiêng đi một cách long trọng đến
nhà tân giai nhân, những đèn lồng màu mè sặc sở, những con lạc đà và
voi bằng giấy nhồi cứng, những giàn nhạc Aán Độ và Tây phương , những
kẻ làm trò chuyên nghiệp, những tăng lễ hành lễ Tôn giáo theo nghi lễ cổ
truyền.
Cha tôi và tôi cũng sắp sửa chọn
ngày lên đường để dự lễ cưới cùng với gia đình. Nhưng một đêm nọ
tôi nhìn thấy một linh ảnh báo trước một việc chẳng lành.
Đêm đó vào lúc nửa đêm tại
Bareilly. Tôi đang ngủ bên cạnh cha trôi trên giường thì thình lình tôi giật
mình thức dậy vì một tiếng động khác thừơng làm rung rinh chiếc mùng.
Cái mùng vén lên và tôi nhìn thấy mẹ tôi.
-"Đánh thức cha con dậy!"
Tiếng nói của mẹ tôi lúc ấy chỉ còn là một giọng nói nhỏ thì thầm.
-"Hai cha con hãy đáp chuyến xe
lửa đầu tiên lúc 4 giờ sáng để đến Calcutta ngay lập tức nếu muốn
còn nhìn thấy mẹ!"
Nói đến đó, mẹ tôi ngất xỉu
và biến mất
-"Cha ơi! Cha! Mẹ đang hấp hối!"
Giọng nói sợ hãi của tôi làm cha
tôi thức giấc.
Tôi càng khóc lớn hơn. Cha tôi dỗ
dành
-"Đó chỉ là một cơn ảo ảnh
chứ không có gì lạ. Mẹ con đang mạnh khoẻ không đau ốm chi. Nếu hôm
nay có tin gì, chúng ta sẽ đi ngay vào ngày mai."
-"Cha sẽ hối hận suốt đời
nếu cha không chịu đi ngay cho kịp ngày, Con cũng vậy, con sẽ oán hận cha
suốt đời nếu cha không chịu đi cho con nhìn thấy mẹ!" tôi nói lớn
lên trong cơn thất vọng.
Sáng ngày hôm sau tôi nhận được
bức điện tín:
"Mẹ đau nặng. Hôn lễ đình lại
sau. Hãy đến ngay."
Chúng tôi hối hả lên đường, một
người cậu tôi gặp chúng tôi lúc xe lửa ngừng tại một nhà ga lớn ở
dọc đường. Một chuyến xe lửa ở đầu kia đi lại ầm ầm như cơn giông,
tiếng động mỗi lúc càng lớn khi chuyến xe đến càng gần. Trong cơn đau
khổ tôi cảm thấy như muốn nhào xuống đường rầy. Tôi đã không còn mẹ
như linh tính tôi đã báo trước, cuộc đời từ nay đối với tôi thật
vô vị không thể chịu nổi. Mẹ tôi là một người tri kỷ lớn nhất mà
tôi có trên đời, đôi mắt đen của mẹ tôi là nguồn an ủi duy nhất,
tình thương của mẹ tôi là nơi trú ẩn chắc chắn nhất trong thời thơ
ấu của tôi.
-"Chị còn sống chăng?" cậu
tôi hỏi.
-"Tự nhiên là còn" cha tôi
đáp
Tuy nhiên tôi không tin tưởng ở lời
quả quyết này và cậu tôi đã khám phá ra nét thất vọng hiện trên gương
mặt của tôi.
Chúng tôi đến Calcutta chỉ vừa kịp
để chứng kiến cái chết của mẹ tôi. Tôi rơi vào một trạng thái buồn
thảm và sự sống đối với tôi không còn ý nghĩa gì. Nhiều năm trôi qua
trước khi tôi có thể hoà mình với sự thật đã rồi và không thể
tránh khỏi. Những tiếng khóc than của tôi vang dội lên tận trời xanh,
sau cùng đã động lòng đức Phật Mẫu thiêng liêng, nên Ngài đã xoa dịu
vết thương lòng của tôi bằng những lời này:
-"Chính ta đã săn sóc con từ
kiếp này sang kiếp khác xuyên qua tình thương của vô số những người mẹ
đã sinh ra con ở thế gian! Con hãy thấy cái nhìn của ta những tia sáng dịu
hiền của những cặp mắt đẹp long lanh và đen huyền mà con đã mất!".
Cha tôi và tôi trở về Barelly sau
khi lễ hoả táng mẹ tôi đã hoàn tất. Mỗi buổi sớm mai tôi thức sớm
và đến chiêm ngưỡng dưới gốc cây sheoli che bóng mát trước bãi cỏ
xanh trước nhà. Những cánh hoa trắng tinh của cây sheoli tô điểm cho cảnh
vật càng thêm xinh tươi. Đôi mắt đẩm lệ và sương tôi thường nhìn thấy
một ánh sáng lạ lùng huyền dịu đến với lúc bình minh. Một cơn khát vọng
tìm chân lý xâm chiếm lấy tôi. Tôi cảm thấy một sức lôi cuốn mãnh liệt
thúc đẩy tôi đến dãy núi Tuyết Sơn.
Một người anh họ của tôi vừa
đi chơi trên dãy Tuyết Sơn trở về có đến thăm chúng tôi tại Bareilly.
Tôi chăm chú nghe một cách say sưa những chuyện của y tường thuật về
những non cao động cả là nơi trú ẩn của các đạo sỉ Yogi.
-"Chúng ta hãy đi lên núi Tuyết
Sơn," tôi đề nghị với Dwarka Prasad, lúc ấy đang ở trọ nhà chúng
tôi tại Bareilly. Y bèn tiết lộ điều đó cho anh cả tôi là Ananta đang đến
thăm cha tôi lúc ấy. Ananta không những mỉm cười về chương trình táo bạo
của một đứa em nhỏ mà còn diễu cợt tôi:
-" Cái áo cà sa vàng của em đâu?
Cái đó mới là áo của tu sỉ!"
Những lời này gây cho tôi một ảnh
hưởng bất ngờ. Trong tâm hồn tôi lởn vởn những cơn linh ảnh trong đó
tôi thấy tôi mặc áo vàng của nhà tu sỉ và đi hành hương ta bà khắp xứ
Aán Độ. Phải chăng câu nói đó đã làm thức động những ký ức về những
tiền kiếp của tôi khi xưa? Dầu sao tôi đã sẵn sàng khoác lấy một
cách thoải mái và dễ dàng bộ áo vàng của giới tu sĩ.
Một buổi sáng nọ trong khi tôi
đang nói chuyện với Dwarka, lòng sùng kính Thiêng Liêng tự nhiên xâm chiếm
tâm hồn tôi một cách đột ngột. Bạn tôi nghe những lời thuyết pháp
hùng hồn của tôi một cách uể oải trong khi tôi lấy làm sung sướng mà
nghe giọng nói của chính mình!
Trưa hôm ấy, tôi lén trốn đi
Naini Tal, dưới chân núi Tuyết Sơn. Ananta liền cương quyết đuổi theo bắt
tôi trở lại và tôi lấy làm buồn mà phải trở về Bareilly. Từ nay cuộc
hành hương duy nhất mà tôi được phép thực hiện là đi đến gốc cây
sheoli mỗi buổi sớm mai. Tôi càng khóc thầm vì đã mất đi một người mẹ
nhân từ và thánh thiện.
Cái chết của mẹ tôi là một sự
thiệt thòi lớn cho gia đình, cha tôi không chịu tái giá và sống góa vợ
như thế trong gần 40 năm. Sống cảnh gà trống nuôi con cha tôi trở nên dịu
dàng, mềm mỏng và dễ thông cảm hơn. Bình tỉnh và lo xa người giải quyết
êm thấm mọi vấn đề nội bộ trong gia đình. Sau giờ làm việc người sống
cô độc như một ẩn sĩ trong phòng riêng và thực hành pháp môn thiền định.
Về sau tôi có ý định thuê một nữ tiếp viên người Anh để coi sóc việc
nhà và đem lại ít nhiều tiện nghi trong gia đình thì cha tôi lắc đầu từ
chối.
-"Đối với cha con thấy không,
đã dứt mọi sự săn sóc từ ngày mẹ con khuất núi. Cha sẽ không bao giờ
chịu nhận sự săn sóc của một người đàn bà nào khác."
Mười bốn tháng sau khi mẹ tôi mất,
tôi mới biết rằng mẹ tôi có để lại cho tôi một thông điệp tối
quan trọng. Ananta có mặt bên giường bịnh khi mẹ tôi hấp hối đã nghe
những lời trăn trối của mẹ tôi. Tuy mẹ tôi có dặn rồi phải cho tôi
biết trong một năm sau, nhưng anh tôi đã đình hoãn lại ngày đó. Anh tôi
sẽ rời khỏi Bareilly trong ngày gần đây để cưới người con gái mà mẹ
tôi đã chọn lựa. Vì thế một buổi chiều anh tôi tìm đến tôi và nói:
-"Mukunda, từ lâu anh đã do dự
không muốn cho em biết một tin nó sẽ làm em ngạc nhiên."
Ananta nói với một giọng an phận:
-"Anh sợ rằng nếu cho em biết
sớm hơn, việc này càng làm cho em muốn bỏ gia đình để xuất gia. Tuy nhiên
em đã có nguồn cảm hứng thiêng liêng cho nên lúc anh rượt bắt em trở lại
gia đình sau khi em muốn lên núi Tuyết Sơn, anh đã quyết định cho em biết
ngay lời trăn trối của mẹ." Anh tôi bèn đưa cho tôi một cái hộp nhỏ
đựng bức thông điệp của mẹ tôi. Trong đó mẹ tôi nói:
-"Mukunda con hỡi! Những lời
này là lời chúc cuối cùng của mẹ gởi đến cho con. Giờ phút này là
lúc mà mẹ phải tiết lộ cho con biết vài sự việc lạ thường xảy ra
sau khi con mở mắt chào đời. Con chỉ là một hài nhi khi mà định mệnh của
con được tiết lộ cho mẹ biết, Lần đầu tiên khi mẹ bồng con đến tịnh
thất của đức Lahiri Mahasaya, vị Tôn sư của mẹ ở Bénarès. Hôm ấy
Tôn sư đang toạ thiền và xuất thần nhập định, các vị đệ tử lúc
ấy đang ngồi tề tựu rất đông chung quanh ngài đến nỗi mẹ ngồi ẩn
khuất ở phía sau rốt và không nhìn thấy mặt Tôn sư.
"Mẹ bồng con trên tay và cầu
nguyện cho Tôn sư biết có mẹ con ta trong đám đông để ngài ban ân huệ
cho chúng ta. Trong khi mẹ đang âm thầm cầu nguyện ráo riết thì Tôn sư mở
mắt ra và gọi mẹ lại gần. Đám đông để cho mẹ đi qua và mẹ quỳ xuống
một bên ngài. Tôn sư mới bồng con lên đặt lên đầu gối ngài và đặt
bàn tay trên trán con trong một cử chỉ ban ân huệ tâm linh. Ngài nói:
-"Này hiền mẫu, con của người
sẽ trở nên một tu sĩ xuất gia. Y sẽ đưa nhiều linh hồn đến cõi Phật".
Lòng mẹ tràn ngập niềm vui sướng
vì Tôn sư đã nghe được lời cầu nguyện thầm kín của mẹ. Trước khi
con lọt lòng mẹ thì Tôn sư đã tiên đoán rằng ngày sau con sẽ noi theo
con đường của ngài.
"Về sau con hỡi, mẹ đã có dịp
tin tưởng một cách chắc chắn rằng con đường của con sẽ đưa con đi
xa khỏi cuộc đời thế tục. Một sự kiện độc đáo đã xác nhận sự
tin tưởng đó và ngày nay mẹ để lại cho con lời di chúc tối hậu này,
trên giường bịnh hấp hối của mẹ.
"Đó là sự gặp gỡ một nhà
hiền giả xứ Punjab. Trong khi gia đình ta cư ngụ tại Lahore, một buổi sớm
mai, người gia bộc chạy vào phòng mẹ và nói:
-"Thưa ba,ø một người tu sĩ dị
kỳ vừa đến đây. Ông ta đòi yết kiến "mẹ của Mukunda".
"Những lời nói đó làm cho mẹ
sửng sốt. Mẹ liền bước ra vái chào người khách lạ. Khi mẹ nghiêng
mình kính cẩn chào người, thì mẹ cảm thấy rằng mẹ đang đứng trước
một vị sứ giả của thiêng liêng.
-"Này hiền mẫu, (người ấy nói),
Tôn sư muốn cho bà biết rằng kiếp sống hiện tại của bà ở thế gian
này đã chấm dứt. Cơn bịnh sắp tới của bà cũng sẽ là cơn bịnh cuối
cùng."
"Nói xong người im l;ặng trong
một lúc trong khi đó mẹ không hề cảm thấy sợ sệt mà trong tâm hồn mẹ
tràn đầy một niềm an tịnh vô biên:
-"Bà sẽ giữ một món bảo vật
hộ phù bằng bạc. Tôi sẽ không đưa cho bà ngày hôm nay nhưng để chứng
thực lời nói của tôi, vật ấy sẽ hiện ra ngày mai khi bà ngồi thiền.
Đến giờ hấp hối bà sẽ yêu cầu người con cả là Ananta hãy giữ vật
ấy trong một năm và sau đó hãy chuyển lại cho ngừơi con thứ. Người này
sẽ giữ lấy vật ấy khi mà y cảm thấy sẳn sàng từ bỏ thế gian để
xuất gia tầm đạo. Khi người này đã giữ món hộ phù ấy trong nhiều năm
và vật ấy đã làm tròn sứ mệnh của nó, nó sẽ tự nhiên biến mất.Y
không cần dấu nó ở một nơi kín đáo vì nó sẽ trở về nguyên
quán!"
"Mẹ bèn cúng dường cho vị tu
sĩ một món tiền đi đừơng nhưng vị ấy từ chối không nhận và rút
lui sau khi đã ban ân huệ cho mẹ. Chiều hôm sau, khi mẹ ngồi thiền, một
vật hộ phù bằng bạc tự nhiên xuất hiện trong hai bàn tay của mẹ, đúng
như lời vị tu sĩ nói trước. Vật ấy hiện ra làm cho mẹ có một cảm
giác lành lạnh và trơn trơn trong bàn tay. Mẹ đã giữ gìn cẩn thận vật
ấy trong hai năm và đã giao cho Ananta, Mukunda con hỡi, con đừng khóc mẹ nữa,
vị Tôn sư thiêng liêng sẽ hộ trì cho mẹ trong cõi Vô Cùng. Thôi, mẹ từ
giã con và cầu chúc đức Phật Mẫu che chở cho con."
Một ánh sáng thần diệu xâm chiếm
lấy tôi khi tôi sở hữu món bảo vật ấy; nhiều kỷ niệm đã lãng quên
từ lâu nay thức động trở lại. Món bảo vật hình tròn có một dĩ vãng
cổ xưa không biết từ đời nào có khắc chữ cổ Phạn. Tôi đoán rằng
đó là món quà tặng của những vị minh sư mà tôi đã biết trong những
kiếp quá khứ, ngày nay đã đặt tôi dưới sự bảo vệ vô hình và bí
ẩn của các ngài. Nó còn có một ý nghĩa huyền diệu khác nữa mà tôi
không được phép tiết lộ.
Còn món bảo vật đã biến mất như
thế nào vào những giờ phút đau khổ nhất của đời tôi, và sự biến mất
đạ mở màn cho việc gặp gỡ với Tôn sư tôi như thế nào, thì điều đó
tôi không thể tường thuật lại trong chương này.
Nhưng người thanh niên bị thất vọng
trong chuyến du hành lên dãy Tuyết Sơn, đã đi rất xa dưới ảnh hưởng
phù trợ vô hình của món bảo vật hộ phù.
- Mục
lục | Lời tựa | 1 | 2 | 3| 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18 | 19 | 20 | 21 | 22 | 23 | 24 | 25|
- Chúng tôi chân thành cảm ơn Phật tử
Huỳnh Thanh Hương đã phát tâm đánh máy gởi sách này về tặng cho Ban
biên tập Đạo Phật Ngày Nay.