- Kinh Tương Ưng Bộ
- HT. Thích Minh Châu dịch
- Phần 15
- Chương IV : Tương Ưng Vô
Thỉ (Anamatagga)
I. Phẩm Thứ Nhất
I. Cỏ Và Củi (Tạp, Đại 2,
24b) (Biệt Tạp, Đại 2, 486c) (S.ii,178)
1) Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú ở
Sàvatthi, Jetavana, tại vườn ông Anàthapindika.
2) Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
"Này các Tỷ-kheo". -- "Thưa vâng, bạch Thế Tôn". Các Tỷ-kheo
vâng đáp Thế Tôn.
3) Thế Tôn nói như sau:
-- Vô thỉ là luân hồi này, này
các Tỷ-kheo, khởi điểm không thể nêu rõ đối với lưu chuyển luân hồi
của các chúng sanh bị vô minh che đậy, bị tham ái trói buộc.
4) Ví như, này các Tỷ-kheo, có người
chặt các cành cỏ, khúc cây, nhành cây, nhành lá, trong cõi Diêm-phù-đề này,
chất chúng thành một đống, làm chúng thành những que đặt theo hình các
ô vuông, cầm từng que đặt xuống và nói: "Đây là mẹ tôi, đây là
mẹ của mẹ tôi". Và không thể cùng tận, này các Tỷ-kheo, là các
bà mẹ, mẹ của người ấy. Nhưng nhành cỏ, khúc cây, nhành cây, nhành
lá trong cõi Diêm-phù-đề này có thể đi đến đoạn tận, đoạn diệt.
5) Vì sao? Vô thỉ là luân hồi,
này các Tỷ-kheo, khởi điểm không thể nêu rõ đối với lưu chuyển luân
hồi của các chúng sanh bị vô minh che đậy, bị tham ái trói buộc.
6) Cũng vậy, đã lâu ngày, này các
Tỷ-kheo, các Ông chịu đựng khổ, chịu đựng thống khổ, chịu đựng
tai họa, và các mộ phần ngày một lớn lên.
7) Cho đến như vậy, này các Tỷ-kheo,
là vừa đủ để các Ông nhàm chán, là vừa đủ để các Ông từ bỏ,
là vừa đủ để các Ông giải thoát đối với tất cả các hành.
II. Qủa Đất (Tạp, Đại 2,
241b) (S.ii,179) (Biệt Tạp 16.5, Đại 2, 486c)
1) Trú ở Sàvatthi.
2) -- Vô thỉ là luân hồi này, này
các Tỷ-kheo, khởi điểm không thể nêu rõ đối với sự lưu chuyển luân
hồi của các chúng sanh bị vô minh che đậy, bị tham ái trói buộc.
3) Ví như, này các Tỷ-kheo, có người
từ quả đất lớn này làm thành những cục đất tròn, lớn bằng hạt
táo, cầm từng cục đất đặt xuống và nói: "Đây là cha tôi, đây
là cha của cha tôi". Và không thể cùng tận, này các Tỷ-kheo, là các
người cha, cha của người ấy. Nhưng quả đất lớn này đi đến đoạn tận,
đoạn diệt.
4) Vì sao? Vô thỉ là luân hồi
này, này các Tỷ-kheo, khởi điểm không thể nêu rõ đối với sự lưu
chuyển luân hồi của các chúng sanh bị vô minh che đậy, bị tham ái trói
buộc.
5) Cũng vậy, đã lâu ngày, này các
Tỷ-kheo, các Ông chịu đựng khổ, chịu đựng thống khổ, chịu đựng
tai họa, và các mộ phần ngày càng lớn lên.
6) Cho đến như vậy, này các Tỷ-kheo,
là vừa đủ để các Ông nhàm chán, là vừa đủ để các Ông từ bỏ,
là vừa đủ để các Ông giải thoát đối với tất cả các hành.
III. Nước Mắt (Tạp, Đại 2,
240c) (S.ii,179) (Biệt Tạp 16.2 Đại 2, 486a) (Tăng 51,I, Đại 2, 814a)
1) Trú ở Sàvatthi.
2) -- Vô thỉ là luân hồi này, này
các Tỷ-kheo, khởi điểm không thể nêu rõ đối với sự lưu chuyển luân
hồi của các chúng sanh bị vô minh che đậy, bị tham ái trói buộc.
3) Các Ông nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo,
cái gì là nhiều hơn? Dòng nước mắt tuôn chảy do các Ông than van, khóc
lóc, phải hội ngộ với những gì không ưa, phải biệt ly với những gì
mình thích, khi các Ông phải lưu chuyển luân hồi trong thời gian dài này
hay là nước trong bốn biển lớn?
4) -- Bạch Thế Tôn, theo như lời
Thế Tôn thuyết pháp, chúng con hiểu rằng, cái này, bạch Thế Tôn, là nhiều
hơn, tức là dòng nước mắt tuôn chảy do chúng con than van, khóc lóc phải
hội ngộ với những gì không ưa, phải biệt ly với những gì mình thích,
khi phải lưu chuyển luân hồi trong thời gian dài này chớ không phải nước
trong bốn biển lớn.
5) -- Lành thay, lành thay, này các Tỷ-kheo!
Lành thay, này các Tỷ-kheo, các Ông đã hiểu như vậy Pháp do Ta dạy!
6) Cái này là nhiều hơn, này các Tỷ-kheo,
tức là dòng nước mắt tuôn chảy do các Ông than van, khóc lóc, phải hội
ngộ với những gì không ưa, phải biệt ly với những gì mình thích, khi
các Ông phải lưu chuyển luân hồi trong thời gian dài này chớ không phải
nước trong bốn biển lớn.
7) Trong một thời gian dài, này các
Tỷ-kheo, các Ông chịu đựng mẹ chết.
8)... các Ông chịu đựng con chết.
..
9)... các Ông chịu đựng con gái chết...
10)... các Ông chịu đựng tai họa
về bà con...
11)... các Ông chịu đựng tai họa
về tiền của...
12) Trong một thời gian dài, này
các Tỷ-kheo, các Ông chịu đựng tai họa của bệnh tật. Cái này là nhiều
hơn, là dòng nước mắt tuôn chảy do các Ông than van, khóc lóc, phải hội
ngộ với những gì mình không ưa, phải biệt ly với những gì mình thích,
khi các Ông phải chịu đựng tai họa, bệnh tật chớ không phải nước
trong bốn biển.
13) Vì sao? Vô thỉ là luân hồi
này, này các Tỷ-kheo... bị tham ái trói buộc.
14) Cho đến như vậy, này các Tỷ-kheo,
là vừa đủ để các Ông nhàm chán, là vừa đủ để các Ông từ bỏ,
là vừa đủ để các Ông giải thoát đối với tất cả các hành.
IV. Sữa (Tạp, Đại 2, 241a) (Biệt
Tạp 16.3, Đại 2, 486b) (S.ii,180)
1) Sàvatthi.
2) -- Vô thỉ là luân hồi này, này
các Tỷ-kheo, khởi điểm không thể nêu rõ đối với sự lưu chuyển luân
hồi của các chúng sanh bị vô minh che đậy, bị tham ái trói buộc.
3) Các Ông nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo,
cái gì là nhiều hơn, sữa mẹ mà các Ông đã uống trong khi các Ông lưu
chuyển luân hồi trong một thời gian dài, hay là nước trong bốn biển?
4) -- Bạch Thế Tôn, theo như lời
Thế Tôn thuyết pháp, chúng con hiểu rằng cái này là nhiều hơn, tức là
sữa mẹ mà chúng con đã uống trong khi chúng con lưu chuyển luân hồi trong
một thời gian dài chớ không phải nước trong bốn biển!
5) -- Lành thay, lành thay, này các Tỷ-kheo!
Lành thay, này các Tỷ-kheo, các Ông đã hiểu như vậy Pháp do Ta dạy!
6) Cái này là nhiều hơn, này các Tỷ-kheo,
tức là sữa mẹ mà các Ông đã uống trong khi các Ông lưu chuyển luân hồi
trong một thời gian dài chớ không phải nước trong bốn biển.
7) Vì sao? Vô thỉ là luân hồi
này, này các Tỷ-kheo... là vừa đủ để các Ông giải thoát đối với tất
cả các hành.
V. Núi (Tạp, Đại 2, 242c) (Biệt
Tạp, Đại 2, 487c) (S.ii,181)
1). .. Trú ở Sàvatthi.
2) Rồi một Tỷ-kheo đi đến Thế
Tôn; sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.
3) Ngồi xuống một bên, Tỷ-kheo
ấy bạch Thế Tôn:
-- Một kiếp, bạch Thế Tôn, dài
như thế nào?
4) -- Thật dài, này Tỷ-kheo, là một
kiếp. Thật không dễ gì có thể đếm là một vài năm, một vài trăm
năm, một vài ngàn năm hay một vài trăm ngàn năm.
5) -- Bạch Thế Tôn, Thế Tôn có thể
cho một ví dụ được không?
6) -- Có thể được, này Tỷ-kheo.
Thế Tôn nói như vậy. Ví như, này Tỷ-kheo, có một hòn núi đá lớn, một
do tuần bề dài, một do tuần bề rộng, một do tuần bề cao, không có khe
hở, không có lỗ hổng, một tảng đá thuần đặc. Rồi một người đến,
cứ sau một trăm năm lại lau hòn đá ấy một lần với tấm vải kàsi.
Này Tỷ-kheo, hòn núi đá lớn ấy được làm như vậy có thể đi đến
đoạn tận, đoạn diệt mau hơn là một kiếp.
7) Như vậy dài, này các Tỷ-kheo,
là một kiếp. Với những kiếp dài như vậy, này Tỷ-kheo, hơn một kiếp
đã qua, hơn một trăm kiếp đã qua, hơn một ngàn kiếp đã qua, hơn một
trăm ngàn kiếp đã qua.
8) Vì sao? Vô thỉ là luân hồi
này, này... vừa đủ để giải thoát.
VI. Hột Cải (Tạp, Đại 2,
242b) (S.ii,182) (Tăng 52.3, Đại 2, 825b) (Biệt Tạp 16.12, Đại 2, 487c)
1) Sàvatthi.
2) Rồi một Tỷ-kheo đi đến Thế
Tôn...
3) Ngồi xuống một bên, Tỷ-kheo
ấy bạch Thế Tôn:
-- Một kiếp, bạch Thế Tôn, dài
như thế nào?
4) -- Thật dài, này Tỷ-kheo, là một
kiếp. Thật không dễ gì để có thể đếm là một vài năm, một vài trăm
năm, một vài ngàn năm, hay một vài trăm ngàn năm.
5) -- Bạch Thế Tôn, Thế Tôn có thể
cho một ví dụ được không?
6) -- Có thể được, này Tỷ-kheo.
Ví như, này Tỷ-kheo, có một thành bằng sắt, dài một do tuần, rộng một
do tuần, cao một do tuần, chứa đầy hột cải cao như chóp khăn đầu. Một
người từ nơi chỗ ấy, sau mỗi trăm năm lấy ra một hột cải. Này Tỷ-kheo,
đống hột cải ấy được làm như vậy, có thể đi đến đoạn tận, đoạn
diệt mau hơn là một kiếp.
7) Như vậy dài, này Tỷ-kheo, là một
kiếp. Với những kiếp dài như vậy, hơn một kiếp đã qua, hơn một trăm
kiếp đã qua, hơn một ngàn kiếp đã qua, hơn một trăm ngàn kiếp đã qua.
8) Vì sao? Vô thỉ là luân hồi,
này Tỷ-kheo... vừa đủ để giải thoát.
VII. Các Đệ Tử (Tạp, Đại 2,
242c) (Biệt Tạp 16.14, Đại 2, 488a) (S.ii,182)
1) Trú ở Sàvatthi.
2) Rồi nhiều Tỷ-kheo đi đến Thế
Tôn...
3) Ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo
ấy bạch Thế Tôn:
-- Có bao nhiêu kiếp, bạch Thế
Tôn, đã đi qua, đã vượt qua?
4) -- Rất nhiều, này các Tỷ-kheo,
là những kiếp đã đi qua, đã vượt qua. Thật không dễ gì để có thể
đếm chúng được là một vài kiếp, một vài trăm kiếp, một vài ngàn kiếp,
một vài trăm ngàn kiếp.
5) -- Bạch Thế Tôn, Thế Tôn có thể
cho một ví dụ được không?
6) -- Có thể được, này các Tỷ-kheo.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có bốn vị đệ tử, tuổi thọ một trăm tuổi,
sống đến một trăm năm. Cứ mỗi ngày họ nhớ đến trăm ngàn kiếp,
này các Tỷ-kheo, các kiếp được họ nhớ đến là vậy. Bốn đệ tử
ấy tuổi thọ một trăm tuổi, sống đến một trăm năm, sau một trăm năm
đi đến mệnh chung.
7) Nhiều như vậy, này các Tỷ-kheo,
là những kiếp đã đi qua, đã vượt qua. Thật không dễ gì để có thể
đếm chúng được, là một vài kiếp, một vài trăm kiếp, một vài ngàn
kiếp, một vài trăm ngàn kiếp.
8) Vì sao? Vô thỉ là luân hồi
này, này các Tỷ-kheo... là vừa đủ để được giải thoát.
VIII. Sông Hằng (Tạp, Đại 2,
242) (Biệt Tạp 16.10, Đại 2, 487b) (S.ii,183)
1) Ở Ràjagaha (Vương Xá), Veluvana
(Trúc Lâm).
2) Rồi một Bà-la-môn đi đến Thế
Tôn...
3) Ngồi xuống một bên, Bà-la-môn
ấy bạch Thế Tôn:
-- Có bao nhiêu kiếp, bạch Thế
Tôn đã đi qua, đã vượt qua?
4) -- Rất nhiều, này Bà-la-môn, là
những kiếp đã đi qua, đã vượt qua. Thật không dễ gì để có thể đếm
chúng được, là một vài kiếp, một vài trăm kiếp, một vài ngàn kiếp,
một vài trăm ngàn kiếp.
5) -- Tôn giả Gotama có thể cho một
ví dụ được không?
6) -- Có thể được, này
Bà-la-môn. Ví như, này Bà-la-môn, sông Hằng này từ chỗ nguồn bắt đầu
đến chỗ nó chảy nhập vào biển. Số cát nằm ở giữa chặng ấy, thật
không dễ gì để có thể đếm chúng được là một số hột cát, là số
trăm hột cát, là số ngàn hột cát, là số trăm ngàn hột cát.
7) Nhiều hơn vậy, này Bà-la-môn,
là những kiếp đã đi qua, đã vượt qua. Thật không dễ gì có thể đếm
chúng được, là một số kiếp, một trăm kiếp, là một ngàn kiếp, là một
số trăm ngàn kiếp.
8) Ví sao? Vô thỉ là luân hồi
này, này Bà-la-môn, khởi điểm không thể nêu rõ đối với sự lưu chuyển
luân hồi của các chúng sanh bị vô minh che đậy, bị tham ái trói buộc.
9) Cũng vậy, đã lâu ngày, này
Bà-la-môn, các Ông chịu đựng khổ, chịu đựng thống khổ, chịu đựng
tai họa, và các mộ phần ngày một lớn lên. Cho đến như vậy, này
Bà-la-môn, là vừa đủ để nhàm chán, là vừa đủ để từ bỏ, là vừa
đủ để giải thoát đối với tất cả các hành.
10) Được nghe nói vậy, Bà-la-môn
ấy bạch Thế Tôn:
-- Thật vi diệu thay, Tôn giả
Gotama! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama!... Mong Tôn giả Gotama nhận con
làm đệ tử, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng!
IX. Cây Gậy (Tạp, Đại 2,242a.
Tạp, Đại 2,112b, Biệt Tạp, Đại 2,488b) (S.ii,184)
1) Trú ở Sàvatthi.
2) -- Vô thỉ là luân hồi này, này
các Tỷ-kheo. Khởi điểm không thể nêu rõ đối với sự lưu chuyển luân
hồi của các chúng sanh bị vô minh che đậy, bị tham ái trói buộc.
3) Ví như, này các Tỷ-kheo, một
cây gậy được ném lên trên hư không, khi thì rơi trên đầu gốc, khi thì
rơi chặng giữa, khi thì rơi đầu ngọn. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, các
chúng sanh bị vô minh che đậy, bị tham ái trói buộc, lưu chuyển luân hồi,
khi thì từ thế giới này đi thế giới khác, khi thì từ thế giới khác
đến thế giới này.
4) Vì sao? Vô thỉ là luân hồi,
này các Tỷ-kheo... là vừa đủ để được giải thoát.
X. Người (Tạp, Đại 2,242a. Biệt
Tạp. Đại 2,487b. Đơn tạp 11, Đại 2,496b) (S.ii,185)
1) Thế Tôn trú ở Ràjagaha (Vương
Xá), tại núi Gijjhakuuta (Linh Thứu).
2) Tại đấy Thế Tôn...
3) -- Vô thỉ là luân hồi này, này
các Tỷ-kheo...
4) Các xương của một người, này
các Tỷ-kheo, lưu chuyển luân hồi có thể lớn như một đồi xương, một
chồng xương, một đống xương, như núi Vepulla này, nếu có người thâu lượm
xương lại, gìn giữ chúng, không làm chúng hủy hoại.
5) Vì sao? Vô thỉ là luân hồi
này, này các Tỷ-kheo... là vừa đủ để giải thoát đối với tất cả các
hành.
6) Thế Tôn nói vậy, Thiện Thệ
nói như vậy xong, bậc Đạo Sư lại nói thêm:
- Chồng chất như xương người,
- Chỉ sống có một kiếp,
- Chất đống bằng hòn núi,
- Bậc Đạo Sư nói vậy.
- Đống xương ấy được nói,
- Lớn như Vepulla,
- Phía Bắc núi Linh Thứu,
- Núi thành Magadha.
- Người thấy bốn sự thật,
- Với chân chánh trí tuệ,
- Khổ và khổ tập khởi,
- Sẽ vượt qua đau khổ,
- Con đường Thánh tám ngành,
- Dẫn đến khổ tịnh chỉ.
- Người ấy phải luân chuyển,
- Tối đa là bảy lần.
- Là vị đoạn tận khổ,
- Đoạn diệt mọi kiết sử.
-
II. Phẩm Thứ Hai
I. Khốn Cùng (Tạp, Đại 2,
241c. Biệt Tạp 16.7, 487a) (S.ii,186)
1) Một thời Thế Tôn trú ở Sà趡tthi...
2) Tại đấy...
3) -- Vô thỉ là luân hồi này, này
các Tỷ-kheo. Khởi điểm không thể nêu rõ đối với sự lưu chuyển luân
hồi của các chúng sanh bị vô minh che đậy, bị tham ái trói buộc.
4) Này các Tỷ-kheo, khi các Ông thấy
sự khốn cùng, bất hạnh, các Ông phải đi đến kết luận: "Chúng ta
chịu đựng như vậy trong thời gian dài này".
5) Vì sao? Vô thỉ là luân hồi
này, này các Tỷ-kheo... là vừa đủ để giải thoát đối với tất cả các
hành.
II. An Lạc (Tạp, Đại 2, 241c)
(Biệt Tạp 16.6, Đại 2, 486c) (S.ii, 186).
1) Trú ở Sàvatthi...
2) -- Vô thỉ là luân hồi này, này
các Tỷ-kheo...
3) Này các Tỷ-kheo, khi các Ông thấy
an lạc, may mắn, các Ông phải đi đến kết luận: "Chúng ta chịu đựng
như vậy trong thời gian dài này".
4) Vì sao? Vô thỉ là luân hồi
này, này các Tỷ-kheo... là vừa đủ để giải thoát đối với tất cả các
hành.
III. Khoảng Ba Mươi (Tạp, Đại
2, 240b) (S.ii,187)
1) Trú ở Vương Xá, Trúc Lâm.
2) Ba mươi vị Tỷ-kheo xứ Pàvà, tất
cả sống ở rừng, tất cả đi khất thực, tất cả mang y phấn tảo, tất
cả mang ba y, tất cả đang còn kiết sử, cùng đi đến Thế Tôn; sau khi đến,
đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.
3) Rồi Thế Tôn suy nghĩ: "Ba
mươi vị Tỷ-kheo xứ Pàvà này, tất cả sống ở rừng, tất cả đi khất
thực, tất cả mang y phấn tảo, tất cả mang ba y, tất cả đang còn kiết
sử. Vậy Ta hãy thuyết pháp cho họ như thế nào để ngay tại chỗ ngồi
này, tâm của họ được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp
thủ".
4) Rồi Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
"Này các Tỷ-kheo" -- "Thưa vâng, bạch Thế Tôn". Các Tỷ-kheo
ấy vâng đáp Thế Tôn.
5) Thế Tôn nói như sau:
-- Vô thỉ là luân hồi này, này
các Tỷ-kheo. Khởi điểm không thể nêu rõ, đối với sự lưu chuyển luân
hồi của các chúng sanh bị vô minh che đậy, bị tham ái trói buộc.
6) Các Ông nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo,
cái nào là nhiều hơn, dòng máu tuôn chảy do đầu bị thương tích khi các
Ông lưu chuyển luân hồi trong thời gian dài này, hay là nước trong bốn biển
lớn?
7) -- Bạch Thế Tôn, theo như lời
Thế Tôn thuyết pháp, chúng con hiểu rằng cái này là nhiều hơn, bạch Thế
Tôn, tức là dòng máu tuôn chảy do đầu bị thương tích, khi chúng con lưu
chuyển luân hồi trong thời gian dài này, không phải là nước trong bốn biển
lớn.
8) Lành thay, lành thay, này các Tỷ-kheo!
Lành thay, này các Tỷ-kheo, các Ông đã hiểu Pháp Ta dạy như vậy!
9) Cái này là nhiều hơn, này các Tỷ-kheo,
tức là dòng máu tuôn chảy do đầu bị thương tích khi các Ông lưu chuyển
luân hồi trong thời gian dài này, không phải là nước trong bốn biển lớn.
10) Này các Tỷ-kheo, dòng máu tuôn
chảy do đầu các Ông bị thương tích khi các Ông là bò, sanh ra làm bò
trong thời gian dài, hay là nước trong bốn biển lớn?
11) Này các Tỷ-kheo, dòng máu tuôn
chảy do đầu bị thương tích khi các Ông là trâu, sanh ra làm trâu trong thời
gian dài...
12) Này các Tỷ-kheo, dòng máu tuôn
chảy do đầu bị thương tích khi các Ông là cừu, sanh ra làm cừu trong thời
gian dài...
13)... khi các Ông là dê, sanh ra làm
dê...
14)... khi các Ông là nai, sanh ra làm
nai...
15)... khi các Ông là gia cầm, sanh
ra làm gia cầm...
16)... khi các Ông là heo, sanh ra làm
heo...
17) Này các Tỷ-kheo, dòng máu tuôn
chảy do đầu bị thương tích khi các Ông làm đạo tặc, làm kẻ trộm
làng bị bắt trong thời gian dài...
18) Này các Tỷ-kheo, dòng máu tuôn
chảy do đầu bị thương tích khi các Ông làm đạo tặc, ăn cướp đường
bị bắt trong thời gian dài...
19) Này các Tỷ-kheo, dòng máu tuôn
chảy do đầu bị thương tích khi các Ông làm đạo tặc, tư thông vợ người
trong thời gian dài chớ không phải là nước trong bốn biển lớn.
20) Vì sao? Vô thỉ là luân hồi
này, này các Tỷ-kheo... là vừa đủ để được giải thoát đối với tất
cả các hành...
21) Thế Tôn nói như vậy, các vị
Tỷ-kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
22) Và trong khi lời dạy này được
tuyên bố, đối với ba mươi vị Tỷ-kheo xứ Pàvà, tâm các vị ấy được
giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp thủ.
IV. Mẹ (Tạp, Đại 2,241c) (Biệt
Tạp 16.9, Đại 2,487a) (S.ii,189)
1) Trú ở Sàvatthi.
2) -- Vô thỉ là luân hồi này, này
các Tỷ-kheo...
3) Này các Tỷ-kheo, thật không dễ
gì tìm được một chúng sanh, trong thời gian dài này, lại không một lần
đã làm mẹ...
4) Vì sao? Vô thỉ là luân hồi
này, này các Tỷ-kheo... là vừa đủ để được giải thoát đối với tất
cả các hành.
V. Cha (S.ii,189)
1) Trú ở Sàvatthi.
2) -- Vô thỉ là luân hồi này, này
các Tỷ-kheo...
3) Này các Tỷ-kheo, thật không dễ
gì tìm được một chúng sanh, trong thời gian dài này, lại không một lần
đã làm cha...
VI. Anh (S.ii,189)
1) Trú tại Sàvatthi.
2) -- Này các Tỷ-kheo, thật không dễ
gì tìm được một chúng sanh, trong thời gian dài này, lại không một lần
đã làm anh...
VII. Chị (S.ii,189)
1) Trú ở Sàvatthi.
2) -- Này các Tỷ-kheo, thật không dễ
gì tìm được một chúng sanh, trong thời gian dài này, lại không một lần
đã làm chị...
VIII. Con Trai (S.ii,190)
1) Trú ở Sàvatthi.
2) -- Này các Tỷ-kheo, thật không dễ
gì tìm được một chúng sanh, trong thời gian dài này, lại không một lần
đã làm con trai...
IX. Con Gái (Tạp, Đại 2,241c)
(Biệt Tạp 16,9, Đại 2,487a) (S.ii,190)
1) Trú ở Sàvatthi.
2) -- Vô thỉ là luân hồi, này các
Tỷ-kheo. Khởi điểm không thể nêu rõ, đối với sự lưu chuyển luân hồi
của các chúng sanh bị vô minh che đậy, bị tham ái trói buộc.
3) Này các Tỷ-kheo, thật không dễ
gì tìm được một chúng sanh, trong thời gian dài này, lại không một lần
đã làm con gái.
4) Vì sao? Vô thỉ là luân hồi
này, này các Tỷ-kheo. Khởi điểm không thể nêu rõ, này các Tỷ-kheo, đối
với sự lưu chuyển luân hồi của các chúng sanh bị vô minh che đậy, bị
tham ái trói buộc.
5) Như vậy, trong thời gian này,
này các Tỷ-kheo, các Ông chịu đựng khổ, chịu đựng thống khổ, chịu
đựng tai họa, mộ phần càng ngày càng lớn lên. Cho đến như vậy, này
các Tỷ-kheo, là vừa đủ để nhàm chán, là vừa đủ để từ bỏ, là vừa
đủ để giải thoát đối với tất cả các hành.
X. Núi Vepulla (Tạp, Đại 2,243b)
(Biệt Tạp 16.21, Đại 2,488c) (S.ii,190)
1) Một thời Thế Tôn trú ở
Ràjagaha (Vương Xá), tại núi Gijjhakuuta (Linh Thứu).
2) Tại đấy Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo...
3) Thế Tôn nói như sau:
-- Vô thỉ là luân hồi này, này
các Tỷ-kheo. Khởi điểm không thể nêu rõ đối với sự lưu chuyển luân
hồi của các chúng sanh bị vô minh che đậy, bị tham ái trói buộc.
4) Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, núi
Vepulla này được biết với tên là Pàciinavamsa. Lúc bấy giờ, dân chúng
được biết với tên là Tivàrà. Này các Tỷ-kheo, dân chúng Tivàrà có tuổi
thọ đến 40.000 năm. Này các Tỷ-kheo, dân chúng Tivàrà phải bốn ngày để
leo lên núi Pàciinavamsa, phải bốn ngày để leo xuống.
5) Lúc bấy giờ, này các Tỷ-kheo,
Thế Tôn Kakusandha, bậc Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác xuất hiện ở đời. Này
các Tỷ-kheo, Thế Tôn Kakusandha, bậc Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác, có hai vị
đệ tử, hai vị thượng thủ, hiền thiện tên là Vidhura và Sajiiva.
6) Hãy nhìn xem, này các Tỷ-kheo,
tên của hòn núi ấy đã biến mất, dân chúng ấy đã mệnh chung, và bậc
Thế Tôn ấy đã nhập diệt.
7) Vô thường như vậy, này các Tỷ-kheo,
là các hành. Không kiên cố như vậy, này các Tỷ-kheo, là các hành. Bất
an như vậy, này các Tỷ-kheo, là các hành. Cho đến như vậy, này các Tỷ-kheo
là vừa đủ để nhàm chán, là vừa đủ để từ bỏ, là vừa đủ để
giải thoát đối với tất cả các hành.
8) Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, núi
Vepulla này được biết với tên là Vànkaka. Lúc bấy giờ, này các Tỷ-kheo,
dân chúng được biết với tên là Rohita. Này các Tỷ-kheo, dân chúng Rohita
có tuổi thọ đến 30.000 năm. Này các Tỷ-kheo, dân chúng Rohita phải ba
ngày để leo lên núi Vànkaka, phải ba ngày để leo xuống.
9) Lúc bấy giờ, này các Tỷ-kheo,
Thế Tôn Konàgamana, bậc Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác xuất hiện ở đời.
Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Konàgamana, bậc Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác, có
hai vị đệ tử, hai vị thượng thủ, hiền thiện tên là Bhiiyya và
Suttara.
10) Hãy nhìn xem, này các Tỷ-kheo,
tên của hòn núi ấy đã biến mất, dân chúng ấy đã mệnh chung, và bậc
Thế Tôn ấy đã nhập diệt. Vô thường như vậy, này các Tỷ-kheo, là
các hành... là vừa đủ để giải thoát đối với tất cả các hành.
11) Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, núi
Vepulla này được biết với tên là Supassa. Lúc bấy giờ, này các Tỷ-kheo,
dân chúng được biết với tên là Suppiya. Này các Tỷ-kheo, dân chúng
Suppiya có tuổi thọ đến 20.000 năm. Này các Tỷ-kheo, dân chúng Suppiya phải
hai ngày để leo núi Supassa, phải hai ngày để leo xuống.
12) Lúc bấy giờ, Thế Tôn Kassapa,
bậc Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác xuất hiện ở đời. Này các Tỷ-kheo, Thế
Tôn Kassapa, bậc Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác, có hai đệ tử, hai vị thượng
thủ, hiền thiện tên là Tissa và Bhàradvàja.
13) Hãy nhìn xem, này các Tỷ-kheo,
tên của hòn núi ấy đã biến mất, dân chúng ấy đã mệnh chung, và bậc
Thế Tôn ấy đã nhập diệt.
14) Vô thường như vậy, này các Tỷ-kheo,
là các hành. Không kiên cố như vậy, này các Tỷ-kheo, là các hành... là vừa
đủ để được giải thoát đối với tất cả các hành.
15) Hiện tại, này các Tỷ-kheo,
núi Vepulla này được biết với tên là Vepulla. Hiện tại, này các Tỷ-kheo,
dân chúng ấy được biết với tên là Magadhaka. Tuổi thọ dân chúng
Magadhaka ấy, này các Tỷ-kheo, là ít, nhẹ, không bao nhiêu, họ sống lâu
cho đến 100 tuổi hay hơn một chút. Dân chúng Magadhaka, này các Tỷ-kheo,
leo lên núi Vepulla này trong một thời gian ngắn, leo xuống trong một thời
gian ngắn.
16) Hiện tại, này các Tỷ-kheo, Ta,
bậc Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác xuất hiện ở đời. Này các Tỷ-kheo, Ta
có hai vị đệ tử, hai vị thượng thủ, hiền thiện tên là Sàriputta và
Moggallàna.
17) Một thời sẽ đến, này các Tỷ-kheo,
tên của ngọn núi này sẽ biến mất, dân chúng sẽ mệnh chung, và Ta sẽ
nhập diệt.
18) Vô thường như vậy, này các Tỷ-kheo,
là các hành. Không kiên cố, này các Tỷ-kheo, là các hành. Bất an như vậy,
này các Tỷ-kheo, là các hành. Cho đến như vậy, này các Tỷ-kheo, là vừa
đủ để được nhàm chán, là vừa đủ để từ bỏ, là vừa đủ để
giải thoát đối với tất cả các hành.
19) Thế Tôn nói như vậy, bậc Thiện
Thệ nói như vậy xong, bậc Đạo Sư lại nói thêm:
- Pacinavamsa,
- Với dân Tivàra,
- Tên núi Vankaka
- Với dân Rohita,
- Tên núi Vupassa
- Với dân Suppiyà,
- Tên núi Vepulla,
- Với dân Magadha,
- Chư hành là vô thường,
- Phải sanh rồi phải diệt,
- Sau khi sanh, chúng diệt,
- Chúng tịnh là an lạc.