- Kinh Tương Ưng Bộ
- HT. Thích Minh Châu dịch
- Phần 47
- Chương III
- Tương Ưng Niệm Xứ
I. Phẩm Ambapàli
1. I. Ambapàli (Tạp 24,20, Đại
2,174a) (S.v,141)
1) Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú ở Vesàli,
tại rừng Ambapàli.
2) Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
"Này các Tỷ-kheo". "Bạch Thế Tôn". Các Tỷ-kheo ấy vâng
đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
3) -- Có con đường độc nhất này,
này các Tỷ-kheo, khiến cho các loài hữu tình được thanh tịnh, vượt qua
được sầu bi, chấm dứt khổ ưu, chứng đạt chánh lý, chứng ngộ Niết-bàn.
Tức là bốn niệm xứ. Thế nào là bốn?
4) -- Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
trú, quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục
tham ưu ở đời... trú, quán thọ trên các cảm thọ, nhiệt tâm, tỉnh
giác, chánh niệm... trú, quán tâm trên tâm, nhiệt tâm, tỉnh giác... trú,
quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục
tham ưu ở đời.
5) Có con đường độc nhất này,
này các Tỷ-kheo, khiến cho các loài hữu tình được thanh tịnh, vượt qua
được sầu bi, chấm dứt khổ ưu, chứng đạt chánh lý, chứng ngộ Niết-bàn.
Con đường ấy tức là bốn niệm xứ.
6) Thế Tôn thuyết như vậy. Các Tỷ-kheo
ấy hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn nói.
2. II. Chánh Niệm (Tạp 24,6-7, Đại
2,171b) (S.v,142)
1) Một thời Thế Tôn ở Vesàli, tại
rừng Ambapàli.
2) Ở đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo...
3) -- Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo cần
phải trú chánh niệm, tỉnh giác. Đây là lời giáo giới của Ta cho các
Ông.
4) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
Tỷ-kheo chánh niệm? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo trú, quán thân trên
thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời... quán
thọ trên các thọ... quán tâm trên tâm... quán pháp trên các pháp, nhiệt
tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời. Như vậy, này
các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo chánh niệm.
5) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
Tỷ-kheo tỉnh giác? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo khi đi tới, khi đi
lui, đều tỉnh giác; khi nhìn, tới khi nhìn lui, đều tỉnh giác; khi co
cánh tay, duỗi cánh tay, đều tỉnh giác; khi đắp y Tăng-già-lê, khi mang y
bát, đều tỉnh giác; khi ăn uống, nhai nếm, đều tỉnh giác; khi đi tiểu
tiện, đại tiện, đều tỉnh giác; khi đi, đứng, ngồi, ngủ, thức, nói,
im lặng, đều tỉnh giác. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo tỉnh
giác.
6) Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo hãy
chánh niệm, tỉnh giác. Đây là lời giáo giới của Ta cho các Ông.
3. III. Tỷ Kheo (Tạp 24,37, Đại
2,176A) (S.v,142)
1) Một thời Thế Tôn trú ở
Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika.
2) Rồi một Tỷ-kheo đi đến Thế
Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi một
bên, Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
3) -- Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu
Thế Tôn thuyết pháp vắn tắt cho con. Sau khi nghe Thế Tôn thuyết pháp, con
sẽ sống một mình, an tịnh, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần. Và như
vậy có thể có những người nghi ngờ pháp ấy và họ thẩm tra con; sau
khi con nói pháp cho họ, họ nghĩ rằng đi theo con sẽ có lợi ích cho họ.
Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy thuyết pháp vắn tắt cho con. Thiện Thệ hãy
thuyết pháp vắn tắt cho con. Chắc chắn con có thể hiểu lời Thế Tôn
thuyết. Chắc chắn con có thể trở thành người thừa tự lời Thế Tôn dạy.
4) -- Vậy này Tỷ-kheo, Ông phải gột
sạch hai pháp cơ bản về các thiện pháp. Và thế nào là hai pháp cơ bản
về các thiện pháp? Chính là giới khéo thanh tịnh, và tri kiến chánh trực.
Này Tỷ-kheo, khi nào Ông được giới khéo thanh tịnh và tri kiến chánh trực,
này Tỷ-kheo, Ông hãy y cứ trên giới, an trú trên giới, tu tập bốn niệm
xứ theo ba cách. Thế nào là bốn?
5) Ở đây, này Tỷ-kheo, Ông hãy
trú, quán thân trên nội thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục
tham ưu ở đời. Hay Ông hãy trú, quán thân trên ngoại thân, nhiệt tâm, tỉnh
giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời. Hay Ông hãy trú, quán thân
trên nội ngoại thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham
ưu ở đời. Hay Ông hãy trú, quán thọ trên các nội thọ... Hay Ông hãy
trú, quán tâm trên các nội tâm... Hay Ông hãy trú, quán pháp trên các nội
pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời. Hay
Ông hãy trú, quán pháp trên các ngoại pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh
niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời. Hay Ông hãy trú, quán pháp trên các nội
ngoại pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời.
Này Tỷ-kheo, khi nào Ông y cứ trên
giới, an trú trên giới và tu tập bốn niệm xứ theo ba cách như vậy; khi
ấy, này Tỷ-kheo, hoặc đêm hay ngày, chờ đợi là tăng trưởng trong các
thiện pháp, không phải là tổn giảm.
6) Rồi Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ
lời Thế Tôn dạy, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân
phía hữu hướng về Ngài rồi ra đi.
7) Rồi Tỷ-kheo ấy sống một mình
an tịnh, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, không bao lâu đạt được
mục đích mà một thiện nam tử xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không
gia đình hướng đến: Chính là vô thượng cứu cánh Phạm hạnh, ngay trong
hiện tại, vị ấy tự mình với thắng trí, chứng ngộ, chứng đạt và
an trú. Vị ấy rõ biết: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những
việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa".
8) Tỷ-kheo ấy trở thành một vị
A-la-hán nữa.
4. IV. Sàlà (Tạp 24,29, Đại
2,173c) (S.v,144)
1) Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú giữa dân
chúng Kosala, tại một làng Bà-la-môn tên là Sàlà.
2) Ở đây, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo...
Thế Tôn nói như sau:
3) -- Những Tỷ-kheo nào, này các Tỷ-kheo,
mới tu, xuất gia chẳng bao lâu, mới đến trong Pháp Luật này; những Tỷ-kheo
ấy, này các Tỷ-kheo, cần phải được khích lệ (samàdapetabbà), cần phải
được hướng dẫn, cần phải được an trú, tu tập bốn niệm xứ. Thế
nào là bốn?
4) "Hãy đến, này chư Hiền, hãy
trú, quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chuyên chú, với tâm thanh
tịnh, định tĩnh, nhất tâm, để có chánh trí như thật đối với thân.
Hãy trú, quán thọ trên các thọ, nhiệt tâm, tỉnh giác, chuyên chú, với
tâm thanh tịnh, định tĩnh, nhất tâm để có chánh trí như thật đối với
các thọ. Hãy trú, quán tâm trên tâm, nhiệt tâm, tỉnh giác, chuyên chú, với
tâm thanh tịnh, định tĩnh, nhất tâm, để có chánh trí như thật đối với
tâm. Hãy trú, quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chuyên chú, với
tâm thanh tịnh, định tĩnh, nhất tâm, để có chánh trí như thật đối với
các pháp".
5) Này các Tỷ-kheo, có những Tỷ-kheo
hữu học, tâm chưa thành tựu, đang sống cần cầu vô thượng an ổn khỏi
các khổ ách. Các vị ấy trú, quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác,
chuyên chú, với tâm thanh tịnh, định tĩnh, nhứt tâm để liễu tri về thân.
Các vị ấy trú, quán thọ trên các thọ, nhiệt tâm, tỉnh giác, chuyên
chú, với tâm thanh tịnh, định tĩnh, nhứt tâm để liễu tri về thọ. Các
vị ấy trú, quán tâm trên tâm... để liễu tri về tâm. Các vị ấy trú,
quán pháp trên pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chuyên chú, với tâm thanh tịnh,
định tĩnh, nhất tâm để liễu tri về các pháp.
6) Này các Tỷ-kheo, những Tỷ-kheo
nào là bậc A-la-hán, các lậu đã tận, tu hành thành mãn, các việc nên
làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã thành đạt lý tưởng, đã tận
trừ hữu kiết sử, chánh trí, giải thoát; các vị ấy trú, quán thân
trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chuyên chú, với tâm thanh tịnh, định
tĩnh, nhứt tâm, ly hệ phược đối với thân. Các vị ấy trú, quán thọ
trên các thọ... Các vị ấy trú, quán tâm trên tâm... Các vị ấy trú,
quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chuyên chú, với tâm thanh tịnh,
định tĩnh, nhứt tâm, ly hệ phược đối với các pháp.
7) Này các Tỷ-kheo, những Tỷ-kheo
nào mới tu, xuất gia chẳng bao lâu, mới đến trong Pháp Luật này; những
vị ấy, này các Tỷ-kheo, cần phải được khích lệ, cần phải được
hướng dẫn, cần phải được an trú, tu tập bốn niệm xứ này.
5. V. Một Đống Thiện (Tạp
24,28, Đại 2,171b) (S.v,145)
1-2) Tại Sàvatthi. Ở đấy, Thế Tôn
nói như sau:
3) -- Đống bất thiện, này các Tỷ-kheo,
nếu có ai nói là năm triền cái, người ấy nói một cách chơn chánh.
Toàn bộ đống bất thiện này, này các Tỷ-kheo, tức là năm triền cái.
Thế nào là năm?
4) Dục tham triền cái, sân triền
cái, hôn trầm thụy miên triền cái, trạo hối triền cái, nghi hoặc triền
cái. Đống bất thiện này, này các Tỷ-kheo, nếu có ai nói là năm triền
cái, người ấy nói một cách chơn chánh. Toàn bộ đống bất thiện này,
này các Tỷ-kheo, tức là năm triền cái.
5) Đống thiện, này các Tỷ-kheo, nếu
có ai nói là bốn niệm xứ, người ấy nói một cách chơn chánh. Toàn bộ
đống thiện này, này các Tỷ-kheo, tức là bốn niệm xứ. Thế nào là bốn?
6) Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
trú, quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục
tham ưu ở đời... quán thọ trên các thọ... quán tâm trên tâm... quán
pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu
ở đời. Đống thiện này, này các Tỷ-kheo, nếu có ai nói là bốn niệm
xứ, người ấy nói một cách chơn chánh. Toàn bộ đống thiện này, này
các Tỷ-kheo, tức là bốn niệm xứ.
6. VI. Con Chim Ưng (Sakunagghi) (Tạp
24,15, Đại 2,172c) (S.v,146)
1-2)...
3) -- Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, một
con chim ưng cái thình lình vồ xuống và chụp lấy một con chim cút.
4) Rồi này các Tỷ-kheo, con chim
cút bị con chim ưng cái bắt, than khóc như sau:
"-- Như thế này, thật bất hạnh
cho tôi! Thật thiếu công đức cho tôi! Vì rằng tôi đã đi không phải chỗ
hành xứ của mình, đi vào cảnh giới của người khác. Nếu tôi đi trong
chỗ hành xứ của tôi, trong cảnh giới của cha mẹ tôi, thời con chim ưng
này không thể hơn tôi, nếu phải đánh nhau".
"-- Này Chim cút, thế nào là chỗ
hành xứ của ngươi, thế nào là cảnh giới của cha mẹ ngươi?"
-- "Là vạt đất được lưỡi
cày xới lên".
5) Rồi này các Tỷ-kheo, con chim
ưng cái không có siết mạnh sức mạnh của mình, không có bóp chặt sức
mạnh của mình, thả con chim cút rồi nói:
-- "Hãy đi, này Chim cút. Sau khi
đi tại chỗ ấy, ta sẽ không thả cho ngươi".
6) Rồi này các Tỷ-kheo, con chim
cút đi đến vạt đất được lưỡi cày xới lên, leo lên một hòn đất
lớn, đứng trên ấy và nói với con chim ưng:
"-- Này, hãy đến ta, Chim ưng!
Này, hãy đến ta, này Chim ưng!"
7) Rồi này các Tỷ-kheo, con chim
ưng cái siết mạnh sức mạnh của mình, bóp chặt sức mạnh của mình, xếp
cả hai cánh, thình lình vồ lấy con chim cút. Này các Tỷ-kheo, khi con chim
cút biết được: "Con chim ưng này đang vồ mạnh xuống ta", liền
nấp sau hòn đất ấy. Này các Tỷ-kheo, ở đây, con chim ưng bị bể ngực.
8) Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, đối
với ai đi tới chỗ không phải hành xứ của mình, đi đến cảnh giới của
người khác. Do vậy, này các Tỷ-kheo, chớ có đi đến chỗ không phải
hành xứ của mình, chỗ cảnh giới của người khác. Này các Tỷ-kheo, đi
đến chỗ không phải hành xứ của mình, đi đến cảnh giới của người
khác, thời Ác ma nắm được cơ hội, Ác ma nắm được đối tượng.
9) Này các Tỷ-kheo, chỗ nào không
phải hành xứ của Tỷ-kheo? Chỗ nào là cảnh giới của người khác?
Chính là năm dục công đức. Thế nào là năm?
10) Có các sắc do mắt nhận thức
khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Có
các tiếng do tai nhận thức... Có các hương do mũi nhận thức... Có các vị
do lưỡi nhận thức... Có các xúc do thân nhận thức khả lạc, khả hỷ,
khả ý, khả ái, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Này các Tỷ-kheo, đây là
chỗ không phải hành xứ của Tỷ-kheo, chỗ cảnh giới của người khác.
11) Này các Tỷ-kheo, hãy đi đến
chỗ hành xứ của mình, chỗ cảnh giới của cha mẹ mình. Này các Tỷ-kheo,
đi đến chỗ hành xứ của mình, đến cảnh giới của cha mẹ mình, thời
Ác ma không nắm được cơ hội, không nắm được đối tượng.
12) Và này các Tỷ-kheo, chỗ nào
là chỗ hành xứ của Tỷ-kheo? Chỗ nào là cảnh giới của cha mẹ? Chính
là bốn niệm xứ. Thế nào là bốn?
13) Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
trú, quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục
tham ưu ở đời; trú, quán thọ trên các thọ...; trú, quán tâm trên
tâm...; trú, quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm,
nhiếp phục tham ưu ở đời. Này các Tỷ-kheo, đây là chỗ hành xứ của
mình, chỗ cảnh giới của cha mẹ mình.
7. VII. Con Vượn (Tạp 24,18, Đại
2,173b) (S.v,148)
1-2)...
3) -- Này các Tỷ-kheo, tại núi
chúa Tuyết sơn có khoảnh đất gồ ghề, không thăng bằng, chỗ ấy không
có các loài vượn, loài người qua lại.
4) Này các Tỷ-kheo, tại núi chúa
Tuyết sơn có những khoảng đất ghồ ghề, không bằng phẳng, chỗ ấy chỉ
có loài vượn qua lại, không có loài người.
5) Tại núi chúa Tuyết sơn, có những
khoảnh đất bằng phẳng, khả ái. Tại chỗ ấy có các loài vượn và
loài người qua lại. Tại đấy, này các Tỷ-kheo, những người thợ săn
đặt các bẫy nhựa (lepam) trên những con đường có vượn qua lại để bắt
các con vượn. Ở đây, này các Tỷ-kheo, những con vượn nào tánh không
ngu si, không tham ăn, thấy bẫy nhựa ấy liền tránh xa. Còn con vượn nào
ngu si, tham ăn, thấy bẫy nhựa ấy, thò tay nắm lấy và bị dính vào đấy.
"Ta sẽ gỡ bàn tay ra", nó thò bàn tay thứ hai nắm lấy và bị
dính ở đấy. "Ta sẽ gỡ hai tay ra", nó giơ chân nắm lấy và bị
dính ở đấy. "Ta sẽ gỡ hai bàn tay và bàn chân ra", nó giơ bàn
chân thứ hai nắm lấy và bị dính ở đấy. "Ta sẽ gỡ cả hai tay và
hai chân", nó dùng miệng ngậm lấy và bị mắc dính ở đấy.
6) Như vậy, này các Tỷ-kheo, con vượn
bị bắt năm chỗ, liền rên la nằm xuống, rơi vào bất hạnh, rơi vào khổ
não, bị người thợ săn muốn làm gì thì làm. Này các Tỷ-kheo, người thợ
săn đâm chết nó, nướng nó trên đống than củi, và ra đi, theo sở thích
của mình.
7) Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, là
người đi đến chỗ không phải hành xứ của mình, chỗ cảnh giới của
người khác. Này các Tỷ-kheo, đi đến chỗ không phải hành xứ của
mình, chỗ cảnh giới của người khác, Ác ma nắm được cơ hội, Ác ma nắm
được đối tượng.
8) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
không phải chỗ hành xứ của Tỷ-kheo, chỗ cảnh giới của người khác?
Tức là năm dục công đức. Thế nào là năm?
9) Các sắc do mắt nhận thức khả
lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến dục, hấp dẫn... Các xúc
do thân nhận thức khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến dục,
hấp dẫn. Này các Tỷ-kheo, đây không phải là chỗ hành xứ của Tỷ-kheo,
là chỗ cảnh giới của người khác.
10) Này các Tỷ-kheo, hãy đi đến
chỗ hành xứ của mình, chỗ cảnh giới của cha mẹ mình. Này các Tỷ-kheo,
đi đến chỗ hành xứ của mình, đến chỗ cảnh giới của cha mẹ mình,
Ác ma không nắm được cơ hội, Ác ma không nắm được đối tượng.
11) Và này các Tỷ-kheo, thế nào
là hành xứ của Tỷ-kheo, là cảnh giới của cha mẹ mình? Tức là bốn niệm
xứ. Thế nào là bốn?
12) Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
trú, quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục
tham ưu ở đời...; trú, quán thọ trên các cảm thọ...; trú, quán tâm
trên tâm...; trú, quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm,
nhiếp phục tham ưu ở đời. Này các Tỷ-kheo, đây là chỗ hành xứ của
Tỷ-kheo, chỗ cảnh giới của cha mẹ mình.
8. VIII. Người Đầu Bếp (Tạp
24,14, Đại 2,172b) (S.v,149)
I.
1)...
2-3) -- Ví như, này các Tỷ-kheo, một
người đầu bếp ngu si, không thông minh, không khéo léo, được giao lo liệu
các thứ xúp sai khác cho vua hay cho các đại thần của vua, như xúp chua, đắng,
cay, ngọt, chất kiềm, không phải chất kiềm (khàrikehi pi akhàrikehi pi), chất
mặn, không phải chất mặn.
4) Này các Tỷ-kheo, người đầu bếp
ngu si, không thông minh, không khéo léo ấy không nắm được sở thích về
việc ăn uống của người chủ của mình (bhattasa hay bhattuno?): "Hôm
nay, chủ ta thích món xúp này", hay: "Món xúp này chủ ta lấy
ăn", hay : "Món xúp này chủ ta dùng nhiều", hay: "Chủ ta
tán thán món xúp này". "Hôm nay, chủ ta thích món xúp chua
này", hay: "Món xúp chua này chủ ta lấy ăn", hay: "Món xúp
chua này, chủ ta dùng nhiều", hay : "Chủ ta tán thán xúp chua
này". "Hôm nay, chủ ta thích món xúp đắng này"... hay :
"Hôm nay, chủ ta thích món xúp cay này"... hay: "Hôm nay, chủ ta
thích món xúp ngọt này"... hay: "Hôm nay, chủ ta thích món xúp chất
kiềm này"... hay: "Hôm nay, chủ ta thích món xúp không phải chất
kiềm này"... hay: "Hôm nay, chủ ta thích món xúp không phải chất mặn
này", hay: "Món xúp không phải mặn này chủ ta lấy ăn", hay:
"Món xúp không phải mặn này chủ ta dùng nhiều", hay: "Chủ ta
tán thán món xúp không phải mặn này".
5) Và này các Tỷ-kheo, người đầu
bếp ngu si, không thông minh, không khéo léo ấy không nhận được đồ mặc,
không nhận được lương bổng, không nhận được tiền thưởng. Vì sao?
Vì rằng, này các Tỷ-kheo, kẻ đầu bếp ngu si, không thông minh, không
khéo léo ấy không nắm được sở thích về việc ăn uống của người chủ
của mình.
6) Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ở
đây, có Tỷ-kheo ngu si, không thông minh, không khéo léo, trú, quán thân
trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời.
Dầu vị ấy trú, quán thân trên thân, nhưng tâm không định tĩnh, các phiền
não không được đoạn tận; vị ấy không học được tướng ấy. Dầu vị
ấy trú, quán thọ trên các thọ.. quán tâm trên tâm... Vị ấy trú, quán
pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu
ở đời. Dầu vị ấy trú, quán pháp trên các pháp, nhưng tâm không định
tĩnh, các phiền não không được đoạn tận; vị ấy không học được
tướng ấy.
7) Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ngu si,
không thông minh, không khéo léo ấy, không được lạc trú ngay trong hiện tại,
không được tỉnh giác. Vì sao? Vì rằng, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ngu si,
không thông minh, không khéo léo ấy, không học được tướng tâm của
mình.
II.
8) Ví như, này các Tỷ-kheo, có người
đầu bếp có trí, thông minh, khéo léo, được giao lo liệu các thứ xúp
sai khác cho các vua hay cho các đại thần của vua, như xúp chua, đắng, cay,
ngọt, chất kiềm, không phải chất kiềm, chất mặn hay không phải chất
mặn. Này các Tỷ-kheo, người đầu bếp có trí, thông minh, khéo léo ấy nắm
được sở thích về việc ăn uống của người chủ mình: "Hôm nay, chủ
ta thích món xúp này", hay: "Món xúp này chủ ta lấy ăn", hay :
"Món xúp này chủ ta dùng nhiều", hay: "Món xúp này chủ ta tán
thán", hay: "Hôm nay, chủ ta thích món xúp chua này", hay :
"Món xúp chua này chủ ta lấy ăn", hay: "Món xúp chua này chủ
ta dùng nhiều", hay : "Món xúp chua này chủ ta tán thán".
"Hôm nay, chủ ta thích món xúp đắng này"... "Hôm nay, chủ ta
thích món xúp cay này"... "Hôm nay, chủ ta thích món xúp ngọt
này"... "Hôm nay, chủ ta thích món xúp vị kiềm này"...
"Hôm nay, chủ ta thích món xúp không vị kiềm này"...: "Hôm
nay, chủ ta thích món xúp vị mặn này"... "Hôm nay, chủ ta thích
món xúp không mặn này", hay: "Món xúp không mặn này chủ ta lấy
ăn", hay: "Món xúp không mặn này chủ ta dùng nhiều", hay:
"Món xúp không mặn này chủ ta tán thán".
9) Này các Tỷ-kheo, người đầu bếp
có trí, thông minh, khéo léo ấy nhận được đồ mặc, nhận được
lương bổng, nhận được tiền thưởng. Vì sao? Vì rằng, này các Tỷ-kheo,
người đầu bếp có trí, thông minh, khéo léo ấy nắm được sở thích về
việc ăn uống của người chủ của mình.
10) Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ở
đây, có Tỷ-kheo có trí, thông minh, khéo léo, trú, quán thân trên thân, nhiệt
tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời. Do vị ấy trú,
quán thân trên thân, tâm được định tĩnh, các phiền não được đoạn tận;
vị ấy học được tướng ấy. Vị ấy trú, quán thọ trên các thọ...
quán tâm trên tâm... quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh
niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời. Do vị ấy trú, quán pháp trên các
pháp, tâm được định tĩnh, các phiền não được đoạn tận; vị ấy học
được tướng ấy.
11) Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo có
trí, thông minh, khéo léo ấy, ngay trong hiện tại, chứng được lạc trú,
chứng được chánh niệm tỉnh giác. Vì sao? Vì rằng, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
có trí, thông minh, khéo léo ấy, học được tướng tâm của mình.
9. IX. Bệnh (Trường 2, Đại
1,15ab) (S.v,152)
1) Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú ở Vesàli,
tại làng Beluva.
2) Ở đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
-- Hãy đến, này các Tỷ-kheo, hãy
an cư vào mùa mưa xung quanh Vesàli, chỗ nào có bạn bè, có người quen biết
(sandittham), có người thân thiết (sambhattam). Ở đây, Ta sẽ an cư mùa mưa
tại làng Veluva này.
-- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế
Tôn, an cư mùa mưa xung quanh Vesàli, tại chỗ có bạn bè, có người quen biết,
có người thân thiết. Còn Thế Tôn thời an cư mùa mưa tại làng Beluva.
3) Trong khi Thế Tôn an cư mùa mưa,
một cơn bệnh trầm trọng khởi lên, những cảm thọ khốc liệt gần như
chết tiếp diễn. Ở đây, Thế Tôn chánh niệm, tỉnh giác, không có than
vãn.
4) Rồi Thế Tôn suy nghĩ: "Thật
không tương xứng đối với Ta, nếu Ta không báo trước các vị ủng hộ
Ta và không từ giã chúng Tỷ-kheo mà nhập Niết-bàn. Vậy Ta hãy tinh tấn
nhiếp phục trọng bệnh này, lưu giữ mạng hành (jìvitasankhàra) và sống".
Rồi Thế Tôn với sức tinh tấn nhiếp phục trọng bệnh ấy, lưu giữ mạng
hành và sống.
5) Rồi Thế Tôn thoát khỏi cơn bệnh;
thoát khỏi cơn bệnh không bao lâu, Ngài đi ra khỏi nhà bệnh, ngồi trên
chỗ đã soạn sẵn, trong bóng im, sau lưng ngôi nhà.
6) Rồi Tôn giả Ananda đi đến Thế
Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi một
bên, Tôn giả Ananda bạch Thế Tôn:
-- Bạch Thế Tôn, con thấy Thế
Tôn kham nhẫn! Bạch Thế Tôn, con thấy Thế Tôn chịu đựng! Bạch Thế Tôn,
thân con cảm thấy yếu ớt như lau sậy, mắt con mờ mịt không thấy rõ
phương hướng. Pháp không được tỏ rõ cho con vì Thế Tôn bị bệnh. Nhưng
bạch Thế Tôn, con được chút an ủi rằng Thế Tôn sẽ không diệt độ,
nếu Ngài không có lời di giáo lại cho chúng Tỷ-kheo.
7) -- Này Ananda, chúng Tỷ-kheo còn
mong mỏi gì nữa ở nơi Ta. Này Ananda, Ta giảng pháp không có phân biệt
trong ngoài. Vì, này Ananda, đối với các pháp, Như Lai không bao giờ là vị
Đạo Sư còn nắm tay. Này Ananda, những ai nghĩ rằng Ta sẽ là vị cầm đầu
chúng Tỷ-kheo, hay : Chúng Tỷ-kheo chịu sự giáo huấn của Ta, thời này
Ananda, người ấy sẽ có lời di giáo cho chúng Tỷ-kheo. Này Ananda, Như Lai
không có nghĩ rằng: "Ta sẽ là vị cầm đầu chúng Tỷ-kheo", hay
"Chúng Tỷ-kheo chịu sự giáo huấn của Ta", thời này Ananda, làm
sao Như Lai lại có lời di giáo cho chúng Tỷ-kheo?
8) Này Ananda, Ta nay đã già, bậc trưởng
thượng, bậc trưởng lão, đã đạt đến đoạn cuối của đời, đã đến
tám mươi tuổi. Này Ananda, như cỗ xe đã già mòn, sở dĩ còn chạy được
là nhờ dây thừng chằng chịt. Cũng vậy, thân Như Lai được duy trì sự
sống giống như chính nhờ dây thừng chằng chịt.
9) Này Ananda, chỉ trong khi Như Lai
không tác ý đến tất cả tướng, với sự diệt trừ một số cảm thọ,
chứng và an trú vô tướng tâm định, chính khi ấy, thân Như Lai được
thoải mái. Vậy này Ananda, hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình, hãy tự
mình nương tựa chính mình, chớ nương tựa một điều gì khác. Dùng
Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, chớ nương
tựa một gì khác. Và này Ananda, thế nào là Tỷ-kheo tự mình là ngọn đèn
cho chính mình, tự mình nương tựa chính mình, không nương tựa một điều
gì khác, dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa,
không nương tựa một gì khác?
10) Này Ananda, ở đây, Tỷ-kheo
trú, quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục
tham ưu ở đời; quán thọ trên các thọ... quán tâm trên tâm... quán pháp
trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở
đời. Này Ananda, như vậy là Tỷ-kheo tự mình là ngọn đèn cho chính
mình, tự mình nương tựa cho chính mình, không nương tựa một điều gì
khác, dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa,
không nương tựa một điều gì khác.
11) Này Ananda, những ai hiện nay hoặc
sau khi Ta diệt độ, tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương
tựa chính mình, không nương tựa một điều gì khác, dùng Chánh pháp làm
ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa vào một
gì khác; những vị ấy, này Ananda, là những vị tối thượng trong hàng Tỷ-kheo
của Ta, nếu những vị ấy tha thiết học hỏi.
10. X. Trú Xứ Tỷ KheoNi (Tạp
24,13, Đại 2,172,172a) (S.v,154)
1) Tại Sàvatthi...
2) Rồi Tôn giả Ananda, vào buổi
sáng, đắp y, cầm y bát đi đến một trú xứ của Tỷ-kheo-ni; sau khi đến,
ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn.
Rồi một số đông Tỷ-kheo-ni đến
Tôn giả Ananda; sau khi đến, đảnh lễ Tôn giả Ananda rồi ngồi xuống một
bên. Ngồi một bên, các Tỷ-kheo-ni ấy thưa với Tôn giả Ananda:
3) -- Ở đây, bạch Thượng tọa
Ananda, một số đông Tỷ-kheo-ni sống khéo an trú tâm trên bốn niệm xứ,
đạt được sự rõ biết (sampajànanti) quảng đại, trước sau thù thắng.
-- Như vậy là phải, này các Đại
tỷ! Như vậy là phải, này các Đại tỷ! Này các Đại tỷ, Tỷ-kheo hay Tỷ-kheo-ni
nào sống với tâm khéo an trú trong bốn niệm xứ, vị ấy được chờ đợi
sẽ đạt được sự rõ biết quảng đại, trước sau thù thắng.
4) Rồi Tôn giả Ananda với bài
pháp thoại, sau khi tuyên thuyết cho các Tỷ-kheo-ni ấy, khích lệ, làm cho
phấn khởi, làm cho hoan hỷ, từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi.
5) Rồi Tôn giả Ananda sau khi đi khất
thực ở Sàvatthi, sau buổi ăn, trên con đường khất thực trở về, đi đến
Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn, rồi ngồi xuống một bên. Ngồi
một bên, Tôn giả Ananda bạch Thế Tôn:
-- Ở đây, bạch Thế Tôn, con, vào
buổi sáng, đắp y, cầm y bát đi đến một trú xứ của Tỷ-kheo-ni, sau
khi đến, con ngồi trên chỗ đã soạn sẵn. Rồi, bạch Thế Tôn, một số
đông Tỷ-kheo-ni đi đến con, sau khi đến, đảnh lễ con rồi ngồi xuống
một bên. Ngồi một bên, bạch Thế Tôn, các Tỷ-kheo-ni ấy thưa với con:
"Ở đây, bạch Thượng tọa Ananda, một số đông Tỷ-kheo-ni sống
khéo an trú tâm trên bốn niệm xứ, đạt được sự rõ biết quảng đại,
trước sau thù thắng". Khi được nói vậy, bạch Thế Tôn, con nói với
các Tỷ-kheo-ni ấy: "Như vậy là phải, này các Đại tỷ! Như vậy là
phải, này các Đại tỷ! này các Đại tỷ, Tỷ-kheo hay Tỷ-kheo-ni nào sống
với tâm khéo an trú trong bốn niệm xứ, vị ấy được chờ đợi sẽ đạt
được sự rõ biết quảng đại, trước sau thù thắng".
6) -- Như vậy là phải, này Ananda!
Như vậy là phải, này Ananda! Này Ananda, Tỷ-kheo hay Tỷ-kheo-ni nào sống với
tâm khéo an trú trên bốn niệm xứ, vị ấy được chờ đợi sẽ đạt
được sự rõ biết quảng đại, trước sau thù thắng. Thế nào là bốn?
7) Ở đây, này Ananda, Tỷ-kheo sống,
quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham
ưu ở đời. Vị ấy trú, quán thân trên thân, hoặc thân sở duyên
(kàyàrammano) khởi lên, hoặc thân nhiệt não (kàyasmin parilàho), hoặc tâm
thụ động, hoặc tâm phân tán hướng ngoại (bahiddha va cittam vikkhipati); do
vậy, này Ananda, Tỷ-kheo cần phải hướng tâm đến một tướng tịnh tín
(pasàdaniyenimitta). Do vị ấy hướng tâm đến một tướng tịnh tín, hân
hoan (pàmujjam: Thắng hỷ) sanh. Người có tâm hân hoan, hỷ sanh. Người có
tâm hỷ, thân được khinh an. Người có tâm khinh an, lạc thọ sanh. Người
có tâm lạc thọ, tâm được định tĩnh. Vị ấy tư sát như sau: "Mục
đích mà ta hướng tâm đến, mục đích ấy đã đạt được. Nay ta rút
lui (patisamharàmi) (khỏi đối tượng tịnh tín)". Vị ấy rút lui,
không tầm, không tứ. Vị ấy rõ biết: "Không tầm, không tứ, nội
tâm chánh niệm, ta được an lạc".
8-9) Lại nữa, này Ananda, Tỷ-kheo sống,
quán thọ trên các thọ... sống, quán tâm trên tâm...
10) Vị ấy sống, quán pháp trên
các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời.
Vị ấy trú, quán pháp trên các pháp, hoặc thân sở duyên khởi lên, hoặc
thân nhiệt não, hoặc tâm thụ động, hoặc tâm phân tán, hướng ngoại;
do vậy, này Ananda, Tỷ-kheo cần phải hướng tâm đến một tướng tịnh tín.
Do vị ấy hướng tâm đến một tướng tịnh tín, hân hoan sanh. Người có
hân hoan, hỷ sanh. Người có tâm hỷ, thân được khinh an. Người có thân
khinh an, lạc thọ sanh. Người có lạc thọ, tâm được định tĩnh. Vị
ấy tư sát như sau: "Mục đích mà ta hướng tâm đến, mục đích ấy
đã đạt được. Nay ta rút lui (khỏi đối tượng tướng tịnh tín)".
Vị ấy rút lui, không tầm, không tứ. Vị ấy rõ biết: "Không tầm,
không tứ, nội tâm chánh niệm, ta được an lạc".
11) Như vậy, này Ananda, là sự tu tập
về hướng tâm.
12) Và này Ananda, thế nào là sự
tu tập không có hướng tâm?
13) Này Ananda, Tỷ-kheo tâm không hướng
ngoại, rõ biết: "Tâm ta không hướng ngoại". Rồi vị ấy rõ biết:
"Tâm ta không chấp thủ đối với cái gì ở trước, hay cái gì ở sau
(pacchàpure), nhưng được giải thoát, không có hướng tâm". Rồi vị
ấy rõ biết: "Ta trú, quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác,
chánh niệm, ta được an lạc".
14) Này Ananda, Tỷ-kheo tâm không hướng
ngoại, rõ biết: "Tâm ta không hướng ngoại". Rồi vị ấy rõ biết:
"Tâm ta không chấp thủ đối với cái gì ở trước, hay cái gì ở
sau, nhưng được giải thoát, không có hướng tâm". Rồi vị ấy rõ biết:
"Ta trú, quán thọ trên các thọ, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, ta
được an lạc".
15) Này Ananda, Tỷ-kheo tâm không hướng
ngoại, rõ biết: "Tâm ta không hướng ngoại". Rồi vị ấy rõ biết:
"Tâm ta không chấp thủ đối với cái gì ở trước... Rồi vị ấy rõ
biết: "Ta trú, quán tâm trên tâm, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm,
ta được an lạc".
16) Này Ananda, Tỷ-kheo tâm không hướng
ngoại... Rồi vị ấy rõ biết: "Ta trú, quán pháp trên các pháp, nhiệt
tâm, tỉnh giác, chánh niệm, ta được an lạc".
17) Như vậy, này Ananda, là tu tập
không có hướng tâm.
18) Như vậy, này Ananda, Ta thuyết
tu tập có hướng tâm; Ta thuyết tu tập không có hướng tâm. Những gì,
này Ananda, một bậc Đạo Sư cần phải làm vì hạnh phúc, vì lòng thương
tưởng đối với các đệ tử, vì lòng từ mẫn khởi lên, những việc
ấy, Ta đã làm cho các Ông. Này Ananda, đây là những gốc cây. Đây là những
nhà trống. Hãy tu Thiền, này Ananda. Chớ có phóng dật. Chớ có hối hận
về sau. Đây là lời giáo giới của Ta cho các Ông.
19) Thế Tôn thuyết giảng như vậy,
Tôn giả Ananda hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy.
II. Phẩm Nàlanda
11. I. Đại Nhân (Tạp 24,12, Đại
2,172a) (S.v,158)
1) Nhân duyên ở Sàvatthi.
2) Rồi Tôn giả Sàriputta đi đến
Thế Tôn... Ngồi một bên, Tôn giả Sàriputta bạch Thế Tôn:
3) -- "Đại nhân, đại nhân",
bạch Thế Tôn, được nói đến như vậy. Cho đến như thế nào, bạch Thế
Tôn, được gọi là đại nhân?
-- Với tâm giải thoát, này
Sàriputta, Ta gọi là đại nhân. Không có tâm giải thoát, Ta không gọi là
đại nhân. Và này Sàriputta, thế nào là tâm giải thoát?
4) Ở đây, này Sàriputta, một Tỷ-kheo
trú, quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục
tham ưu ở đời. Khi vị ấy trú, quán thân trên thân, tâm được ly tham,
được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp thủ;... Trú, quán
thọ trên các thọ... trú, quán tâm trên tâm... trú, quán pháp trên các
pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời. Khi
vị ấy trú, quán pháp trên các pháp, tâm được ly tham, được giải thoát
khỏi các lậu hoặc, không có chấp thủ.
5) Như vậy, này Sàriputta, là tâm
giải thoát. Với tâm giải thoát, này Sàriputta, Ta gọi là đại nhân.
Không có tâm giải thoát, Ta không gọi là đại nhân.
12. II. Nàlanda (Tạp 18,9 Đại
2,130c) (S.v,159)
1) Một thời, Thế Tôn trú ở
Nàlanda, tại rừng Pavàrikamba.
2) Rồi Tôn giả Sàriputta đi đến
Thế Tôn... Ngồi một bên, Tôn giả Sàriputta bạch Thế Tôn:
3) -- Như vậy, bạch Thế Tôn, là
lòng tịnh tín của con đối với Thế Tôn. Không thể đã có, không thể sẽ
có, không thể hiện có một Sa-môn hay Bà-la-môn nào khác có thể vĩ đại
hơn, thắng trí hơn Thế Tôn về Chánh giác.
-- Thật là đại ngôn (ulàra), này
Sàriputta, là lời tuyên bố như con ngưu vương này của Ông, lời tuyên bố
một chiều, tiếng rống của con sư tử: "Như vậy là lòng tịnh tín của
con đối với Thế Tôn. Không thể đã có, không thể sẽ có, không thể hiện
có một Sa-môn hay một Bà-la-môn nào khác, có thể vĩ đại hơn, thắng trí
hơn Thế Tôn về Chánh giác".
4) Này Sàriputta, đối với các vị
A-la-hán, Chánh Đẳng Giác trong thời quá khứ, tất cả các vị Thế Tôn
ấy, Ông có thể biết rõ tâm niệm với tâm của Ông rằng: "Các bậc
Thế Tôn ấy đã có giới đức như vậy. Các bậc Thế Tôn ấy đã có
pháp như vậy. Các bậc Thế Tôn ấy đã có tuệ như vậy. Các bậc Thế
Tôn ấy đã có hạnh trú như vậy. Các bậc Thế Tôn ấy đã giải thoát
như vậy"?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
5) -- Này Sàriputta, đối với các vị
A-la-hán, Chánh Đẳng Giác trong thời vị lai, tất cả các vị Thế Tôn ấy,
Ông có thể biết rõ tâm niệm với tâm của Ông: "Các bậc Thế Tôn
ấy sẽ có giới đức như vậy. Các bậc Thế Tôn ấy sẽ có pháp như vậy.
Các bậc Thế Tôn ấy sẽ có tuệ như vậy. Các bậc Thế Tôn ấy sẽ có
hạnh trú như vậy. Các bậc Thế Tôn ấy sẽ giải thoát như vậy"?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
6) -- Này Sàriputta, đối với các vị
A-la-hán, Chánh Đẳng Giác trong thời hiện tại, tất cả các bậc Thế
Tôn ấy, Ông có thể biết rõ tâm niệm với tâm của Ông rằng: "Các
bậc Thế Tôn ấy hiện có giới đức như vậy. Các bậc Thế Tôn ấy hiện
có pháp như vậy. Các bậc Thế Tôn ấy hiện có tuệ như vậy. Các bậc
Thế Tôn ấy hiện có hạnh trú như vậy. Các bậc Thế Tôn ấy hiện có
giải thoát như vậy"?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
7) -- Và này Sàriputta, ở đây, Ông
không có chánh trí với tâm của Ông biết được tâm của các vị
A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, quá khứ, vị lai, hiện tại; thời này
Sàriputta, do ý nghĩa gì Ông lại thốt ra lời đại ngôn, lời tuyên bố như
con ngưu vương, lời tuyên bố một chiều, tiếng rống tiếng con sư tử của
Ông rằng: "Như vậy là lòng tịnh tín của con đối với Thế Tôn.
Không thể đã có, không thể sẽ có, không thể hiện có một Sa-môn, hay
Bà-la-môn nào khác, có thể vĩ đại hơn, thắng trí hơn Thế Tôn về
Chánh giác"?
-- Bạch Thế Tôn, con không có
chánh trí với tâm của con biết được tâm các vị A-la-hán, Chánh Đẳng
Giác, quá khứ, vị lai, hiện tại, nhưng bạch Thế Tôn, con biết được
pháp truyền thống (dhammanvayo).
8) Ví như, bạch Thế Tôn, tại một
thành ở biên giới, với những hào lũy kiên cố, vững chắc, với những
thành quách, tháp canh kiên cố và chỉ có một cửa ra vào. Tại đấy, có
một người gác cửa sáng suốt, thông minh, có trí, không cho vào những người
lạ mặt, chỉ cho vào những người quen mặt. Trong khi người ấy đi tuần
đến con đường xung quanh thành trì ấy để xem, không thấy có một khe hở
ở tường nào, hay lỗ hổng ở tường nào, cho đến một con mèo có thể
lọt qua được. Và người ấy suy nghĩ rằng: "Có những sinh loại thô
lớn nào đi vào hay đi ra ngôi thành này, tất cả phải đi vào hay đi ra cửa
này". Như vậy, bạch Thế Tôn, là pháp truyền thống mà con được biết.
9) Bạch Thế Tôn, phàm có những bậc
A-la-hán, Chánh Đẳng Giác nào trong thời quá khứ, tất cả bậc Thế Tôn
ấy, sau khi đoạn tận năm triền cái, những pháp làm uế nhiễm tâm, làm
yếu kém trí tuệ, sau khi khéo an trú tâm trên bốn niệm xứ, sau khi như thật
tu tập bảy giác chi, đã chứng ngộ vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Bạch
Thế Tôn, phàm có những bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác nào trong thời vị
lai, tất cả các bậc Thế Tôn ấy, sau khi đoạn tận năm triền cái, các
pháp làm uế nhiễm tâm, làm yếu ớt trí tuệ, sau khi khéo an trú tâm trên
bốn niệm xứ, sau khi như thật tu tập bảy giác chi, sẽ chứng ngộ vô thượng
Chánh đẳng Chánh giác. Còn Thế Tôn, bạch Thế Tôn, là bậc A-la-hán,
Chánh Đẳng Giác, sau khi đoạn tận năm triền cái, những pháp làm uế nhiễm
tâm, làm yếu kém trí tuệ, sau khi khéo an trú tâm trên bốn niệm xứ, sau
khi như thật tu tập bảy giác chi, chứng ngộ vô thượng Chánh đẳng giác.
10) -- Lành thay, lành thay, này
Sàriputta! Ông hãy luôn luôn thuyết pháp thoại này cho các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni,
các nam cư sĩ, các nữ cư sĩ. Này Sàriputta, nếu có những người ngu si nào
còn có những nghi ngờ, hay những do dự đối với Như Lai sau khi nghe pháp
thoại này của Ta, sự nghi ngờ, do dự ấy của họ đối với Như Lai sẽ
trừ diệt.
13. III. Cunda (Tạp 24,39, Đại
2,176b) (S.v,161)
1) Một thời Thế Tôn trú ở
Sàvatthi, tại Thắng Lâm, khu vườn của ông Cấp Cô Độc.
2) Lúc bấy giờ, Tôn giả Sàriputta
trú ở Magadha, tại làng Nàla, bị bệnh, đau đớn, bị trọng bệnh. Và
Sa-di Cunda là thị giả của Tôn giả Sàriputta.
3) Tôn giả nhập Niết-bàn vì bệnh
ấy.
4) Rồi Sa-di Cunda cầm lấy y bát của
Tôn giả Sàriputta đi đến Sàvatthi, Thắng Lâm, tại khu vườn của ông Cấp
Cô Độc, đi đến Tôn giả Ananda; sau khi đến, đảnh lễ Tôn giả Ananda,
rồi ngồi xuống một bên. .. Ngồi một bên, Sa-di Cunda nói với Tôn giả
Ananda:
-- Bạch Thượng tọa, Tôn giả
Sàriputta đã mệnh chung. Đây là y bát của vị ấy.
5) -- Này Hiền giả Cunda, đây là
lý do để đến yết kiến Thế Tôn. Này Hiền giả Cunda, chúng ta hãy đi
đến Thế Tôn; sau khi đến, chúng ta hãy báo tin này cho Thế Tôn.
-- Thưa vâng, Thượng tọa.
Sa-di Cunda vâng đáp Tôn giả Ananda.
6) Rồi Tôn giả Ananda và Sa-di Cunda
đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một
bên. Ngồi một bên, Tôn giả Ananda bạch Thế Tôn:
-- Bạch Thế Tôn, Sa-di Cunda này thưa
như sau: "Bạch Thượng tọa, Tôn giả Sàriputta đã mệnh chung. Đây là
y và bát của vị ấy". Bạch Thế Tôn, thân con cảm thấy yếu ớt như
lau sậy (bàng hoàng) (madhurakajato). Các phương hướng không hiện ra rõ
ràng đối với con. Pháp sẽ không được giảng cho con, khi con nghe tin Tôn
giả Sàriputta đã mệnh chung.
7) -- Này Ananda, Sàriputta có đem
theo giới uẩn khi mệnh chung? Có đem theo định uẩn khi mệnh chung? Có đem
theo tuệ uẩn khi mệnh chung? Có đem theo giải thoát uẩn khi mệnh chung? Có
đem theo giải thoát tri kiến khi mệnh chung không?
-- Bạch Thế Tôn, Tôn giả
Sàriputta không đem theo giới uẩn khi mệnh chung, không đem theo định uẩn
khi mệnh chung, không đem theo tuệ uẩn khi mệnh chung, không đem theo giải
thoát uẩn khi mệnh chung, không đem theo giải thoát tri kiến khi mệnh chung.
Nhưng bạch Thế Tôn, Tôn giả Sàriputta là vị giáo giới cho con, là vị đã
vượt qua (bộc lưu), là bậc giáo thọ, là vị khai thị, khích lệ, làm
cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ, là vị thuyết pháp không biết mệt mỏi,
là vị hộ trì cho các đồng Phạm hạnh. Chúng con đều ức niệm rằng Tôn
giả Sàriputta là tinh ba của pháp (dhammojam), là tài sản của pháp
(dhammabhogam), là hộ trì của pháp.
8) -- Này Ananda, có phải trước đây
Ta đã từng tuyên bố với Ông rằng mọi pháp khả ái, khả ý đều có
tánh chất khác biệt, có tánh chất ly tán, có tánh chất đổi khác? Làm
sao, này Ananda, ở đây, lời ước nguyền này có thể thành tựu được:
"Mong rằng cái gì được sanh, được thành, là pháp hữu vi, là pháp bị
diệt hoại, lại có thể không bị diệt hoại!"? Sự kiện như vậy không
xảy ra.
9) Ví như, này Ananda, từ một cây
lớn mọc thẳng, có lõi cây, một cành cây lớn bị gãy đổ. Cũng vậy, này
Ananda, từ nơi chúng Tỷ-kheo đứng thẳng, có lõi cây, Sàriputta bị mệnh
chung. Làm sao, này Ananda, ở đây, lời ước nguyền này có thể thành tựu
được: "Mong sao cái gì được sanh, được thành, là pháp hữu vi, là
pháp bị diệt hoại, lại có thể không bị diệt hoại!"? Sự kiện như
vậy không xảy ra.
10) Do vậy, này Ananda, hãy tự mình
là ngọn đèn cho chính mình, hãy tự mình nương tựa chính mình, chớ nương
tựa một gì khác. Dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ
nương tựa, chớ nượng tựa một điều gì khác. Này Ananda, thế nào là Tỷ-kheo
tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa chính mình,
không nương tựa một điều gì khác, dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng
Chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một điều gì khác?
11) Ở đây, này Ananda, Tỷ-kheo
trú, quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục
tham ưu ở đời... trú, quán thọ trên các thọ... trú, quán tâm trên
tâm... trú, quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp
phục tham ưu ở đời. Như vậy, này Ananda, Tỷ-kheo tự mình là ngọn đèn
cho chính mình, tự mình nương tựa chính mình, không nương tựa một gì
khác, dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa,
không nương tựa một điều gì khác.
12) Này Ananda, những ai hiện nay,
hay sau khi Ta diệt độ, tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương
tựa chính mình, không nương tựa một điều gì khác, dùng Chánh pháp làm
ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một điều
gì khác; những vị ấy, này Ananda, là những vị tối thượng trong hàng Tỷ-kheo
của Ta, nếu những vị ấy tha thiết học hỏi.
14. IV. Celam (Tạp 24, 40, Đại
2,177a) (S.v,163)
1) Một thời Thế Tôn trú giữa
dân chúng Vajjii, tại Ukkacelà, trên bờ sông Hằng, với đại chúng Tỷ-kheo,
sau khi Tôn giả Sàriputta và Tôn giả Moggalàna mệnh chung không bao lâu.
2) Lúc bấy giờ Thế Tôn đang ngồi
ngoài trời, xung quanh có chúng Tỷ-kheo đoanh vây. Rồi Thế Tôn, sau khi
nhìn quanh chúng Tỷ-kheo im lặng, liền nói với các Tỷ-kheo:
3) -- Này các Tỷ-kheo, chúng này của
Ta được xem hình như trống không. Nay Sàriputta và Moggalàna đã mệnh
chung, này các Tỷ-kheo, chúng của Ta thành trống không. Phương hướng nào
Sàriputta và Moggalàna trú, phương hướng ấy không còn có ước vọng gì
(anapekkhà).
4) Này các Tỷ-kheo, các bậc
A-la-hán, Chánh Đẳng Giác trong thời quá khứ, các vị Thế Tôn ấy đã
có một cặp đệ tử tối thắng như Ta có Sàriputta và Moggalàna. Này các
Tỷ-kheo, các bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác nào trong đời vị lai, những
bậc Thế Tôn ấy sẽ có một cặp đệ tử tối thắng như Ta có Sàriputta
và Moggalàna.
5) Thật là vi diệu thay về các đệ
tử, này các Tỷ-kheo! Thật hy hữu thay về các đệ tử, này các Tỷ-kheo!
Họ thực hành những lời dạy của đức Bổn sư. Họ làm trách nhiệm
giáo giới. Họ được bốn chúng ái kính, khả ý, khả kính, quý mến. Thật
vi diệu thay, này các Tỷ-kheo, về Như Lai! Thật hy hữu thay, này các Tỷ-kheo,
về Như Lai! Trong khi cặp đệ tử như vậy mệnh chung, Như Lai không có sầu
buồn, hay không có than khóc. Làm sao, này Ananda, lời ước nguyền này có
thể thành tựu được: "Mong sao cái gì được sanh, được thành, là
pháp hữu vi, là pháp bị diệt hoại, lại có thể không bị diệt hoại!"?
Sự kiện như vậy không xảy ra.
6) Ví như, này các Tỷ-kheo, từ một
cây lớn mọc thẳng, có lõi cây, những cành cây lớn hơn bị gãy đỗ.
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, từ nơi đại chúng Tỷ-kheo đứng thẳng, có
lõi cây, Sàriputta và Moggalàna bị mệnh chung. Làm sao, này các Tỷ-kheo, ở
đây, lời ước nguyền này có thể thành tựu được: "Mong sao cái gì
được sanh, được thành, là pháp hữu vi, là pháp bị diệt hoại, lại
có thể không bị diệt hoại!"? Sự kiện như vậy không thể xảy ra.
7) Do vậy, này các Tỷ-kheo, hãy tự
mình là ngọn đèn cho chính mình... (như trên số 10, kinh trước)...
8) Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
trú, quán thân trên thân... không nương tựa một ai khác.
9) Này các Tỷ-kheo, những ai hiện
nay, hay sau khi Ta diệt độ... nếu những vị ấy thiết tha học hỏi.
15. V. Bàhiya , Hay Bàhika (Tạp
24,24, Đại 2,175a) (S.v,165)
1) Nhân duyên ở Sàvatthi.
2) Rồi Tôn giả Bàhiya đi đến Thế
Tôn; sau khi đến... Ngồi một bên, Tôn giả Bàhiya bạch Thế Tôn:
-- Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế
Tôn thuyết pháp vắn tắt cho con. Sau khi nghe Thế Tôn thuyết pháp, con sẽ
sống một mình, an tịnh, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.
-- Như vậy, này Bàhiya, hãy làm cho
thanh tịnh các pháp căn bản trong các thiện pháp. Thế nào là các pháp căn
bản trong các thiện pháp? -- Giới khéo thanh tịnh và tri kiến chánh trực.
3) Và này Bàhiya, khi nào Ông có giới
khéo thanh tịnh, và tri kiến chánh trực; rồi này Bàhiya, y cứ vào giới,
an trú vào giới, Ông hãy tu tập bốn niệm xứ. Thế nào là bốn?
4) Ở đây, này Bàhiya, Ông hãy
trú, quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục
tham ưu ở đời. Hãy trú, quán thọ trên các thọ... Hãy trú, quán tâm
trên tâm... Hãy trú, quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh
niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời. Khi nào, này Bàhiya, y cứ vào giới, an
trú vào giới, Ông tu tập như vậy bốn niệm xứ này. Do vậy, này Bàhiya,
ban đêm hay bàn ngày, chờ đợi là các thiện pháp tăng trưởng, không phải
tổn giảm.
5) Rồi Tôn giả Bàhiya hoan hỷ,
tín thọ lời Thế Tôn dạy, đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về
Ngài rồi ra đi.
6) Rồi Tôn giả Bàhiya sống một
mình, an tịnh, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, không bao lâu chứng
được mục đích mà người thiện nam tử chơn chánh xuất gia, từ bỏ gia
đình, sống không gia đình: Chính là vô thượng Phạm hạnh, ngay trong hiện
tại, vị ấy tự mình chứng ngộ với thượng trí, chứng đạt và an
trú. Vị ấy rõ biết: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc
nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa".
7) Rồi Tôn giả Bàhiya trở thành một
vị A-la-hán nữa.
16. VI. Uttiya (Tạp 24,22, Đại
2,174c) (S.v,166)
1) Nhân duyên ở Sàvatthi.
2-4) Rồi Tôn giả Uttiya đi đến Thế
Tôn; sau khi đến...
--. .. Do vậy, này Uttiya, Ông sẽ vượt
khỏi giới vức của tử ma.
5-7) Rồi Tôn giả Uttiya trở thành
một vị A-la-hán nữa.
17. VII. Bậc Thánh (Tạp 24,23, Đại
2,176a) (S.v,166)
1) Ở Sàvatthi...
2) -- Này các Tỷ-kheo, có bốn niệm
xứ này được tu tập, được làm cho sung mãn, là những Thánh dẫn đạo,
dắt dẫn những ai thực hành theo, đưa đến chơn chánh đoạn tận khổ
đau. Thế nào là bốn?
3) Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
trú, quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục
tham ưu ở đời... trú, quán thọ trên các thọ... trú, quán tâm trên
tâm... trú, quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp
phục tham ưu ở đời.
4) Này các Tỷ-kheo, bốn niệm xứ
này được tu tập, được làm cho sung mãn, là những Thánh dẫn đạo, dắt
dẫn những ai thực hành theo, đưa đến chơn chánh đoạn tận khổ đau.
18. VIII. Phạm Thiên (Tạp 44,12,
Đại 2,322a; 24.3,171a; 410b; 494a) (S.v,167)
1) Một thời Thế Tôn trú ở
Uruvelà, trên bờ sông Neranjarà,tại cây bàng ajapàla, sau khi mới giác ngộ.
2) Trong khi Thế Tôn độc cư Thiền
tịnh, tâm niệm tư tưởng như sau được khởi lên: "Đây là con đường
độc nhất đưa đến thanh tịnh cho các chúng sanh, vượt qua sầu bi, chấm
dứt khổ đau, chứng đạt chánh lý (nàya), chứng ngộ Niết-bàn. Tức là
bốn niệm xứ". Thế nào là bốn?
3) -- Này Tỷ-kheo, hãy trú, quán
thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở
đời... trú, quán thọ trên các thọ... trú, quán tâm trên tâm... trú, quán
pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ở
đời. Đây là con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho các chúng
sanh, vượt qua sầu bi, chấm dứt khổ ưu, chứng đạt chánh lý, chứng ngộ
Niết-bàn. Tức là bốn niệm xứ.
4) Rồi Phạm thiên Sahampati với
tâm của mình biết được tâm ý Thế Tôn, ví như nhà lực sĩ duỗi cánh
tay đang co lại, hay co lại cánh tay đang duỗi ra, cũng vậy, vị ấy biến
mất ở Phạm thiên giới, hiện ra trước mặt Thế Tôn. Rồi Phạm thiên
Sahampati đắp thượng y vào một bên vai, chấp tay hướng đến Thế Tôn
và bạch Thế Tôn:
5) -- Như vậy là phải, bạch Thế
Tôn! Như vậy là phải, bạch Thiện Thệ! Bạch Thế Tôn, đây là con đường
độc nhất đưa đến thanh tịnh cho các chúng sanh, vượt qua sầu bi, chấm
dứt khổ ưu, chứng đạt chánh lý, chứng ngộ Niết-bàn. Tức là bốn niệm
xứ. Thế nào là bốn? Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo trú, quán thân trên thân,
nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời. Tỷ-kheo
trú, quán thọ trên các cảm thọ... Tỷ-kheo trú, quán tâm trên tâm... Tỷ-kheo
trú, quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục
tham ưu ở đời. Bạch Thế Tôn, đây là con đường độc nhất đưa đến
thanh tịnh cho các chúng sanh, vượt qua sầu bi, chấm dứt khổ ưu, chứng
đạt chánh lý, chứng ngộ Niết-bàn. Tức là bốn niệm xứ.
6) Phạm thiên Sahampati thuyết như vậy.
Nói như vậy xong, Phạm thiên Sahampati lại nói thêm:
Thấy con đường độc nhất,
Đưa đến đoạn tận sanh.
Bậc lân mẫn chúng sanh,
Biết được con đường ấy.
Chính với con đường này,
Trước đã từng vượt qua,
Tương lai sẽ vượt qua,
Nay vượt khỏi bộc lưu.
19. IX. Sedaka, Hay Ekantaka (Tạp
24,17, Đại 2,173b) (S.v,168)
1) Một thời Thế Tôn trú ở giữa
dân chúng Sumbha, tại Desakà, một thị trấn của dân chúng Sumbhà.
2) Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo
và bảo:
-- Thuở trước, này các Tỷ-kheo, một
người nhào lộn với cây tre, sau khi dựng lên một cây tre, liền bảo người
đệ tử tên là Medakathàlikam: "Này Medakathàlikà, hãy đến, leo lên
cây tre và đứng trên vai ta" -- "Thưa thầy, vâng". Này các Tỷ-kheo,
đệ tử Medakathàlikà vâng đáp người nhào lộn trên cây tre, leo lên cây
tre và đứng trên vai của thầy.
3) Rồi này các Tỷ-kheo, người nhào
lộn trên cây tre nói với đệ tử Medakathàlikà: "Này Medakathàlikà,
Ông hộ trì cho ta và ta sẽ hộ trì cho Ông. Như vậy, chúng ta nhờ che chở
cho nhau, nhờ hộ trì cho nhau, trình bày các tiết mục, thâu hoạch được
lợi tức và leo xuống cây tre một cách an toàn".
4) Khi được nghe nói vậy, này các
Tỷ-kheo, đệ tử Medakathàlikà nói với người nhào lộn trên cây tre:
"Thưa thầy, không nên như vậy. Thưa thầy, nên như vầy: Thầy nên hộ
trì tự ngã thầy và con sẽ hộ trì tự ngã con. Như vậy, chúng ta tự che
chở cho mình, tự hộ trì cho mình, trình bày các tiết mục, thâu hoạch
được lợi ích, và leo xuống cây tre một cách an toàn. Đây là chánh lý
(nàyo) cần phải làm".
5) Thế Tôn nói:
-- Này các Tỷ-kheo, như đệ tử
Medakathàlikà đã nói với thầy của ông ấy: "Tôi sẽ hộ trì cho
mình", tức là niệm xứ cần phải thực hành. Này các Tỷ-kheo,
"Chúng ta sẽ hộ trì người khác", tức là niệm xứ cần phải thực
hành. Trong khi hộ trì cho mình, này các Tỷ-kheo, là hộ trì người khác.
Trong khi hộ trì người khác, là hộ trì cho mình.
6) Và này các Tỷ-kheo, thế nào
trong khi hộ trì cho mình, là hộ trì người khác? Chính do sự thực hành
(àsevanàya), do sự tu tập (bhàvanàya), do sự làm cho sung mãn. Như vậy, này
các Tỷ-kheo, trong khi hộ trì cho mình, là hộ trì người khác.
7) Và này các Tỷ-kheo, thế nào
trong khi hộ trì người khác, là hộ trì cho mình? Chính do sự kham nhẫn,
do sự vô hại, do lòng từ, do lòng ai mẫn. Như vậy, này các Tỷ-kheo,
trong khi hộ trì người khác, là hộ trì cho mình.
8) Này các Tỷ-kheo, "Tôi sẽ hộ
trì cho mình", tức là niệm xứ cần phải thực hành. Này các Tỷ-kheo,
"Tôi sẽ hộ trì người khác", tức là niệm xứ cần phải thực
hành. Trong khi hộ trì cho mình, này các Tỷ-kheo, là hộ trì người khác.
Trong khi hộ trì người khác, là hộ trì cho mình.
20. X. Quốc Độ (hay Ekantaka) (Tạp
24,21, Đại 2,174b) (S.v,169)
1) Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú giữa dân
chúng Sumbha, tại một thị trấn của dân chúng Sumbha tên là Sedaka.
2) Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo...
3) -- Ví như một số đông quần
chúng, này các Tỷ-kheo, tụ họp lại và nói: "Cô gái hoa hậu của quốc
độ. Cô gái hoa hậu của quốc độ!". Và người con gái hoa hậu quốc
độ ấy với tất cả sự quyến rũ của mình, múa (cho họ xem), với tất
cả sự quyến rũ của mình, hát (cho họ nghe). Và một số quần chúng còn
đông hơn tụ họp lại và nói: "Cô gái hoa hậu của quốc độ múa
và hát". Rồi một người đến, muốn sống, không muốn chết, muốn lạc,
ghét khổ, họ nói với người ấy như sau: "Này Ông, hãy xem đây. Đây
là cái bát đầy dầu. Ông hãy mang bát dầu ấy và đi vòng quanh đám quần
chúng lớn và người con gái hoa hậu của quốc độ. Và một người với
cây kiếm giơ cao sẽ đi theo sau lưng Ông. Tại chỗ nào làm đổ một ít dầu,
tại chỗ ấy, đầu Ông bị rơi xuống". Các Ông nghĩ thế nào, này
các Tỷ-kheo, người ấy có thể không tác ý đến bát dầu, phóng tâm hướng
ngoại không?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
4) -- Ví dụ này, này các Tỷ-kheo,
Ta nói ra để nêu rõ ý nghĩa. Và đây là ý nghĩa của nó. Này các Tỷ-kheo,
cái bát đầy dầu là đồng nghĩa với thân hành niệm.
5) Do vậy, này các Tỷ-kheo, các
Ông cần phải học tập như sau: "Chúng ta sẽ tu tập thân hành niệm,
làm cho sung mãn, làm cho như thành cỗ xe, làm cho như thành đất nền, làm
cho tiếp tục an trú, làm cho tích tập, làm cho khéo có hiệu năng (susamàraddhà)".
Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập.
III. Phẩm Giới Trú
21. I. Gíơi (Tạp 24,27, Đại
2,175b) (S.v,171)
1) Như vầy tôi nghe.
Một thời Tôn giả Ananda và Tôn giả
Bhadda trú ở Pàtaliputta, ở khu vườn Kukkuta.
2) Rồi Tôn giả Bhadda, vào buổi
chiều, từ chỗ Thiền tịnh đứng dậy, đi đến Tôn giả Ananda; sau khi đến,
nói lên với Tôn giả Ananda những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên
những lời chào đón hỏi thăm thân hữu... nói với Tôn giả Ananda:
3) -- Này Hiền giả Ananda, những
thiện giới này được Thế Tôn nói đến, những thiện giới này vì mục
đích gì được Thế Tôn nói đến?
-- Lành thay, lành thay, này Hiền giả
Bhadda! Hiền thiện là trí tuệ (ummagga) của Hiền giả, này Hiền giả
Bhadda! Hiền thiện là biện tài (patibhànam) của Hiền giả! Chí thiện là
câu hỏi của Hiền giả! Này Hiền giả Bhadda, có phải như vầy là câu hỏi
của Hiền giả: "Này Hiền giả Ananda, những thiện giới này được
Thế Tôn nói đến, những thiện giới này, vì mục đích gì được Thế Tôn
nói đến?" Chăng ?
-- Thưa vâng, Hiền giả.
4) -- Này Hiền giả Bhadda, những
thiện giới này được Thế Tôn nói đến, những thiện giới này, chính
do tu tập bốn niệm xứ đưa lại, như Thế Tôn đã nói. Thế nào là bốn?
5) Ở đây, này Hiền giả, Tỷ-kheo
trú, quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục
tham ưu ở đời... trú, quán thọ trên các cảm thọ... trú, quán tâm trên
tâm... trú, quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp
phục tham ưu ở đời. Này Hiền giả Bhadda, những thiện giới này được
Thế Tôn nói đến, những thiện giới này, chính do tu tập bốn niệm xứ
đưa lại, như Thế Tôn đã nói.
22. II. Trú (Tạp 24,29, Đại
2,173c) (S.v,172)
1) Nhân duyên ở Sàvatthi.
2) Rồi Tôn giả Bhadda nói với Tôn
giả Ananda đang ngồi một bên:
3) -- Do nhân gì, do duyên gì, này Hiền
Giả Ananda, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp không có tồn tại lâu
dài? Do nhân gì, do duyên gì, này Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu
pháp được tồn tại lâu dài?
-- Lành thay, lành thay, này Hiền giả
Bhadda! Hiền thiện thay, này Hiền giả Bhadda, là trí tuệ của Hiền giả!
Hiền thiện là biện tài của Hiền giả! Chí thiện là câu hỏi của Hiền
giả! Có phải như vầy, này Hiền giả Bhadda, là câu hỏi của Hiền giả:
"Này Hiền giả Ananda, do nhân gì, do duyên gì, khi Như Lai nhập Niết-bàn,
Diệu pháp không có tồn tại lâu dài? Do nhân gì, do duyên gì, này Hiền giả
Ananda, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu
dài?" chăng?
-- Thưa vâng, Hiền giả.
4) -- Do bốn niệm xứ không được
tu tập, không được làm cho sung mãn, này Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn,
Diệu pháp không có tồn tại lâu dài. Do bốn niệm xứ được tu tập,
được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu
pháp được tồn tại lâu dài. Thế nào là bốn?
5) Ở đây, này Hiền giả, Tỷ-kheo
trú, quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục
tham ưu ở đời... trú, quán thọ trên các thọ... trú, quán tâm trên
tâm... trú, quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp
phục tham ưu ở đời. Do không tu tập, không làm cho sung mãn bốn niệm xứ
này, này Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp không được tồn
tại lâu dài. Do tu tập, do làm cho sung mãn bốn niệm xứ này, này Hiền giả,
khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
23. III. Tổn Giảm (Parihànam) (Tạp
24,28, Đại 2,175b) (S.v,173)
1-2) Trú tại Pàtaliputta, tại khu vườn
Kukkuta...
3) -- Do nhân gì, do duyên gì, này Hiền
giả Ananda, khiến cho Diệu pháp bị tổn giảm? Do nhân gì, do duyên gì,
này Hiền giả Ananda, khiến cho Diệu pháp không bị tổn giảm?
... (giống như kinh trước, chỉ
thay đổi câu hỏi và câu trả lời).
24. IV. Thanh Tịnh (Tạp 24,2, Đại
2,171a) (S.v,173)
1) Nhân duyên ở Sàvatthi.
2) -- Này các Tỷ-kheo, có bốn niệm
xứ này. Thế nào là bốn?
3) Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
trú, quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục
tham ưu ở đời... trú, quán thọ trên các cảm thọ... trú, quán tâm trên
tâm... trú, quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp
phục tham ưu ở đời. Này các Tỷ-kheo, có bốn niệm xứ này.
25. V. Bà La Môn (S.v,174)
1) Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú ở
Sàvatthi, tại Thắng Lâm, khu vườn ông Cấp Cô Độc.
2) Rồi một Bà-la-môn đi đến Thế
Tôn; sau khi đến, nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm,
sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một
bên. Ngồi một bên, vị Bà-la-môn ấy thưa với Thế Tôn:
3) -- Do nhân gì, do duyên gì, thưa Tôn
giả Gotama, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp không được tồn tại lâu
dài? Do nhân gì, do duyên gì, thưa Tôn giả Gotama, khi Như Lai nhập Niết-bàn,
Diệu pháp được tồn tại lâu dài?
4-6) (như kinh trên, với những thay
đổi cần thiết).
7) Khi được nghe nói vậy,
Bà-la-môn ấy bạch Thế Tôn:
-- Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả
Gotama!... từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.
26. VI. Một Phần (Tạp 24,26, Đại
2,175a) (S.v,174)
1) Một thời Tôn giả Sàriputta,
Tôn giả Mahà Moggalàna và Tôn giả Anuruddha trú ở Sàketa, tại rừng
Kantakii.
2) Rồi Tôn giả Sàriputta và Tôn giả
Mahà Moggalàna, vào buổi chiều, từ chỗ Thiền tịnh đứng dậy, đi đến
Tôn giả Anuruddha; sau khi đến, nói lên với Tôn giả Anuruddha những lời
chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu
liền ngồi xuống một bên. Ngồi một bên, Tôn giả Sàriputta thưa với Tôn
giả Anuruddha:
3) -- "Hữu học, hữu học",
thưa Hiền giả Anuruddha, được nói đến như vậy. Cho đến như thế nào,
thưa Hiền giả Anuruddha, là hữu học?
-- Do tu tập một phần bốn niệm xứ,
thưa Hiền giả, là bậc hữu học. Thế nào là bốn?
4) Ở đây, thưa Hiền giả, Tỷ-kheo
trú, quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục
tham ưu ở đời... trú, quán thọ trên các thọ... trú, quán tâm trên
tâm... trú, quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp
phục tham ưu ở đời. Do tu tập một phần bốn niệm xứ này, thưa Hiền
giả, là bậc hữu học.
27. VII. Hoàn Toàn (Samattam)
(S.v,175)
1-2)... (như kinh trên, số 1 và 2)...
3) -- "Vô học, vô học", thưa
Hiền giả Anuruddha, được nói đến như vậy. Cho đến như thế nào, thưa
Hiền giả Anuruddha, là bậc vô học?
-- Do tu tập hoàn toàn bốn niệm xứ,
thưa Hiền giả, là bậc vô học. Thế nào là bốn?
4). .. (như kinh trên, số 4; chỉ đoạn
sau có khác: Do tu tập một cách hoàn toàn bốn niệm xứ này, thưa Hiền giả,
là bậc vô học)
28. VIII. Thế Giới (S.v,175)
1-2)...(như kinh trên, số 1 và 2)
3) -- Do tu tập, làm cho sung mãn những
pháp nào, thưa Hiền giả Anuruddha, đại thắng trí được đạt tới?
-- Do tu tập, do làm cho sung mãn bốn
niệm xứ, đại thắng trí được đạt tới. Thế nào là bốn?
4). .. (như kinh trên, số 4; chỉ
khác đoạn cuối: Chính do tu tập, làm cho sung mãn bốn niệm xứ này, thưa
Hiền giả, tôi đạt được đại thắng trí).
5) Và thưa Hiền giả, do tu tập, làm
cho sung mãn bốn niệm xứ này, tôi thắng tri được ngàn thế giới.
29. IX. Sirivaddha (Tạp 37,13, Đại
2,270b) (S.v,176)
1) Một thời Tôn giả Ananda trú ở
Vương Xá, tại Trúc Lâm, chỗ nuôi dưỡng các con sóc.
2) Lúc bấy giờ, cư sĩ Sirivaddha bị
bệnh, đau đớn, bị trọng bệnh.
3) Rồi gia chủ Sirivaddha bảo một
người:
-- Hãy đến, này Bạn. Hãy đi đến
Tôn giả Ananda; sau khi đến nhân danh ta, cúi đầu đảnh lễ chân Tôn giả
Ananda và thưa: "Thưa Tôn giả, gia chủ Sirivaddha bị bệnh, đau đớn, bị
trọng bệnh. Gia chủ cúi đầu đảnh lễ chân Tôn giả Ananda, và thưa như
vầy: ‘Lành thay, thưa Tôn giả, nếu Tôn giả Ananda đi đến trú xứ của
gia chủ Sirivaddha vì lòng từ mẫn"".
-- Thưa vâng, Gia chủ.
Người ấy vâng đáp gia chủ
Sirivaddha, đi đến Tôn giả Ananda.
4) Sau khi đến, vị ấy đảnh lễ
Tôn giả Ananda và ngồi xuống một bên. Ngồi một bên, vị ấy thưa với
Tôn giả Ananda:
-- Thưa Tôn giả Ananda, gia chủ
Sirivaddha bị bệnh, đau đớn, bị trọng bệnh. Gia chủ cúi đầu đảnh lễ
chân Tôn giả Ananda và thưa: "Lành thay, thưa Tôn giả, nếu Tôn giả
Ananda đi đến trú xứ của gia chủ Sirivaddha vì lòng từ mẫn".
Tôn giả Ananda im lặng nhận lời.
5) Rồi Tôn giả Ananda đắp y, cầm
y bát đi đến trú xứ của gia chủ Sirivaddha; sau khi đến, ngồi xuống trên
chỗ đã soạn sẵn. Ngồi một bên, Tôn giả Ananda nói với gia chủ
Sirivaddha:
6) -- Này Gia chủ, Gia chủ có thể
kham nhẫn được chăng? Gia chủ có thể chịu đựng được chăng? Có phải
các khổ thọ giảm thiểu, không có tăng trưởng? Có phải có dấu hiệu
giảm thiểu, không có tăng trưởng?
-- Thưa Tôn giả, con không có thể
kham nhẫn, con không có thể chịu đựng. Các khổ thọ kịch liệt tăng
trưởng nơi con, không có giảm thiểu; có dấu hiệu tăng trưởng, không
có giảm thiểu.
7) -- Vậy, này Gia chủ, hãy tự học
tập như sau: "Tôi sẽ trú, quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác,
chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời. Tôi sẽ trú, quán thọ trên các
cảm thọ... Tôi sẽ trú, quán tâm trên tâm... Tôi sẽ trú, quán pháp trên
các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời".
Như vậy, này Gia chủ, Ông cần phải học tập.
8) -- Thưa Tôn giả, bốn niệm xứ
này được Thế Tôn thuyết giảng, những pháp ấy có ở trong con, và con
hiện thực hành những pháp ấy. Thưa Tôn giả, con trú, quán thân trên
thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời. Con
trú, quán thọ trên các cảm thọ... Con trú, quán tâm trên tâm... Con trú,
quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục
tham ưu ở đời.
9) Thưa Tôn giả, năm hạ phần kiết
sử được Thế Tôn thuyết giảng này, con không thấy có một pháp nào mà
không được đoạn tận ở nơi con.
10) -- Lợi đắc thay cho Ông, này
Gia chủ! Thật khéo lợi đắc thay cho Ông, này Gia chủ! Này Gia chủ, Gia chủ
đã tuyên bố về quả Bất lai.
30. X. Mànadinna (Tạp 37,16, Đại
2,270c) (S.v,178)
1) Nhân duyên giống như trên.
2) Lúc bấy giờ, gia chủ Mànadinna
bị bệnh, đau đớn, bị trọng bệnh.
3-6) Rồi gia chủ Mànadinna gọi một
người và bảo...
7) -- Dầu cho con phải cảm giác những
khổ thọ như vậy, con vẫn trú, quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh
giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời... trú, quán thọ trên các cảm
thọ... trú, quán tâm trên tâm... trú, quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm,
tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời.
8) Thưa Tôn giả, năm hạ phần kiết
sử được Thế Tôn thuyết giảng này, con không thấy có một pháp nào chưa
được đoạn tận nơi con.
9) -- Thật lợi đắc thay, này Gia
chủ! Thật khéo lợi đắc thay, này Gia chủ! Này Gia chủ, Gia chủ đã
tuyên bố về quả Bất lai.
IV. Phẩm Chưa Từng Được Nghe
31. I. Chưa Từng Được Nghe (S.v,178)
1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...
3) -- "Quán thân trên thân
này", này các Tỷ-kheo, đối với các pháp từ trước Ta chưa từng
được nghe, nhãn sanh, trí sanh, minh sanh, quang sanh. Quán thân trên thân cần
phải tu tập này... Quán thân trên thân đã được tu tập này, này các Tỷ-kheo,
đối với các pháp từ trước Ta chưa từng được nghe, nhãn sanh, trí
sanh, minh sanh, quang sanh.
4) "Quán thọ trên các cảm thọ
này"...
5) "Quán tâm trên tâm
này"...
6) "Quán pháp trên các pháp
này", này các Tỷ-kheo, đối với các pháp từ trước Ta chưa từng
được nghe, nhãn sanh, trí sanh, minh sanh, quang sanh. Quán pháp trên pháp cần
phải tu tập này... Quán pháp trên pháp đã được tu tập này, này các Tỷ-kheo,
đối với các pháp từ trước Ta chưa từng được nghe, nhãn sanh, trí
sanh, minh sanh, quang sanh.
32. II. Ly Tham (Tạp 24,34, Đại
2,276a) (S.v,179)
1-2) Tại Sàvatthi...
3) -- Bốn niệm xứ này, này các Tỷ-kheo,
nếu được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến nhứt hướng nhàm
chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Thế
nào là bốn?
4) Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
trú, quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục
tham ưu ở đời... trú, quán thọ trên các cảm thọ... trú, quán tâm trên
tâm... trú, quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp
phục tham ưu ở đời. Bốn niệm xứ này, này các Tỷ-kheo, nếu tu tập, nếu
làm cho sung mãn, đưa đến nhứt hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an
tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.
33. III. Thối Thất (Viraddha)
(S.v,179)
1-2)...
3) -- Với những ai, này các Tỷ-kheo,
bốn niệm xứ bị thối thất, đối với những người ấy, cũng bị thối
thất là Thánh đạo đưa đến chơn chánh đoạn diệt khổ đau.
4) Với những ai, này các Tỷ-kheo,
bốn niệm xứ này được thực hành, đối với những người ấy, cũng
được thực hành là Thánh đạo đưa đến chơn chánh đoạn diệt khổ
đau. Thế nào là bốn?
5) Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
trú, quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục
tham ưu ở đời... trú, quán thọ trên các cảm thọ... trú, quán tâm trên
tâm... trú, quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp
phục tham ưu ở đời. Đối với những ai, này các Tỷ-kheo, bốn niệm xứ
này bị thối thất, thời cũng thối thất là Thánh đạo đưa đến chơn
chánh đoạn diệt đau khổ. Đối với những ai, này các Tỷ-kheo, bốn niệm
xứ này được thực hành, thời cũng được thực hành là Thánh đạo
đưa đến chơn chánh đoạn diệt khổ đau.
34. IV.Tu Tập (S.v,180)
1-2) Tại Sàvatthi...
3) -- Bốn niệm xứ này, này các Tỷ-kheo,
được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa từ bờ bên này qua đến bờ
bên kia. Thế nào là bốn?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
trú, quán thân trên thân... trú, quán thọ trên các thọ... trú, quán tâm
trên tâm... trú, quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm,
nhiếp phục tham ưu ở đời. Bốn niệm xứ này, này các Tỷ-kheo, nếu
được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa từ bờ bên này qua đến bờ
bên kia.
35. V. Niệm (S.v,180)
1-2) Tại Sàvatthi...
3) -- Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo hãy
trú chánh niệm, tỉnh giác. Đây là lời giáo giới của Ta cho các Ông.
4) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
Tỷ-kheo chánh niệm? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo trú, quán thân trên
thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời...
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo chánh niệm.
5) Và này các Tỷ-kheo, như thế nào
là Tỷ-kheo tỉnh giác? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo biết rõ ràng
các cảm thọ khởi lên, biết rõ ràng các cảm thọ an trú, biết rõ ràng
các cảm thọ đi đến tiêu mất; biết rõ ràng các tưởng khởi lên, biết
rõ ràng các tưởng an trú, biết rõ ràng các tưởng đi đến tiêu mất. Như
vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo tỉnh giác.
6) Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo hãy
trú chánh niệm, tỉnh giác. Đây là lời giáo giới của Ta cho các Ông.
36. VI. Chánh Trí (S.v,181)
1-2) Tại Sàvatthi...
3) -- Này các Tỷ-kheo, có bốn niệm
xứ này. Thế nào là bốn? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo trú, quán
thân trên thân... trú, quán thọ trên các cảm thọ... trú, quán tâm trên
tâm... trú, quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp
phục tham ưu ở đời. Này các Tỷ-kheo, đây là bốn niệm xứ.
4) Do tu tập, làm cho sung mãn bốn
niệm xứ này, này các Tỷ-kheo, được chờ đợi là một trong hai quả:
Ngay trong hiện tại, chứng được Chánh trí, hay nếu có dư y, chứng được
Bất hoàn.
37. VII. Ước Muốn (Chandam)
(S.v,182)
1-2) Tại Sàvatthi...
3)-- Này các Tỷ-kheo, có bốn niệm
xứ này. Thế nào là bốn?
4) Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
trú, quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục
tham ưu ở đời. Do vị ấy trú, quán thân trên thân, ước muốn đối với
thân được đoạn diệt. Do ước muốn được đoạn diệt nên chứng ngộ
được bất tử.
5) Vị ấy trú, quán thọ trên các
cảm thọ... Do vị ấy trú, quán thọ trên các cảm thọ, ước muốn đối
với thọ được đoạn diệt. Do ước muốn được đoạn diệt nên chứng
ngộ được bất tử.
6) Vị ấy trú, quán tâm trên
tâm... Do vị ấy trú, quán tâm trên tâm, ước muốn đối với tâm được
đoạn diệt. Do ước muốn được đoạn diệt nên chứng ngộ được bất
tử.
7) Vị ấy trú, quán pháp trên các
pháp... Do vị ấy trú, quán pháp trên các pháp, ước muốn đối với các
pháp được đoạn diệt. Do ước muốn được đoạn diệt nên chứng ngộ
được bất tử.
38. VIII. Liễu TRi (S.v,182)
1)...
2) -- Này các Tỷ-kheo, có bốn niệm
xứ này. Thế nào là bốn?
3) Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
trú, quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục
tham ưu ở đời. Do vị ấy trú, quán thân trên thân, thân được liễu
tri. Do liễu tri thân nên chứng ngộ được bất tử... (Cũng vậy, đối với
thọ, đối với tâm, đối với pháp).
39. IX. Tu Tập (Tạp 24,2, Đại
2,171a) (S.v,182)
1)...
2) -- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết
về tu tập bốn niệm xứ. Hãy lắng nghe. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
tu tập bốn niệm xứ?
3) Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
trú, quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục
tham ưu ở đời. Đối với các thọ... Đối với tâm... Tỷ-kheo trú, quán
pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu
ở đời.
4) Này các Tỷ-kheo, đây là sự tu
tập bốn niệm xứ này.
40. X. Phân Biệt (S.v,183)
1)...
2) -- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết
cho các Ông về niệm xứ, tu tập bốn niệm xứ và đạo lộ đưa đến tu
tập bốn niệm xứ. Hãy lắng nghe.
3) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
niệm xứ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo trú, quán thân trên thân, nhiệt
tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời... trú, quán thọ
trên các cảm thọ... trú, quán tâm trên tâm... trú, quán pháp trên các
pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời. Này
các Tỷ-kheo, đây gọi là niệm xứ.
4) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
tu tập bốn niệm xứ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
trú, quán tánh tập khởi trên thân; trú, quán tánh đoạn diệt trên thân;
trú, quán tánh tập khởi và tánh đoạn diệt trên thân, nhiệt tâm, tỉnh
giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời. Vị ấy trú, quán tánh tập
khởi trên các cảm thọ; trú, quán tánh đoạn diệt trên các cảm thọ;
trú, quán tánh tập khởi và tánh đoạn diệt trên các cảm thọ... trú,
quán tánh tập khởi trên tâm... trú, quán tánh tập khởi trên các pháp;
trú, quán tánh đoạn diệt trên các pháp; trú, quán tánh tập khởi và đoạn
diệt trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham
ưu ở đời. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là sự tu tập niệm xứ.
5) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
đạo lộ đưa đến sự tu tập niệm xứ? Đây là con đường Thánh đạo
tám ngành, tức là chánh tri kiến... chánh định. Này các Tỷ-kheo, đây gọi
là đạo lộ đưa đến tu tập niệm xứ.
V. Phẩm Bất Tử
41. I. Bất Tử (Tạp 24,4 Đại
2,171a) (S.v,184)
1) Tại Sàvatthi...
2) -- Này các Tỷ-kheo, hãy trú với
tâm khéo an trú trên bốn niệm xứ. Nhưng các Ông chớ có bỏ mất bất tử.
Thế nào là bốn?
3) Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
trú, quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục
tham ưu ở đời... trú, quán thọ trên các cảm thọ... trú, quán tâm trên
tâm... trú, quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp
phục tham ưu ở đời.
4) Này các Tỷ-kheo, hãy trú, với
tâm khéo an trú trên bốn niệm xứ. Nhưng các Ông chớ có bỏ mất bất tử.
42. II. Tập Khởi (Tạp 24,5, Đại
2,171a) (S.v,184)
1). ..
2) -- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết
cho các Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt bốn niệm xứ. Hãy lắng
nghe.
3) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
sự tập khởi của thân? Sự tập khởi của món ăn là sự tập khởi của
thân. Sự đoạn diệt các món ăn là sự đoạn diệt của thân.
4) Sự tập khởi của xúc là sự tập
khởi của thọ. Sự đoạn diệt của xúc là sự chấm dứt của thọ.
5) Sự tập khởi của danh sắc là
sự tập khởi của tâm. Sự đoạn diệt của danh sắc là sự chấm dứt của
tâm.
6) Sự tập khởi của tác ý là sự
tập khởi của các pháp. Sự đoạn diệt của tác ý là sự chấm dứt của
các pháp.
43. III. Con Đường (S.V,185)
1) Tại Sàvatthi...
2) Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
-- Một thời, này các Tỷ-kheo, Ta
trú ở Uruvelà, trên bờ sông Neranjarà, dưới cây bàng Ajapàla, khi vừa mới
được giác ngộ.
3) Này các Tỷ-kheo, trong khi độc
cư Thiền tịnh, tâm niệm, tư tưởng như sau khởi lên nơi Ta: "Đây
là con đường độc nhất khiến chúng sanh được thanh tịnh, giúp vượt
qua sầu bi, chấm dứt khổ ưu, chứng đạt chánh lý, chứng ngộ Niết-bàn.
Tức là bốn niệm xứ. Thế nào là bốn? Tỷ-kheo hãy trú, quán thân trên
thân... Hãy trú, quán thọ trên các thọ... Hãy trú, quán tâm trên tâm...
Hãy trú, quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp
phục tham ưu ở đời. Đây là con đường độc nhất khiến chúng sanh được
thanh tịnh, vượt qua sầu bi, chấm dứt khổ ưu, chứng đạt chánh lý, chứng
ngộ Niết-bàn, tức là bốn niệm xứ.
4) Này các Tỷ-kheo, rồi Phạm
thiên Sahampati với tâm của mình biết được tâm niệm suy tư của Ta, ví
như một người lực sĩ duỗi cánh tay đang co lại, hay co lại cánh tay
đang duỗi ra; cũng vậy, vị ấy biến mất ở Phạm thiên và hiện ra trước
mặt Ta.
5) Rồi, này các Tỷ-kheo, Phạm
thiên Sahampati đắp thượng y vào một bên vai, chấp tay hướng đến Ta và
thưa với Ta: "Như vậy là phải, bạch Thế Tôn. Như vậy là phải, bạch
Thiện Thệ. Đây là con đường độc nhất khiến chúng sanh được thanh tịnh,
vượt qua sầu bi, chấm dứt khổ ưu, chứng đạt chánh lý, chứng ngộ Niết-bàn.
Tức là bốn niệm xứ. Thế nào là bốn? Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo trú,
quán thân trên thân... trú, quán thọ trên các thọ... trú, quán tâm trên
tâm... trú, quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp
phục tham ưu ở đời. Bạch Thế Tôn, đây là con đường độc nhất khiến
chúng sanh được thanh tịnh, vượt qua sầu bi, chấm dứt khổ ưu, chứng
đạt chánh lý, chứng ngộ Niết-bàn. Tức là bốn niệm xứ".
6) Này các Tỷ-kheo, Phạm thiên
Sahampati thuyết như vậy, nói vậy xong, lại nói thêm như sau:
Thấy con đường độc nhất,
Đưa đến đoạn tận sanh,
Bậc đại từ lân mẫn,
Rõ biết chính con đường.
Chính với con đường này,
Trước đã vượt được qua,
Tương lai sẽ vượt qua,
Và hiện vượt bộc lưu.
44. IV. Niệm (S.v,186)
1) Tại Sàvatthi...
2) -- Này các Tỷ-kheo, hãy trú
chánh niệm. Đây là lời giáo giới của Ta cho các Ông.
3) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
Tỷ-kheo chánh niệm?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
trú, quán thân trên thân... trú, quán thọ trên các cảm thọ... trú, quán
tâm trên tâm... trú, quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh
niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo
chánh niệm.
4) Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo hãy
trú chánh niệm. Đây là lời giáo giới của Ta cho các Ông.
45. V. Đống Thiện (Tạp 24. 8,
Đại 2,171b) (S.v,186)
1)...
2) -- Nói đến "Đống thiện",
này các Tỷ-kheo, nói một cách chơn chánh phải nói là bốn niệm xứ.
Toàn bộ đống thiện này, này các
Tỷ-kheo, tức là bốn niệm xứ. Thế nào là bốn?
3) Ở đây, Tỷ-kheo trú, quán thân
trên thân... trú, quán thọ trên các cảm thọ... trú, quán tâm trên tâm...
trú, quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục
tham ưu ở đời.
4) Nói đến "Đống thiện",
này các Tỷ-kheo, nói một cách chơn chánh phải nói là bốn niệm xứ này.
Toàn bộ đống thiện này, này các Tỷ-kheo, chính là bốn niệm xứ.
46. VI. Pàtimokkha (S.v,187)
1)...
2) Rồi một Tỷ-kheo đi đến Thế
Tôn; sau khi đến... Ngồi một bên, Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
3) -- Lành thay, bạch Thế Tôn, Thế
Tôn hãy thuyết pháp vắn tắt cho con. Sau khi nghe pháp từ Thế Tôn, con sẽ
sống một mình, an tịnh, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.
-- Vậy này Tỷ-kheo, hãy làm cho
thanh tịnh căn bản trong các thiện pháp. Thế nào là căn bản trong các thiện
pháp?
4) Ở đây, này các Tỷ-kheo, hãy sống
hộ trì với sự hộ trì của Giới bổn (Pàtimokkha), đầy đủ uy nghi chánh
hạnh (àcàragocarasampanno), thấy sự nguy hiểm trong những lỗi nhỏ nhặt,
chấp nhận và thực hành các học giới. Này Tỷ-kheo, sau khi sống, hộ
trì với sự hộ trì của Giới bổn, đầy đủ uy nghi chánh hạnh, thấy sự
nguy hiểm trong những lỗi nhỏ nhặt, chấp nhận và thực hành các học giới
rồi, này Tỷ-kheo, y cứ trên giới, an trú trên giới, hãy tu tập bốn niệm
xứ. Thế nào là bốn?
5) Ở đây, này Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
hãy trú, quán thân trên thân... Hãy trú, quán thọ trên các cảm thọ...
Hãy trú, quán tâm trên tâm... Hãy trú, quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm,
tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời.
6) Khi nào, này Tỷ-kheo, Ông y cứ
trên giới, an trú trên giới, tu tập bốn niệm xứ; khi ấy, này Tỷ-kheo,
hoặc là đêm hay ngày, hãy chờ đợi ở nơi Ông sự tăng trưởng trong các
thiện pháp, không phải sự tổn giảm.
7) Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời
Thế Tôn thuyết...
8) Rồi Tỷ-kheo ấy sống một
mình...
9) Rồi Tỷ-kheo ấy trở thành một
vị A-la-hán nữa.
47. VII. Ac Hành (Tạp 24,11, Đại
2,172a) (S.v,188)
1)...
2) Rồi một Tỷ-kheo đi đến Thế
Tôn...
3) -- Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu
Thế Tôn thuyết pháp vắn tắt cho con. Sau khi nghe Thế Tôn thuyết pháp, con
sẽ sống một mình, an tịnh, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.
-- Vậy, này Tỷ-kheo, Ông hãy làm
cho thanh tịnh những căn bản trong các thiện pháp. Và thế nào là căn bản
trong các thiện pháp?
4) Ở đây, này Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
sau khi đoạn tận thân ác hành, hãy tu tập thân thiện hành. Sau khi đoạn
tận khẩu ác hành, hãy tu tập khẩu thiện hành. Sau khi đoạn tận ý ác
hành, hãy tu tập ý thiện hành. Rồi này Tỷ-kheo, y cứ vào giới, an trú
vào giới, Ông hãy tu tập bốn niệm xứ. Thế nào là bốn?
5) Ở đây, này Tỷ-kheo, Ông hãy
trú, quán thân trên thân... Ông hãy trú, quán thọ trên các cảm thọ...
Ông hãy trú, quán tâm trên tâm... Ông hãy trú, quán pháp trên các pháp, nhiệt
tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời.
6) Này Tỷ-kheo, sau khi y cứ trên giới,
an trú trên giới, Ông tu tập bốn niệm xứ này như vậy; thời này Tỷ-kheo,
hoặc là đêm hay ngày, hãy chờ đợi ở nơi Ông sự tăng trưởng trong các
thiện pháp, không phải sự tổn giảm.
7-8). .. (như trên)...
9) Rồi Tỷ-kheo ấy trở thành một
vị A-la-hán nữa.
48. VIII. Thân Hữu (S.v,189)
1) Tại Sàvatthi...
2) -- Này các Tỷ-kheo, những ai mà
các Ông có lòng lân mẫn, những ai mà các Ông nghĩ rằng cần phải nghe
theo, các bạn bè, hay thân hữu hay bà con, hay huyết thống; này các Tỷ-kheo,
các Ông cần phải khích lệ các người ấy, hướng dẫn, an trú các người
ấy trong sự tu tập bốn niệm xứ. Thế nào là bốn?
3) Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
trú, quán thân trên thân... quán thọ trên các cảm thọ... quán tâm trên
tâm... quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp
phục tham ưu ở đời.
4) Này các Tỷ-kheo, những ai mà
các Ông có lòng lân mẫn, những ai mà các Ông nghĩ rằng cần phải nghe
theo, các bạn bè, hay thân hữu, hay bà con, huyết thống; này các Tỷ-kheo,
các Ông cần phải khích lệ các người ấy, hướng dẫn, an trú các người
ấy trong sự tu tập bốn niệm xứ.
49. IX. Các Cảm ThọϠ(S.v,189)
1) Tại Sàvatthi...
2) -- Này các Tỷ-kheo, có ba thọ
này. Thế nào là ba? Lạc thọ, khổ thọ, phi khổ phi lạc thọ. Này các Tỷ-kheo,
đây là ba thọ.
3) Vì muốn liễu tri ba thọ này,
này các Tỷ-kheo, bốn niệm xứ cần phải tu tập. Thế nào là bốn?
4) Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
trú, quán thân trên thân... trú, quán thọ trên các cảm thọ... trú, quán
tâm trên tâm... trú, quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh
niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời.
5) Chính để liễu tri ba cảm thọ
này, này các Tỷ-kheo, bốn niệm xứ này cần phải tu tập.
50. X. Các Lậu Hoặc (S.v,189)
1)...
2) -- Có ba lậu hoặc, này các Tỷ-kheo.
Thế nào là ba? Dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu. Này các Tỷ-kheo, đây ba
là lậu hoặc.
3) Chính để đoạn tận ba lậu hoặc
này, này các Tỷ-kheo, bốn niệm xứ này cần phải tu tập. Thế nào là bốn?
4) Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
trú, quán thân trên thân... quán thọ trên các cảm thọ... quán tâm trên
tâm... quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp
phục tham ưu ở đời.
5) Chính để đoạn tận ba lậu hoặc
này, này các Tỷ-kheo, bốn niệm xứ này cần phải được tu tập.
VI. Phẩm Sông Hằng Rộng Thuyết
(Đoạn này và bốn mục kế tiếp,
cho đến cuối Tương Ưng này, đều được tóm tắt trong nguyên bản, chỉ
có tên kinh mà thôi, trừ 51-62, I-XII)
51-62. I-XII. (S.v,190)
1)...
2) -- Ví như sông Hằng, này các Tỷ-kheo,
thiên về phương Đông, hướng về phương Đông... Cũng vậy, Tỷ-kheo tu tập
bốn niệm xứ... xuôi về Niết-bàn.
3) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
Tỷ-kheo... Niết-bàn?
4) Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
trú, quán thân trên thân... trú, quán thọ trên các cảm thọ... trú, quán
tâm trên tâm... trú, quán pháp trên các pháp... Như vậy, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo... xuôi về Niết-bàn.
(Tóm tắt các đề kinh)
(Sáu hướng về Đông và sáu hướng
về biển. Hai lần sáu thành mười hai, và mục này được gọi là như vậy.
Các kinh được thuyết rộng về bốn niệm xứ, như các kinh trước).
VII. Phẩm Không Phóng Dật
63-72. I-X. (S.v,191)
Gồm các kinh:
Như Lai, Dấu Chân, Nóc Nhọn, Rễ
Cây. Lõi Cây, Hoa Mưa Sanh, Vua, Mặt Trăng, Mặt Trời, Vải, tất cả là mười
kinh.
(Các kinh này được thuyết rộng
theo bốn niệm xứ).
VIII. Phẩm Việc Làm Cần Sức Mạnh
73-82. I-X. (S.v,191)
Gồm các kinh:
Quả, Chủng Tử, Rồng, Cây, Ghè,
Râu Mì, Hư Không, Khách, Sông.
IX. Phẩm Tầm Cầu
83-93. I-XI. (S.v,192)
Gồm các kinh:
Tầm Cầu, Kiêu Mạn, Lậu Hoặc, Khổ
Tánh, Ba Chướng Ngại (khila), Cấu Uế. Khổ Và Thọ, Ái và Khát, thành phẩm
Tầm Cầu.
X. Phẩm Bộc Lưu
93-102. (I-IX) (S.v,191)
103. X. Thượng Phần Kiết Sử (S.v,191)
1)...
2) -- Này các Tỷ-kheo, có năm thượng
phần kiết sử này. Thế nào là năm? Sắc tham, vô sắc tham, mạn, trạo cử,
vô minh. Này các Tỷ-kheo, những pháp này là năm thượng phần kiết sử.
3) Này các Tỷ-kheo, với mục đích
thắng tri, liễu tri, đoạn diệt, đoạn tận năm thượng phần kiết sử này,
bốn niệm xứ cần phải tu tập. Thế nào là bốn?
4) Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
trú, quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục
tham ưu ở đời... trú, quán thọ trên các cảm thọ... trú, quán tâm trên
tâm... trú, quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp
phục tham ưu ở đời.
5) Này các Tỷ-kheo, với mục đích
thắng tri, liễu tri, đoạn diệt, đoạn tận năm thượng phần kiết sử này,
bốn niệm xứ này phải tu tập.
(Các đề kinh: Bộc Lưu, Ách, Chấp
Thủ, Hệ Phược, Tùy Miên, Dục Công Đức, Triền Cái, Uẩn, Thượng, Hạ
Phần Kiết Sử).