- Những Hạt Ngọc Trí
Tuệ Phật Giáo
- Gems of
Buddhist Wisdom
Buddhist
Missionary Society, Malaysia, 1983, 1996
20
CÓ PHẢI NGƯỜI PHẬT TỬ SÙNG BÁI
THẦN TƯỢNG KHÔNG?
Tiến Sĩ K. Sri Dhammananda
Ðối Tượng Của Sự Tôn Kính.
Trong mọi tôn giáo, có một số đối tượng hay biểu
tượng về mục đích tôn kính. Trong Phật Giáo có ba đối tượng tôn
giáo chính về mục đích này:
* Saririka (Xá Lợi) hay di vật (tro cốt)
xác thân Ðức Phật;
* Uddesika hay biểu tượng tôn giáo như hình ảnh Ðức Phật, Tịnh Xá hay
Chùa;
* Paribhogika hay những vật dụng cá nhân Ðức Phật sử dụng.
Truyền thống của người Phật Tử
trên khắp thế giới bầy tỏ lòng tôn kính với những vật thể này. Cũng
có một truyền thống Phật Giáo là xây dựng hình ảnh của Ðức Phật, Tịnh
Xá, hay Chùa, trồng cây Bồ Ðề tại mỗi Chùa dùng làm đối tượng tôn
giáo để tôn kính.
Nhiều người có cảm tưởng người
Phật Tử cầu nguyện thần tượng. Ðiều này là do sự thiếu hiểu biết
giáo lý của Ðức Phật, thiếu kiến thức về tập tục và truyền thống
Phật Giáo.
Thần tượng có nghĩa là xây dựng
hình ảnh một sồ thần hay nữ thần dưới nhiều hình thức bởi người
mộ đạo để cầu nguyện, để được ban phước che chở, sức khỏe, của
cải, thịnh vượng, một sự thực hành thấy có trong một số tôn giáo hữu
thần. Một số cầu xin với thần tượng ban cho một số ưu đãi cá nhân
thậm chí ở mức phạm các hành vi bất thiện. Họ cũng xin được tha thứ
những tội lỗi họ vi phạm.
Sự thờ cúng Phật là một khía cạnh
khác hẳn. Thậm chí từ "thờ cúng" hoàn toàn không thích đáng
theo quan điểm Phật Giáo. Bày tỏ lòng tôn kính mới thật đúng. Người
Phật Tử thường không cầu nguyện hình ảnh và thần tượng; điều họ
làm là bày tỏ lòng tôn kính với vị đại đạo sư đáng được tôn
vinh. Những hình ảnh được tạo dựng biểu hiện sự kính trọng và cảm
kích trước sự đạt được giác ngộ cao và toàn hảo nhất của một đạo
sư phi thường. Với người Phật Tử, hình ảnh chỉ là một biểu hiện,
một biểu tượng, một tượng trưng giúp cho họ nhớ đến hay tưởng nhớ
Ðức Phật.
Người Phật Tử quỳ trước hình ảnh
và tỏ lòng tôn kính cái mà hình ảnh ấy tượng trưng. Họ không tìm cầu
ân huệ trần tục từ hình ảnh ấy. Họ suy ngẫm và thiền định để
được sự cảm hứng từ cá tính cao thượng của Ngài. Họ cố gắng
tích cực kiện toàn bằng cách theo giáo lý cao thượng của Ngài. Người
Phật Tử kính trọng đức hạnh vĩ đại và tính cách thiêng liêng của vị
đạo sư như hình ảnh tượng trưng. Thực ra tín đồ của mỗi tôn giáo tạo
những hình ảnh của các đạo sư tôn giáo của họ hoặc trong dạng thức
thị giác hay dạng hình ảnh tinh thần để tôn thờ; cho nên không hẳn đúng
hay chính đáng khi phê bình người Phật Tử thờ cúng thần tượng.
Hành động bày tỏ tôn kính Ðức Phật,
không phải là một hành động căn cứ vào sợ hãi, hay một hành động
van xin của cải trần tục. Người Phật Tử tin đó là một hành động đáng
khen và một phước đức nếu họ tôn vinh và kính trọng những đức hạnh
vĩ đại của người thầy thông thái của họ. Người Phật Tử cũng tin
tưởng chính họ chịu trách nhiệm sự giải thoát của họ và không nên
tùy thuộc vào bên thứ ba. Tuy nhiên có những người khác tin tưởng họ có
thể đạt giải thoát qua ảnh hưởng của một hình ảnh và đây chính là
những người tạo cảm tưởng cho những người khác nhận xét châm biếm
hạ thấp người Phật Tử cho rằng họ tôn thờ thần tượng, cầu nguyện
một người đã chết và ra đi từ lâu. Xác thân của một người có thể
tan rã và và hòa tan vào bốn yếu tố (đất, nước, gió, lửa) nhưng đức
hạnh của người ấy vẫn còn mãi mãi. Người Phật Tử đánh giá cao và
tôn trọng những đức hạnh đó. Cho nên, luận điệu chống lại người
Phật Tử quả là đáng tiếc, hoàn toàn sai và không đáng.
Từ giáo lý, chúng ta biết Ðức Phật
là một vị thầy đã chỉ con đường chính đáng để giải thoát nhưng việc
này tùy thuộc tín đồ có sống một cuộc đời đạo lý và thanh tịnh
tâm trí hay không để đạt được tình trạng ấy mà không tùy thuộc vào
bậc đạo sư. Theo Ðức Phật, không có Thượng Ðế hay một đạo sư nào
khác có thể đưa người lên thiên đường hay xuống địa ngục. Con người
tạo thiên đường hay địa ngục cho chính mình do tư tưởng, lời nói và
hành động của mình. Cho nên cầu nguyện bên thứ ba để được giải thoát
mà không loại bỏ những tư tưởng tội lỗi trong tâm cũng chẳng ích lợi
gì. Tuy nhiên có những người ngay cả những người Phật Tử, trong khi cầu
nguyện theo truyền thống trước hình ảnh, đem những khó khăn, bất hạnh
và trở ngại cầu xin Ðức Phật giúp họ thoát khỏi vấn đề.
Mặc dù không phải là một sự tu tập
thực sự Phật giáo, nhưng những hành động mộ đạo như vậy cũng đạt
được một tâm trạng khuây khỏa và cảm hứng cho người cầu xin khiến
họ có can đảm và quyết tâm giải quyết khó khăn. Việc này cũng là một
lệ thường ở nhiều tôn giáo khác. Nhưng với những người có thể hiểu
biết nguyên nhân căn bản của vấn đề, họ không cần cầu đến những
sự thực hành như vậy. Khi người Phật Tử tỏ bày lòng tôn kính Ðức
Phật, họ tôn vinh Ngài bằng cách tụng một số câu kệ dẫn giải những
đức hạnh thuở xưa của Ngài. Những câu kệ này không phải là lời cầu
nguyện trong ý nghĩa cầu Thượng Ðế hay thần thánh rửa sạch tội lỗi
cho họ. Những câu kệ này có ý nghĩa đơn giản là tỏ bày lòng tôn vinh
bậc đạo sư vĩ đại đã đạt giác ngộ và giải phóng nhân loại đi tới
một lối sống đặc biệt vì lợi ích của toàn thể nhân loại. Người
Phật Tử tôn kính vị đạo sư của họ để bày tỏ lòng tri ân trong khi
những người khác cầu nguyện và van vái vì lợi lộc và của cải. Ðức
Phật khuyên chúng ta "hãy vinh danh những người đáng tôn kính".
Cho nên người Phật Tử kính và vinh danh bất cứ vị đạo sư nào đáng
được tôn kính.
Thay vì cầu nguyện, người Phật Tử
tu tập thiền định để huấn luyện tâm và kỷ luật tự giác. Về mục
đích của thiền định, đối tượng rất cần thiết; không có đối tượng
không dễ dàng gì có thể tập trung được. Ðôi khi người Phật Tử dùng
hình ảnh Ðức Phật như một đối tượng để có thể tập trung hầu huấn
luyện tâm.
Trong những đối tượng về thiền định,
đối tượng thị giác có một tác động tốt hơn cho tâm. Trong năm giác
quan, đối tượng đư?c hiểu qua nhãn thức có ảnh hưởng lớn vào tâm hơn
những đối tượng được hiểu qua các giác quan khác. Cho nên đối tượng
được hiểu qua cơ quan mắt giúp thành tựu tốt hơn và tập trung dễ
dàng hơn.
Hình ảnh là tiếng nói của tiềm thức.
Cho nên nếu hình ảnh của Ðấng Giác Ngộ được phản ảnh trong tâm như
hiện thân của người toàn hảo, phản ảnh như vậy sẽ đi sâu vào tiềm
thức và nếu nó đủ mạnh sẽ hành hoạt như cái thắng (phanh) tự động
chống lại những thôi thúc tội lỗi.
Hình ảnh của Ðức Phật là một đối
tượng thị giác có một tác động mạnh vào tâm: sự nhớ lại những
thành quả của Ðức Phật tạo niềm vui, làm cho tâm hăng hái khiến con người
thoát khỏi tình trạng bồn chồn, căng thẳng và thất vọng.
Một trong những ý muốn của Như Lai
Thiền về Ðức Phật là tạo một cảm nghĩ thành sùng bái và tin tưởng
nơi Ðức Phật bằng nhận thức và cảm nhận sự vĩ đại của Ngài. Cho
nên, thờ cúng hình ảnh Ðức Phật là để tập trung và không nên coi là
sùng bái thần tượng mà là một hình thức lý tưởng của thờ cúng.
Kính Chào
Một vài câu kệ mà người Phật Tử
tụng để tưởng nhớ đến vị đại đạo sư của họ để tỏ niềm
cung kính tri ân, tán thán Ðức Phật như sau:
Namo Tassa Bhagavato Arahato Samma
Sambudhassa -
"Vinh Danh Ngài, Ðấng Thiện Thệ, Ðấng Thế Tôn, Ðấng Ðại
Giác"
Thêm nữa họ tụng một vài câu kệ
giải thích những đức tính và đức hạnh vĩ đại của Ðức Phật như:
"Iti pi so Bhagava Araham Samma
Sambuddho Vijjacarana-sampanno Sugato Lokavidu Anuttara Purisa Damma-sarathi Sattha Deva
Manussanam Buddho Bhavaga ti"
Những câu tụng này bằng tiếng Pali,
bạn có thể tụng bằng bất cứ ngôn ngữ nào mà bạn có thể hiểu được.
Chuyển ngữ sang Việt Văn có nghĩa là:
"Như vậy, đương nhiên Như Lai
là Ðấng Thiện Thệ, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thế Gian Giải,
Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn".
Một Câu Chuyện Phật Giáo
Ðây là một câu chuyện giúp chúng ta
hiểu tại sao hình ảnh Ðức Phật lại quan trọng để gây cảm hứng và
hồi tưởng Ðức Phật trong tâm ý. Câu chuyện này được tìm thấy trong
tài liệu Phật Giáo nhưng không phải trong Tam Tạng Kinh Ðiển.
Vài trăm năm sau khi Ðức Phật nhập
diệt, có một thầy tu sùng đạo tại Ấn Ðộ tên là Upagupta. Ngài là một
nhà thuyết giảng rất nổi tiếng thời bấy giờ. Bất cứ lúc nào Ngài
thuyết pháp, hàng ngàn người tụ tập đến nghe Ngài giảng.
Một ngày nọ, Mara, ma vương ganh ghét
về sự nổi tiếng của Hòa Thượng Upargupta. Mara biết Upagupta nổi tiếng
trong việc hoằng dương giáo lý của Ðức Phật. Mara không vui khi thấy lời
dạy của Ðức Phật tràn ngập trong lòng và tâm trí của mọi người. Cho
nên Mara đã dùng một phương pháp xảo quyệt nhằm ảnh hưởng người
nghe. Ma vuơng lập kế hoạch để không cho người dân đến nghe Ngài
Upagupta thuyết pháp. Một hôm, khi Ngài Upagupta bắt đầu thuyết pháp, Mara
tổ chức diễn kịch ngay kế chỗ Ngài Upagupta thuyết pháp. Một sân khấu
đẹp đẽ đư?c dựng lên. Có những vũ nữ rất đẹp và những nhạc sĩ
chơi nhạc sống.
Những người nghe thuyết pháp không
bao lâu quên những lời giảng và chạy sang chỗ trình diễn để thưởng
ngoạn. Upagupta thấy đám đông tan rã. Ngài quyết định theo đám người này.
Sau đó Ngài quyết định dạy Mara một bài học.
Khi cuộc trình diễn chấm dứt,
Upagupta tặng Mara một vòng hoa.
"Upagupta nói: "Ông đã tổ chức
một buổi trình diễn tuyệt vời.
Ðương nhiên, Mara rất sung sướng và
hãnh diện về thành quả của mình. Mara nhận vòng hoa do Upagupta trao tặng
và kiêu căng ngẩng cao đầu.
Ðột nhiên việc xẩy ra: vòng hoa biến
thành một cuộn dây như con rắn cuộn tròn. Từ từ cuộn dây này quấn lấy
cổ Ma Vương và siết chặt. Bị siết chặt cổ, ma vương đau quá muốn gỡ
cái dây ra. Dù đã hết sức cố gắng, nhưng hắn không làm sao tháo được
dây ra. Hắn quyết định tìm đến Sakka, Vua của các thần để nhờ tháo
cái dây ra. Sakka cũng không lấy được cuộn dây ra khỏi cổ hắn. Sakka
nói: "Ta không thể lấy ra được người hãy tìm đến Maha Brahma, một
người có sức mạnh nhất".
Mara bèn tìm đến Maha Brahma và xin
giúp đỡ nhưng Maha Brahma cũng không thể làm gì được. Maha Brahma khuyên
Mara: "Ta cũng không thể lấy cuộn dây ấy ra được, chỉ có người
đã đặt cuộn dây này vào cổ ngươi, người ấy mới lấy ra được."
Mara đành quay trở về tìm gặp Ngài
Upagupta.
Mara van xin: "Xin Ngài làm ơn gỡ
cuộn dây này ra cho tôi, tôi đau đớn quá "
"Upagupta trả lời: "Ðược ta
sẽ cởi cuộn dây đó cho ngươi nhưng với hai điều kiện " Ðiều kiện
thứ nhất là người phải hứa từ nay không được quấy nhiễu những
người Phật Tử sùng đạo nữa. Ðiều kiện thứ hai là ngươi phải chỉ
cho ta coi hình ảnh thực sự của Ðức Phật. Vì lẽ ta biết ngươi có nhiều
lần được nhìn thấy Ðức Phật, nhưng ta chưa bao giờ được thấy Ngài.
Ta muốn nhìn thấy hình ảnh thực sự của Ðức Phật đúng giống y như
Ngài với 32 vẻ đẹp"
Mara vui mừng và đồng ý với
Upagupta. Mara nói: "Nhưng có một điều, nếu tôi biến thành Ðức Phật,
Ngài phải hứa với tôi là Ngài đừng lạy tôi, vì tôi không phải là người
thánh thiện, tôi cũng giống như Ngài thôi."
Upagupta hứa: "Ta sẽ không lễ lạy
ngươi".
Ðột nhiên Mara biến thành y như Ðức
Phật. Khi Upagupta nhìn thấy hình ảnh Ðức Phật, tim Ngài tràn đầy cảm
hứng phấn khích, lòng thành kính sâu xa phát xuất từ con tim. Ngài chắp
tay lại và lạy hình ảnh Ðức Phật.
Mara la lên: "Ông đã không giữ lời
hứa" Ông hứa ông không lễ tôi bây giờ ông lại lễ tôi?"
Upagupta trả lời: "Ta không lễ ngươi,
ngươi phải hiểu, ta lễ Ðức Phật đấy chứ".
Từ câu chuyện này, chúng ta có thể
hiểu được hình ảnh của Ðức Phật quan trọng như thế nào đ? chúng ta
cảm hứng và hồi tưởng Ðức Phật tối thượng trong tâm để tôn thờ.
Những người Phật Tử chúng ta không lễ lạy biểu tượng hay hình thái vật
chất tượng trưng Ðức Phật. Chúng ta bày tỏ lòng tôn kính với Ðức Phật.
Cảm Hứng Từ Hình Ảnh Ðức Phật
Ðức Phật đã nhập diệt và nhập
Niết Bàn. Ngài không cần thờ cúng và lễ vật, tuy kết quả của sự thờ
cúng sẽ đồng hành và người ta được lợi lạc khi theo gương Ngài và
suy nghĩ về sự hy sinh cao cả và những đức tính vĩ đại của Ngài.
Người Phật Tử không dâng cúng các
con vật hiến tế dưới danh nghĩa Ðức Phật.
Khi người Phật Tử nhìn thấy hình
ảnh của Ðức Phật, lòng mộ đạo và niềm vui xuất hiện trong tâm.
Lòng mộ đạo này và niềm vui này tạo tư tưởng đáng khen trong tâm người
Phật Tử thuần thành. Hình ảnh của Ðức Phật giúp người ta quên đi lo
âu, thất vọng và khó khăn khiến người ta có thể kiểm soát được tâm
mình.
Một số các triết gia, sử gia và học
giả nổi tiếng trên thế giới thường giữ hình ảnh của Ðức Phật
trên bàn làm việc trong phòng đọc sách để có cảm hứng về cuộc sống
và tư tưởng cao cả. Nhiều những người không phải là Phật Tử. Nhiều
người vinh danh cha mẹ quá cố, thầy giáo, anh hùng vĩ đại, vua và các nữ
hoàng, những nhà lãnh đạo quốc gia và chính trị, và các người thân
yêu bằng cách giữ giữ hình ảnh của các người ấy để ấp ủ những
kỷ niệm của họ. Họ đặt những vòng hoa để bày tỏ cảm nghĩ thương
yêu, biết ơn, tôn kính, cảm nhận lòng thành kính. Họ nhớ lại những đức
tính vĩ đại của những người ấy và hồi tưởng với niềm kiêu hãnh về
những sự hy sinh, phục vụ bởi những người ấy khi còn sống.
Người ta cũng xây các tượng đài để
kỷ niệm một số các nhà lãnh đạo chính trị đã giết hàng triệu người
vô tội. Do sự độc ác và tham dục để đạt uy quyền họ xâm chiếm những
quốc gia nghèo khổ và tạo đau khổ, tàn bạo và lầm than không kể siết
bằng lũ quân cướp bóc của họ. Thế mà họ được coi như những anh hùng
vĩ đại; và những lễ kỷ niệm được tổ chức để vinh danh họ, những
vòng hoa đuợc dâng hiến trên những huyệt mộ hay nấm mồ của họ. Nếu
những việc làm như vậy được chứng minh là đúng, tại sao một số người
lại nhạo báng những tín đồ của Phật là sùng bái Ðức Phật như thần
tượng khi những người này bày tỏ lòng tôn kính với vị đại đạo sư
đã phục vụ nhân loại, không hại ai, đã chinh phục toàn thể thế giới
bằng tình thương, từ bi và trí tuệ.
Có thể nào một người nào đó, theo
đúng ý của họ nói là hành động bày tỏ lòng tôn kính với hình ảnh
Ðức Phật là không văn hóa, vô luân hay một hành động tác hại phá rối
hòa bình và hạnh phúc của người dân không?
Nếu hình ảnh không quan trọng gì cho
một người tu tập tôn giáo thì một số biểu tượng tôn giáo và những
nơi thờ cúng cũng không cần thiết. Người Phật Tử bị nhạo báng bởi
một số người là thờ cúng cục đá. Nhưng cho dù lời tuyên bố mù
quáng đó là đúng, thờ cúng cục đá vô hại và còn được kính trọng hơn
là ném đá vào những tín đồ của tôn giáo khác.
Tầm Quan Trọng Của Việc Tu Tập
Thực hành giáo lý của Ðức Phật
không phải là ép buộc đối với người bày tỏ lòng tôn kính hình ảnh
Ðức Phật. Người Phật Tử có thể tu tập tôn giáo của họ không cần
đến hình ảnh của Ðức Phật, họ có thể làm được điều đó vì Ðức
Phật không khuyến khích người ta tùy thuộc vào bất cứ một cá nhân
nào. Theo như lời Phật dạy, người Phật Tử không nên tùy thuộc vào người
khác, cả đến chính Ðức Phật nữa - để được giải thoát.
Trong thời kỳ Ðức Phật tại thế,
có một thầy tu tên Wakkali. Thầy tu này thường ngồi ngay trước mặt Ðức
Phật để ngắm nghĩa vẻ đẹp hình hài của Ðức Phật. Thầy tu này nói
rằng ông ta tìm thấy niềm vui và nhiều cảm hứng khi ngắm vẻ đẹp của
Ðức Phật. Ðức Phật đáp lại bằng câu: "Ông không thể nhìn thấy
Ðức Phật thật sự bằng cách ngắm nghía xác thân vật chất. Ai nhìn thấy
giáo lý của ta mới thật nhìn thấy ta".
Khía cạnh quan trọng nhất trong Phật
Giáo là đem thực hành lời khuyên dạy của Ðức Phật. Trong phương diện
này, không có gì khác biệt người Phật Tử bày tỏ lòng tôn kính hay
không bày tỏ lòng tôn kính với Ðức Phật. Nhưng đối với những người
mộ đạo, đó là một hành động quan trọng. Tuy nhiên, Ðức Phật không
nói là Ngài đang chờ đợi để được kính chào .
Nguồn Gốc Của Hình Ảnh Ðức Phật
Hình ảnh của Ðức Phật bắt nguồn
như thế nào? Rất khó khăn để tìm ra ý tưởng này phải hay không phải
của Ðức Phật. Không có chỗ nào trong kinh điển Phật Giáo nói hình ảnh
của Ngài phải được làm. Tuy nhiên, Ðức Phật có cho phép gìn giữ xá lợi
của Ngài.
Ðức A Nan có lần muốn biết có được
phép xây dựng một ngôi chùa để kỷ niệm Ðức Phật như một cách để
bày tỏ lòng tôn kính với Ngài. Ðức A Nan hỏi Ngài: "Bạch Ðức Thế
Tôn, xây dựng một ngôi chùa trong khi Ngài còn tại thế có đúng không?
Ðức Phật trả lời: "Không,
không đúng khi ta còn sống. Ông có thể xây dựng ngôi chùa để thờ phượng
chỉ sau khi ta nhập diệt ".
Trong bài thuyết giảng cuối cùng
trong Kinh Ðại Bát Niết Bàn, Ðức Phật khuyên các đệ tử nếu họ mong
muốn bày tỏ lòng tôn kính với Ngài, sau khi Ngài nhập diệt, họ có thể
xây dựng Chùa để thờ xá lợi của Ngài. Lời khuyên này phù hợp với tập
tục thời bấy giờ tại Ấn Ðộ: tập tục xây dựng Chùa để lưu giữ
xá lợi của các bậc thánh thiện. Xá lợi được lưu giữ để tưởng nhớ
đến bậc thánh thiện. Ðồng thời Ðức Phật cũng không khuyến khích hay
khuyến khích tạo một hình ảnh cho chính Ngài sau khi Ngài nhập diệt. Ý tưởng
tạo một hình ảnh Ðức Phật là do nơi các tín đồ muốn tôn thờ vị
lãnh đạo kính yêu của họ và đạt được cảm hứng đạo lý từ một
tính cách thanh thản. Họ cũng thường trân trọng cất giữ một số xá lợi
của Ðức Phật khi những hình ảnh đang được xây dựng.
Ngài Phổ Hiền (Trung Hoa), thăm viếng
Ấn Ðộ vào cuối thế kỷ thứ tư có ghi trong hồ sơ của Ngài hình ảnh
đầu tiên của Ðức Phật được tạo dựng như thế nào. Tuy nhiên, kinh
điển Phật Giáo không nói gì đến thông tin thu thập được của Ðức Phổ
Hiền. Tuy thế, huyền thoại được ghi nhận như sau:
Một lần Ðức Phật ở ba tháng trên
thiên cảnh thuyết Vi Diệu Pháp, học thuyết cao hơn. Trong lúc vắng Ngài,
những người đến Chùa không vui vì không nhìn thấy Phật. Họ bắt đầu
phàn nàn. Ngài Xá Lợi Phất, Ðệ Tử số đứng đầu của Ngài đi gặp
Phật và trình bày tình hình với Ðức Phật. Ðức Phật khuyên Ngài Xá Lợi
Phất tìm một người nào có thể tạo nên một bức ảnh giống như Ngài
thì dân chúng sẽ sung sướng khi nhìn bức hình này. Ngài Xá Lợi Phất
quay trở về và đến gặp nhà Vua xin nhà Vua ân huệ tìm một người nào
có thể tạo hình của Ðức Phật. Ít lâu sau người đó dã được tìm thấy.
Ông này khắc hình Phật trên gỗ đàn hương. Sau đó bức hình này đã
được đem đặt tại chùa, dân chúng hết sức vui mừng. Từ đó trở đi,
theo Ngài Phổ Hiền, người dân bắt đầu phỏng theo hình Ðức Phật.
Nhưng rất khó khăn tìm ra chứng tích
trong tài liệu và lịch sử Phật Giáo để chứng minh sự tồn tại các
hình ảnh của Ðức Phật tại Ấn Ðộ cho đến gần 500 năm sau Ngài nhập
diệt. Vào thời đó, người mộ đạo thường chỉ bày tỏ lòng tôn kính
Ðức Phật bằng cách giữ một đóa hoa sen hay bức hình chân của Ðức Phật.
Có thể là lúc đầu một số Phật Tử không đồng ý xây dựng hình ảnh
Ðức Phật, và rất có thể nét đặc biệt nổi bật của Ðức Phật
không chính xác.
Nhiều sử gia cho rằng hình ảnh của
Ðức Phật lần đầu tiên được tạo dựng tại Ấn Ðộ trong khoảng thời
gian Hy Lạp xâm chiếm. Người Hy Lạp giúp đỡ và khuyến khích người Ấn
trong nghệ thuật tạo hình ảnh của Ðức Phật. Từ đó, dân chúng tại
nhiều quốc gia bắt đầu tạo dựng hình ảnh Ðức Phật. Hình ảnh tại
các nước được điêu khắc theo kiểu cách và ấn tượng nghệ thuật hiện
thân những nét đặc biệt theo con người của xứ ấy. Trong phạm vi của
mỗi xứ Phật Giáo, kiểu hình ảnh của Ðức Phật tiến triển thành nhiều
hình thức khác nhau và kiểu cách thích hợp trong từng giai đoạn khác nhau
của lịch sử.
Các Nhà Trí Thức Nói Gì Về Hình Ảnh
Ðức Phật.
Pandit Nehru, cựu thủ tướng Ấn Ðộ,
nhận xét như sau về hình ảnh Ðức Phật:
"Mắt Ngài nhắm, nhưng sức mạnh
tinh thần toát ra và năng lực sống động tràn ngập chung quanh. Thời đại
của Ngài đã trôi qua, nhưng dường như Ðức Phật không cách xa chúng ta lắm;
giọng nói của Ngài vẫn thì thầm bên tai và nói với chúng ta hãy đừng
chạy khỏi cuộc tranh đấu, mà hãy đương đầu với nó bằng con mắt
bình tĩnh, và thấy trong cuộc sống cơ hội lớn để phát triển và tiến
bộ. Ông cũng nói: "Khi tôi ở trong tù, tôi thường nghĩ đến bức tượng
của Ngài, bức tượng này là một nguồn suối cảm hứng to lớn với
tôi".
Trong Thế Chiến Thứ Hai, Tướng Ian
Hamilton tìm thấy hình Phật trong một ngôi chùa đổ nát tại Miến Ðiện.
Tướng này gửi bức hình Ðức Phật cho Winston Churchill lúc đó là Thủ Tướng
Anh Quốc với bức thư:
"Khi ông lo lắng ông chỉ cần
nhìn vào thái độ thanh thản này và cười nỗi lo lắng của ông".
Bá Tước Keyserling, một triết gia Ðức,
nói:
"Tôi không thấy gì vĩ đại hơn
hình ảnh của Ðức Phật; Ðó là một sự biểu hiện tuyệt vời của
tinh thần trong địa hạt có thể trông thấy được.
Một học giả khác nói:
"Hình ảnh Ðức Phật mà ta nhìn
thấy là những biểu tượng tượng trưng những đức tính. Tôn vinh và
kính trọng Ðức Phật chỉ là biểu tượng tôn thờ cái vĩ đại và hạnh
phúc tìm thấy trong giáo lý của Ngài."
Hình ảnh trầm lặng và thanh thản của
Ðức Phật đã là quan niệm chung về vẻ đẹp lý tưởng. Hình ảnh Ðức
Phật là tài sản quý báu nhất của văn hóa Á Châu. Không có hình ảnh của
Ðức Phật, Á châu không có gì hơn chỉ là sự diễn đạt địa dư dù
cho thịnh vượng ra sao.
Phật Tử tôn kính tượng Phật như một
lâu đài kỷ niệm sự vĩ đại, khôn ngoan nhất, toàn hảo nhất và vị đạo
sư từ bi nhất đã từng sống trên thế giới này. Hình ảnh rất cần thiết
để tưởng nhớ đến Ðức Phật cũng những đức tính vĩ đại của Ngài
đã gây cảm hứng cho hàng triệu triệu người hết thế hệ này đến thế
hệ khác khắp tất cả thế giới văn minh. Hình ảnh giúp cho họ tập
trung vào Ðức Phật. Họ cảm thấy trong tâm sự hiện diện thực sự của
vị giáo chủ khiến hành động thờ cúng của họ sống động và có ý
nghĩa.
Là một Phật Tử, rất thích đáng bạn
nên có hoặc một hình ảnh của Ðức Phật hay bức tranh của Ðức Phật
tại nhà. Giữ hình ảnh hay bức tranh không phải là một thứ trang hoàng
nhà cửa mà là một đối tượng để chiêm ngưỡng, gây cảm hứng và
tôn thờ. Bộ mặt thanh thản của Ngài, một biểu tượng tỏa chiếu lòng
từ ái, thanh tịnh và toàn bích, cung cấp một nguồn an ủi và cảm hứng
giúp đở bạn khắc phục khó khăn, lo âu mà bạn phải đối đầu trong hoạt
động hàng ngày trên thế giới hỗn loạn này. Khi bạn tôn thờ Ðức Phật,
bạn sẽ được tưởng thưởng nhiều nếu bạn tham thiền một lúc bằng
cách tập trung tâm bạn vào những đức tính vĩ đại và cao thượng của
Ðức Phật; Nếu bạn nghĩ đến Ðức Ðại Ðạo Sư bạn sẽ toàn thiện
chính bạn qua sự hướng dẫn của Ngài. Vậy cho nên, không có gì là siêu
nhiên lòng tôn kính này được bày tỏ trong một số tác phẩm và điêu khắc
đẹp và thẩm mỹ nhất mà thế giới từng biết đến.
Một nhà văn nổi tiếng khác trong
ngôn ngữ triết lý của ông về ý nghĩa thực sự của việc bày tỏ lòng
tôn kính với Ðức Phật như sau:
"Chúng ta cũng cần hành động tôn
vinh thông qua sự tôn kính nhằm vào không phải về một người - vì đúng
là tất cả nhân cách là một giấc mơ - mà vào lý tưởng của tâm can
chúng ta. Như vậy chúng ta từng tìm thấy sức mạnh tươi mới và xây dựng
một nơi thờ cúng cho cuộc sống của chúng ta, tẩy sạch tâm ta cho đến
khi tâm ta xứng đáng mang hình ảnh này trong nơi thiêng liêng sâu thẳm của
tình thương. Trên cái bàn thờ đó tất cả chúng ta đều cần dâng lễ vật
không phải bằng ngọn đèn tàn, hoa héo và phù du, mà là hành vi của tình
thương, hy sinh, và vị tha tới tất cả những ai xung quanh chúng ta".
Anatole France, trong bài tự thuật của
ông, viết: "Vào ngày đầu tháng Năm 1890. một cơ duyên dẫn tôi đến
thăm viện Bảo Tàng tại Ba Lê. Nơi đây, các tượng thần thánh Á Châu ngồi
trong giản dị và thầm lặng, mắt tôi hướng về bức tượng của Ðức
Phật vẫy tay ra hiệu cái đau khổ của nhân loại như nhủ thầm cần phải
phát triển sự hiểu biết và từ bi. Nếu có một thượng đế nào bước
đi trên trái đất này, tôi cảm thấy phải là Ngài. Tôi cảm thấy như quỳ
xuống chân Ngài và cầu nguyện với Ngài như một Thượng Ðế".
Ông Ouspensky, một triết gia tây phương
bày tỏ cảm nghĩ của ông về hình ảnh Ðức Phật mà ông thấy tại Sri
Lanka. Ông nói: "Bức tượng Phật này là một công trình nghệ thuật
hiếm có. Tôi không thấy một công trình nghệ thuật nào có thể có giá
trị ngang hàng với bức tượng này với mắt bằng ngọc xanh saphia, phải
nói tôi không biết có một tác phẩm nào có thể tự nó diễn đạt được
hoàn toàn tư tưởng tôn giáo như vẻ mặt của Ðức Phật diễn tả tư
tưởng của Phật Giáo. Hiểu được vẻ mặt này thì hiểu được Ðạo
Phật". Ông còn nói: "Không cần phải đọc nhiều tác phẩm Phật
Giáo, hay cùng đi với giáo sư nghiên cứu tôn giáo Á Châu hay với các thầy
Tỳ Kheo có học. Ta phải lại đây, đứng trước Bức Tượng Phật này rồi
hãy để cho những ánh mắt xanh thâm nhập vào đời ta, ta sẽ hiểu được
Phật Giáo là gì".
Công trình mỹ thuật tạo dựng hình
ảnh và tạo các bức tranh sơn trên tường về nhiều chuyện Phật Giáo do
sự cảm hứng tuyệt vời đã làm phong phú nghệ thuật và văn hóa của hầu
hết các quốc gia Á Châu từ trên 2000 năm qua.
Cái gì đã làm cho bức thông điệp của
Ðức Phật hết sức lôi cuốn những người trau dồi trí tuệ? Có lẽ
câu trả lời có thể thấy được ở vẻ thanh thoát trên bức hình của
Ðức Phật. Không phải là màu sắc hay nét vẽ mà người ta bày tỏ niềm
tin nơi Ðức Phật, mà là cái vẻ thanh lịch nơi giáo lý của Ngài. Những
bàn tay con người rèn đục từ sắt đá tạo nên tượng Phật là một
trong những sáng tạo vĩ đại do thiên tài con người.
Nếu người Phật Tử thực tình mong
muốn gìn giữ Ðức Phật trong tất cả huy hoàng đẹp đẽ và lộng lẫy
sự có mặt lý tưởng của Ngài, họ phải chuyển lời dạy của Ngài vào
tình trạng thực tiễn và hành động trong đời sống hàng ngày. Thực
hành lời Phật dạy họ có thể tiến tới gần Phật và cảm thấy ánh
hào quang rực rỡ của trí tuệ và lòng từ bi bất tử của Ngài. Chỉ
tôn kính hình ảnh mà không tu tập lời dạy tối thượng của Ngài không
phải là con đường tìm cầu giải thoát.
Cuộc đời đẹp đẽ, một trái tim
trong sáng và tử tế, tâm trí sâu xa và giác ngộ, một nhân cách gây cảm
hứng và vị tha - cuộc đời toàn bích như vậy, một trái tim từ bi như vậy,
một tâm trí trầm tĩnh như vậy, một nhân cách thanh thản như vậy quả
thật đáng được kính trọng, đáng được vinh danh, và đáng được cúng
dường. Ðức Phật là bậc toàn thiện cao nhất của nhân loại, và là đóa
hoa của loài người.
Sir Edwin Arnold giải thích bản chất
Phật tính trong thi phẩm "Ánh Sáng Á Châu" như sau:
"Ðây hoa nở trên cây nhân loại
Ðã bùng nở qua nhiều vạn kỷ
Làm thế giới chan hòa hương thơm trí tuệ
Và mật ngọt tình thương".
Mục lục | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15
16 | 17 | 18 | 19 | 20 | 21 | 22 | 23 | 24 | 25 | 26 | 27 | 28 | 29 | 30 | 31