- Những Hạt Ngọc Trí
Tuệ Phật Giáo
- Gems of
Buddhist Wisdom
Buddhist
Missionary Society, Malaysia, 1983, 1996
3
PHẬT GIÁO NGÀY NAY VÀ
NGÀY MAI
Tiến Sĩ Nadadeva Wijeskera
Không còn chút nghi ngờ nào cả, Phật
Giáo cần thiết cho thế giới hiện đại mặc dù tôn giáo này đã được
công bố từ trên 2500 năm qua. Ðó là vì thông điệp của tôn giáo này trẻ
mãi không già. Tôn giáo đó nói về lòng từ ái, từ bi, niềm vui và hòa
bình. Hòa bình là một đặc tính mà thế giới ngày này nói đến và là
điều mong muốn của những nhà lãnh đạo và những tổ chức thế giới.
Nhưng, có một số đông dân chúng vẫn chưa chắc chắn về thông điệp về
hòa bình tuyên bố bởi Ðức Phật.
Thông điệp về hòa bình, về tình
thương và hạnh phúc cho tất cả chúng sanh, được thuyết giảng vào thời
kỳ khi các lục địa bị chia bởi những chướng ngại - tự nhiên và địa
dư, ngôn ngữ và chủng tộc. Ðịa dư biệt lập, giao thông liên lạc chậm
và hạn chế đã thu hẹp các khu vực. Vì vậy, dị đoan lan tràn và kiến
thức không được chia sẻ. Trong tình trạng như vậy, cái không biết trội
hơn cái biết. Về kỹ thuật và khoa học, những khu vực phát triển hiện
nay của thế giới hiện đại không phát triển được hoặc thậm chí còn
kém phát triển. Cho nên, dân cư sống tại những lục địa rộng rãi này,
không có cơ hội để nghe, biết và hiểu cái thiết yếu của thông điệp
Ðức Phật.
Một yếu tố khác chống lại sự
truyền bá thông điệp của Ðức Phật là phương pháp thường thấy trong
việc tuyên truyền tôn giáo. Tôn giáo được truyền bá bằng đao kiếm và
xâm chiếm. So sánh điều này, Phật Giáo là một tôn giáo duy nhất không
dùng sức mạnh giết người hay đạo quân thánh chiến để truyền bá.
Tuy vì các yếu tố ấy, Phật Giáo
vẫn bành trướng đến tất cả những nước mà Ấn Ðộ có liên lạc và
gặp gỡ vào thời đó. Phật Giáo bành trướng chậm nhưng chắc chắn dọc
theo các tuyến đường cổ đến Tây Tạng, Trung Hoa, Triều Tiên, Nhật Bản
và Trung Tâm Thổ Nhĩ Kỳ. Hoàng Ðế A Dục cũng gửi các đoàn truyền
giáo Phật Giáo đến các vương quốc Ðông và Tây với các nhà sư và đệ
tử. Hoàng Ðế này đã gửi tặng phẩm Phật Pháp đến Sri Lanka qua người
con trai là Mahinda và người con gái là Sanghamitta. Một cây nhỏ của cây Bồ
Ðề, nơi mà Ðức Phật chứng đạo giác ngộ được mang đến Sri Lanka do
Sanghamitta. Cây này còn sống đến ngày nay và là một cây lịch sử cổ nhất
trên toàn thế giới. Cây này là biểu tượng của giác ngộ đối với tất
cả những người Phật Tử. Từ Sri Lanka và Ấn Ðộ, Phật Giáo được
truyền vào Myanmar, Thái Lan, Lào, Việt Nam, Cao Miên và Nam Dương.
Ngày nay thế giới đã co lại về
kích thước. Những khu vực kém phát triển và những khu vực chưa phát triển
trước tiến bộ về kỹ thuật và khoa học trong khi những đất đai có lần
mở mang trước đây lại trở thành khu vực kém phát triển. Trong thời đại
này, đi lại dễ dàng, nhanh chóng và không bị hạn chế. Truyền thông ngay
tức thời. Vậy nên sự phong phú về kiến thức là gia tài chung cho mọi
người, và không có lý do gì để họ không biết đến thông điệp của
Ðức Phật.
Những lời chỉ trích
Tuy kiến thức dành cho mọi người
tùy ý sử dụng, nhưng vẫn có những lời phê bình Phật Giáo cũng như những
quan niệm sai lầm và hiểu nhầm giáo lý của Ðức Phật. Ðược biết một
số người đặt Phật Giáo ngang hàng với Ấn Ðộ Giáo. Cũng có những người
nổi tiếng nghĩ rằng Phật Giáo không khác gì hơn bất cứ một tôn giáo
nào theo thuyết hữu thần. Có một số người nói Phật Giáo đầy ắp niềm
tin dị đoan và tu tập. Nhìn bề ngoài, những điều này xuất hiện đem mâu
thuẫn làm trở ngại sự hòa giải lý tưởng. Những cái có vẻ dị biệt
này phần nhiều do hiểu nhầm, tin tức sai lầm, và giải thích sai lầm về
động lực xã hội và di sản văn hóa mà những mô hình đồng-hiện hữu
phức tạp cùng tồn tại trong một đường lối không dễ nhận thấy trong
nhiều xã hội với nhiều đường hướng. Cho nên muốn hiểu biết bản chất
giáo lý của Ðức Phật, điều trở nên cần và thiết yếu là nghiên cứu
những sự sai biệt giũa Phật Giáo với bất cứ một tôn giáo nào hiện hữu
để có thể hiểu rõ ràng bức thông điệp của Ðức Phật.
Những tôn giáo khác có kế hoạch
rất chu đáo để thỏa mãn khuynh hướng tâm lý, đặt vấn đề về thái
độ và sự tò mò của người khác, lối suy nghĩ và tin tưởng của họ
đến nỗi mỗi mối nghi ngờ có thể tưởng tượng được có lời giải
thích hay nhất có thể được. Một số lời giải thích này là Thượng Ðế
biết hết mọi sự, tình thương bao la và từ bi. Mguoì ta cũng nói đến một
số nhân tố căn bản này không được nghi ngờ. Một số ngưới chấp nhận
một tôn giáo trên niềm tin mù quáng, một số tin trên lý thuyết giáo điều.
Tuy nhiên, những giả định này thỏa mãn tâm tin tưởng của tín đồ thuần
thành. Họ không cần phải hỏi. Hợp lý và hợp lẽ nhường bước cho sùng
đạo. Giải thích duy lý, giải nghĩa khoa học,sự tán đồng hợp lô gic
không giống nhau giũa tôn giáo này với tôn giáo khác. Người ta khẳng định
rằng những phương pháp và kỹ thuật của khoa học hiện đại không hướng
về và cũng không thể áp dụng trong trường hợp tôn giáo. Người ta nghĩ
căn bản là tôn giáo khác biệt khoa học. Người ta cho rằng tôn giáo
thiên khải, lời của Thượng Ðế. Trái lại, Phật Giáo mời, hoan nghênh
và khuyên khích điều tra, thẩm vấn và sự nội quan (sự tự xem xét nội
tâm) theo một cách thức hợp lý, hữu lý và khoa học. Ðiều này được
chứng minh trong Kinh nổi tiếng Kalama Sutta, nơi đây Ðức Phật dạy:
"Này Kalama, đừng tin theo điều
đã đạt được bởi nghe đi nghe lại nhiều lần, vì điều đó là truyền
thống; vì điều đó là tin đồn; vì điều đó là tiêu đềù;. vì điều
đó được lý luận bề ngoài; vì điều đó có khuynh hướng thiên về một
khái niệm đã được cân nhắc; vì điều đó dường như trong khả năng của
người khác; hay vì nhà sư giảng những điều đó là đạo sư của chúng
ta".
Người ta
thường nói tương phản lại các Phật Tử là họ tin vào nhiều thần, chấp
nhận niềm tin chung chung, lễ bái cây cối và hình tượng. Cũng được nói
đến với sự chê bai là đa số các môn đồ sùng bái trời đất trăng
sao. Nơi đây những lòi phê bình phạm lỗi lầm là trộn lẫn giá trị văn
hóa, tục lệ xã hội và niềm tin truyền thống của người dân trong nhiều
giai đoạn của sự tiến hóa xã hội. Những nhà phê bình đã quên hay đã
không biết chưa bao giờ Phật Giáo toan tính dẹp bỏ lối sống hiện hữu
và những giá trị văn hóa của nó bằng một đuờng lối sống mới lạ của
một người không có thiện ý.
Trong cách
thức tương tự, nếu những người hay nghi ngờ và chất vấn như vậy, những
nhà phê bình hay những quan sát viên phải hỏi người Phật Tử trong hội
đoàn Phật Giáo,, liệu người đó có tin vào một mớ hỗn tạp của các
quan niệm như vậy không, người Phật Tử sẽ trả lời là "có"
hay "không" vì tâm của người rất sẵn lòng giúp đỡ. Theo bản
chất tinh thần của người Phật Tử, không có gì là không hợp lý trong
cách suy nghĩ, trong sự hợp lý và sự tổ chức các sức mạnh và yếu tố
quyền năng của cái cũ và mới, của cái không biết và huyền bí. Với người
này, Phật Giáo và những lời giáo huấn đứng trên cái nền tháp của niềm
tin cổ và dị đoan bằng một bộ luật đạo lý, và Tiratana (Phật, Pháp,
Tăng) được đặt trên đỉnh của tháp.
Một trong
những nhận xét trước sau như một về Phật Giáo là Phật Tử có niềm
tin vào các thần thánh trong xã hội của họ. Người Phật Tử như vậy,
khi van xin, không thể đem trộn lẫn với người Phật Tử thực sự tìm cầu
Niết Bàn. Người đó không thể là hiện thân của Phật Giáo, Pháp được
dạy bởi Ðức Phật. Ðó là một quan niệm sai lầm của những nhà quan
sát viên và những lời phê bình về người tín đồ - những người hoàn
toàn ý thức được cái tháp cấu trúc của những niềm tin đạo lý. Người
đó tin có những quỷ thần tốt và xấu, chư thiên hay làm phúc, và những
quyền năng tối thượng nhân từ. Người đó cũng tin tưởng Ðức Phật
đứng vào hàng cao nhất theo hệ thống thứ tự và cấp bậc. Với kiến
thức hạn hẹp về khoa học, họ tin rằng có lẽ tất cả các cách thức
để giúp đỡ có thể được ủy thác trong lúc khủng hoảng của đời sống.
Cho nên người đó làm nhiều điều cho mục đích ấy, liên quan đến việc
thực hiện nhu cầu cần kíp của con người trong lúc tinh thần đau khổ.
Nhưng chưa bao giờ có cá nhân nào như vậy thỉnh cầu Ðức Phật hay đệ
tử của Ngài can thiệp cho. Người Phật Tử biết suy nghĩ không đòi hỏi
những ân huệ như vậy. Ðiều tự nhiên đươc hiểu là những giá trị
truyền thống trong một số xã hội hình thành cơ sở căn bản về cuộc sống
của người dân và cứ thế tiếp tục. Người ta cũng hiểu rằng mỗi xã
hội vẫn hãy còn những dấu vết còn lại của những truyền thống cổ.
Cho nên không đem sát nhập những niềm tin truyền thống này vào Phật
Giáo hay thực thi cùng với Phật Giáo. Ðó là lối sống.
Ðiều mà
Phật Giáo không làm, tôn giáo khác có thể đã làm và có thể dự định
làm. Trong ham muốn nhiệt thành để người khác đổi đạo theo đạo mình,
các nhà truyền giáo của các tôn giáo khác, đã phá hoại tinh thần xã hội
và biến họ thành mẫu người đần độn và buồn tẻ của một giống người
và văn hóa xa lạ. Lòng ham muốn thay đổi giá trị văn hóa, niềm tin truyền
thống và mô hình xã hội hình thành, khuôn mẫu và tinh thần của một
toan tính thành lập một tôn giáo xa lạ với cơ cấu văn hóa xa lạ, điều
mà họ nghĩ rằng đó là một nhóm kém. Như vậy họ mưu tính thay đổi xã
hội văn hóa và tinh thần quốc gia của nhóm người ấy. Tình trạng như vậy
đã gây thiệt hại không thể sủa chữa được về mặt xã hội cũng như
tinh thần, vì những nhà truyền giáo đã đè nén ham muốn sống mạnh mẽ,
và sau đó làm tê lieÿ ý chí muốn tiên bộ. Bề ngoài, sự thu phục tín
đồ dường như thành công. Nhưng, trong thâm tâm của con người, niềm tin
và giá trị cũ vẫn còn làm mờ đi tất cả những ánh sáng bên ngoài của
những tôn giáo mới. Do đó ngay trong phạm vi xã hội này sẽ xẩy ra xung
đột không những chỉ về văn hóa và chủng tộc mà còn cả về tôn giáo
nữa.
? bất cứ
nơi nào đạo Phật đến hoặc được Ðoàn Thể Tăng Già tiến dẫn, giáo
pháp của Ðức Phật chẳng bao giờ mâu thuẫn với các giá trị truyền thống
của xã hội mới. Cái cũ và cái mới, cái cổ xưa và cái hiện đại sát
cánh tồn tại. Khi tâm trí tiến bộ với sự mở mang và thăng tiến của
kiến thức, những lãnh vực ma thuật và dị đoan, y khoa và khoa học giảm
thiểu. Sự tổng hợp phát xuất, toàn bộ hay từng phần, và tiến trình
này tiếp diễn cho đến ngày nay. Cho nên đối với quan sát viên nông cạn,
đối với nhũng nhà phê bình ngoan cố, và các nhà truyền giáo, những việc
này hình như mâu thuẫn không thể hòa giải được. Kết quả là họ kết
tội Phật Giáo vô minh và sự khác biệt trong đường lối mà họ suy nghĩ
về giáo lý của Ðức Phật. Họ giải thích kết hợp với ma thuật, thậm
chí như một phương tiện trong bộ máy tạm thời của con người nhằm đáp
ứng tình trạng tâm lý căng thẳng hay khủng hoảng cảm xúc chứ không phải
là tôn giáo có lý do xác đáng. Thêm vào đó, điều mai mỉa là họ chưa
chấp nhận rằng nhu cầu sống còn của con người, và đạt tình trạng tối
thượng hòa bình và hạnh phúc chỉ hoàn tất được bằng sự loại bỏ tội
lỗi. Trái lại người Phật Tử biết rõ tất cả chúng sinh đều vô thường,
bất toại nguyện và không có linh hồn.
Sự Hiểu
Biết Về Thông Ðiệp Của Ðức Phật
Ðối với
lời tuyên bố tôn giáo này căn bản khác biệt với lối giải thích duy
lýù của khoa học, chúng tôi có thể trả lời qua Abhidhamma (Vi Diệu
Pháp). Về căn bản, giáo lý các cấp của Ðức Phật theo đuổi thế giới
tư tưởng khoa học về danh và sắc (nama-rupa). Giáo lý căn bản của
Ðức Phật là: "Tránh làm điều dữ, làm điều lành, và thanh tịnh
tâm ý". Thêm vào, tất cả sự vật do duyên hợp đều phải chịu
luật căn bản của sự thay đổi và vô thường (anica), bất toại nguyên (dukkha);
và không có một thực thể sống vĩnh viễn (anatta, vô ngã). Một chúng
sanh chẳng là gì cả mà chỉ là "nama-rupa" (Danh-Sắc). Sắc
là sự biểu hiện của các lực và đặc tính. Người xưa biết chúng như
nguyên tử (paramanu). Ðức Phật gọi chúng là đơn vị căn bản của
vật chất. Từ việc này, chúng ta biết Phật Giáo cập nhật hóa với những
khám phá khoa học mới nhất về bản chất của chúng sinh.
Sanh theo ý
nghĩa Phật Giáo để chỉ cho tùy thuộc phát sanh. Sanh tiến triển theo thời
gian vì vô minh (không biết gì) trong một loạt các nguyên nhân và hậu quả
(paticca-samuppada). Những điều này được công thức hóa như sau:
Tùy thuộc nơi vô minh, hành phát
sanh
Tùy thuộc nơi hành, thức phát sanh
Tùy thuộc nơi thức, danh sắc phát sanh
Tùy thuộc nơi danh-sắc, lục căn phát sanh
Tùy thuộc nơi lục căn, xúc phát sanh
Tùy thuộc nơi xúc, thọ phát sanh
Tùy thuộc nơi thọ, ái phát sanh
Tùy thuộc nơi ái, thủ phát sanh
Tùy thuộc nơi thủ, hữu phát sanh
Tùy thuốc nơi hữu, phát sanh tình trạng của Nghiệp
Tùy thuộc nơi tình trạng của Nghiệp, sanh phát sanh
Tùy thuộc nơi sanh, phát sanh lão và tử.
Ðương nhiên
nếu nguyên nhân ngưng thì hậu quả cũng ngưng. Có nghĩa là vô minh hoàn
toàn được loại đi sẽ dẫn đến giai đoạn chấm dứt sanh và tử.
Vì đã giải
thích nguồn gốc của vật chất, ham muốn tinh thần, và những cảm xúc
con người, Phật Giáo cố gắng giải thích sự thay đổi của đời sống
như môt chu trình tiếp nối của hiện hữu và tùy thuộc. Tiến trình này
là bất toại nguyện. Cho nên điều này chứng minh dù cho có đạt được
kỹ thuật tiến bộ cao nhất của thế giới hiện đại vẫn phải tùy thuộc
vào định luật vũ trụ (Dhamma, Pháp). Ðời sống chính nó cũng chi phối bởi
định luật này. Không một chúng sanh nào có thể trốn chạy hay thoát được.
Từ giai đoạn
này, Ðức Phật tiến đến phân tích tình trạng hiện hữu của chúng
sanh, và tìm cách chấm dứt bất toại nguyện và vô thường của tất cả
sư vật do duyên hợp. Cho nên, Thông Ðiệp của Ngài rất rõ ràng. Không phải
là để cho ta chạy trốn trong sợ hãi do thiếu can đảm hay nỗ lực của
con người. Ðó là một phương cách tìm giải pháp cho một vấn đề - vấn
đề ám ảnh con người- và biết con đường ra khỏi tình trạng nguy hiểm.
Những tình trạng như thế lúc nào lúc nào cũng hiện diện trên thế gian
này và tốt nhất là có thể nào tả chúng bằng cách dùng truyện ngụ
ngôn: Bị lửa cháy, chỉ có thể thoát được khi tránh xa nó và không nên
gần nó. Phương cách để sống sót trước lũ lụt hay vượt một con sông
là tìm một cái bè để tới chỗ an toàn. Con đường muốn khuất phục một
con rắn là làm cho nó ra khỏi lối đi.
Cho nên lửa
hận thù có thể tránh được và dập tắt được bằng tình thương. Nước
lũ luyến ái phải vượt qua bằng sự buông bỏ, và 'sông' 'Samsara' (luân hồi)
phải được vượt qua bằng cách tẩy sạch những ô nhiễm trong tâm. Cái
nọc độc của ảo tưởng có thể bị loại bỏ bằng cách phát triển
các đức tính hiểu biết. Về mặt này, Ðức Phật dạy ta không nên đi
đến cực đoan, mà theo một con đường hợp lý thực tiễn, đó là con
đường trung đạo. Nếu cứ cực đoan, khổ đau hay giữ bên kia cực đoan
lạc thú, có khả năng dẫn một chúng sanh tới nguy hiểm. Cái nguy hiểm
tinh thần này vẫn là nét thường thấy trong thế giới hiện đại này.
Nó không bị hạn chế ở thời cổ, và khoa học kỹ thuật hiện đại không
thể vượt qua cái nguy hiểm tinh thần này vì nó liên quan đến trạng thái
tình thần và không phải trạng thái vật chất.
Cho nên, con
đường khó khăn nhưng chắc chắn là con đường trung đạo. Ðó là con
đường chánh đáng, cũng được gọi là Bát Chánh Ðạo cao thượng. Con
đường này trả lời những vấn đề của con người. Nó gồm có tám đức
hạnh được sắp xếp thành ba loại, giới (sila), định (samadhi),
và huệ (panna). Giới gồm có chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng.
Ðịnh gồm có chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định. Huệ gồm có
chánh kiến và chánh tư duy. Thực hành những điều này dẫn đến đạt
giai đoạn cuối cùng Niết Bàn.
Ðến giai
đoạn này ta nhất định nêu câu hỏi: Tại sao con người lại tự chối bỏ
những cái tốt nhất của đời sống - Vì Bát Chánh Ðạo rất khó theo? Tại
sao con người không vui hưởng những lạc thú của trần thế với tất cả
hạnh phúc của nó? Vì sau cái chết cái gì sẽ xẩy ra cho mọi người? Ai
biết? Ai có thể nói được? Thứ nhất, con người là một động vật xã
hội. Con người là một chúng sinh có lý trí cao nhất, loại duy nhất có
ưu thế làm chủ trên môi trường xung quanh, cả không gian lẫn ngoài không
gian. Dù trong một xã hội như vậy, con người không thể tự mình sống
được. Con người phải sống với gia đình, với nhóm của mình. Và không
thể có một cuộc sống yên ổn hạnh phúc nếu ai nấy sống trong sợ hãi
lẫn nhau.
Một nền tảng
luân lý là cần thiết cho con người sống hòa bình trong xã hội. Ngày nay
những đức hạnh vẫn giữ hàng đầu trong tâm của tất cả chúng sanh là
những tiêu chuẩn luân lý do những người sáng lập tôn giáo thuyết giảng.
Và hơn bao giờ hết trước thế giới nhận thức đầy đủ mối nguy hiểm
đứng trước nhân dân tiến bộ tại thành thị do những kinh hoàng về chiến
tranh, kỳ thị chủng tộc, bất bình đẳng và nghèo khổ. Những điều này
gắn kết với nhau khiến ta thấy khó phân tách tội lỗi này với tội lỗi
kia. Người ta nói đến hòa bình nhưng lại không chống lại đi tới chiến
tranh và giết chóc. Ðời sống là một tặng phẩm cao quý của tạo hóa.
Chỉ có một chút khác biệt giũa hai kiểu nói đến nguyên lý đời sống.
Cho nên thật đúng là đạo đức giả khi nói hòa bình mà không nói đến
sự ngăn ngừa lấy đi bất cứ dạng thức sống nào. Tại sao lúc ấy tất
cả những sinh vật lại không được kể đến trong thông điệp hòa bình
này để ngăn chặn khổ đau? Có phải vì con người là động vật siêu đẳng
và số còn lại đều kém hơn không? Có phải vì con người không thể sống
được chỉ với bánh mì không? Có phải con người phát triển nhờ sự trả
giá của những sinh vật đồng loại? Trong ý nghĩa của mình, đó cũng vẫn
là lập luận ảnh hưởng đến những nhà lảnh đạo quốc gia đang cố gắng
loại trừ người thế yếu; kẻ mạnh, người yếu. Ðó là luật rừng, luật
sống còn của động thực vật thích nghi nhất với sức mạnh lý, hóa và
sinh học.
Cũng giống
như vậy với các đức hạnh khác: ngăn ngừa đòi hỏi nhục dục bất hợp
pháp, ngăn ngừa nói dối, ngăn ngừa dùng ma túy. Khi xã hội tiến triển
và giá trị luân lý, năm giới cấm (pancasila) sẽ cung cấp con đường
sống cho con người của xã hội ngày nay và ngày mai. Ðộng vật xã hội
có lý trí cần thiết phải bỏ lối sống vô luân lúc sơ khai của con thú
vô trí để có thể sống hòa hợp trong phạm vi xã hội của mình. Một số
chấp nhận và áp dụng giới này sớm hơn người khác. Một số áp dụng
từng phần và một số áp dụng toàn bộ, nhưng cuối cùng nhân loại sẽ
áp dụng tất cả. Dầu rằng không mang danh nghĩa này nhưng làm như thế là
cách sống đạo đức đứng đắn.
Cái mà thật
sự con người mong muốn là tất cả chúng sanh hạnh phúc. Con người, động
vật, bây giờ lẽ ra đã phải thay đổi thành một con người có luân lý
mà sự quan tâm đến đồng loại sẽ bắt đầu phát triển. Mỗi quốc gia
đều nói đến hòa bình và mỗi người trong thâm tâm đều mong muốn hòa
bình cho chính mình. Nhưng những người khác ở khắp nơi thì sao? Những
nhà lãnh đạo nói khản cả tiếng và kêu gào hòa bình trên tất cả những
diễn đàn. Nhưng không có đạo đức thật sự phát ra trong tâm của một
cá nhân, không có người nào hay quốc gia nào hy vọng có hòa bình trong cộng
đồng, trong nước hay ngoài nước. Một dấu hiệu đáng mừng là nhìn thấy
phẩm hạnh hiểu biết này phát triển trong đầu óc và con tim của người
dân đã từng tranh đấu cam go và đổ máu trong chiến tranh và những quốc
gia đã có được những vũ khí hủy diệt hàng loạt hiệu nghiệm. Với sự
hiểu biết này, những đức hạnh khác như lòng từ ái, từ bi (karuna),
vui trong hạnh phúc của người khác, và tâm tràn dầy thanh thản (uppekkha)
sẽ phát triển. Con người thực sự vĩ đại, hòa bình và yêu hòa bình chỉ
khi trau dồi các đức hạnh này và khi nhận thức được và thực hành
chúng. Rồi con người ấy sẽ tới gần nhận thức hạnh phúc tinh thần cả
thế giới này lẫn bên kia thế giới.
Tình Trạng
Hoàn Hảo Trong Bức Thông Ðiệp Của Ðức Phật
Bây giờ
câu hỏi được nêu lên, tại sao chúng ta phải lãnh tất cả khó khăn này
khi chúng sanh đã đi tới kết thúc với xác thân bị tiêu hủy trong thế
giới này. Tóm lại, tại sao bi quan như thế? Có thế giới nào ở bên kia
không? Cái bản chất thế giới ấy là gì? Câu trả lời thông thường là
hoặc thiên đường hoặc địa ngục. Ðó chưa phải là câu trả lời cuối
cùng trong Phật Giáo. Một chúng sanh không ngưng trở thành cho đến khi đạt
được trạng thái toàn hảo của hạnh phúc tinh thần. Ðiều này chỉ có
thể hoàn tất được bằng cách đạt được trạng thái cuối cùng tẩy sạch
hết trong tâm ô nhiễm như luyến ái (raga), ác ý (dosa) và vô
minh (moha). Có thể đạt được ngay trong thế giới này với những
ai trau dồi trạng thái tinh thần tiến từng bước tới tình trạng toàn hảo
của phước lớn. Nó có thể xảy ra vào thời điểm thích hợp, ngay trong
tiến trình trở thành đang tiếp diễn, một ngày nào đó sự trở thành trở
thành ngưng lại. Cái đó như thế nào? Và nó hành hoạt ra sao? Hành vi của
một người có thể xấu hay tốt, đạo đức hay vô luân. Tâm của một người
có thể phát triển hay phát triển chưa đầy đủ. Nhũng sự thành công của
một người có thể mau hay chậm. Chúng sinh tiếp tục trong chuỗi sinh và
tái sinh đây đó theo nghiệp (karma) riêng của mình. Theo định luật
của nghiệp, một chúng sanh tái sanh trong tiến trình luân hồi (samsara).
Sự tiếp tục của đời sống, của tâm và vật, tình trạng của dòng
tinh thần do lực của nghiệp và hậu quả tái sản xuất ra chúng sanh này
trong một loạt đời sống. Tiến trình thanh tịnh tinh thần phải tiếp tục.
Giai đoạn đạt tinh thần phải phát triển cho đến khi tâm được thanh tịnh
và người đó trở thành một người hoàn hảo và chứng được an lạc của
Niết Bàn.
Như đã
nói trước dây sanh và tái sanh tiếp diễn trong trạng thái này hay trạng
thái khác do sự tiếp tục cái đà của dòng tinh thần theo nghiệp riêng của
mình. Tiến trình này được giải thích trong Phật Giáo bởi học thuyết về
nghiệp và tái sanh. Sanh tiếp diễn cho đến khi nghiệp trợ giúp mỗi cuôc
sống có được ngưng lại. Sự ngưng tối hậu của sanh mang lại trạng thái
toàn bích của hạnh phúc gọi là Niết Bàn trong Phật Giáo. Con đường của
đời sống phác họa cho đến nay cách sống đã được phác họa này có
thể được theo đuổi ngay trong đời này trong xã hội tiến bộ hay kém tiến
bộ. Nhưng ham muốn để trở thành khiến không chúng sanh nào đạt được
hạnh phúc tối thượng. Chúng sanh phải ngưng trở thành. Ðó phải là mục
tiêu tối hậu và mục đích của mỗi chúng sanh. Ðó là mục tiêu của người
Phật Tử và người Phật Tử phải thực hành bộ luật đạo lý trong hy vọng
này và cho mục đích này. Trạng thái ấy nằm trong tay của mỗi người. Nó
phải được thực hành bởi chính mình.
Nơi đây người
cư sĩ nhất là những người Phương Tây đụng độ với những vấn đề
không mấy quen thuộc với họ, với triết lý về đời sống và tôn giáo
quen thuộc của họ. Ðó là quan niệm về đời sống sau khi chết trong một
chuỗi tái sanh dưới nhiều dạng thức. Sự việc như vậy có thể có
không? Nhưng những nhà tư tưởng phương Tây và trí tuệ phương Tây, tốt
hơn trước đây, nghĩ rằng sự việc như vậy có thể có được. Một số
biến cố, và một số bất hạnh trong cuộc sống này không thể giải
thích nổi ngoại trừ bằng niềm tin như vậy. Một số năng khiếu của trẻ
em ở độ tuổi khác thường không thể giải thích hoàn toàn Cho đến nay,
sự truyền thừa năng khiếu do di truyền có thể là câu giải đáp. Nhưng
sự hồi tưởng hay nhớ lại một số việc xẩy do các em kể lại cho thấy
một vấn đề mà do đấy tái sanh có thể giải thích được. Những nhà
ngoại cảm đang nghiên cứu hiện tượng này và những trường hợp được
ghi nhận càng ngày càng nhiều. Trong Phật Giáo có nói rằng kiến thức nhớ
lại kiếp trước (pubbe nivasanussatinana) đạt được trong giai đoạn
thiền thứ ba bởi một người đắc ngũ thông (pannca abhima). Cho đến
nay những người thấy khó tin và hiểu đã phát hiện một số bằng chúng
có triển vọng thực tế trong tái sanh .
Cơ chế hoạt
động của học thuyết tái sanh là gì? Nghiệp lực tốt hay xấu được đặt
vào như một lực tái phát và quyết định chu trình đời sống tiếp tục.
Ðó không phải là một phương trình mà trong đó tốt và xấu được tính
toán như yếu tố cộng trừ, để lại con số thừa hay thiếu của một tài
khoản. Ðó là một khái niệm bởiù hành vi tốt sẽ ở một nơi nào đó,
một cách nào đó, một ngày nào đó vào lúc nào đó được đền bù tưởng
thưởng, ngược lại hành vi xấu sẽ gặt phần thưởng xấu. Nghiệp lực
tiềm tàng này có một môi trường tâm linh và không phải vật chấtù.
Ðó là một tiến trình tâm linh giống như điện năng trong máy móc điện
tử. Sức mạnh tự tái sanh của nó vốn có, gắn liền trong lực của
chính nó, giống như điện năng hay âm thanh và sóng ánh sáng. Nơi đây làn
sóng âm thanh đặc biệt hay tia sáng thực tế có trong nó toàn bộ tiềm năng
để tự tái sanh nếu có sự bố trí thích đáng để nhận nó. Có lẽ
nghiệp lực hoạt động có thể giải thích một cách nào đó bằng ngôn
ngữ thông thường. Phương trình chót và cuối cùng là đặc tính của nghiệp
lực nó tái sanh ra hậu quả, có nghĩa là kết quả chúng sanh mới có được
trong những giai đoạn tiếp nối của cuộc sống. Ðặc tính đó là gì? Giải
thích nó như thế nào?
Những điều
này là những vấn đề cần câu giải đáp. Người cư sĩ thấy khó khăn
hơn để hòa hợp các yếu tố này. Và những người cư sĩ của thế giới
phát triển và chậm tiến lại càng thấy khó tin hơn vào việc đó. Phải
nói rằng những điều này là những khái niệm triết học, học thuyết
tôn giáo đã được bàn cãi thảo luận và dẫn giải. Giải thích một sự
vật tầm thường cũng không thể được nếu không có sự thực hành trong
hiện tại hay kinh nghiệm của chính mình. Ánh sáng có thể giảng nghĩa dễ
dàng. Nhưng với một người mù thì khó mà có thể giải nghĩa nó giống
cái gì. Ta có thể mô tả đường đi hay phương cách để đi tới một
nơi nào đó. Ta cũng có thể mô tả một nơi như thế nào nếu ta đã ở
đó. Nhưng không ai có thể cảm thấy hay thực hành nếu tự ta không ở đó.
Giống như vậy, những điều này phải được thực hiện bởi cá nhân
mình và tự mình. Phật Giáo nói lên con đường do Ðức Phật thuyết giảng.
Con đường đó đã được giải thích. Những người khác có thể gia nhập
để theo. Vuợt qua cái đó, không ai có thể giúp đỡ được. Ta chính là
vị cứu tinh của ta. Không ai có thể cứu được người khác. "Attahi
attano natho". Khi ta đã theo con đường này, thực hành tôn giáo này,
mở mang tâm tríù, ta không thể thất bại trong việc đạt trạng thái
toàn hảo và cao nhất của Niết Bàn. Trạng thái đó vẫn nằm trong bàn
tay của chúng ta.
Mục lục | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15
16 | 17 | 18 | 19 | 20 | 21 | 22 | 23 | 24 | 25 | 26 | 27 | 28 | 29 | 30 | 31