- Những Hạt Ngọc Trí
Tuệ Phật Giáo
- Gems of
Buddhist Wisdom
Buddhist
Missionary Society, Malaysia, 1983, 1996
28
TÔN GIÁO TRONG THỜI ÐẠI KHOA HỌC
Hòa Thượng Tiến Sĩ K. Sri
Dhammananda
Ngày nay chúng ta sống trong thời đại khoa học, hầu hết
mọi khía cạnh của cuộc đời đều bị ảnh hưởng bởi khoa học. Từ
cuộc cách mạng khoa học vào thế kỷ thứ Mười Bảy, khoa học tiếp tục
ảnh hưởng lớn lao đến những gì chúng ta nghĩ và làm.
Sự va chạm của khoa học đặc biệt
mạnh mẽ với niềm tin truyền thống tôn giáo. Nhiều quan tôn giáo niệm căn
bản đang bị vỡ tan dưới áp lực của khoa học hiện đại và không còn
được chấp nhận đối với người trí thức và người am hiểu. Không
còn có thể khẳng định chân lý chỉ bắt nguồn do ức đoán thần học
hay căn cứ vaò uy thế của kinh thánh biệt lập với nghiên cứu khoa học.
Thí dụ, những khám phá của những nhà tâm lý hiện đại cho thấy tâm
con người, giống như thân vật chất, hành động theo luật nhân quả tự
nhiên không cần phải có sự hiện diện của một linh hồn bất biến như
dạy bởi một số tôn giáo.
Một số nhà tôn giáo thích không đếm
xỉa đến những khám phá khoa học vì những khám phà này mâu thuẫn với
giáo điều của họ. Tập quán tinh thần ngoan cố này đương nhiên là một
trở ngại cho sự tiến bộ của loài người. Vì người hiện đại từ
khước tin tưởng bất cứ điều gì một cách mù quáng và cả đến điều
được truyền thống chấp nhận, những nhà tôn giáo như thế chỉ làm tăng
hàng ngũ những người không tin tưởng tôn giáo bởi lý thuyết sai lầm của
họ.
Mặt khác, một số các nhà tôn giáo
lại thấy cần thiết đem thích nghi những lý thuyết khoa học được chấp
thuận bằng cách đưa ra những lời giải thích mới với niềm tin tôn
giáo của họ. Một trường hợp đáng kể là Thuyết Tiến Hóa của Darwin.
Một số các nhà tôn giáo xác nhận con người trực tiếp được tạo ra bởi
Thượng Ðế. Darwin, mặt khác, cho là con người tiến hóa từ vượn người,
một lý thuyết đảo lộn học thuyết sáng tạo thiêng liêng và sự xuống
thế của con người. Vì tất cả những nhà tư duy sáng suốt đã chấp nhận
thuyết của Darwin, các nhà thần học không còn gì hơn để chọn lựa ngoại
trừ đưa ra một sự giải thích mới về học thuyết của họ hầu phù hợp
với lý thuyết này mà từ lâu họ chống đối.
Dưới ánh sáng của những khám phá
khoa học hiện đại, không khó khăn gì hiểu rằng quan điểm của nhiều tôn
giáo về vũ trụ và đời sống chỉ thuần là những tư tưởng qui ước và
đã được thay thế từ lâu. Thật ra mà nói là tôn giáo đã đóng góp vĩ
đại cho sự phát triển và tiến bộ của nhân loại. Tôn giáo đã đặt
ra những giá trị và tiêu chuẩn và hình thành những nguyên tắc để hướng
dẫn đời sống con người. Nhưng dù cho tất cả những điều thiện đã
làm, tôn giáo không thể tồn tại trong thời đại khoa học hiện đại nếu
những tín đồ cứ bị bưng bít sự thật trong những khuôn mẫu và giáo
điều, khuyến khích nghi thức và một số lối tu tập đã gần như mất hết
ý nghĩa nguyên thủy.
Phật Giáo và Khoa Học
Cho tới đầu thế kỷ vừa qua, Phật
Giáo vẫn còn hạn chế tại những nước không dính líu gì đến khoa học
hiện đại. Tuy nhiên, ngay từ lúc khởi đầu, giáo lý của Ðức Phật
luôn luôn rộng mở cho sự suy nghĩ của khoa học.
Một lý do tại sao giáo lý này lại
được dễ dàng chấp nhận bởi tinh thần khoa học là do Ðức Phật không
bao giờ khuyến khích niềm tin giáo điều cứng nhắc. Ngài không cho rằng
căn bản giáo lý của Ngài là do tín ngưỡng, niềm tin, hay khải huyền
nhưng cho phép được uyển chuyển rộng rãi và tự do tư tưởng.
Lý do thứ hai là vì tinh thần khoa học
có thể tìm thấy trong cách giải quyết của Ðức Phật về Chân Lý vũ trụ.
Phương pháp khám phá và thử nghiệm Chân Lý rất tương tự với phương
pháp của khoa học. Khoa học gia quan sát một cách khách quan thế giới bên
ngoài, và chỉ thiết lập lý thuyết khoa học sau nhiều lần thực nghiệm
có kết quả.
Sử dụng cách giải quyết tương tự
từ 25 thế trước đây, Ðức Phật quan sát thế giới bên trong với tâm
không luyến chấp, và khuyến khích đệ tử không chấp nhận bất cứ
giáo lý nào cho đến khi giáo lý ấy được điều tra kỹ lưỡng và được
tự mình kiểm chứng sự thật. Giống như nhà khoa học hiện đại không
cho rằng sự thử nghiệm của mình không thể sao chép lại bởi người khác,
Ðức Phật không cho rằng kinh nghiệm giác ngộ là độc quyền của Ngài.
Vậy nên trong vấn đề tìm cầu Chân Lý, Ðức Phật làm việc phân tích
như khoa học gia ngày nay làm. Ngài thiết lập một phương pháp thực tiễn,
khoa học tiến tới Chân Lý tối thượng và kinh nghiệm của Giác Ngộ.
Trong khi Phật Giáo đi cùng đường
hướng với tinh thần khoa học và không làm sứt mẻ gì bề mặt của thế
giới bên trong con người, khoa học thì vẫn không đúng khi đem đặt Phật
Giáo ngang hàng với khoa học. Quả đúng là những áp dụng thực tiễn của
khoa học giúp cho nhân loại sống cuộc đời tiện nghi hơn và đạt được
những điều kỳ lạ mà trước đây chỉ là điều mơ ước. Khoa học đã
làm cho con người bơi nhanh hơn cá, bay cao hơn chim, và đi trên cung trăng.
Tuy nhiên phạm vi kiến thức chấp nhận được đối với trí tuệ khoa học
qui ước bị giới hạn vào bằng chứng theo lối kinh nghiệm. Và chân lý
khoa học lcũng bị thay đổi không ngừng. Khoa hoc không thể giúp con người
kiểm soát tâm mình được và cũng không thể cho kiểm soát đạo đức và
mục đích cuộc đời. Mặc dù có tạo những sự kỳ diệu, đương nhiên
khoa học có nhiều giới hạn nhưng Phật Giáo vượt qua những giới hạn
đó.
Giới Hạn Của Khoa Học
Ta thường nghe thấy rất nhiều về
khoa học và điều khoa học có thể làm được, và rất ít về điều mà
khoa học không làm được. Kiến thức khoa học bị giới hạn vào dữ kiện
nhận được do giác quan. Khoa học không công nhận sự thực vượt qua dữ
kiện giác quan. Chân lý khoa học được xây dựng trên sự quan sát hợp
lý của giác quan - sự kiện luôn luôn thay đổi. Chân lý khoa học, cho
nên, chỉ tương đối đúng không đứng vững với thời gian. Và khoa học
gia nhận thức được sự kiện này, lúc nào cũng muốn loại bỏ một lý
thuyết và thay thế vào một lý thuyết tốt hơn.
Khoa học cố gắng tìm hiểu thế giới
bên ngoài và hầu như không chạm đến thế giới bên trong con người. Ngay
cả đến khoa học tâm lý cũng không thực sự thăm dò nguyên nhân nằm sau
tinh thần lo âu của con người. Khi một người bị dao động và chán ghét
cuộc sống, và thế giới bên trong của người ấy tràn ngâp những xáo
trôn và bất an, khoa học ngày này không trang bị gì để giúp người ấy.
Khoa học xã hội phục vụ cho môi sinh con người có thể mang lại một mức
độ hạnh phúc nào đó. Nhưng không giống như con vật, con ngư?i cần nhiều
hơn không chỉ là tiện nghi vật chất mà cần sự giúp đỡ để đương
đầu được với dao động, đau khổ phát sinh từ kinh nghiệm hàng ngày.
Ngày nay nhiều người bị hành hạ bởi
sợ hãi, bồn chồn và bất an. Nhưng khoa học thất bại không cứu giúp
được họ. Khoa học không thể dạy một người bình thường kiểm soát
tâm, khi bị lôi cuốn bởi bản chất thú tính thiêu đốt trong lòng họ.
Có thể nào khoa học làm con người tốt
hơn không? Nếu có thể được, tại sao những hành vi bạo động và vô
luân đầy dẫy tại các nước rất tiến bộ về khoa học? Phải công bằng
mà nói mặc dầu tiến bộ khoa học đạt được, và những lợi nhuận ban
cho con người, khoa học vẫn không thay đổi nội tâm con người một cách
căn bản; nó chỉ làm tăng cường cảm nghĩ ỷ lại và thiếu thốn? Thêm
vào thất bại trong việc đem an ninh đến cho loài người, khoa học làm mỗi
người cảm thấy bất an bởi sự đe dọa thế giới có thể toàn bộ bị
tiêu diệt. Khoa học không thể cung cấp mục đích cuộc đời có ý nghĩa.
Nó cũng không thể cho con người những lý do rõ ràng về cuộc sống. Thực
ra, khoa học rất thế tục do bản chất và không quan tâm gì đến mục tiêu
tinh thần của con người. Duy vật chủ nghĩa vốn gắn liền với tư tưởng
khoa học bác bỏ mục tiêu tâm linh cao hơn sự thỏa mãn vật chất. Bởi
lý thuyết chọn lựa và chân lý tương đối, khoa học không để ý đến
những vấn đề thiết yếu nhất và để lại nhiều câu hỏi không được
trả lời. Chẳng hạn, khi hỏi tại sao có sự bất bình đẳng vật chất
và tinh thần hiện hữu giữa những con người, không có câu giải nghĩa
khoa học nào có thể trả lời câu hỏi đó, câu hỏi này vượt qua giới
hạn chật hẹp của nó.
Ngu Có Học
Tâm siêu việt mở mang bởi Ðức Phật
không bị giới hạn vào giác quan - dữ kiện và vượt qua cái hợp lý vương
mắc trong phạm vi giới hạn của sự nhận thức tương đối. Trí thông
minh của con người, trái lại, hoạt động trên cơ sở thông tin, nó thâu
thập và tàng trữ ở bất cứ lãnh vực tôn giáo, triết lý, khoa học hay
nghệ thuật. Thông tin cho tâm được thu thập qua giác quan, giác quan này thấp
kém trong nhiều đường lối. Thông tin giới hạn nhận được làm sự hiểu
biết của chúng ta về thế giới bị bóp méo. Trong cuốn sách, Ngu Có Học,
một học giả người Pháp tên Nicholas tại Cusa nhận định:
"Tất cả kiến thức khoác lác của
chúng ta căn cứ trên giác quan quả thật là ngu dốt, và kiến thức thực
sự chỉ có thể đạt được bằng cách lột bỏ tất cả hết điều này
cho đến khi chúng ta suy nghĩ mà không sử dụng ý kiến giác quan."
"Chân lý không lệ thuộc vào những
vấn đề bên ngoài mà chính trong phạm vi chúng ta. Chúng ta không thể hy vọng
tìm chân lý bằng thử nghiệm và nhận thức giác quan và cả đến lý luận
và lý lẽ. Có những dụng cụ đạt kiến thức nhưng không phải là sự
thật - Chân lý. Chân lý phải đến từ sự nhận thức bên trong. Sách vở
chỉ có thể kích thích tư tưởng và cho bạn kiến thức. Còn để tìm kiếm
Chân lý bạn phải quay vào bên trong, trong phạm vi của bạn. Cho nên, sự
tìm kiếm kiến thức là một việc, và sự tìm kiếm Chân lý lại là một
việc khác."
Lời nói là sản phẩm của trí óc
có giới hạn và tất cả kiến thức của tâm chúng ta tùy thuộc vào kinh
nghiệm của giác quan. Những giác quan này đôi khi không tin tưởng được;
một việc xẩy ra chứng kiến bởi nhiều người có thể giải thích nhiều
cách khác nhau".
Một số người hãnh diện về việc
họ biết rất nhiều. Thực ra, chúng ta càng biết ít bao nhiêu, chúng ta
càng chắc chắn ở sự giải thích của chúng ta bấy nhiêu; chúng ta càng
biết bao nhiêu chúng ta càng nhận thức thấy giới hạn của chúng ta bấy
nhiêu.
Một học giả xuất sắc viết một
tác phẩm mà ông coi là một công trình tuyệt tác. Ông cảm thấy cuốn
sách của ông chứa tất cả những hạt ngọc văn chưong và triết lý. Rất
hãnh diễn về thành quả của mình, ông đưa tác phẩm cho người bạn đồng
nghiệp của ông, vị này cũng là môt học giả lẫy lừng như ông, và yêu
cầu người đồng nghiệp hiệu đính lại cho ông. Thay vì kiểm lại, ngươi
đồng nghiệp yêu cầu tác giả viết xuống giấy tất cả những gì ông
biết và tất cả những gì ông không biết. Tác giả ngồi xuống và bắt
đầu suy nghĩ, nhưng sau một hồi lâu ông không thể viết được gì về
những điều ông biết. Ông bèn quay về với câu hỏi thứ hai, và cũng vậy,
ông cũng khổng thể viết gì về những điều ông không biết. Cuối cùng,
khi cái tôi của ông đã hạ xuống, ông đầu hàng, và biết rằng tất cả
những gì ông biết thực ra chỉ là ngu xuẩn.
Về phương diện này, Socrates, nhà hiền
triết Athenian nổi tiếng về thời cổ, đã nói như sau khi được hỏi về
điều ông biết: "Tôi chỉ biết một điều - đó là điều tôi không
biết".
Vượt Qua Khoa Học
Phật Giáo vượt qua khoa học hiện đại
trong việc chấp nhận lãnh vực kiến thức rộng lớn hơn kiến thức được
chấp nhận phép bởi trí tuệ khoa học. Phật Giáo chấp nhận kiến thức
phát xuất từ giác quan cũng như từ kinh nghiệm bản thân đạt được do
sự rèn luyện tinh thần. Bằng cách tập luyện và phát triển tâm trí tập
trung cao độ, kinh nghiệm tôn giáo có thể được hiểu biết và kiểm chứng.
Kinh nghiệm tôn giáo không phải là điều có thể hiểu được bằng cách
thử nghiệm trong một ống nghiệm hay quan sát dưới kính hiển vi.
Chân lý khám phá ra bởi khoa học chỉ
tương đối và lệ thuộc vaò sư thay đổi, nhưng Chân lý khám phá ra bởi
Ðức Phật là không thể thay đổi được nữa và tuyệt đối. Chân lý của
Pháp không thay đổi theo thời gian và không gian. Hơn nữa trái với lý thuyết
chọn lựa của khoa học, Ðức Phật khuyên người trí không nên bám víu
vào lý thuyết, khoa học hay lãnh vực nào khác. Thay vì lý thuyết, Ðức Phật
khuyên nhân loại làm sao sống một cuộc đời chính đáng bằng cách làm lắng
dịu giác quan, quẳng đi những ham muốn, Ðức Phật nhấn mạnh vào phương
cách mà ta có thể tự khám phá ra bản chất của đời sống. Và mục đích
thực sự của đời sống có thể tìm ra được.
Tu tập rất quan trọng trong Phật Giáo.
Một người học nhiều nhưng không thực hành thì chẳng khác gì đọc được
công thức từ một cuốn gia chánh to lớn mà không cố gắng nấu một món
nào. Cái đói của người ấy không hết được chỉ bằng kiến thức trên
sách vở. Thực hành là sự tiên quyết quan trọng cho giác ngộ trong một số
trường phái Phật Giáo, như Thiền (Zen), tu tập phải đặt trước kiến
thức.
Phương pháp khoa học chỉ hướng về
bên ngoài, và những khoa học gia hiện đại khai thác thiên nhiên và những
yếu tố tự nhiên để phục vụ tiện nghi của họ, đôi khi không để ý
gì đến nhu cầu hòa hợp với môi trường, và do đó làm ô nhiễm thế giới
Trái lại, Phật Giáo hướng vào bên trong, quan tâm đến sự phát triển nội
tâm. Ở mức độ thấp hơn, Phật giáo dạy một cá nhân làm sao điều chỉnh
và đương đầu với những biến cố và hoàn cảnh trong đời sống hàng
ngày. Ở mức độ cao hơn, Phật Giáo tượng trưng sự nỗ lực phát triển
vượt qua bản thân nhờ sự tu tập trau dồi tinh thần hay phát triển tâm
trí.
Phật Giáo có hệ thống huấn luyện
tinh thần đầy đủ liên quan với việc đạt tuệ giác đối vào bản chất
của sự vật dẫn đến sự chứng đắc hoàn toàn Chân Lý Tối Thượng:
Niết Bàn. Hệ thống này vừa thực tiễn vừa khoa học, nó đòi hỏi sự
quan sát vô tư trạng thái xúc cảm và tinh thần. Giống như một khoa học
gia hơn là một quan tòa, người tu thiền quan sát thế giới bên trong với
sự chú tâm.
Khoa Học Không Tôn Giáo
Không có lý tưởng đạo đức, khoa học
là mối nguy cho nhân loại. Khoa học làm ra máy móc, máy móc trở thành
chúa tể. Ðạn và bom là tặng phẩm của khoa học. Có một số có quyền
uy mà số phận của thế giới tùy thuộc vào. Trong khi phần nhân loại
còn lại chờ đợi trong thống khổ và sợ hãi, không biết khi nào những
vũ khí nguyên tử, hơi độc, những vũ khí giết người - tất cả những
thành quả nghiên cứu khoa học được thiết kế để giết chóc cho hữu
hiệu - sẽ được sử dụng với họ. Khoa học không thể hướng dẫn tinh
thần cho nhân loại, khoa học còn đổ dầu vào ngọn lửa tham dục của
con người.
Khoa học không đạo đức chỉ có nghĩa
phá hoại: nó trở thành quái-vật tàn bạo do con người khám phá ra. Và bất
hạnh thay, con quái vật này càng ngày càng mạnh hơn chính con người. Trừ
phi con người học hỏi cách kiềm chế và ngự trị con quái vật ấy qua
thực hành luân lý tôn giáo, nếu không con quái vật ấy sẽ áp đảo con
người. Không có hướng dẫn đạo giáo, khoa học đe dọa tiêu diệt thế
giới. Trái lại, khoa học đi đôi với một tôn giáo như Phật Giáo có thể
thay đổi thế giới này thành thiên đường hòa bình, an ổn và hạnh
phúc.
Không lúc nào bằng lúc này, sự hợp
tác giữa khoa học và tôn giáo lại cần thiết đến thế cho lợi ích và
phục vụ tốt nhất cho nhân loại. Tôn giáo không khoa học thì mù quáng,
trong khi khoa học không tôn giáo thì khập khiễng.
Tán Thán Phật Giáo
Trí tuệ Phật Giáo xây dụng trên từ
bi có một vai trò sống còn trong việc sửa lại mục tiêu nguy hiểm khoa học
hiện đại đang hướng về. Phật Giáo có thể cung cấp sự lãnh đạo
tinh thần để hướng dẫn nghiên cứu khoa học và phát minh hứa hẹn một
tương lai rực rỡ. Phật Giáo có thể cung cấp mục tiêu có giá trị cho
khoa học tiến bộ hiện đang phải đối đầu với một ngõ cụt vô vọng
của sự bị bị nô dịch hóa bởi những phát minh.
Albert Einstein tán thán Phật Giáo khi
ông nói: "Nếu có một tôn giáo nào có thể đáp ứng với nhu cầu
khoa học hiện đại, thì tôn giáo đó phải là Phật Giáo" Phật Giáo
không cần phải xét lại để cập nhật hóa với những khám phá mới của
khoa học.
Phật Giáo không cần phải đầu hàng
quan điểm cho khoa học vì Phật Giáo bao gồm cả khoa học cũng như vượt
qua khoa học. Phật Giáo là cây cầu nối tư tưởng đạo lý và tư tưởng
khoa học bằng cách khuyến khích con người khám phá ra tiềm năng tiềm ẩn
trong tâm và môi trường chung quanh. Phật Giáo lúc nào cũng hợp thời!
Mục lục | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15
16 | 17 | 18 | 19 | 20 | 21 | 22 | 23 | 24 | 25 | 26 | 27 | 28 | 29 | 30 | 31