- Những Hạt Ngọc Trí
Tuệ Phật Giáo
- Gems of
Buddhist Wisdom
Buddhist
Missionary Society, Malaysia, 1983, 1996
27
BỒ
TÁT, LÝ TƯỞNG TRONG PHẬT GIÁO
Hòa Thượng Tiến Sĩ W.
Rahula
Có một niềm tin lan tràn, nhất là
ở phương Tây, là lý tưởng của Nguyên Thủy coi như đồng nhất với Tiểu
Thừa, là để trở thành A La Hán, trong khi lý tưởng của Ðại Thừa là
trở thành Bồ Tát và cuối cùng đạt trạng thái thành Phật. Phải nói
cho minh bạch, niềm tin đó sai. Ý kiến này được truyền bá bởi những
nhà Ðông Phương Học vào thời điểm khi sự nghiên cứu Phật Giáo bắt
đầu phôi thai ở Tây phương, và một số người đã chấp nhận mà không
muốn nhọc công đi vào vấn đề bằng cách nghiên cứu kinh điển và đời
sống truyền thống tại các nước Phật Giáo. Nhưng sự thật là cả hai
Nguyên Thủy và Ðại Thừa đều nhất trí chấp nhận lý tưởng Bồ Tát
là cao nhất.
Thuật ngữ
Tiểu Thừa (Cỗ Xe Nhỏ) và Ðại Thừa (Cỗ Xe Lớn) không thấy
có trong văn học Nguyên Thủy tiếng Pali. Những từ ngữ này cũng không
tìm thấy trong Tam Tạng Kinh Ðiển tiếng Pali hay trong những bộ luận về
Tam Tạng Kinh Ðiển. Cũng không thấy có luôn trong biên niên sử tiếng Pali
tại Ceylon, những cuốn Dipavamsa và Mahavamsa. Biên niên sử Dipavamsa
(vào khoảng thế kỷ thứ tư sau Công Nguyên) và những bộ luận bằng tiếng
Pali ghi nhận Vitandavadins, một phái của những Phật Tử bất đồng
quan điểm giữ một vài quan điểm không chính thống về một số vấn đề
trong giáo lý của Ðức Phật. Phái Vitandavadin và Nguyên Thủy đều
trích dẫn giống nhau từ những căn cứ đáng tin và đặt tên những kinh
trong Tam Tạng Kinh Ðiển hầu hỗ trợ cho lập trường của mình, sự khác
biệt chỉ là cách thức giải thích. Biên Niên sử Mahavamsa (thế kỷ
thứ Năm trước Công Nguyên) và một bộ luận về Vi Diệu Pháp có nhắc
đến Vetulla hay Vetulyavadins (Sanskrit: Vaitulyavadin) thay vì Vitandavadin.
Từ bằng chứng của kinh điển, không thể nào nhầm lẫn mà coi hai thuật
ngữ - Vitanda và Vetulya- tượng trưng cho cùng một trường phái hay
cùng một phái.
Chúng ta biết
từ cuốn Abbidhamma-Samuccaya, một bộ kinh Ðại Thừa đáng tin cậy
(thế kỷ thứ tư sau Công Nguyên) những từ Vaitulya và Vaipulya đồng
nghĩa, và Vaipulya là Bồ Tát Thừa. Vậy Bồ Tát Thừa rõ ràng là Ðại
Thừa. Cho nên Vaitulya chắc chắn mang nghĩa Ðại Thừa.
Cho nên
chúng ta có thể chắc chắn từ Vitanda và Vetulya dùng trong Biên
niên sử tiếng Pali và các bộ luận nói đến Ðại Thừa. Nhưng những từ
Tiểu Thừa và Ðại Thừa không được họ biết đến, hay bị lờ đi hay
không được họ công nhận.
Toàn thể
các học giả chấp nhận là những từ Tiểu Thừa và Ðại Thừa là những
danh từ đặt ra sau này. Nói theo lịch sử, Nguyên Thủy đã hiện hữu trước
khi các danh từ này ra đời. Nguyên Thủy được coi như giáo lý nguyên thủy
của Ðức Phật truyền vào Ceylon và thiết lập tại đây vào thế kỷ thứ
ba trước Công Nguyên trong thời đại Hoàng Ðế A Dục tại Ấn Ðộ.Vào
thời đại ấy không có gì được gọi là Ðại Thừa. Ðại Thừa xuất
hiện sau này vào khoảng bắt đầu thời đại Ky Tô Giáo. Không có Ðại
Thừa thì không thể có Tiểu Thừa. Phật Giáo đi vào Sri Lanka với Tam Tạng
Kinh Ðiển và các Bộ Luận, vào thế kỷ thứ ba trước Công Nguyên, vẫn
giữ nguyên không thay đổi là Nguyên Thủy, và không trở thành màn tranh chấp
giữa Tiểu Thừa và Ðại Thừa được phát triển sau này tại Ấn Ðộ.
Cho nên dường như không hợp lý khi bao gồm Nguyên Thủy vào cả hai loại
này.
Ðại Thừa
chuyên đề cập với Bồ Tát Thừa hay cỗ xe của Bồ Tát nhưng cũng không
quên hai loại: Thinh Văn Thừa và Duyên Giác Thừa. Thí dụ, ngài Vô Trước,
người sáng lập ra hệ thống Yogacara (Du Già) trong cuốn Magnum Opus, Du già
Sử Ðịa Luận, đã có hai chương nói về Thinh Văn Thừa và Duyên Giác Thừa
trở thành Bồ Tát Thừa cho thấy cả ba thừa đều được coi trọng trong
Ðại Thừa. Nhưng địa vị của Thinh văn hay Duyên giác thấp hơn Bồ Tát.
Ðiều này cũng phù hợp với truyền thống Nguyên Thủy vẫn cho rằng một
người có thể trở nên Bồ Tát và đạt quả vị của một Ðức Phật
hoàn toàn giác ngộ, nếu không được, có thể đạt quả vị của một Bích
Chi Phật hay một thánh quả Thinh Văn tùy theo khả năng. Ba tình trạng này
được coi như ba đắc quả trên cùng một con đường. Thực ra, Kinh
Sandhinirmoocarana (Giải Thâm Mật Kinh - một bộ kinh Ðại Thừa) nói rõ
ràng Thinh Văn Thừa và Ðại Thừa tạo thành một thừa, và chúng không phải
là hai khác biệt và hai cỗ xe khác nhau.
Ba Cá
Nhân
Bây giờ,
ai là ba cá nhân: Thinh Văn, Duyên Giác, và Bồ Tát? Rất ngắn gọn:
Một Thinh Văn
là đệ tử của Ðức Phật. Một đệ tử có thể là tăng, ni, ưu bà tắc
hay ưu bà di. Hướng vào sự giải thoát của mình, một Thinh Văn theo và tu
tập giáo lý của Ðức Phật, và cuối cùng đạt Niết Bàn. Thinh Văn cũng
phục vụ người khác, nhưng khả năng chỉ có giới hạn.
Một Bích
Chi Phật (Ðộc Giác Phật) là người một mình chứng đắc Niết Bàn khi
không có Ðức Phật Chánh Ðẳng Chánh Giác trên thế giới. Vị Phật này
cũng phục vụ người khác nhưng trong một đường lối giới hạn. Vị này
không thể khám phá ra Chân Lý cho người khác như Ðức Phật Chánh Ðẳng
Chánh Giác, một Ðức Phật hoàn toàn giác ngộ làm.
Một Bồ
tát là một người (nhà sư hay cư sĩ) ở trong vị trí chứng đắc Niết Bàn
như hàng Thinh văn hay Bích Chi Phật, nhưng vì lòng từ bi rộng lớn cho thế
giới, từ bỏ tất cả và chịu khổ đau trong luân hồi để cứu người
khác, toàn thiện chính mình trong một thời gian dài không kể siết và chứng
đắc Niết Bàn và trở thành một Vị Phật Chánh Ðẳng Chánh Giác, một
Ðức Phật giác ngộ hoàn toàn. Khả năng phục vụ người khác vô giới hạn.
Ðịnh nghĩa
về ba thừa (tín đồ của ba thừa) đưa ra bởi ngài Vô Trước hết sức
lợi ích cho kiến thức và làm sáng tỏ một số điểm. Theo ngài, một
Thinh Văn (là một người dùng xe đệ tử) là một người sống theo luật
lệ của một đệ tử. Bởi bản chất có tính năng mềm yếu, hướng vào
sự giải thoát của chính mình do sự trau dồi không luyến chấp, tùy thuộc
vào Kinh, người Ðệ Tử, tu tập những đức tính lớn và nhỏ, dần dần
chấm dứt được khổ đau. Người đi xe Duyên Giác Thừa là một người sống
theo luật lệ của một vị Phật Ðộc Giác. Bản chất có năng lực trung
bình, hướng vào sự giải thoát của chính mình do sự trau dồi của không
luyến chấp, có ý đạt giác ngộ chỉ bằng sự phát triển tinh thần của
chính mình, tùy thuộc vào chính mình, tu tập những đức tính lớn và nhỏ,
sinh vào thời không có Phật trên thế giới và dần dần chấm dứt được
khổ đau. Người theo Ðại Thừa (đi cỗ xe lớn) là người sống theo luật
lệ của Bồ Tát, bởi bản chất có những tính năng sắc bén, hướng vào
sự giải thoát cho tất cả chúng sanh, tùy thuộc Kinh Bồ Tát, làm cho các
chúng sanh khác hoàn thiện, trau dồi cảnh giới Phật thuần túy, nhận được
những lời tiên đoán hay tuyên bố thọ ký của Chư Phật và cuối cùng chứng
đắc Giác Ngộ đầy đủ và toàn bích. (Samyakasambodhi).
Từ những
điều này, chúng ta có thể thấy bất cứ ai mong mỏi trở thành Phật là
một Bồ tát, một người Ðại Thừa, dù người ấy sống trong một quốc
gia hay cộng đồng mà theo phổ thông và truyền thống được coi như Nguyên
Thủy hay Tiểu Thừa. Tương tự như vậy, một người mong muốn đạt Niết
Bàn với tư cách một đệ tử là Thinh Văn Thừa hay Tiểu Thừa dù người
đó sống tại một qưốc gia hay cộng đồng coi như là Ðại Thừa. Vì vậy
khi tin không có Bồ Tát trong những quốc gia Nguyên Thủy và tất cả là Bồ
tát trong các quốc gia Ðại Thừa là sai. Không thể hiểu nổi nếu những
hàng Thinh Văn và Bồ Tát lại tập trung tại các khu vực theo địa dư riêng
rẽ.
Xa hơn nữa,
ngài Vô Trước nói cuối cùng khi một Bồ Tát chứng Giác Ngộ, người ấy
trở nên một A La Hán, một Như Lai (có nghĩa Phật) . Nơi đây phải hiểu
rõ ràng không những chỉ có đệ tử Thinh Văn Thừa mà một Bồ Tát cũng
có thể trở nên một A La Hán khi cuối cùng chứng Phật quả. Lập trường
của Nguyên Thủy cũng đúng như vậy: Ðức Phật là một A La Hán - "Araham
Samma-Sambuddha" - A La Hán, Ðức Phật giác ngộ đầy đủ hoàn
toàn" .
Ðại Thừa
giải thích rõ ràng là một Ðức Phật, một Bích Chi Phật và một thánh
quả Thinh Văn, tất cả ba đều ngang bằng, và giống nhau về phương diện
thanh tịnh hóa, hay giải thoát khỏi những ô trược và bất tịnh (Klesvaranavi-suddhi)
.
Ðiều này
cũng gọi là giải thoát thân và trong đó không có dị biệt giữa cả ba.
Ðó có nghĩa là không có ba Niết Bàn khác biệt cho ba người. Niết Bàn giống
nhau cho cả ba. Nhưng chỉ có Ðức Phật mới đạt được giải thoát hoàn
toàn khỏi tất cả những chướng ngại của sự hiểu biết hay chướng ngại
của kiến thức, không phải là Thinh Văn hay Bích Chi Phật. Ðiều này cũng
được gọi là Pháp Thân (Dharma-Kaya) và chính trong Pháp Thân vô số
đức tính, khả năng và tài năng mà Ðức Phật trở nên cao hơn không thể
so sánh với Thinh Văn và Bích Chi Phật.
Quan điểm
Ðại Thừa này cũng phù hợp với Tam Tạng Kinh Ðiển Nguyên Thủy bằng tiếng
Pali. Trong Kinh Samyutta-Nikaya, Ðức Phật nói Như Lai và một tỳ kheo (đệ tử
Thinh Văn Thừa) giải thoát do trí tuệ bằng nhau về phương diện giải thoát,
nhưng Như Lai khác biệt tỳ kheo giải thoát ở chỗ Như Lai khám phá ra con
đường mà trước đây không biết.
Ba đẳng cấp
của Thinh Văn, Bích Chi Phật và Phật được ghi trong những Kinh Nidhikanda và
Khuddapatha, cuốn thứ nhất của Kinh Khuddaka-Nikaya (Tiểu Bộ), một trong năm
bộ sưu tập về Tam Tạng Kinh Ðiển Nguyên Thủy. Kinh này nói bằng cách
tu tập các đức hạnh như nhân từ, đạo đức, tự kiềm chế vân vân, một
người có thể đạt, giữa các việc khác, sự toàn thiện của một đệ
tử, Giác Ngộ của một Bích Chi Phật, và cảnh giới Phật. Những điều
này không được gọi là thừa (cỗ xe).
Trong truyền
thống Nguyên Thủy, những điều trên được gọi là Bodhis (Giác Ngộ),
không phải là Yanas (cỗ xe). Bộ luật bằng tiếng Pali Upasaka-janalankara
viết về đạo đức cho người cư sĩ vào thế kỷ thứ 12 bởi một Hòa
Thượng tên là Ananda theo truyền thống Nguyên Thủy của Mahavihara tại
Anuradhpura, Sri Lanka, có ba giác ngộ: Giác ngộ của hàng Thinh Văn, Giác ngộ
của hàng Duyên giác, và Giác ngộ của chư Phật. Cả một chương của cuốn
này bàn luận về ba giác ngộ này rất chi tiết.
Chương này
nói khi một đệ tử đạt giác ngộ, người đó được gọi là
Savaka-Buddha.
Bồ Tát
Giống như
Ðại Thừa, Nguyên Thủy vẫn coi Bồ Tát có vị trí cao nhất. Lời bình luận
trong Kinh Jataka (Tiền Kiếp của Ðức Phật), về truyền thống Mahavihara tại
Anuradhapura, cung cấp một thí dụ rõ ràng: trong quá khứ xa xăm, nhiều thời
đại không kể siết qua, có một nhà tu khổ hạnh tên Sumedha (tiền
thân của Ðức Phật). Vào thời đại đó có một vị Phật tên là Dipankara
(Nhiên Ðăng). Sumedha đến gặp vị Phật này xin cầu đạo và dưới
sự hướng dẫn của Ngài, đạt được khả năng đạt Niết Bàn. Nhưng Sumedha
từ chối và quyết định, vì từ bi cho cả thế giới, Sumedha muốn
trở thành một vị Phật như Ðức Nhiên Ðăng để cứu độ những người
khác. Ðức Nhiên Ðăng tuyên bố và tiên đoán nhà tu khổ hạnh vĩ đại này
một ngày nào đó sẽ trở thành Phật; Ngài cho Sumedha tám nắm hoa. Cũng
làm như vậy, những đệ tử của Ðức Nhiên Ðăng, những vị đã đắc
quả A La Hán dâng hoa cho vị Bồ Tát (Sumedha). Câu chuyện về Sumedha
này cho thấy rõ ràng vị trí của Bồ Tát trong Nguyên Thủy.
Mặc dầu
Nguyên Thủy giữ lập trường cho rằng bất cứ ai cũng có thể trở thành
Bồ tát, không có nghĩa là quy định hay nhất định tất cả phải là Bồ
Tát, như vậy không thực tiễn. Quyết định là do cá nhân tùy thích muốn
chọn con đường Thinh Văn, hay Duyên Giác - Bích Chi Phật, hay Bồ Tát Thừa
(Ðức Phật Chánh Ðẳng Chánh Giác). Nhưng lúc nào cũng giải thích rõ
ràng địa vị Chánh Ðẳng Chánh Giác cũng cao hơn và hai đẳng kia thấp
hơn. Nhưng không phải những đẳng này không được coi trọng.
Vào thế kỷ
thứ 12 sau Công Nguyên, Myanmar (một quốc gia thuần túy Nguyên Thủy) Hoàng
Ðế Alaungsithu tại Pagan, sau khi xây Chùa Shwegugyi, khắc một bài thơ bằng
tiếng Pali trên một tấm bia ghi lại hành động sùng đạo này và ông cũng
công khai tuyên bố quyết định muốn trở thành Phật chứ không trở
thành bậc Thinh Văn.
Tại Sri
Lanka, vào thế kỷ thứ Mười, Hoàng Ðế Mahinda Ðệ Tứ (956-972 sau Công
Nguyên) trên một tấm bia khắc lời tuyên bố: "Không ai mà chỉ có
các Bồ Tát mới trở thành Vua của Sri Lanka (Ceylon)". Như vậy người
ta tin rằng những vị Vua của Sri Lanka đều là Bồ Tát cả.
Một Hòa Thượng
tên Maha-Tipika Culabhaya viết cuốn Malinda-Tika (vào khoảng thế kỷ
12 sau Công Nguyên) theo truyền thống Nguyên Thủy của Mahavihara tại
Anudhapura, trong phần cuối có ghi ông mong muốn trở thành Phật: Buddho
Bhaveyam "Tôi muốn trở thành Phật" có nghĩa tác giả là một vị
Bồ Tát.
Chúng tôi
tình cờ thấy phần cuối của một số bài viết tay trên lá cây cọ tại
Sri Lanka có ghi tên và trên cả một số bản sao có ghi lời nguyện muốn
trở thành Phât, và những người này tự coi mình như các Bồ Tát. Vào cuối
các cuộc lễ hay để tỏ lòng sùng đạo, vị tỳ kheo thường đưa ra lời
nguyện cầu, khuyên nhủ giáo đoàn phát nguyện đạt Niết Bàn bằng cách
thực hiện ba giác ngộ - Thinh Văn - Duyên Giác hay Bồ Tát
- như họ nguyện cầu tùy theo khả năng.
Tại Sri
Lanka, Myanmar, Thái Lan, Campuchia, những nước được coi là Nguyên Thủy, rất
nhiều Phật Tử, cả tăng ni và cư sĩ, phát nguyện quyết tâm trở thành
Phật để cứu độ người khác. Họ thực ra là các Bồ Tát ở những
giai doạn phát triển khác nhau. Vì vậy có thể thấy rằng tại các quốc
gia theo trường phái Tiểu Thừa, không phải tất cả mọi người đều là
Thinh Văn mà còn có cả Bồ Tát.
Có sự dị
biệt lớn có ý nghĩa giữa Nguyên Thủy và Ðại Thừa về lý tưởng Bồ
Tát. Nguyên Thủy, mặc dầu giữ lập trường lý tưởng Bồ Tát là cao nhất
và cao thượng nhất, không cung cấp tác phẩm riêng biệt nào dành cho chủ
đề. Những giáo lý về lý tưởng Bồ tát và hành động Bồ Tát tìm thấy
rải rác tại nhiều nơi trong kinh sách Pali. Ðại Thừa theo định nghĩa dâng
hiến cho lý tưởng Bồ Tát, không những chỉ sáng tạo một kho tàng văn
chương xuất sắc về chủ đề mà còn tạo ra giới Bồ tát huyền bí thật
hấp dẫn.
Mục lục | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15
16 | 17 | 18 | 19 | 20 | 21 | 22 | 23 | 24 | 25 | 26 | 27 | 28 | 29 | 30 | 31