- KINH TỤNG HẰNG
NGÀY
- TỔNG HỢP 49 KINH CĂN
BẢN CỦA HAI TRUYỀN THỐNG PHẬT GIÁO
- NAM TÔNG VÀ BẮC
TÔNG
- Phụ
lục 3
- VỀ
MỘT BỘ KINH THÁNH PHẬT GIÁO
I.
Nhu cầu của một bộ kinh thánh Phật giáo:
những
dấu hiệu đáng mừng và những điều lo ngại
Hầu
hết các tôn giáo lớn trên thế giới đều có kinh thánh riêng và
được sử dụng thống nhất trên toàn thế giới. Riêng Phật giáo cho đến
ngày hôm nay, do vì có nhiều tông phái và hệ phái, với số lượng kinh sách
quá phong phú lên đến hàng trăm tập, vẫn chưa có một bộ kinh thánh thống
nhất nào cả. Đó là điều mà khi nghĩ đến người Phật tử có tâm huyết
phải cảm thấy buồn tủi và đau lòng.
Tại
Việt Nam, kể từ khi quý Hòa thượng Thích Trí Tịnh, Thích Trí Quang,
Thích Thanh Từ, Thích Thiện Siêu, Thượng tọa Thích Tuệ Sỹ, thầy Đoàn
Trung Còn phiên dịch một số kinh điển quan trọng của Phật giáo Đại thừa
và A-hàm từ chữ Hán ra chữ Việt; Hòa thượng Thích Minh Châu, Hòa thượng
Giới Nghiêm phiên dịch kinh tạng Nguyên thủy từ chữ Pali, chúng ta tạm
có đủ các kinh điển quan trọng của hai truyền thống Phật giáo Nam tông
và Bắc tông.
Điều
đáng mừng nhất là chỉ trong vòng gần 30 năm, toàn bộ 4 bộ Nikaya đầu
và vài tập của Tiểu Bộ Kinh đã được Hòa thượng Thích Minh Châu
phiên dịch ra tiếng Việt. Các tập Tiểu Bộ Kinh còn lại đang được
các thành viên của viện nghiên cứu Phật học Việt Nam tiếp tục phiên dịch.
Các tập luận và Luật tạng Pali cũng đã được cố Hòa thượng Giới
Nghiêm và quý sư Nam tông dịch và ấn hành trong những năm gần đây. Như
vậy, trên căn bản, ba kho tàng kinh điển Pali đã được dịch ra tiếng Việt
và ấn hành. Đây là một dấu hiệu đáng mừng cho việc truyền bá kinh
điển Phật giáo bằng tiếng Việt tại nước Việt Nam.
Bên
cạnh những điều đáng mừng đó vẫn còn nhiều điều đáng lo ngại. Thứ
nhất, giá phát hành của các kinh nêu trên quá cao, vượt ngoài khả năng
mua của những gia đình Phật tử có mức sống trung bình. Khổ của các
kinh chưa được nhất quán và thiếu tiêu chuẩn. Chất lượng giấy in quá
kém, kỹ thuật thâu kết không đạt yêu cầu, khó có thể giữ lâu. Cách
phân loại của Đại tạng kinh Việt Nam không được rõ ràng, không theo
tiêu chuẩn quốc tế, gáy sách không có ghi tên các bộ kinh (chẳng hạn như
Trường Bộ Kinh, Trung Bộ Kinh, v.v…) và do đó có thể gây nhiều
khó khăn cho người Phật tử trong việc học hỏi và nghiên cứu kinh điển.
Văn phong bản dịch của Đại tạng kinh Việt Nam còn quá nặng về ngôn ngữ
chữ Hán, khó hiểu đối với quần chúng Phật tử, kể cả những người
biết chữ hán. Kế đến, về góc độ nghiên cứu, các kinh điển trong Đại
tạng kinh Việt Nam thiếu hẳn phần chú thích (cước chú hay hậu chú),
các chỉ mục tham khảo (index) về thuật ngữ, nhân danh, địa danh và tên
kinh ở phần cuối của mỗi tập kinh. Đại tạng kinh Việt Nam thiếu hẳn
tập tổng mục lục, tập hướng dẫn sử dụng và tự điển tra khảo, đối
chiếu các thuật ngữ.
Điều
đáng buồn nhất là với nỗ lực của các vị cao tăng và nhân sĩ Phật
giáo trong việc phiên dịch, xuất bản các kinh điển Phật giáo bằng tiếng
Việt, số lượng người mua và đọc các dịch phẩm ấy thật là ít ỏi
và không đáng kể. Theo chúng tôi được biết mỗi kỳ ấn hành của các
tập Đại tạng kinh không quá 5000 bản, ấy thế mà có nhiều tập kinh
được ấn hành gần 10 năm mà vẫn chưa phát hành hết. Điều đáng nói hơn
nữa, cho đến hiện nay hầu hết các chùa và tịnh xá trong các tỉnh
thành lớn đều không có một bộ Đại tạng kinh Việt Nam trong thư viện
hay tủ sách của chùa mình, nói chi đến các chùa và tự viện ở các tỉnh
xa xôi và hẻo lánh, và nhất là các gia đình Phật tử khó khăn về kinh tế.
Điều này đã dẫn đến một thực trạng là nhiều Tăng Ni và Phật tử
không hề đọc qua đại tạng kinh Việt Nam. Có nhiều Phật tử còn không
biết đến Ba tạng kinh điển Phật giáo là gì. Cũng có nhiều người còn
không biết đến lịch sử của đức Phật Thích-ca, người đã khai sáng
ra đạo Phật. Nhiều người tuy đi chùa lễ Phật tụng kinh nhưng lại không
hiểu các giáo pháp căn bản của đức Phật. Có nhiều lý do dẫn đến thực
trạng đau lòng đó, mà một trong các nguyên nhân quan trọng là các kinh điển
Phật giáo phần lớn không được dịch ra tiếng Việt. Các nghi thức tụng
niệm ở các chùa tại Việt Nam cũng như hải ngoại phần lớn để nguyên
âm vận chữ Hán, hoặc nếu được dịch ra tiếng Việt thì văn phong cầu
kỳ, khó hiểu và quá nặng chữ Hán. Trong khi đó, đại tạng kinh Việt
Nam lại không được phổ biến trong quần chúng, không được đưa vào tụng
niệm trong các thời khóa hằng ngày. Dần dà kinh điển Phật giáo chỉ
được cất giữ trong các thư viện cổ kính, mà ít ai quan tâm đọc đến,
huống là đem ứng dụng vào đời sống hằng ngày. Thật là uổng phí biết
bao!
Để
tạo điều kiện giúp cho quần chúng Phật tử hiểu rõ lời Phật dạy,
chúng tôi nghĩ rằng việc thành lập một bộ Kinh Thánh Phật giáo giản lược
là rất cần thiết. Một bộ kinh thánh giản lược chỉ cần chứa đựng
trong vòng 2500 trang, tóm thâu tất cả những lời dạy cao qúy và căn bản
của đức Phật trong hai truyền thống Phật giáo Nam tông và Bắc tông. Bộ
kinh thánh này nên được ấn tống rộng rãi, để mỗi chùa và từng gia
đình Phật tử đều có và đọc được. Được như vậy thì thông điệp
từ bi, trí tuệ và giải thoát của đức Phật sẽ chiếu sáng trên mọi
góc đường, trong đời sống, tư duy và hành động của người Việt Nam.
II.
Các khó khăn về việc hình thành
một
bộ kinh thánh Phật giáo
Mặc
dù đã và đang có nhiều nỗ lực của các giáo hội, tổ chức và cá
nhân Phật giáo trong việc phiên dịch kinh điển Pali và Sanskrit ra tiếng Mẹ
đẻ, việc hình thành một bộ kinh thánh Phật giáo cho từng gia đình
không phải không gặp nhiều khó khăn. Có những trở ngại mang tính khách
quan như sau.
Thứ
nhất, Ba kho tàng văn học Phật giáo (Tam tạng kinh điển) được viết bằng
hai hệ ngôn ngữ chính: hệ Pali và hệ Sanskrit. Hệ Pali chỉ được phát
triển và truyền thừa ở các nước theo Phật giáo Nguyên thủy. Trong khi
đó, hệ Sanskrit lại được phát triển ở các nước theo Phật giáo Bắc
tông, nhưng lại không còn đủ trọn bộ. Kế đến, kinh điển Đại thừa
lại được dịch ra nhiều thứ tiếng, trong đó quan trọng nhất là tiếng
Tây Tạng và Trung Quốc. Hai thứ tiếng này lại là một trở ngại rất lớn
cho người muốn tìm hiểu vì sự khó học, khó nhớ của nó.
Thứ
hai là, khác với các kinh thánh của các tôn giáo khác như kinh thánh của
Ky-tô giáo hay Ko-ran của Hồi giáo, kinh thánh Phật giáo, dù là hệ
Pali, là cả một kho tàng gồm nhiều tập, lên tới nhiều ngàn trang giấy
khổ lớn. Riêng Ba kho tàng kinh điển Pali thôi cũng đã lên tới gần 60 đầu
sách. Mỗi quyển chứa trung bình từ 250 đến 400 trang. Kinh điển Đại thừa
lại còn nhiều hơn nữa. Chính vì thế, việc ấn hành một bộ kinh thánh
Phật giáo khó được thực hiện.
Hơn
thế nữa, do "ngôn ngữ tự điển" của các bản dịch, kinh điển
Phật giáo chỉ trở nên quen thuộc trong giới học giả. Giới quần chúng
thông thường lại không có cơ hội để tiếp xúc với kinh điển.
Đó
là chưa nói đến các khó khăn về tài chánh in ấn và phổ biến. Các trở
ngại này đã làm cho kinh điển Phật giáo trở thành các thư viện nghiên
cứu của một số đối tượng, thay vì là của toàn thể quần chúng, từ
bình dân đến trí thức. Tuy nhiên các khó khăn đó không phải là không thể
khắc phục được, nếu chúng ta nhìn vấn đề từ góc độ duyên khởi:
cái này có do cái kia có; cái này không có kéo theo cái kia không có. Do đó,
nếu chúng ta tăng cường các trợ duyên, phương tiện và nỗ lực chất
xám của nhiều người thì công việc trên sẽ có thể có một lối mở
thích đáng.
III.
Nội dung cần có của một bộ kinh thánh Phật giáo
Vì
đạo Phật có 2 hai nhánh chính là Phật giáo Nguyên thủy và Đại thừa nên
tuyển tập kinh thánh Phật giáo nên chứa đựng cả 2 nguồn kinh điển
tiêu biểu của hai tông phái chính. Trên tinh thần đó, nên có 2 tuyển tập
kinh thánh Phật giáo: một tuyển tập của kinh điển hệ Pali Nguyên
thủy và một tuyển tập của hệ Sanskrit Đại thừa.
Đối
với tuyển tập kinh thánh Nguyên thủy
1.
Tạng giới luật nên được tỉnh lược tối đa. Chỉ nên giữ lại phần
cốt lõi Đại Phẩm (Mahāvagga) và Tiểu Phẩm (Cullāvagga). Các
phần còn lại của tạng Luật không nên giới thiệu trong tuyển tập kinh
thánh. Bởi lẽ các phần đó liên hệ thuần túy đến các điều khoản, cách
trị phạt, hệ thống tổ chức đời sống cộng đồng của người xuất
gia; không có lợi ích nhiều cho người Phật tử tại gia. Kế giới giáo
pháp của Phật không được chứa tải nhiều trong các phần giới luật
này.
2.
Không kèm tạng Luận trong tuyển tập kinh thánh. Bởi lẽ, ngôn ngữ của tạng
Luận tuy sâu sắc nhưng khó hiểu với cách lý luận, mang phong cách phân
tích nặng về triết học ngôn ngữ, nên không cần thiết cho giới Phật tử
bình dân. Do đó không cần thiết giới thiệu vào trong bộ kinh thánh Phật
giáo.
3.
Chỉ tuyển chọn các kinh quan trọng trong 4 bộ Nikāya đầu bao gồm tuyển
tập các bài kinh dài (Trường Bộ Kinh), tuyển tập các bài kinh trung
bình (Trung Bộ Kinh), tuyển tập các bài kinh theo chủ đề (Tương
Ưng Bộ Kinh) và tuyển tập các bài kinh theo pháp số (Tăng Chi Bộ
Kinh).
4.
Về 15 tuyển tập thuộc Tiểu Bộ Kinh, chỉ nên tuyển chọn các phần
tinh hoa trong 5 bộ đầu. Riêng Kinh Pháp Cú thì nên giữ nguyên toàn bộ
423 bài kệ, vì tính cô đọng và bao quát giáo pháp Phật của nó. Mười bộ
từ thứ sáu trở đi nên được tỉnh lược.
Như
vậy với cách chọn lọc này, bộ kinh thánh Nguyên thủy sẽ chiếm khoảng
1000 trang giấy, rất tiện lợi cho việc mang đi đây đó, thọ trì, đọc tụng
và phổ biến.
Đối
với tuyển tập kinh thánh Đại thừa
1.
Về giới Bồ-tát, chỉ giới thiệu phần nội dung của 10 giới nặng và
48 giới nhẹ. Tỉnh lược toàn bộ phần dẫn nhập về nhân địa Bồ-tát.
2.
Toàn bộ phần Mật tạng và luận tạng nên được tỉnh lược, vì quá
nhiều và không cần thiết cho đại đa số quần chúng.
3.
Đối với các kinh điển Đại thừa, cũng nên chọn lọc các kinh tiêu biểu
mà thôi. Các kinh Đại thừa nên được giới thiệu là: Kinh Thủ-lăng-nghiêm,
Kinh Lăng-già, Kinh Viên Giác, Kinh Pháp Hoa, Kinh Duy-ma-cật Sở Thuyết, Kinh
Đại Bảo Tích, Kinh Bát-nhã, Kinh Báo Ân Cha Mẹ, Kinh Vu-lan. Riêng Kinh
Năng Đoạn Kim Cang Bát-nhã Ba-la-mật thì giữ trọn vẹn. Không nên giới
thiệu các Kinh Dược Sư, Địa Tạng và các kinh thần chú, vì
tính chất van xin và cầu nguyện trong các kinh này đã đi ngược lại với
tinh thần lời dạy Nguyên thủy của đức Phật.
4.
Đối với các kinh Đại thừa vừa nêu trên, cũng nên tuyển chọn các phẩm
kinh tiêu biểu chứ không cần giới thiệu toàn bộ các phẩm trong kinh.
Với
cách chọn lọc này, bộ kinh thánh Đại thừa sẽ chiếm khoảng 1000 đến
1500 trang giấy.
Như
vậy cả hai bộ kinh thánh Phật giáo Nguyên thủy và Đại thừa gộp
lại sẽ chiếm khoảng 2000-2500 trang giấy. Nếu in trên giấy mỏng và tốt
thì bộ kinh thánh chỉ cần chứa trong 2 tập, tập 1 là kinh thánh
Nguyên thủy và tập 2 là kinh thánh Đại thừa. Tuy nhiên cách phân bổ số
tập cũng có thể linh động, bằng cách chia đều mỗi tập 500 trang. Như vậy
có tất cả là 5 tập, tập 1 và 2 thuộc kinh thánh Nguyên thủy và 3 tập
còn lại thuộc kinh thánh Đại thừa. Nếu tính luôn bản nguyên tác Pali
và Sanskrit thì số lượng tập của bộ kinh thánh Phật giáo có thể tăng
lên gấp đôi.
IV.
Phương cách trình bày bộ kinh thánh Phật giáo
1.
Cả hai tuyển tập kinh thánh nên được trình bày theo một trật tự
từ thấp đến cao, từ Nhân thừa đến Phật thừa. Không nên trình bày
theo cấu trúc truyền thống là Kinh Luật Luận, vì hai kho tàng luật luận
đã được tỉnh lược khỏi tuyển tập kinh thánh này.
2.
Nên đặt lại tựa đề của các bài kinh (trong trường hợp kinh điển
Pali), các phẩm kinh (trong trường hợp kinh điển Đại thừa), theo nội
dung và chủ đề của chúng. Tuy nhiên phải ghi chú tên nguyên gốc để giúp
người đọc có thể đối chiếu khi cần thiết.
3.
Đánh số thứ tự lại trật tự của các bài kinh, số đoạn một cách
có hệ thống để tiện cho việc tham khảo dọc. Số thứ tự được đánh
theo từng bài kinh. Sang bài kinh khác thì số thứ tự được đánh lại từ
đầu. Ví dụ đoạn thứ nhất của bài kinh thứ nhất được đánh số
là 1: 1. Đoạn thứ ba của bài kinh thứ nhất được đánh số là 1: 3. Nếu
chi tiết hơn, chúng ta có thể đánh dấu số trang cho chúng. Ví dụ nếu
đoạn một của kinh thứ nhất đó nằm ở trang 3 thì ta ghi như sau: 1: 1 :
3. Tương tự nếu là đoạn thứ 3 của kinh thứ 2 thuộc trang 8 thì ta ghi
như sau: 2 : 3 : 8.
4.
Nên đặt chủ đề cho từng ý tưởng chính trong kinh. Các chủ đề chính
được đánh dấu bằng một co chữ in lớn (ví dụ co 13) trong khi các ý tưởng
nhỏ hay trực thuộc nên được đánh dấu bằng một co chữ in nhỏ hơn (ví
dụ 11). Việc đặt chủ đề như trên sẽ giúp cho người đọc có được
manh mối để ghi nhớ và suy tư lời Phật dạy trong khi tụng niệm.
5.
Đối với các kinh Nguyên thủy, nên tỉnh lược các đoạn trùng lập (vốn
chỉ có giá trị trong truyền thống truyền miệng) bằng các ký hiệu mặc
ước (ví dụ […]) để ý tứ của mạch văn được cô đọng và rõ ràng
hơn. Ngoài ra, việc tỉnh lược này còn giúp tiết kiệm giấy mực hay nói
khác hơn giảm bớt kinh phí ấn loát và phát hành.
6.
Viết lại một cách ngắn gọn, cô đọng, đầy đủ nghĩa các đoạn mở
đầu các bài kinh thành 1 hoặc 2 dòng, thay vì nửa trang giấy như nguyên
tác. Miễn sao việc tỉnh lược đó hoàn toàn không ảnh hưởng đến nội
dung chính của kinh là được. Tuy nhiên cũng nên có các ký hiệu cho biết
đây là đoạn đã được biên tập ngắn lại.
V.
Phương pháp tổ chức biên soạn bộ kinh thánh PG
1.
Để bộ kinh thánh Phật giáo được sử dụng thống nhất trên khắp thế
giới, ngôn ngữ của kinh thánh này phải được thể hiện qua ba thứ tiếng
căn bản là Pali, Sanskrit và tiếng Anh. Nói cách khác công việc biên tập
trước nhất phải được tiến hành theo ngôn ngữ gốc của kinh điển. Đối
với tuyển tập kinh thánh Nguyên thủy, trước nhất phải được biên tập
từ tiếng Pali. Đối với tuyển tập kinh thánh Đại thừa, việc biên tập
được thực hiện từ tiếng Sanskrit. Khi ấn bản La-tinh hóa của hai tuyển
tập kinh thánh này hoàn tất, chúng ta tiến hành đến việc phiên dịch ra
bản tiêu chuẩn tiếng Anh. Các nước Phật giáo trên khắp thế giới có
thể tham khảo bản tiếng Anh trong khi phiên dịch hai ấn bản Pali và
Sanskrit ra tiếng mẹ đẻ của mình. Nói dễ hiểu hơn, phần kinh thánh
Nguyên thủy được trình bày qua tiếng Pali đã La-tinh hóa, trong khi phần
kinh thánh Đại thừa được trình bày qua tiếng Sanskrit, như chính nguyên
tác ngôn ngữ của chúng. Ấn bản tiếng Anh đính kèm là bản tham khảo đối
chiếu cho các bản dịch ra tiếng mẹ đẻ của các dân tộc trên thế giới.
Riêng chúng ta là người Việt Nam, thì bộ kinh thánh Phật giáo bao gồm 2
ấn bản, ấn bản nguyên gốc Pali và Sanskrit và ấn bản tiếng Việt. Ấn
bản nguyên gốc để nhằm vào mục đích tra cứu, tham khảo nguyên tác.
Ấn bản tiếng Việt là ấn bản chính mà các chùa, tự viện, tịnh xá, tịnh
thất, niệm Phật đường và các gia đình Phật tử cần phải có ít nhất
một bộ trong chùa hay trong nhà mình. Về lâu về dài, mỗi người con Phật
dù tại gia hay xuất gia đều có trong tay một bộ kinh thánh Phật giáo đó.
2.
Để thực hiện công việc biên tập trên, phải thành lập một Ban biên tập
gồm các vị cao tăng, danh tăng, cư sĩ có tâm huyết với Phật pháp và
các học giả Phật giáo trên khắp thế giới. Thành viên của Ban biên tập
này phải là những người đại diện cho tiếng nói của Phật giáo trong một
nước. Do đó các thành viên phải là người được đề cử của Giáo hội
Phật giáo trong một nước hay của một tổ chức Phật giáo nào đó hay của
các trường Đại học Phật giáo nổi tiếng trên thế giới.
3.
Trước nhất, số lượng bài kinh cũng như các kinh của hai truyền thống
được tuyển chọn vào bộ kinh thánh Phật giáo phải được thảo luận
rộng rãi. Các ý kiến đóng góp của quần chúng Tăng Ni Phật tử trên khắp
thế giới phải được tham khảo và nghiên cứu kỹ lưỡng, để hoàn thiện
nội dung của bộ kinh thánh Phật giáo. Sau khi thống nhất về các bài kinh
được tuyển chọn, Ban biên tập tiến hành công tác biên tập, theo các
tiêu chí nêu ở mục IV.
4.
Một khi văn bản nguyên tác Pali và Sanskrit đã được biên tập và hệ thống
hóa, bản dịch tiếng Anh cần được tiến hành tiếp theo sau. Sau đó, phổ
biến rộng rãi trên khắp thế giới, để các Ban biên tập và phiên dịch
địa phương trong một nước nào đó tiến hành dịch ra tiếng mẹ đẻ của
mình, chẳng hạn như tiếng Trung Quốc, Pháp, Đức, Nhật, Liên Xô, Miến
Điện, Thái, Tích Lan v.v…
5.
Văn phong của các bản dịch kinh thánh Phật giáo phải là một loại văn
phong thuần ngôn ngữ mẹ đẻ của từng dân tộc và quốc gia. Phong cách
ngôn ngữ dịch thuật tuy có nhiều loại tùy theo trình độ, sở thích và
phong cách riêng của người dịch, có thể chia thành 2 dạng chính: dạng
ngôn ngữ tự giải thích và dạng ngôn ngữ tự điển. Dạng thứ nhất là
phong cách chuyển ngữ văn bản kinh điển gốc sang tiếng được chuyển ngữ
theo một văn phong thuần chất của người bản địa. Nghĩa là tự bản
thân các từ ngữ thuật ngữ được diễn tả đã mang tính giải thích rõ
ràng. Người đọc kinh điển không cần phải tra cứu các bộ tự điển
Phật học để tìm hiểu ý nghĩa của chúng. Trái lại, dạng thứ hai là dạng
sử dụng quá nhiều từ ngữ, thuật ngữ chuyên ngành Phật học, hoàn
toàn xa lạ với quần chúng. Đây là loại văn dịch theo phong cách kinh viện,
phải cần đến tự điển mới hiểu được ý nghĩa chứa đựng trong nó.
Văn phong của bản dịch của kinh thánh Phật giáo phải là loại văn phong
thuần ngôn ngữ mẹ đẻ, để giúp cho người Phật tử đọc hiểu dễ dàng
và ứng dụng không trở ngại. Rõ ràng để có một văn phong như vậy, Ban
biên dịch của từng nước trên thế giới phải cần đến sự nhuận văn
của các văn gia và thi sĩ lỗi lạc trong mỗi nước, trước khi bản dịch
được đem đi in ấn.
6.
Bản dịch từ bản Pali và Sanskrit ra tiếng mẹ đẻ (hay tiếng địa
phương) phải được các hội đồng đại diện của một nước phụ trách.
Hội đồng đó có thể bao gồm các tu sĩ, cư sĩ và học giả Phật học lỗi
lạc và tinh thông Phật pháp trong một nước.
7.
Để bộ kinh thánh Phật giáo này có trong từng tu viện và gia đình Phật
tử, Ban biên tập có thể vận động các tổ chức từ thiện Phật giáo
trên khắp thế giới ủng hộ phần kinh phí ấn tống bộ kinh thánh Phật
giáo. Ngoài ra, các đại diện của một nước cũng nên vận động ấn tống
hay phát hành bộ kinh thánh Phật giáo trên tinh thần không lời không lỗ,
để bạn đọc Phật giáo có thể mua dễ dàng. Giá ấn bản, nếu không phải
ấn tống, nên bằng với giá chi phí ấn loát thực tế. Có như vậy thì mỗi
Tăng Ni và gia đình Phật tử đều có thể có trong tay một bộ kinh thánh
Phật giáo để đọc tụng và thực hành lời Phật dạy ở mỗi nơi và mọi
lúc.
VI.
Thay lời kết
Những
điều được trình bày bên trên chỉ là nguyện vọng của cá nhân chúng
tôi trong việc mong mỏi có một bộ kinh thánh Phật giáo thống nhất trên
khắp thế giới. Nguyện vọng tuy chánh đáng nhưng việc thực hiện không
phải là chuyện dễ dàng. Mặc dù có nhiều khó khăn nhưng công việc cần
thiết này không phải không thực hiện được. Chúng tôi mong sao các nhà
lãnh đạo Phật giáo, các nhân văn trí thức Phật giáo trên khắp thế giới
lưu tâm nhiều hơn về vấn đề này, để sớm có ngày ngồi lại bên nhau
phác thảo công trình biên tập một bộ kinh thánh Phật giáo trong vòng 2500
trang. Những điểm cần thảo luận chi tiết cho công trình này là:
-
Những kinh điển nào cần được đưa vào trong bộ kinh thánh Phật
giáo.
-
Những phần nào nên được tỉnh lược và loại ra khỏi bộ kinh thánh
Phật giáo.
-
Phong cách trình bày lời Phật dạy một cách có hệ thống, từ thấp đến
cao, để giúp cho người đọc dễ nhớ và ứng dụng vào trong cuộc sống.
-
Văn phong của bản dịch phải đơn giản, phổ thông và quen thuộc với
ngôn ngữ đời sống hằng ngày của từng quốc gia và dân tộc trên thế
giới.
Được
như vậy, người viết tin chắc rằng lời Phật dạy sẽ được nhiều
người biết đến, sự ứng dụng Phật pháp vào cuộc sống sẽ có nhiều
lợi ích hơn, và do đó, cuộc sống con người hôm nay và mai sau sẽ an lạc
và hạnh phúc hơn trong ánh sáng chánh pháp của đức Phật.