|
-
Mừng Ngày Phật Đản
Mừng Phật Đản Sanh
(thơ) Mặc
Giang
Cúng
Dường Phật Đản
(thơ) Mặc
Giang
Phật
Giáo Việt Nam Ca (2)
(thơ) Mặc
Giang
Phật
Giáo Việt Nam Sử Ca (2)
(thơ) Mặc
Giang
Hôm
qua Em đi lễ chùa
(thơ) Mặc
Giang
Cửa
Phật Từ Bi Hóa Nhiệm Mầu
(thơ) Mặc
Giang |
-
Con
người là một tiểu vũ trụ, vì thân thể con người có đủ 4 chất:
đặc-lỏng-nóng-hơi. Tức là đất-nước-gió-lửa. Muốn tiểu vũ trụ hoà với
đại vũ trụ đất trời " THUẬN THIÊN DÃ TỒN " thì phải luyện tập. Đức
Phật dạy chúng sanh hơn 8 vạn pháp môn, chủ đích là hướng dẫn chúng
sanh giải thoát. Muốn dung thông chứng đắc các pháp, thì trước nhất
người tu luyện phải thông đạt về SỰ TƯỚNG, phải tuần tự từ dễ đến khó.
Tham tu nhảy vọt lên chót vót, những phần cơ bản không chịu tập luyện,
nên đa phần những người đệ tử của Đức Phật thường bị chới với giữa
dòng.........Bài học nói riêng này, chủ đích phơi bày một số nét cơ
bản, hầu giúp người tu học Phật THỰC HÀNH những diều cần thiết, thực
dụng hàng ngày
|
Hoa sen và ngày
Phật đản
Thích
Đạt Đạo
Có một
điều gì đó thật là hiền hòa, thanh tịnh khi gắn kết hình ảnh hoa
sen với sự Đản sanh của Đức Phật. Nói đến đạo Phật, hay Đức Phật
thì không thể không liên tưởng đến hình ảnh hoa sen. Những đóa sen
hồng, những đóa sen trắng, tất cả đều thanh khiết như những đệ tử
của Người. Hàng ngày tu tập buông xả, tịnh tâm, tạo cho mình phong
cách sống ung dung, tự tại: sống giữa trần mà không nhiễm trần,
sống giữa đời mà không lụy đời........Trong cuộc sống đầy những trầm luân và nỗi khổ này, ai có thể tự
hào mình là người hạnh phúc thật sự, là người đạt được tất cả
những gì mình mong muốn? Chắc là không bao giờ! Có những người sẽ
phải lụy vì tình, có những người phải vào vòng lao lý vì chạy theo
danh lợi, địa vị, tiền tài, vật chất. Có những người phải tiêu hao
cả gia sản vì bệnh tật
|
Lịch
sử Đức Phật Thích Ca là lịch sử của một con người, nhờ công phu
tu tập tự thân đã chứng đạt quả vị Giác ngộ. Suốt 45 năm thuyết
giáo độ sinh, Ngài trở thành con người vĩ đại nhất sinh ra ở đời.
Chính cuộc đời Đức Phật vĩ đại như thế khiến cho yếu tố huyền
thoại của Ngài khi Đản sinh đi vào tâm thức nhân loại như là một
huyền sử thiêng liêng, ngõ hầu tạo ra những dấu ấn tâm linh,
ngay từ khi con người cất bước chân đi tìm về miền đất an lạc.....
Thế nên, hàng năm Phật giáo đồ trên khắp cõi hành tinh này
hân hoan đón mừng Đại lễ Khánh đản bằng tấm lòng tôn kính. Mục
đích cuối cùng là để phô diễn tận cùng hình ảnh Phật đản sinh
qua những yếu tố huyền sử hóa thân từ huyền thoại có xuất xứ từ
Kinh tạng, được xem như là những tác phẩm văn học Phật giáo. Đó
là mô thức Phật đản sinh được giới Phật giáo đồ diễn trình bằng
hình ảnh Ngài từ cung trời Đâu Suất cưỡi con voi trắng sáu ngà
hiện xuống ứng mộng với hoàng hậu Ma Da. Sau đó, Ngài thị hiện
giữa cõi đời nhân lúc mẫu thân giơ tay vin cành Vô ưu trong vườn
Lâm Tỳ Ni và liền cất bảy bước chân đi hóa hiện trên bảy đóa hoa
sen diệu kỳ. Ngài dõng dạc tuyên bố như là một thông điệp giải
thoát với âm vang rung động trời đất: "Trên trời dưới đất,
duy Ta là độc tôn”.
|
Người Ấn thường dùng hoa sen để chỉ cho sự ra đời của Đức Phật. Tổ
tiên chúng ta đã đồng cảm về điều ấy, nên 2.000 năm về trước, từ
những nụ sen mọc trên khắp quê hương, trí tuệ và phẩm hạnh của Đức
Phật đã nở hoa trong tâm thức văn hóa Việt. Cũng với tâm thức gần
gũi ấy, Đức Phật đã trở thành ông Bụt, hiện thân cho tình thương,
lẽ công bằng, rồi nhanh chóng đi vào cổ tích, huyền thoại và
phương thức ứng xử của mọi người… Và kể từ khi chùa Khai Quốc (Mở
Nước) được dựng nên, vị hoàng đế và nền văn hóa tự chủ đầu tiên đã
khẳng định Đức Phật ở trong tâm mình… Đức Phật của dân tộc Việt
Nam
|
-
Đêm thơ-nhạc và CD Chốn
cũ ngày về tiếng chuông ngân vang mãi trong lòng
Trí Liên
-
Đêm
Thơ-Nhạc Chốn Cũ Ngày Về tổ chức tại Hội Trường Thanh Lương, Chùa
Phật Đà ngày 05-05 vừa qua, quả là một tác động không nhỏ đối với
người thưởng thức. Sự có mặt của giới trí thức văn hào nhân sĩ đã
chứng tỏ sức chú ý, quan tâm của họ tới dòng nhạc Thiền vừa êm ả
nhẹ nhàng, lại thanh thoát thong dong. Nơi đây, phải kể đến nhà
thơ T.K.Thiện Hữu, qua phong cách bình dân, đã thể hiện những nét
chấm phá độc đáo, vừa truyền thống, vừa sáng tạo, vừa hiện thực,
vừa siêu thực, lại tế nhị khéo léo, kết hợp được nét đẹp của đạo
Phật, trong đời có đạo, đạo chẳng lìa đời một cách đậm đà, sống
động. Từ chất thơ nhẹ nhàng trong sáng êm mát như dòng sông hiền
hoà, luôn được phù sa tụ lại đắp bồi thêm những dưỡng chất ngọt
ngào, đã phần nào xoa dịu bao nỗi đắng cay khô cằn, phần nào xẻ
chia những mảnh đời đau thương của trần thế. Người thơ và nhạc sĩ
đã dùng đôi tay tài hoa, khối óc nghệ thuật tinh tường, chuyển tải
thành dòng âm thanh an lạc thanh thoát, giúp cho người nghe có
được những phút giây trầm lắng tâm hồn......
|
-
Lời người dịch:
Bài này được trích dịch từ quyển Vietnamesische Lehrjahre (Những
năm dạy học tại Việt Nam), Suhrkamp Verlag, Taschenbuch Ausgabe
, st 73, Germany, 1972, trang 129-142 với tên tác giả Georg W.
Alsheimer, bút hiệu của Bác sĩ người Ðức Erich Wulff. BS Wulff
dạy tại trường Ðại học Y khoa Huế 1961-1967, trong khuôn khổ
viện trợ giáo dục của Tây Ðức. Vì một sự tình cờ, tác giả đã
chứng kiến biến cố tại Ðài Phát thanh Huế đêm 8/5/1963 làm 8
Phật tử bị chết một cách thê thảm và đã trình bày sự kiện này
trước Ủy ban điều tra đàn áp Phật giáo Việt Nam của Liên hiệp
quốc vào tháng 9/1963
|
- Như để phần
nào xoa dịu những nỗi đau thương của nhân loại mỗi ngày một
nhiễu nhương hơn, đau khổ hơn trong chiến tranh và trong những
thiên tai kinh hoàng đầy oan khiên của đất trời v .v.. những vần
thơ - nhạc Thiền chuyên chở bao lời đạo pháp thanh thoát êm dịu
đã được nở rộ như những bông hoa Ba La Mật tung cánh hương thơm
tinh khiết tản mạn ra khắp mọi nẻo đời hầu mong dẫn dắt chúng
sanh bước vào con đường đạo đức, thiện mỹ, cùng với một chân tâm
an nhiên, hạnh phúc an lạc để giữ vững niềm tin yêu với cuộc đời.
|
-
Tâm
luôn luôn trong sáng và tỉnh thức, biết rõ các hoạt động của
thân thể (khi đi, đứng, nằm, ngồi) cùng tâm ý (các tư tưởng cùng
tâm tư như vui, buồn, thương, ghét mà không dính mắc vào chúng).
Như thế tâm ta rất nhạy bén với mọi ý tưởng tâm tư bên trong
cũng như những việc xảy ra bên ngoài, hiểu biết rõ ràng nhưng
không dính mắc vào đâu cả. Thực hành sự tu tập như thế thì chúng
ta trở thành năng động và tích cực hơn trong đời sống. Sống tích
cực, thực hành các công việc tốt đẹp với tâm an vui hạnh phúc
tỏa sáng là lối tu hoạt động, là thiền hoạt động khác xa với
những người chủ trương sai lầm tu là xa lánh cuộc đời, đó thật
là đúng như lời các bậc chân tu từng nói rõ áp dụng sự tu hành
khó nhất là tại gia đình, thứ nhì là ở nơi chốn làm ăn buôn bán,
và thứ ba là chốn chùa chiền. Người Phật tử sống trong cuộc đời,
phải áp dụng sự tu tập trong các sinh hoạt hàng ngày để làm gia
tăng hạnh phúc cho mình và cho người...........Như thế, khi thực
hành đạo Phật trong đời sống hàng ngày ta hưởng niềm hạnh phúc
kỳ diệu cao vút nhất mà con người có thể đạt được. Chính từ suối
nguồn hạnh phúc bao la đó tình thương yêu trong sáng tỏa chiếu
khắp mười phương thế giới và sự hiểu biết chân thật bao trùm mọi
nơi. Đó chính là cõi Niết Bàn, chốn Tịnh Độ bây giờ và nơi đây.....
|
- Nhớ lại, năm 1970, hồi đang
công tác ở Xí nghiệp in Quảng Bình, tại một vùng hậu cứ rừng rú xã
Nghĩa Ninh, tôi bị sốt rét ác tính, tình trạng hôn mê, mấp mé giữa
sinh - tử, nhưng rồi đã được Bác sĩ cứu sống. Hiện tôi đã nghỉ hưu,
đang ở tuổi 79. Lúc rảnh rỗi, tôi thường đọc cuốn "Sống Chết bình
an" của dịch giả Thích Nữ Trí Hải, đọc để tìm hiểu, để chuẩn bị
dần hành trang cho bản thân, để tìm một sự bình an cho những ngày
cuối đời...
|
-
“Hãy ví khổ như rác và hạnh phúc như những đoá hoa… Chuyển hóa khổ
đau chính là biết cách biến rác trở lại thành hoa” (Thiền sư Nhất
Hạnh).
Điều ấy nghe qua tưởng chừng đơn giản, nhưng phải mất hơn 20
năm tôi mới nhận ra khi nhìn lại những ngày khổ nhọc đã qua như
những áng mây đen che khuất bầu trời trong xanh. May mắn thay,
niềm tin nơi Đức Phật chẳng biết tự bao giờ đã luôn ở trong tôi.
Có thể bắt nguồn từ ngày mang thai tôi mẹ hay đọc Quan Âm Thị Kính,
cũng có thể từ những ngày rằm, bà nội hay dắt tôi vào chùa của Hội
Bắc Việt Tương Tế..., nhìn tranh vẽ trên tường cảnh Mục Kiền Liên
xuống âm ty tìm mẹ, thấy hình phạt dành cho những kẻ làm ác trên
đời mà trong tâm hồn một cậu bé mới lớn như tôi đã hình thành sự
vững tin nơi luật nhân quả và lẽ công bằng.
|
- “Chúng ta đã biết về thời gian thì
Phật giáo có quan niệm: “vô thỉ, vô chung”, không có bắt đầu và cũng
không có tận cùng. Và khi được hỏi vũ trụ là hữu hạn hay vô hạn, hay
vừa hữu hạn vừa vô hạn, hay vừa không hữu hạn vừa không vô hạn thì Đức
Phật giữ yên lặng, không trả lời. Có người diễn giải là sự hiểu biết
về vấn đề này không ích lợi gì cho sự tu tập trong Phật giáo nên Đức
Phật không trả lời để cho hành giả khỏi vướng mắc vào những việc viển
vông mà lo tu tập thực tế hơn . Cũng có người giảng giải là Đức Phật
giữ yên lặng để hiển dương tính vô chấp trong Phật giáo ”....
|
-
Xem đại lượng thi phẩm của Mặc Giang, người viết nhận thấy tác giả khá
thành công trong việc xây dựng tính nghệ thuật khi mô tả, trình bày,
diễn giải, hay tỏ bày tình cảm đối với một cảnh huống, một nội dung
nào đó. Cho thấy, đối với yêu cầu của một bài thơ, người thơ Mặc Giang
tỏ ta khá nghiêm túc. Có thể nói, thơ Mặc Giang là điển hình của triết
lý hiện sinh, viên dung các giá trị nghệ thuật đặc trưng của thế giơí
thi ca. Hay nói khác hơn, là nơi tụ hội sự thống nhất tập trung thuần
nhất giữa tư tưởng nội dung với thủ pháp nghệ thuật...
|
-
Đơn sơ thế thôi, nhiệm mầu thế thôi. Hoa sen là hoa sen cho dù dưới
nước hay trên nước. Cho dù có hiện tướng hay không. Cho dù có tên hay
không tên. Cô gái cũng bay lên trong ánh nắng có hương sen. Đẹp kinh
khủng, Hạ ơi ! Cô lại nói vào chiếc điện thoại bé....
|
-
-Người thành công biết chính xác những gì mình muốn, tin tưởng vào
khả năng của mình và sẵn sàng cống hiến hết thời gian của cuộc đời
để đạt được điều đó.
- Người thất bại không có mục đích cụ thể cho cuộc sống, luôn tin
rằng mọi thành công đều là kết quả của vận may và chỉ thật sự bắt
tay vào việc khi có sự tác động từ bên ngoài.
|
- Thế đất, hướng chùa. Nếu ngôi đình thường được kiến tạo ở
địa điểm trung ương của làng để tiện việc lễ bái, hội họp, thì ngôi
chùa lại thường được dựng lên trong cảnh thâm u, tĩnh mịch. Ở triền
núi, trong hang động, trong rừng sâu, ẩn khuất sâu trong những lùm
cây um tùm... đều là cảnh trí của chùa thường thấy nhất. ChùaHương ở
huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Tây, chùa Yên Tử ở Quảng Ninh, chùaTam Thanh ở
Lạng Sơn, chùa Tam Thai, Linh Ứng ở Ngũ Hành Sơn, những ngôi chùa
phía bắc kinh thành Huế... đều ở những vùng núi cao, rừng thẳm, hang
sâu. Càng khó khăn trong việc hành hương chùa chiền chừng nào,
tín hữu thập phương càng cảm thấy lòng thành tâm của mình càng được
linh ứng hơn. Đa số chùa chiền thường mở về hướng Nam, từ Đông
Nam đến TâyNam...
|
-
Vào
năm 1951, tôi được Thầy Thích Trí Thủ mời giảng dạy tại Phật Học
Đường Bảo Quốc về môn “Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam Giảng Yếu”.
Sau đó, giảng khóa nầy lại được trình bày tại PHĐ Hải Đức – Nha
Trang. Chương trình chỉ được giới hạn trong thời gian ngắn và
đơn giản. Những bài giảng nầy về sau được bổ khuyết với những
tư liệu mới của những nhà nghiên cứu Phật Học Nguyễn Huệ Chi, Lê
Mạnh Thát, Trần Quốc Vượng Trần Văn Giáp, Thiền sư Nhất Hạnh và
các Tập san của Société Des Etudes Indochinoises... Phần sau đây
được trích trong các khóa giảng đó. Thiền Lâm Tế do ngài Nghĩa
Huyền (801-967) lập năm 850 đời nhà Đường. Dòng Thiền nầy đã
truyền sang Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam. Ở Việt Nam, tính đến
nay đã đến đời thứ 43. Tuy nhiên, khi du nhập VN, do ngài Nguyên
Thiều thì đã vào đời thứ 33. Bài nầy trình bày hai giai đoạn
lịch sử đó.
|
Trong đời sống tâm linh của người dân ta, dù
theo tôn giáo nào, hình ảnh gần gủi hơn cả chính là Phật Bà Quán
Thế Âm. Tại hầu hết chùa chiền, tượng Quán Thế Âm cũng có nhiều
loại khác nhau: có Quán Thế Âm trong bộ Di Đà Tam Tôn, Quán Thế
Âm Tọa Sơn, Quán Thế Âm Tống tử, tuy nhiên thường được quan tâm
hơn cả chính là Quán thế Âm Chuẩn Đề. Toà sen của pho tượng nầy
được một quái vật (con quỷ) nhô lên trên mặt nước thì còn được
gọi là Quán Thế Âm Nam Hải. Do pho tượng có hàng chục, thậm chí
hàng trăm bàn tay, nên còn có tên là Quán Thế Âm Thiên Thủ, Thiên
Nhãn. Người dân trong trường hợp gặp chuyện không may, thường khấn
cầu Quán Thế Âm cứu khổ, cứu nạn......
|
-
Kim Cang Thừa (Vajrayana) hay Mật điển (Mantra) là thừa cao nhất trong
Phật Giáo. Nhiều người đã trình bày sai lầm về nguyên thủy Mật Tông. Có
người cho là do những Lạt Ma Tây Tạng đặt ra. Có người cho là do sự
biến dạng của Ấn Độ Giáo; lại có giả thuyết về truyền thừa của một tôn
giáo từ Mông Cổ. Sự thật không phải như vậy. Kim Cang Thừa do đức Thích
Ca Mâu Ni đặt ra. Trong tất cả những giáo lý Phật Giáo, thì Kim Cang
Thừa là giáo lý cao nhất, thù thắng nhất, cũng là khó khăn nhất trong
việc tu trì và chứng ngộ. Muốn hiểu được Kim Cang Thừa, phải trải qua
Tiểu Thừa và Đại Thừa. Đức Phật đã thuyết pháp tùy theo trình độ của đệ tử.
Có người đạt đến trình độ cao; có người ở mức trung bình; lại có người ở
mức độ thấp.
|
- Nghệ thuật của môn phái Thiền (Zen) của Nhật dù Thiền Lâm Tế hay Thiền
Tào Động, đều có chú trọng đến phần thiền họa và vườn cảnh.Nghệ thuật
Thiền đặt nặng về những loại chân dụng, những họa phẩmbằng mực đơn sơ,
thuật viết chữ đẹp (thư pháp) và những công cụ trực tiếp hỗ trợ cho việc
hành Thiền, kể luôn cả nghệ thuật tạonhững vườn cảnh cát đá nổi tiếng.
Sự chọn lựa những chủ đề củanhững thiền sư và sự nhấn mạnh về trục giác
cũng như hiểu biết trực tiếp, dẫn đến một loạt tác phẩm khác với những
chủ đề củanhững tông phái khác nhau. Tuy vậy, mục tiêu chính của việc
tutập vẫn giữ sự hoà hợp giữa thiền họa, thư pháp với tu
tập....
|
-
Nước Lào nằm ở giữa lòng bán đảo Đông
Dương, trong khu vực Đông Nam Á, thuộc vùng nhiệt đới gió mùa, có
đường biên giới chung với nước: Việt Nam, Kampuchia, Myanma, Thái
Lan và Trung Quốc. Lào không có đường biên giới biển. Lào có
diện tích 236,800km2, 85% lãnh thổ toàn là núi non trùng điệp với
độ cao từ 1,500m -2,500m. Dân số Lào hiện nay (2002) là
4,900,000 người, được phân làm nhiều sắc dân: Lào Lùn (chiến
56%), Lào Thỏng (chiếm 34%) và Lào Sủng (chiếm 9%)..........Hầu
hết nhân dân Lào theo đạo Phật. Phật Giáo trở thành quốc giáo của
họ. Ở Lào, Phật Giáo giữ vị trí quốc giáo từ nhiều thế kỷ nay.
Phật Giáo có ảnh hưởng đến viẹc hình thành tính cách dân tộc,
nhân sinh của người Lào. Tín ngưỡng dân gian của cư dân nông
nghiệp Đông Nam Á vẫn còn được nhiều bộ tộc giữ gìn. Tôn giáo
Thiên Chúa đa số là ngoại kiều.
|
-
Luy
Lâu: Nơi truyền bá Phật giáo Việt Nam đầu tiên
Kiêm Đạt
-
Luy Lâu (hay Liên Lâu) là toà thành
đầu tiên mà Phật Giáo từ Ấn Độ đã truyền bá sang trên phần đất
Quận Giao Chỉ. Vào thế kỷ thứ II sau Công Nguyên, những đoàn buôn
Ấn Độ đầu tiên đã đến buôn bán tại Luy Lâu; đi theo họ còn có
những tăng lữ Phật Giáo, để rồi con đường buôn cũng trở thành con
đường truyền giáo. Đạo Phật theo con đường phía Nam đã vào Việt
Nam (ngõ Ấn Độ) sớm hơn con đường từ Trung Quốc cũng vì lý do kể
trên; như vậy, trung tâm Phật Giáo đầu tiên của nước ta cũng là
thành Luy Lâu......Người ta biết được những di tích, tài liệu và
sự kiện chung quanh thành Luy Lâu, vì tại trung tâm nầy cũng như
những di chỉ tại chùa Dâu đã khẳng định những giá trị liên hệ.
Hiện vật là một toà thành cổ; trong thành có đền thờ của Sĩ Nhiếp.
Mặt khác, quanh vùng nầy còn nhiều di tích về đình chùa, bi ký.
|
- Chữ cà-sa có
nguồn gốc từ tiếng Phạn kasaya. Nhưng thật sự chữ kasaya trong
tiếng Phạn không có nghĩa gì là áo cả mà chỉ có nghĩa là bạc màu,
cáu cặn hay hư hoại. Sách tiếng Hán dịch chữ này là đạm (màu nhạt),
trọc hay trược (đục, dơ bẩn, ô nhiễm, rác bẩn), hoặc còn dịch
này là hoại sắc, bất chính sắc, hư nát, dính bẩn…Tóm lại chiếc
áo cà-sa của người xuất gia tu Phật, của hàng tỳ kheo,…tượng trưng
cho những gì nghèo nàn, thô sơ, tầm thường, và khiêm nhường nhất.
Người đọc, nếu chưa có ý niệm gì về chiếc áo của một nhà tu Phật
giáo, cũng có thể hơi ngạc nhiên khi đọc những điều vừa nêu trên
đây. Thật vậy, kẻ thế tục thường hay đồng hoá chiếc áo với người
tu hành hay Đạo Pháp, họ chỉ thấy những biểu tượng, những quy ước.
Đạo Pháp hay người tu hành rất cao cả, nhưng chiếc áo rất tầm
thường, hoặc đôi khi cũng có thể hiểu ngược lại : chiếc áo tượng
trưng cho cao cả, nhà sư là tầm thường. Tầm thường ở đây có nghĩa
là khiêm tốn, nhưng cũng có thể hiểu theo nghĩa đen là không
xứng đáng để khoác lên người chiếc áo cà-sa. Bài viết không đề
cập đến trường hợp theo nghĩa đen hiếm hoi này, tuy nhiên trên
thực tế cũng có thể xảy ra được.
|
-
Cốt lõi của thiền là tâm yên lặng , yên lặng lâu dài , yên lặng và
sáng suốt dù gặp sự việc, hiện tượng gì vẫn sáng suốt nắm bắt kịp
thời, giải quyết , và cho qua ... Được vậy là bạn đã thành công
, đã vào được , và thấy được CHƠN TÂM rồi đó . Đắc thiền , ứng xử
trạng thái thiền trong hoàn cảnh xã hội ngày nay không khác chi là
bạn đã đạt được cứu cánh Niết Bàn tại thế . Chúc đạo hữu thành
công và không e ngại gì để bước chân vào thiền tập của mình .
-
* Mỗi khi bạn bỏ bớt một chút tham sân si là bạn đang tiến
bước từng bước trong luyện tập .
-
* Mỗi khi bạn cảm thấy không ưu sầu vấn vương là bạn đã tiến
lên từng bước của sự nhẹ nhàng khoan thai .
-
* Mỗi khi bạn đạt được một ít trạng thái tâm yên lặng . Trong
cảnh rối ren khó làm khó nghĩ , những sự việc trong xã hội ngày
nay là bạn đã đạt đến một sự lắng sâu , huyền diệu của cõi giới
tâm linh huyền bí rồi đó ...
|
- Việc hiểu biết về sự sinh ra làm người
quý báu này thì rất cần thiết không chỉ đối với các hành giả mà còn
cho tất cả mọi người. Tôi đã nhận ra điều đó khi giảng dạy cho các
thanh thiếu niên rằng điều quan trọng là phải giải nghĩa rõ ràng về
vấn đề này. Đáng tiếc là đôi khi có những người trẻ tuổi tự tử. Do đó
rất cần phải thấu hiểu tính chất quý báu của đời người. Vì thế tôi đã
cố gắng nói về vấn đề này bất kỳ nơi nào tôi đến. Mọi người ở đây đã
hiểu rõ về sự quý báu của đời người. Nhưng ở Montreal tôi đã thấy có
nhiều người trẻ tuổi tự tử. Giáo lý này nhằm khuyến khích người học
Phật Pháp đi vào thực hành và giúp những người khác có thể nhận thức
sâu sắc về cuộc đời của họ. Vì thế đây là một giáo lý vô cùng hữu hiệu.
Ta có thể sử dụng giáo lý này để có được sức mạnh và năng lực khi gặp
những khó khăn và thử thách
|
|
Thiền
(thơ) Cư sĩ Thoại Hoa |
Bảy bước Phật đản
sanh (thơ)
Cư sĩ Thoại Hoa |
Quê tôi
(thơ) Cư sĩ Thoại Hoa |
Dâng hoa cúng Phật
(thơ) Cư sĩ Thoại Hoa |
|
Niệm
Khúc Vĩnh Biệt (thơ) Tâm Chơn Chánh |
Lòng người
(thơ)
Chân Khánh /Thiềng
Đức |
Danh lợi
(thơ)
Chân Khánh /Thiềng
Đức |
Hạ cánh an toàn
(thơ)
Chân Khánh /Thiềng
Đức |
|
|