- KINH TỤNG HẰNG
NGÀY
- TỔNG HỢP 49 KINH CĂN
BẢN CỦA HAI TRUYỀN THỐNG PHẬT GIÁO
- NAM TÔNG VÀ BẮC
TÔNG
Ý
NGHĨA CỦA TỤNG KINH
I. Ý Nghĩa của
Chữ "Kinh"
Trong suốt
cuộc đời hoằng pháp, đức Phật không hề viết sách. Tất cả kim ngôn
hay lời dạy của Ngài được truyền thừa lại nhờ vào truyền thống tụng
đọc thuộc lòng, của các vị đệ tử Ngài, truyền từ thế hệ này sang
thế hệ khác, về sau mới được ghi chép lại thành dạng văn bản, gọi
là Kinh.
Các nhà Phật
học truyền thống Trung Quốc giải thích rằng Kinh là "khế hợp."
Khế ở đây bao gồm hai phạm trù khế lý và khế cơ. Khế lý là nội
dung ý nghĩa của những lời giảng dạy phải được đặt trên nền tảng
Trung đạo, không thiên lệch vào sự chấp mắc nào. Khế cơ là sự thể hợp
với từng căn cơ đối tượng. Khế lý và khế cơ có giá trị xuyên suốt
thời gian và không gian. Theo nghĩa này, Kinh là chân lý siêu tuyệt của các
chân lý mặc ước và công ước.
Tác giả của
Luận Phật Địa còn đi xa hơn, khi giải thích: "Khế là phù hợp
với tinh thần giáo lý mầu nhiệm của các đức Phật trong ba thời, đồng
thời còn đáp ứng một cách sát sao với sự lãnh hội của đương cơ tiếp
nhận giáo pháp ấy." Theo đó, sự khế lý mà thiếu khế cơ hay khế
cơ mà không khế lý thì chẳng được gọi là Kinh.
Các nhà
chú sớ Kinh điển của Trung Quốc không dừng lại tại đó, còn đi sâu
vào việc khai thác sự đa dạng về ý nghĩa của Kinh. Theo các nhà sớ giải,
Kinh gồm có năm nghĩa: (1) pháp bổn, (2) vi phát hay xuất sanh, (3) tuyền dũng,
(4) thằng mặc, (5) kết man, (6) hiển thị. Các cách định nghĩa chữ Kinh
như vừa nêu tuy có phần phong phú, đa dạng, nhưng đã đi quá ý nghĩa từ
nguyên của chữ Kinh trong Phật giáo, thời kỳ nguyên thủy.
Trong đạo
Phật, ý nghĩa chữ Kinh ban đầu rất đơn giản. Kinh, tiếng Sanskrit viết
là sūtra, và tiếng Pali viết là sutta, chỉ có nghĩa chính
là những lời giảng dạy của đức Phật về đạo đức, chân lý và giải
thoát. Nó liên hệ đến sự nghe, nghe những lời dạy của đức Phật. Nói
cách khác, Kinh là những lời dạy của Phật hay của các vị Bồ-tát,
A-la-hán. Trong ý nghĩa rộng hơn, chữ Kinh còn ám chỉ cho (1) các thể loại
văn học Phật giáo, hay (2) Tạng Kinh (Sutta Piṭaka), hay chỉ chung cho (3) Ba kho
tàng văn học Phật giáo (Kinh, Luật, Luận). Kinh là sách ghi chép những lời
dạy về chánh pháp, những phương thức hành trì hay các pháp môn được
đức Phật và các vị thánh đệ tử của ngài giảng dạy.
Các vị
thánh đệ tử đầu tiên của đức Phật là nhóm năm anh em Kiều-trần-như,
mười vị đệ tử lớn và 1250 vị tỳ-kheo đều có nhiều cuộc đối đáp
về đạo lý và con đường tu tập với các người theo Bà-la-môn giáo và
các tôn giáo bấy giờ. Các pháp thoại mang tính cách xiển dương và truyền
bá đạo pháp như vậy, có giá trị tương đương với lời Phật dạy
trong nhiều trường hợp cụ thể. Nên các pháp thoại đó cũng được xem
là kinh, tức một dạng khác của lời Phật dạy. Các bài Kinh loại này
có mặt khắp trong các Kinh điển Phật giáo của Nguyên Thuỷ và Đại thừa.
Như vậy,
"Kinh" chỉ chung cho các lời dạy đạo lý hoặc là các pháp thoại
do đức Phật nói cho các hàng đệ tử hoặc người khác, hoặc các pháp
thoại của các vị thánh tăng đối đáp với nhau hay đối với người ngoại
đạo. Ý nghĩa ban đầu của Kinh chỉ đơn giản có thế, dù dưới dạng
truyền khẩu hay được biên tập thành văn bản về sau.
Mặt khác,
“Kinh” là một khái niệm bao quát, chỉ chung các lời dạy của Phật về
đạo đức (dhamma) hay con đường tu tập và những phép tắc (vinaya)
liên hệ đến đời sống của cộng đồng tu sĩ sống dưới sự bảo hộ
và hướng dẫn của Phật. Nó hoàn toàn không mang các ý nghĩa như "pháp
bổn," "vi phát," "dũng tuyền," "kết man,"
"xuất sanh," " hiển thị " hay ý nghĩa "khế cơ"
như các nhà sớ giải Trung Quốc đã phát triển về sau. Nói như vậy không
có nghĩa phủ định tính chất khế cơ trong lời Phật dạy. Chỉ có con người
ứng dụng kinh, giảng dạy Kinh có khế cơ hay không mà thôi. Nói cách khác
tính khế cơ tùy thuộc rất nhiều vào vị pháp sư qua sự trình bày pháp
thoại đến với quần chúng thính giả hơn là bản thân của pháp thoại
đó được biểu hiện dưới hình thức lời nói hay văn tự. Văn tự hay
ngôn ngữ có giới hạn, không thể làm chức năng xứng hợp như chính con
người của đức Phật và các vị đệ tử thánh của Ngài. Ý nghĩa thâm
sâu của Kinh nếu không được vị pháp sư trình bày một cách sáng sủa,
chính xác và hợp đối tượng thì người nghe có thể rơi vào các tình trạng
ngộ nhận, thoái thất đạo tâm và như vậy là mất hết khế cơ. Đặc tính
khế cơ tùy thuộc rất nhiều vào người giảng đạo và người nghe. Thuyết
giảng pháp thoại mà không nắm bắt được đối tượng nghe pháp sẽ có
thể dẫn đến tình trạng làm suy thoái đức tin chánh pháp của người
nghe. Ngược lại thuyết pháp phù hợp đối tượng, làm cho đối tượng
thấm nhuần lợi ích và an lạc thì sự thuyết pháp đó đã thành tựu ý
nghĩa khế cơ rồi. Như vậy lợi ích hay tác hại của một buổi pháp thoại
đối với người nghe tùy thuộc rất nhiều vào phương tiện giảng dạy và
phong cách trình bày của vị pháp sư, chứ không phải là bản thân của
Kinh điển văn tự.
Nói tóm lại,
chữ Kinh trong Phật giáo được dùng để chỉ cho lời Phật dạy dưới hình
thức văn tự hay truyền khẩu, có giá trị hướng thượng, phát triển đạo
đức, nuôi lớn thiền định, phát sanh trí tuệ, giúp cho người đọc tụng
đạt được an lạc và hạnh phúc. Kinh điển là ngón tay để chỉ cho chúng
sanh thấy được mặt trăng, là chiếc bè để đưa người sang sông giải
thoát. Bản thân Kinh điển không phải là mặt trăng và cũng không phải
là bờ giải thoát. Mặt trăng ở đây ám chỉ cho chân tâm, Phật tánh và
Niết-bàn. Người đọc tụng và thọ trì cần nương vào lời Kinh để nhận
ra được chân tâm, Phật tánh của mình, cũng như nương vào ngón tay để
thấy được mặt trăng và nương vào thuyền để sang được bờ bên kia.
Sau khi thấy được trăng cần phải biết quên ngón tay. Sau khi qua được bờ
rồi, nên thả thuyền xuống sông để nó có thể giúp được nhiều người
khác muốn sang sông. Đừng có thái độ chấp thủ và tôn thờ ngón tay đã
giúp ta thấy được mặt trăng, cũng như chiếc bè đã giúp ta qua được bờ
bên kia!
II. Ý Nghĩa
của Tụng Kinh
Có nhiều
người khi được hỏi "tại sao phải tụng kinh" liền trả lời rằng
"vì tụng Kinh có nhiều phước đức.”
Đối với nhiều Phật tử, tụng Kinh là con đường gặt
hái phước báu cho bản thân, người thân quyến và gia đình mình. Một số
khác thì cho rằng tụng Kinh để được các đức Phật và Bồ-tát phù hộ
cho tai qua nạn khỏi, mua may bán đắc, làm ăn phát tài, cửa nhà thịnh vượng.
Nói chung, tụng Kinh để mang lại phước lộc và thọ cho bản thân và gia
đình. Mặc dù không phản ánh hết ý nghĩa và mục đích của sự tụng
Kinh trong Phật giáo nhưng những câu trả lời như vậy đã biểu trưng cho
nếp nghĩ của nhiều Phật tử. Như vừa nói, Kinh là lời Phật dạy về
đạo đức, chỉ ra các phương thức tu tập, có khả năng chuyển hóa thân
tâm, đem lại hạnh phúc cho mình và người ở đời này và đời sau. Do đó,
sự tụng Kinh có ý nghĩa đạo đức rất lớn.
Tụng Kinh
trước nhất là để ôn lại và tư duy về lời Phật dạy, là cách làm
cho pháp âm của Phật lưu truyền mãi trong nhân gian, và để tự nhắc nhở
mình bỏ ác làm lành.
Tụng Kinh
còn là một dịp tốt giúp chúng ta ngăn ngừa các tội lỗi, trau dồi và
phát triển ba nghiệp trong sạch. Trong giờ phút tụng Kinh, do chuyên chú
vào lời Kinh, tâm ý của người đọc không có dịp bám víu vào các duyên
thế sự và các phiền não trần lao. Tâm ý của người thọ trì, nhờ đó,
trở nên an tịnh và thuần khiết. Ngay giờ phút tụng Kinh chuyên nhất đó,
người đọc tụng có thể xa lìa được các gốc rễ của khổ đau như
tham lam, sân hận, si mê và các tâm lý tiêu cực, có hại cho tâm tư, tình
cảm, nhân cách và đạo đức của bản thân. Trong tư thế ngồi như hoa
sen khi tụng Kinh, thân thể chúng ta đang từng bước trở nên thanh tịnh,
nhờ đó tránh được tất cả các hành vi xấu ác của thân như giết chóc,
trộm cướp, ngoại tình v.v... Ngoài ra, do miệng đọc tụng lời Kinh, cho nên
các lời nói mang tính chất sai sự thật, lời ác độc, lời thêm bớt và
những lời vô nghĩa không có cơ hội để phát triển. Khi đọc Kinh thì miệng
của chúng ta xướng lên những lời lẽ đạo đức, trí tuệ, nhờ đó
chúng ta có cơ hội vun trồng các hạt giống thiện. Như vậy, trong một hành
vi chuyên nhất tụng Kinh, chúng ta xa lìa được mười nghiệp ác, vốn do
thân khẩu ý tạo nên. Nói cách khác, trong khi tụng Kinh, chúng ta đã huấn
luyện ba nghiệp của mình trở về con đường hiền thiện và đạo đức.
Sự tụng Kinh, do đó, đã trở thành một sự tu tập về thân, khẩu và ý
trong đạo Phật.
Tụng Kinh còn
là một pháp môn tu tâm dưỡng tánh, huân tập vào tâm thức các hạt giống
tốt của từ bi, trí tuệ, an vui, thanh tịnh và giải thoát. Tụng Kinh còn
là dịp để tham thiền, quán tưởng, trang trải tình thương bao la đến với
muôn loài, còn là lúc chúng ta hồi hướng công đức lành đến với tất
cả chúng sanh. Tụng Kinh chính là lúc chúng ta một lòng thành kính, đối
trước Tam Bảo, sám hối tất cả các nghiệp xấu, ăn năn các lỗi đã
qua, phát nguyện làm các việc thiện, để hoàn thiện đời sống đạo đức
của bản thân.
Tụng Kinh
còn là dịp tốt để chúng ta có thể tìm hiểu, học hỏi, và ứng dụng
lời Phật dạy, vào cuộc sống hằng ngày, đem lại lợi lạc cho mình và
người. Chính sự áp dụng lời Phật
dạy, sau quá trình tư duy và thể nghiệm, giúp người đọc tụng gặt hái
được những điều mong muốn trong cuộc sống, như sự an lạc và hạnh
phúc. Bản thân của sự tụng Kinh vốn không có phước báu, nếu người
đọc tụng không chịu chú tâm vào từng lời Kinh để tìm ra ý đạo sâu
xa, mầu nhiệm ẩn chứa trong đó để mà thực hành. Các hình thức và
thói quen tụng Kinh như để “trả bài” hay làm công cứ “tính điểm”
với Phật, hay tệ hơn là như “máy thâu và phát” lại những lời Phật
dạy, rõ ràng không mang lại kết quả hay lợi ích thực tiễn nào, trái lại
còn làm mất thời giờ và công sức. Kinh điển của Phật là tấm bản đồ,
là kim chỉ nam hướng dẫn chúng ta sống đời chân chánh, để gặt hái kết
quả hạnh phúc ở đời này và đời sau. Đọc tấm bản đồ để biết rõ
con đường, để đi đúng hướng, để đến đúng nơi cần đến. Con đường
đó là con đường trung đạo hay còn gọi là con đường thánh gồm tám yếu
tố chân chánh: quan điểm chân chánh, tư duy chân chánh, lời nói chân
chánh, hành vi chân chánh, nghề nghiệp chân chánh, nỗ lực chân chánh,
chánh niệm và thiền định chân chánh. Đây là con đường mà ba đời chư
Phật đã đi qua, diệt trừ tận gốc rễ của khổ đau, đạt được an lạc
và giải thoát. Người Phật tử cần phải siêng năng nhớ nghĩ, ứng dụng
con đường “trung đạo” đó để tự cứu độ chính mình, thông qua sự
hướng dẫn của Phật trong Kinh điển. Nói cách khác, tụng Kinh là cách học
hỏi chánh pháp của Phật để ứng dụng chánh pháp đó vào đời sống,
đem lại an lạc và hạnh phúc cho tự thân.
Nói chung, mục đích
tụng Kinh trong đạo Phật không phải để “trả bài” hay “tính công”
với Phật, mà là nhằm tìm hiểu chính xác lời Phật dạy, rồi ứng dụng
vào đời sống. Tụng Kinh không phải để cầu nguyện Phật và Bồ-tát
gia hộ cho mình, gia đình và thân quyến tai qua nạn khỏi, thăng quan tiến
chức, làm ăn thịnh vượng, tuổi thọ tăng trưởng, sở nguyện tùy tâm,
kiết tường như ý. Tụng Kinh cũng không phải là dịp để cầu cho mua may
bán đắc, hay mong Phật và Bồ-tát gia hộ cho mình được đầy đủ phước
lộc thọ. Tụng Kinh để trau dồi ba nghiệp thanh tịnh, phát triển các hạnh
lành, sống đời đạo đức, vô ngã và vị tha, để mình và người được
an lạc và hạnh phúc. Muốn được vậy, khi tụng Kinh, người Phật tử phải
chí thành, hướng tâm vào nội dung Kinh, ghi khắc sâu chân lý Phật dạy,
ứng dụng vào từng trường hợp cụ thể của cuộc sống, để khắc phục
đau khổ, nhổ sạch gốc rễ của khổ đau là tham lam, sân hận, si mê. Tụng
Kinh như vậy là một sự tu tập: bỏ ác làm lành, một sự an tịnh ba nghiệp,
phát triển các đức tính tốt trong tâm mình. Tụng Kinh có nhiều lợi ích
như thế cho nên người Phật tử phải chuyên cần tụng niệm lời Phật dạy.
III. Cách Thức
Tụng Kinh
Cách thức
tụng Kinh trong Phật giáo rất đa dạng và khác nhau tùy theo từng truyền
thống. Thời đức Phật còn sống, tụng Kinh chỉ đơn thuần là sự trùng
tuyên lại lời Phật dạy, để nhớ sâu hơn về lời Ngài, và nhất là để
ứng dụng vào cuộc sống thường nhật. Dần dà, tụng Kinh đã trở thành
một nghi thức. Trong Phật giáo Bắc tông ngày nay, tụng Kinh đã trở thành
một nghi lễ hẳn hoi, với sự hỗ trợ của các pháp cụ và nhạc cụ, như
chuông, mõ, trống, kiểng, khánh, tang, đẩu v.v… Sự tụng Kinh ở nhiều
nơi đã trở thành một khoá lễ nhạc có âm điệu trầm bổng, du dương,
gây nhiều cảm hứng tốt ở người nghe.
Dù theo truyền thống
nào, điểm quan trọng mà người thọ trì Kinh cần chú ý là tụng Kinh để
hiểu và ứng dụng lời Phật dạy vào trong cuộc sống. Do đó, trong khi tụng
niệm, không nên quá chú trọng vào các nghệ thuật tán tụng, mặc dù nghệ
thuật này có thể giúp cho người tụng lẫn người nghe dễ lắng tâm và
phát khởi niềm tin tôn giáo. Một khi thời Kinh trở thành thời khoá tán tụng
thì việc tập trung tâm ý vào lời Kinh để tìm hiểu ý đạo sẽ trở nên
mờ nhạt, và ý nghĩa của tụng Kinh sẽ không còn nữa. Người đọc tụng
cần phải chú trọng vào phần “cốt lõi nhất” của Kinh là nội dung
và nghĩa lý của nó. Không có sự chú tâm thật sâu thì khó có thể
lãnh hội được ý nghĩa nhiệm mầu trong Kinh. Nói cách khác, chỉ chú trọng
đến “nghệ thuật tụng hay tán giỏi” mà không nắm bắt được ý Kinh
thì việc tụng Kinh có thể trở nên vô ích và mất thời giờ.
Người đọc
tụng phải giữ ba nghiệp thanh tịnh, chú tâm hoàn toàn vào nghĩa lý của
Kinh, tư duy và liên tưởng về nghĩa lý đó, để hiểu rõ lời dạy của
Đức Phật, biết cách ứng dụng và hành trì. Bậc cổ đức thường dạy
“tụng Kinh giả minh Phật chi lý” là nhằm vào ý này vậy. Chính sự ứng
dụng lời Kinh vào cuộc sống mới thật sự đem lại phước báo, an lạc
và giải thoát cho chúng ta. Do đó, ta không nên chỉ tụng niệm bằng miệng
mà còn phải tụng niệm bằng tâm. Nói cách khác miệng tụng
tâm hành mới chính là tụng Kinh đúng nghĩa.
Nói tóm lại
tụng Kinh không phải là dịp để cầu phước, không phải để trả bài,
không phải để tán tụng, mà là cơ hội tốt để trau dồi ba nghiệp cho
thanh tịnh, an lạc. Tụng Kinh không phải là buổi cầu nguyện, van xin mà
là lúc chúng ta nên chuyên chú, lắng tâm, thực hành thiền định và quán
tưởng. Tụng Kinh còn là cách học hỏi chánh pháp, phát khởi niềm tin
chân chánh về lời Phật dạy. Tụng Kinh để gieo rắc các hạt giống từ
bi, trí tuệ vào trong tâm khảm, để gặt hái hoa trái của an lạc và hạnh
phúc ở hiện tại và tương lai.
Tụng Kinh
mang nhiều ý nghĩa hành trì và đạo đức tích cực như thế, phàm làm đệ
tử Phật phải nên siêng năng đọc tụng Kinh điển để ngọn đèn từ bi
và trí tuệ của đức Phật tỏa sáng sự sống của chúng ta và tất cả
chúng sanh.
- Viết tại chùa Giác Ngộ,
năm 1991
- Hiệu đính tại Ấn Độ,
năm 2001
- Cẩn bút