- Kinh Tương Ưng Bộ
- HT. Thích Minh Châu dịch
- Phần 22a
- Tập III: Thiên Uẩn
Chương I : Tương Ưng Uẩn
A. Năm Mươi Kinh Căn Bản
I. Phẩm Nakulapità
I. Nakulapità (Tạp, 5.5 Trưởng
Giả, Đại 2,33a) (Tăng 13.4, Đại 2,573a) (S.iii,1)
1) Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn sống giữa dân
chúng Bhayga, tại núi Cá Sấu, rừng Bhesaka, vườn Nai.
2) Rồi gia chủ Nakulapità đi đến
Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.
3) Ngồi xuống một bên, gia chủ
Nakulapità bạch Thế Tôn:
-- Bạch Thế Tôn, con đã già, tuổi
lớn, trưởng lão, cao niên, đã đạt đến tuổi thọ, thân bệnh hoạn,
luôn luôn ốm đau. Bạch Thế Tôn, con không được thường thấy Thế Tôn
và các vị Tỷ-kheo đáng kính. Bạch Thế Tôn, mong Thế Tôn hãy giáo giới
cho con! Bạch Thế Tôn, mong Thế Tôn hãy giảng dạy cho con! Nhờ vậy, con
được hạnh phúc, an lạc lâu dài.
4) -- Thật sự là vậy, này Gia chủ.
Thật sự là vậy, này Gia chủ. Thân của Gia chủ, này Gia chủ, là bệnh
hoạn, ốm đau, bị nhiễm ô che đậy. Ai mang cái thân này, này Gia chủ, lại
tự cho là không bệnh, dầu chỉ trong một giây phút; người ấy phải là
người ngu! Do vậy, này Gia chủ, Gia chủ cần phải học tập như sau:
"Dầu cho thân tôi có bệnh, tâm sẽ không bị bệnh". Như vậy, này
Gia chủ, Gia chủ cần phải học tập.
5) Rồi gia chủ Nakulapità sau khi
hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ
Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài, đi đến Tôn giả Sàriputta; sau
khi đến, đảnh lễ Tôn giả Sàriputta rồi ngồi xuống một bên.
6) Tôn giả Sàriputta nói với gia chủ
Nakulapità đang ngồi một bên:
-- Này Gia chủ, tịch tịnh là các
căn của Gia chủ; thanh tịnh và trong sáng là sắc diện của Gia chủ. Có
phải hôm nay Gia chủ đối diện với Thế Tôn, được nghe pháp thoại?
-- Làm sao không thể như vậy được,
thưa Tôn giả? Hôm nay, thưa Tôn giả, con được rưới với nước bất tử,
nhờ Thế Tôn giảng cho pháp thoại!
-- Như thế nào, này Gia chủ, Gia chủ
được rưới với nước bất tử, nhờ Thế Tôn giảng cho pháp thoại?
7) -- Ở đây, thưa Tôn giả, con đi
đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một
bên. Ngồi xuống một bên, thưa Tôn giả, con bạch Thế Tôn:
"-- Bạch Thế Tôn, con đã già,
tuổi lớn, trưởng lão, cao niên, đã đạt đến tuổi thọ, thân bệnh hoạn,
luôn luôn ốm đau. Bạch Thế Tôn, con không được thường thấy Thế Tôn
và các Tỷ-kheo đáng kính. Bạch Thế Tôn, mong Thế Tôn giáo giới cho con!
Bạch Thế Tôn, mong Thế Tôn giảng dạy cho con! Nhờ vậy con được hạnh
phúc, an lạc lâu dài!"
Được nghe nói vậy, thưa Tôn giả,
Thế Tôn nói với con:
"-- Thật sự là vậy, này Gia
chủ. Thật sự là vậy, này Gia chủ. Thân của Gia chủ, này Gia chủ, là bệnh
hoạn, ốm yếu, bị nhiễm ô che đậy. Ai mang cái thân này, này Gia chủ, lại
tự cho là không bệnh, dầu chỉ trong một giây phút; người ấy phải là
người ngu! Do vậy, này Gia chủ, Gia chủ cần phải học tập như sau: ‘Dầu
thân tôi có bệnh, tâm sẽ không bị bệnh!"
Như vậy, thưa Tôn giả, con được
rưới với nước bất tử, nhờ Thế Tôn giảng cho pháp thoại.
8) -- Nhưng này Gia chủ, Gia chủ có
hỏi thêm Thế Tôn như sau: "Cho đến như thế nào, bạch Thế Tôn, là
thân bị bệnh và tâm cũng bị bệnh? Cho đến như thế nào là thân bị bệnh,
nhưng tâm không bị bệnh không?"
9) -- Thưa Tôn giả, con có thể đi
đến thật xa để nghe tận mặt Tôn giả Sàriputta ý nghĩa của lời nói
này. Lành thay, nếu được Tôn giả Sàriputta giải thích ý nghĩa của lời
nói này!
10) -- Vậy này Gia chủ, hãy lắng
nghe và khéo suy nghiệm, ta sẽ nói.
-- Thưa vâng, Tôn giả.
Gia chủ Nakulapità vâng đáp Tôn giả
Sàriputta.
11) Tôn giả Sàriputta nói như sau:
-- Thế nào, này Gia chủ, là thân bệnh
và tâm bệnh?
12) Ở đây, này Gia chủ, có kẻ
vô văn phàm phu không thấy rõ các bậc Thánh, không thuần thục pháp các bậc
Thánh, không tu tập pháp các bậc Thánh, không thấy rõ các bậc Chân nhân,
không thuần thục pháp các bậc Chân nhân, không tu tập pháp các bậc Chân
nhân, quán sắc như là tự ngã, hay tự ngã như là có sắc, hay sắc ở
trong tự ngã, hay tự ngã ở trong sắc. Vị ấy bị ám ảnh: "Sắc là
ta, sắc là của ta". Do bị ám ảnh: "Sắc là ta, sắc là của
ta!" khi sắc biến hoại, đổi khác; do sắc biến hoại, đổi khác,
nên vị ấy khởi lên sầu, bi, khổ, ưu não!
13) Vị ấy quán thọ như là tự
ngã, hay tự ngã như là có thọ, hay thọ ở trong tự ngã, hay tự ngã ở
trong thọ. Vị ấy bị ám ảnh: "Thọ là ta, thọ là của ta". Do bị
ám ảnh: "Thọ là ta, thọ là của ta" khi thọ biến hoại, đổi khác;
nên do thọ biến hoại, đổi khác, vị ấy khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não!
14) Vị ấy quán tưởng như là tự
ngã, hay tự ngã như là có tưởng, hay tưởng ở trong tự ngã, hay tự ngã
ở trong tưởng. Vị ấy bị ám ảnh: "Tưởng là ta, tưởng là của
ta". Do bị ám ảnh: "Tưởng là ta, tưởng là của ta" khi tưởng
biến hoại, đổi khác; nên do tưởng biến hoại, đổi khác, vị ấy khởi
lên sầu, bi, khổ, ưu, não!
15) Vị ấy quán các hành như là tự
ngã hay tự ngã như là có các hành, hay các hành ở trong tự ngã, hay tự
ngã ở trong các hành. Vị ấy bị ám ảnh: "Các hành là ta, các hành
là của ta". Do bị ám ảnh: "Các hành là ta, các hành là của
ta" khi các hành biến hoại, đổi khác; do các hành biến hoại, đổi
khác, vị ấy khởi lên sầu, bi, khổ, ưu não!
16) Vị ấy quán thức như là tự
ngã, hay tự ngã như là có thức, hay thức ở trong tự ngã, hay tự ngã ở
trong thức. Vị ấy bị ám ảnh: "Thức là ta, thức là của ta" khi
thức biến hoại, đổi khác; nên do thức biến hoại, đổi khác, vị ấy
khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não!
17) Như vậy, này Gia chủ, là thân
có bệnh và tâm có bệnh.
18) Thế nào, này Gia chủ, là thân
có bệnh nhưng tâm không có bệnh?
19) Ở đây, này Gia chủ, vị đa
văn Thánh đệ tử hiểu rõ các bậc Thánh, thuần thục pháp các bậc
Thánh, tu tập pháp các bậc Thánh, hiểu rõ các bậc Chân nhân, thuần thục
pháp các bậc Chân nhân, tu tập pháp các bậc Chân nhân, không quán sắc như
là tự ngã, hay tự ngã như là có sắc, hay sắc ở trong tự ngã, hay tự
ngã ở trong sắc. Vị ấy không bị ám ảnh: "Sắc là ta, sắc là của
ta". Do vị ấy không bị ám ảnh: "Sắc là ta, sắc là của ta"
khi sắc biến hoại, đổi khác; nên không do sắc biến hoại, đổi khác
mà khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não!
20) Không quán thọ như là tự ngã,
hay tự ngã như là có thọ, hay thọ ở trong tự ngã, hay tự ngã ở trong
thọ. Vị ấy không bị ám ảnh: "Thọ là ta, thọ là của ta". Do vị
ấy không bị ám ảnh: "Thọ là ta, thọ là của ta" khi thọ biến
hoại, đổi khác; nên không do thọ biến hoại, đổi khác, mà khởi lên sầu,
bi, khổ, ưu, não!
21) Không quán tưởng như là tự
ngã, hay tự ngã như là có tưởng, hay tưởng ở trong tự ngã, hay tự ngã
ở trong tưởng. Vị ấy không bị ám ảnh: "Tưởng là ta, tưởng là của
ta". Do vị ấy không bị ám ảnh: "Tưởng là ta, tưởng là của
ta" khi tưởng biến hoại, đổi khác; nên không do tưởng biến hoại,
đổi khác mà khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não!
22) Không quán các hành như là tự
ngã, hay tự ngã như là có hành, hay các hành ở trong tự ngã, hay tự ngã
ở trong các hành. Vị ấy không bị ám ảnh: "Các hành là ta, các hành
là của ta". Do vị ấy không bị ám ảnh: "Các hành là ta, các
hành là của ta" khi các hành biến hoại, đổi khác; nên không do các
hành biến hoại, đổi khác mà khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não!
23) Không quán thức như là tự
ngã, hay tự ngã như là có thức, hay thức ở trong tự ngã, hay tự ngã ở
trong thức. Vị ấy không bị ám ảnh: "Thức là ta, thức là của
ta". Do vị ấy không bị ám ảnh: "Thức là ta, thức là của
ta" khi thức biến hoại, đổi khác; nên không do thức biến hoại, đổi
khác mà khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não.
24) Như vậy, này Gia chủ, là thân
có bệnh, nhưng tâm không có bệnh.
25) Tôn giả Sàriputta thuyết như vậy,
gia chủ Nakulapità hoan hỷ, tín thọ lời Tôn giả Sàriputta thuyết.
II. Devadaha (Tạp 5.6, Tây, Đại
2,33b) (Tăng 41.4, Đại 2,745b) (S.iii,5)
1) Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở giữa dân
chúng Sakka, tại một thị trấn của dân chúng Sakka tên là Devadaha.
2) Lúc bấy giờ, một số đông Tỷ-kheo
du hành ở phía Tây, đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi
ngồi xuống một bên.
3) Ngồi xuống một bên, các vị Tỷ-kheo
ấy bạch Thế Tôn:
-- Chúng con muốn xin Thế Tôn cho
phép chúng con đi đến quốc độ phương Tây. Chúng con muốn trú ở quốc
độ phương Tây.
-- Này các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo đã
xin phép Sàriputta chưa?
-- Bạch Thế Tôn, chúng con chưa xin
phép Tôn giả Sàriputta.
-- Này các Tỷ-kheo, vậy hãy xin
phép Sàriputta. Sàriputta, này các Tỷ-kheo, là bậc Hiền trí, là người đỡ
đầu các vị Tỷ-kheo đồng Phạm hạnh.
-- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế
Tôn.
4) Lúc bấy giờ, Tôn giả Sàriputta
đang ngồi dưới cây ba đậu (elagalà: cassia), không xa Thế Tôn bao nhiêu.
5) Rồi các Tỷ-kheo ấy, sau khi hoan
hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế
Tôn, thân phía hữu hướng về Ngài, rồi đi đến Tôn giả Sàriputta; sau
khi đến, các vị ấy nói lên với Tôn giả Sàriputta những lời chào đón
hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi
xuống một bên.
6) Ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo
ấy nói với Tôn giả Sàriputta:
-- Chúng tôi muốn, thưa Hiền giả
Sàriputta, đi đến quốc độ phương Tây. Chúng tôi muốn trú ở quốc độ
phương Tây. Bậc Đạo Sư đã cho phép chúng tôi.
7) -- Này các Hiền giả, có những
người đặt câu hỏi với vị Tỷ-kheo thường đi các quốc độ khác
nhau: Các Sát-đế-lỵ hiền trí, các Bà-la-môn hiền trí, các Gia chủ hiền
trí, các Sa-môn hiền trí. Này chư Hiền giả, các bậc hiền trí với óc
ưa quán sát (sẽ hỏi): "Bậc Đạo Sư của Tôn giả nói gì, tuyên bố
gì? Pháp có được chư Tôn giả khéo nghe, khéo nắm giữ, khéo tác ý,
khéo thọ trì, khéo thâm nhập với trí tuệ không?" Để khi trả lời,
các Tôn giả có thể lập lại các ý kiến của Thế Tôn, không có xuyên tạc
Thế Tôn với điều không thật, có thể trả lời tùy pháp, đúng với
Chánh pháp, và không để một vị đồng pháp nào, nói lời đúng pháp, có
thể có lý do để quở trách.
8) -- Chúng tôi có thể đi đến thật
xa, thưa Tôn giả, để nghe tận mặt Tôn giả Sàriputta nói về ý nghĩa của
lời nói này! Lành thay, nếu được Tôn giả Sàriputta giải thích ý nghĩa
của lời nói này!
9) -- Vậy này các Hiền giả, hãy lắng
nghe và khéo tác ý, tôi sẽ nói.
-- Thưa vâng, Tôn giả.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả
Sàriputta. Tôn giả Sàriputta nói như sau:
10) -- Này các Hiền giả, có những
người đặt câu hỏi với vị Tỷ-kheo thường đi các quốc độ khác
nhau: Các Sát-đế-lỵ hiền trí... các Sa-môn hiền trí. Này các Hiền giả,
các bậc hiền trí với óc ưa quán sát (có thể hỏi): "Bậc Đạo Sư
của Tôn giả nói gì, tuyên bố gì?" Được hỏi vậy, này các Hiền
giả, các Hiền giả phải trả lời: "Này các Hiền giả, bậc Đạo
Sư của chúng tôi nói đến sự điều phục dục và tham".
11) Được trả lời như vậy, này
các Hiền giả, có thể có người hỏi thêm câu hỏi như sau: Có những vị
Sát-đé-lỵ hiền trí... có những Sa-môn hiền trí. Này chư Hiền giả, các
bậc hiền trí với óc ưa quán sát (có thể hỏi): "Đối với cái gì,
bậc Đạo Sư của các Tôn giả nói đến sự điều phục dục và
tham?" Được hỏi như vậy, này các Hiền giả, các Hiền giả phải trả
lời như sau: "Đối với sắc, này các Hiền giả, bậc Đạo Sư chúng
tôi nói về sự điều phục dục và tham... đối với thọ... đối với
tưởng... đối với các hành... đối với thức, bậc Đạo Sư chúng tôi
nói về sự điều phục dục và tham".
12) Được trả lời như vậy, này
các Hiền giả, có thể có người hỏi thêm như sau: Các Sát-đế-lỵ hiền
trí... các Sa-môn hiền trí. Các vị hiền trí có óc quán sát, này các Hiền
giả, (có thể hỏi): "Nhưng thấy sự nguy hiểm gì, bậc Đạo Sư các
Tôn giả nói đến sự điều phục dục và tham đối với sắc... đối với
thọ... đối với tưởng... đối với các hành, bậc Đạo Sư các Tôn giả
nói đến sự điều phục dục và tham đối với thức?" Được hỏi
như vậy, này các Hiền giả, các Ông cần phải trả lời như sau: "Này
các Hiền giả, đối với sắc, ai chưa viễn ly tham, chưa viễn ly dục,
chưa viễn ly ái, chưa viễn ly khát, chưa viễn ly nhiệt tình, chưa viễn ly
khát ái, khi sắc ấy biến hoại, đổi khác, sẽ khởi lên sầu, bi, khổ,
ưu, não. Đối với thọ... đối với tưởng... đối với các hành... đối
với thức, ai chưa viễn ly tham, chưa viễn ly dục, chưa viễn ly ái, chưa
viễn ly khát, chưa viễn ly nhiệt tình, chưa viễn ly khát ái, khi thức ấy
biến hoại, đổi khác, sẽ khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não. Này chư Hiền
giả, do thấy sự nguy hiểm này đối với sắc mà bậc Đạo Sư của chúng
tôi nói lên sự điều phục dục và tham".
13) Được trả lời như vậy, này
các Hiền giả, có thể có người hỏi thêm như sau: Các Sát-đế-lỵ hiền
trí... các Sa-môn hiền trí. Các vị hiền trí có óc quán sát, này các Hiền
giả, (có thể hỏi): "Nhưng thấy sự lợi ích gì, bậc Đạo Sư các
Tôn giả nói đến sự điều phục dục và tham đối với sắc... đối với
thọ... đối với tưởng... đối với các hành; bậc Đạo Sư các Tôn giả
nói đến sự điều phục dục và tham đối với thức?" Được hỏi vậy,
này các Hiền giả, các Hiền giả phải trả lời như sau: "Đối với
sắc, này các Hiền giả, ai đã viễn ly tham, đã viễn ly dục, đã viễn
ly ái, đã viễn ly khát, đã viễn ly nhiệt tình, đã viễn ly khát ái, khi
sắc ấy biến hoại, đổi khác, sẽ không khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não.
Đối với thọ... đối với tưởng... đối với các hành... đối với thức,
này các Hiền giả, ai đã viễn ly tham, đã viễn ly dục, đã viễn ly ái,
đã viễn ly khát, đã viễn ly nhiệt tình, đã viễn ly khát ái, khi thức
ấy biến hoại, đổi khác, sẽ không khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não. Do
thấy sự lợi ích này, này các Hiền giả, bậc Đạo Sư của chúng tôi
nói đến sự điều phục dục và tham đối với sắc... đối với thọ...
đối với tưởng... đối với các hành; bậc Đạo Sư của chúng tôi nói
đến sự điều phục dục và tham đối với thức".
14) Và này các Hiền giả, đạt
được và an trú trong các bất thiện pháp và ngay trong đời sống hiện tại,
sống được an lạc, không bị chướng ngại, không bị ưu não, không bị
nhiệt não, sau khi thân hoại mạng chung, sẽ được sanh thiện thú, đây
không phải là sự đoạn tận các bất thiện pháp được Thế Tôn tán
thán.
15) Nhưng này các Hiền giả, vì rằng
đạt được và an trú trong các bất thiện pháp, và ngay trong đời sống
hiện tại, sống bị đau khổ, bị chướng ngại, bị ưu não, bị nhiệt
não và sau khi thân hoại mạng chung, sẽ phải sanh ác thú. Do vậy, đây là
sự đoạn tận các bất thiện pháp được Thế Tôn tán thán.
16) Và này các Hiền giả, đạt
được và an trú trong các thiện pháp, và ngay trong đời sống hiện tại,
sống đau khổ, bị chướng ngại, bị ưu não, bị nhiệt não, và sau khi
thân hoại mạng chung, sẽ phải sanh ác thú. Đây không phải là sự thành
tựu các thiện pháp được Thế Tôn tán thán.
17) Nhưng này các Hiền giả, vì rằng
đạt được và an trú trong các thiện pháp, và ngay trong đời sống hiện
tại, sống được an lạc, không bị chướng ngại, không bị ưu não,
không bị nhiệt não, và sau khi thân hoại mạng chung, sẽ được sanh thiện
thú. Do vậy, đây là sự thành tựu các thiện pháp, được Thế Tôn tán
thán.
18) Tôn giả Sàriputta thuyết như vậy.
Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời Tôn giả Sàriputta nói.
III. Hàliddikàni (Tạp, 20.15,
Kha-lê, Đại 2,144a) (S.iii,9)
1) Như vầy tôi nghe.
Một thời Tôn giả Mahà Kaccàna
(Ma-ha Ca-chiên-diên) sống giữa các dân chúng Avanti, tại Kulaghara bên bờ một
vực núi.
2) Rồi gia chủ Hàliddikàni đi đến
Tôn giả Mahà Kaccàna; sau khi đi đến, đảnh lễ Tôn giả Mahà Kaccàna rồi
ngồi xuống một bên.
3) Ngồi xuống một bên, gia chủ
Hàliddikàni nói với Tôn Giả Mahà Kaccàna :
- Thưa Tôn Gỉa , Thế Tôn đã nói
trong phẩm thứ tám, trong tập: "Các câu hỏi của Màgandiya như sau:
- Bậc Thánh bỏ gia đình,
Du hành không trú xứ,
Đối với dân trong làng,
Không tác thành hệ lụy.
Tuyệt không các dục vọng,
Không ước vọng hão huyền,
Chấm dứt mọi tranh luận,
Bất cứ với một ai".
Với lời nói vắn tắt này của
Thế Tôn, thưa Tôn giả, ý nghĩa cần phải hiểu một cách rộng rãi như
thế nào?
4) -- Sắc giới, này Gia chủ, là
nhà của thức. Thức bị lòng tham sắc giới trói buộc, này Gia chủ, được
gọi là du hành có gia đình. Thọ giới, này Gia chủ, là nhà của thức. Thức
bị lòng tham thọ giới trói buộc, này Gia chủ, được gọi là du hành có
gia đình. Tưởng giới, này Gia chủ, là nhà của thức. Thức bị lòng tham
tưởng giới trói buộc, này Gia chủ, được gọi là du hành có gia đình.
Hành giới, này Gia chủ, là nhà của thức. Thức bị lòng tham hành giới
trói buộc, này Gia chủ, được gọi là du hành có gia đình. Thức giới,
này Gia chủ, là nhà của thức. Thức bị lòng tham thức giới trói buộc,
này Gia chủ, được gọi là du hành có gia đình. Như vậy, này Gia chủ,
là du hành có gia đình.
8) Và này Gia chủ, thế nào là du
hành không gia đình.
9) Đối với sắc giới, này Gia chủ,
cái gọi là dục, là tham, là hỷ, là khát ái, những gì thuộc chấp thủ,
tâm trú trước, thiên chấp tùy miên; Như Lai đoạn tận chúng, cắt đứt
tận gốc rễ, làm cho như thân cây ta-la, làm cho không tái sanh, không thể
sanh khởi trong tương lai. Do vậy, Như Lai được gọi là du hành không gia
đình.
10) Đối với thọ giới, này Gia chủ...
11) Đối với tưởng giới, này Gia
chủ...
12) Đối với hành giới, này Gia chủ...
13) Đối với thức giới, này Gia
chủ, cái gọi là dục, là tham, là hỷ, là khát ái, những gì thuộc chấp
thủ, tâm trú trước, thiên chấp tùy miên; Như Lai đoạn tận chúng, cắt
đứt tận gốc rễ, làm cho như thân cây ta-la, làm cho không tái sanh, không
thể sanh khởi trong tương lai. Do vậy, Như Lai được gọi là du hành không
gia đình.
14) Như vậy, này Gia chủ, là du
hành không gia đình.
15) Như thế nào, này Gia chủ, là
du hành có trú xứ? Bị trói buộc bởi an trú chấp trước (niketa-visàra)
vào sắc tướng, này Gia chủ, gọi là du hành có trú xứ... vào thanh tướng...
vào hương tướng... vào vị tướng... vào xúc tướng. Bị trói buộc bởi
an trú chấp trước vào pháp tướng, này Gia chủ, gọi là du hành có trú xứ.
Như vậy, này Gia chủ, là du hành có trú xứ.
16) Như thế nào là du hành không
trú xứ? Sự trói buộc bởi an trú chấp trước vào sắc tướng, này Gia
chủ, đối với Như Lai đã được đoạn tận, cắt đứt tận gốc rễ, làm
cho như thân cây ta-la, làm cho không tái sanh, không thể sanh khởi trong tương
lai. Do vậy, Như Lai được gọi là du hành không trú xứ. Sự trói buộc bởi
an trú chấp trước vào thanh tướng... vào hương tướng... vào vị tướng...
vào xúc tướng... vào pháp tướng, này Gia chủ, đối với Như Lai đã được
đoạn tận, cắt đứt tận gốc rễ, làm cho như thân cây ta-la, làm cho
không tái sanh, không thể sanh khởi trong tương lai. Do vậy, Như Lai được
gọi là du hành không trú xứ.
17) Như vậy, này Gia chủ, là du
hành không trú xứ.
18) Như thế nào, này Gia chủ, là
tác thành hệ lụy trong làng? Ở đây, này Gia chủ, có người sống thân mật
với gia chủ, cùng vui, cùng buồn. Giữa những người sung sướng, vị ấy
sung sướng. Giữa những người buồn khổ, vị ấy buồn khổ. Khi có công
việc phải làm khởi lên, tự liên hệ mình vào các công việc ấy. Như vậy,
này Gia chủ, là tác thành hệ lụy trong làng.
19) Và như thế nào, này Gia chủ,
là không tác thành hệ lụy trong làng? Ở đây, này Gia chủ, vị Tỷ-kheo
không sống quá thân mật với gia chủ, không cùng vui, không cùng buồn,
không vui sướng giữa những người sung sướng, không buồn khổ giữa những
người buồn khổ. Khi có công việc phải làm khởi lên, không tự mình
liên hệ vào các công việc ấy. Như vậy, này Gia chủ, là không tác thành
hệ lụy trong làng.
20) Như thế nào, này Gia chủ, là
không tuyệt không các dục vọng? Ở đây, này Gia chủ, có người không ly
tham đối với các dục vọng, không ly dục, không ly ái, không ly khát,
không ly nhiệt não, không ly khát ái. Như vậy, này Gia chủ, là không tuyệt
không đối với các dục.
21) Như thế nào, này Gia chủ, là
tuyệt không các dục vọng? Ở đây, này Gia chủ, có người ly tham đối với
các dục, ly dục, ly ái, ly khát, ly nhiệt não, ly khát ái. Như vậy, này
Gia chủ, là tuyệt không các dục.
22) Như thế nào, này Gia chủ, là
hy vọng hão huyền? Ở đây, này Gia chủ, có người suy nghĩ như sau:
"Mong rằng có sắc như vậy trong tương lai! Mong rằng có thọ như vậy
trong tương lai! Mong rằng có tưởng như vậy trong tương lai! Mong rằng có
các hành như vậy trong tương lai! Mong rằng có thức như vậy trong tương
lai!" Như vậy, này Gia chủ, là hư vọng hão huyền.
23) Như thế nào, này Gia chủ, là
không hy vọng hão huyền? Ở đây, này Gia chủ, có người không có suy nghĩ
như sau: " Mong rằng có sắc như vậy trong tương lai! Mong rằng có thọ
như vậy trong tương lai! Mong rằng có tưởng như vậy trong tương lai! Mong
rằng có các hành như vậy trong tương lai! Mong rằng có thức như vậy
trong tương lai!" như vậy, này Gia chủ, là không hy vọng hão huyền.
24) Như thế nào, này Gia chủ, là
tranh luận với người? Ở đây, này Gia chủ, có người nói như sau: "Ông
không biết Pháp và Luật này. Ta biết Pháp và Luật này. Sao Ông có thể
biết Pháp và Luật này? Ông đã phạm vào tà kiến. Ta mới thật đúng
chánh kiến. Những điều đáng nói trước, Ông lại nói sau. Những điều
đáng nói sau, Ông lại nói trước. Lời nói của ta mới tương ưng. Lời nói
của Ông không tương ưng. Chủ kiến của Ông đã bị bài bác. Câu nói của
Ông đã bị thách đố. Hãy đến mà giải vây lời nói ấy. Ông đã bị
thuyết bại. Nếu có thể được, hãy gắng thoát ra khỏi lối bí". Như
vậy, này Gia chủ, là tranh luận với người.
25) Như thế nào, này Gia chủ, là
không tranh luận với người? Ở đây, này Gia chủ, vị Tỷ-kheo không nói
lời nói như sau: "Ông không biết Pháp và Luật này.... .. Hãy thoát ra
khỏi lối bí". Như vậy, này Gia chủ, là không tranh luận với người.
26) Như vậy, này Gia chủ, Thế Tôn
đã nói trong phẩm thứ tám, trong tập: "Các câu hỏi của Màgandiya như
sau:
- Bậc Thánh bỏ gia đình,
- Du hành không trú xứ,
- Đối với dân trong làng,
- Không tác thành hệ lụy.
- Tuyệt không các dục vọng.
- Không ước vọng hão huyền,
- Chấm dứt mọi tranh luận,
- Bất cứ với một ai".
Với lời nói vắn tắt này của
Thế Tôn, này Gia chủ, ý nghĩa cần phải hiểu một cách rộng rãi như vậy.
IV. Hàliddikàni (Tạp 20.16
Kha-lê, Đại 2,144c) (S.iii,12)
1) Như vầy tôi nghe.
Một thời Tôn giả Mahàa Kaccàna sống
giữa dân chúng Avanti, tại Kulaghara, bên bờ một vực núi.
2) Rồi gia chủ Hàliddikàni đi đến
Tôn giả Mahà Kaccàna... rồi ngồi xuống một bên.
3) Ngồi xuống một bên, gia chủ
Hàliddikàni nói với Tôn giả Mahà Kaccàna:
4) -- Thế Tôn đã nói trong tập
Các Câu hỏi Của Sakka như vầy: "Những Sa-môn, Bà-la-môn nào được
giải thoát với sự đoạn tận khát ái, những vị ấy đã hoàn toàn đạt
được toàn thiện, đã hoàn toàn đạt được an ổn khỏi các khổ ách,
đã hoàn toàn hành Phạm hạnh, đã hoàn toàn đạt được mục đích, là bậc
tối thượng giữa loài Trời, loài Người". Với lời nói vắn tắt
này của Thế Tôn, thưa Tôn giả, ý nghĩa cần phải hiểu một cách rộng
rãi như thế nào?
5) -- Đối với sắc giới, này Gia
chủ, cái gọi là dục, là tham, là hỷ, là khát ái, những gì thuộc chấp
thủ, tâm trú trước, thiên chấp, tùy miên; sự đoạn tận chúng, ly tham,
đoạn diệt, từ bỏ, từ khước chúng một cách hoàn toàn; như vậy gọi
là tâm khéo giải thoát.
6) Đối với thọ giới, này Gia chủ...
7) Đối với tưởng giới, này Gia
chủ...
8) Đối với hành giới, này Gia chủ...
9) Đối với thức giới, này Gia chủ,
cái gọi là dục, là tham, là hỷ, là khát ái, những gì thuộc chấp thủ,
tâm trú trước, thiên chấp, tùy miên; sự đoạn tận chúng, ly tham, đoạn
diệt, từ bỏ, từ khước chúng một cách hoàn toàn; như vậy gọi là tâm
khéo giải thoát.
10) Như vậy, này Gia chủ, là ý nghĩa
đã được Thế Tôn nói đến trong tập Các Câu hỏi Của Sakka: "Những
Sa-môn, Bà-la-môn nào được giải thoát với sự đoạn tận khát ái, những
vị ấy đã hoàn toàn đạt được toàn thiện, đã hoàn toàn đạt được
an ổn khỏi các khổ ách, đã hoàn toàn hành Phạm hạnh, đã hoàn toàn đạt
được mục đích, là bậc tối thượng giữa loài Trời và loài Người".
V. Thiền Định (Tạp 3.7-8 Thọ,
Đại 2,17a) (Tạp 3.1. Sanh Diệt, Đại 2,15b) (Tạp 3.2 Bất Thừa, Đại
2,15b) (S.iii,13)
1) Một thời Thế Tôn trú tại
Sàvatthi...
2) Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
"Này các Tỷ-kheo". -- "Thưa vâng, bạch Thế Tôn". Các Tỷ-kheo
ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
-- Này các Tỷ-kheo, hãy tu tập Thiền
định. Vị Tỷ-kheo có Thiền định, này các Tỷ-kheo, hiểu biết một
cách như thật.
3) Hiểu biết gì một cách như thật?
Sắc tập khởi và đoạn diệt; thọ tập khởi và đoạn diệt; tưởng tập
khởi và đoạn diệt; các hành tập khởi và đoạn diệt; thức tập khởi
và đoạn diệt.
4) Này các Tỷ-kheo, thế nào là sắc
tập khởi? Thế nào là thọ tập khởi? Thế nào là tưởng tập khởi? Thế
nào là các hành tập khởi? Thế nào là thức tập khởi?
5) Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
hoan hỷ, hoan nghênh, đắm trước rồi an trú. Hoan hỷ, hoan nghênh, đắm
trước và an trú gì?
6) Hoan hỷ, hoan nghênh, đắm trước
rồi an trú sắc. Do vị ấy hoan hỷ, hoan nghênh, đắm trước rồi an trú sắc,
hỷ đối với sắc khởi lên. Do hỷ đối với sắc, thủ đối với sắc
khởi lên. Do duyên thủ đối với sắc, hữu khởi lên. Do duyên hữu, sanh
khởi lên. Do duyên sanh, già chết, sầu, bi, khổ, ưu não khởi lên. Như vậy
là sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn này.
7-10) Hoan hỷ, hoan nghênh, đắm trước
rồi an trú thọ... rồi an trú tưởng... rồi an trú các hành... rồi an trú
thức. Do vị ấy hoan hỷ, hoan nghênh, đắm trước rồi an trú thức, hỷ
khởi lên. Do hỷ đối với thức, thủ đối với thức khởi lên. Do duyên
thủ đối với thức, hữu khởi lên. Do duyên hữu, sanh khởi lên. Do duyên
sanh, già chết, sầu, bi, khổ, ưu, não khởi lên. Như vậy là sự tập khởi
của toàn bộ khổ uẩn này.
11) Này các Tỷ-kheo, đây là sắc tập
khởi, đây là thọ tập khởi, đây là tưởng tập khởi, đây là hành tập
khởi, đây là thức tập khởi.
12) Và này các Tỷ-kheo, thế nào
là sắc đoạn diệt, thế nào là thọ đoạn diệt, thế nào là tưởng đoạn
diệt, thế nào là các hành đoạn diệt, thế nào là thức đoạn diệt?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị ấy không hoan hỷ, không hoan nghênh, không đắm
trước và an trú.
13) Không hoan hỷ, không hoan nghênh,
không đắm trước và an trú gì? Không hoan hỷ, không hoan nghênh, không đắm
trước và an trú sắc. Do vị ấy không hoan hỷ, không hoan nghênh, không đắm
trước và an trú sắc, hỷ đối với sắc đoạn diệt. Do hỷ đối với sắc
đoạn diệt nên thủ đoạn diệt. Do thủ đoạn diệt nên hữu đoạn diệt...
Như vậy là sự đoạn diệt của toàn bộ khổ uẩn này.
14) Không hoan hỷ, không hoan nghênh,
không đắm trước và an trú thọ. Do vị ấy không hoan hỷ, không hoan
nghênh, không đắm trước và an trú thọ, hỷ đối với thọ đoạn diệt.
Do hỷ đối với thọ đoạn diệt nên thủ đoạn diệt. Do thủ đoạn diệt
nên hữu đoạn diệt... Như vậy là sự đoạn diệt của toàn bộ khổ uẩn
này.
15-16) Không hoan hỷ, không hoan
nghênh, không đắm trước và an trú tưởng... không đắm trước và an trú
các hành. Do vị ấy không hoan hỷ, không hoan nghênh, không đắm trước và
an trú các hành, hỷ đối với các hành đoạn diệt. Do hỷ đối với các
hành đoạn diệt nên thủ đoạn diệt. Do thủ đoạn diệt nên hữu đoạn
diệt... Như vậy là sự đoạn diệt của toàn bộ khổ uẩn này.
17) Không hoan hỷ, không hoan nghênh,
không đắm trước và an trú thức. Do vị ấy không hoan hỷ, không hoan
nghênh, không đắm trước và an trú thức, hỷ đối với thức đoạn diệt.
Do hỷ đối với thức đoạn diệt nên thủ đoạn diệt. Do thủ đoạn diệt
nên hữu đoạn diệt... Như vậy là sự đoạn diệt của toàn bộ khổ uẩn
này.
18) Này các Tỷ-kheo, đây là sắc
đoạn diệt, đây là thọ đoạn diệt, đây là tưởng đoạn diệt, đây
là các hành đoạn diệt, đây là thức đoạn diệt.
VI. Tỉnh Mặc (Tạp, 3.7-8, Thọ,
Đại 2,17a) (S.iii,15)
1) Nhân duyên tại Sàvatthi...
2) -- Này các Tỷ-kheo, hãy trú tâm,
dán tâm vào tỉnh mặc. Này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo có tỉnh mặc hiểu
biết một cách như thật.
3) Hiểu biết gì một cách như thật?
Sắc tập khởi và đoạn diệt; thọ tập khởi và đoạn diệt; tưởng tập
khởi và đoạn diệt; các hành tập khởi và đoạn diệt; thức tập khởi
và đoạn diệt ( Như kinh trước, từ số 4 đến số 18 ).
VII. Chấp Thủ Và Ưu Não (Tạp
2.11 Thủ Trước, Đại 2,10c) (S.iii,15)
1) Nhân duyên ở Sàvatthi...
2) -- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng
cho các Ông về sự chấp thủ và ưu não, sự không chấp thủ và không ưu
não. Hãy lắng nghe và khéo tác ý, Ta sẽ giảng.
-- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Các vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế
Tôn.
3) Thế Tôn nói như sau:
-- Này các Tỷ-kheo, thế nào là chấp
thủ và ưu não?
4) Ở đây, này các Tỷ-kheo, kẻ
vô văn phàm phu không thấy rõ các bậc Thánh, không thuần thục pháp các bậc
Thánh, không tu tập pháp các bậc Thánh, không thấy rõ các bậc Chân nhân,
không thuần thục pháp các bậc Chân nhân, không tu tập pháp các bậc Chân
nhân, người ấy quán sắc như là tự ngã, hay tự ngã như là có sắc, hay
sắc ở trong tự ngã, hay tự ngã ở trong sắc. Đối với vị ấy, sắc
ấy biến hoại và đổi khác. Đối với vị ấy, khi sắc ấy biến hoại
và đổi khác, thức tùy chuyển theo sự biến hoại của sắc. Các pháp ưu
não sanh khởi do thức tùy chuyển theo sự biến hoại của sắc sau khi xâm
nhập tâm và an trú. Do tâm bị xâm chiếm nên khủng bố, chướng ngại, khát
vọng được sanh khởi và ưu não.
5) Vị ấy quán thọ như là tự
ngã, hay tự ngã như là có thọ, hay thọ trong tự ngã, hay tự ngã trong thọ.
Đối với vị ấy, thọ ấy biến hoại và đổi khác. Đối với vị ấy,
khi thọ ấy biến hoại và đổi khác, thức tùy chuyển theo sự biến hoại
của thọ. Các pháp ưu não sanh khởi do thức tùy chuyển theo sự biến hoại
của thọ sau khi xâm chiếm tâm và an trú. Do tâm bị xâm nhập nên khủng bố,
(uttàsavà) chướng ngại, khát vọng được sanh khởi và ưu não.
6-7) Vị ấy quán tưởng như là tự
ngã... vị ấy quán các hành như là tự ngã, hay tự ngã như là có các
hành, hay các hành trong tự ngã, hay tự ngã trong các hành. Đối với vị
ấy, các hành ấy biến hoại và đổi khác. Đối với vị ấy, khi các
hành ấy biến hoại và đổi khác, thức tùy chuyển theo sự biến hoại của
các hành. Các pháp ưu não do thức tùy chuyển theo sự biến hoại của các
hành sanh khởi sau khi xâm chiếm tâm và an trú. Do tâm bị xâm chiếm nên khủng
bố, chướng ngại, khát vọng được sanh khởi và ưu não.
8) Vị ấy quán thức như là tự
ngã, hay tự ngã như là có thức, hay thức trong tự ngã, hay tự ngã trong
thức. Đối với vị ấy, thức ấy biến hoại và đổi khác. Đối với vị
ấy, khi thức ấy biến hoại và đổi khác, thức tùy chuyển theo sự biến
hoại của thức. Các pháp ưu não do thức tùy chuyển theo sự biến hoại của
thức sanh khởi sau khi xâm chiếm tâm và an trú. Do tâm bị xâm chiếm nên
khủng bố, chướng ngại, khát vọng được sanh khởi và ưu não.
9) Như vậy, này các Tỷ-kheo, là chấp
thủ và ưu não.
10) Và này các Tỷ-kheo, như thế nào
là không chấp thủ và không ưu não?
11) Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị
Đa văn Thánh đệ tử thấy rõ các bậc Thánh, thuần thục pháp các bậc
Thánh, khéo tu tập pháp các bậc Thánh, thấy rõ các bậc Chân nhân, thuần
thục pháp các bậc Chân nhân, khéo tu tập pháp các bậc Chân nhân, không
quán sắc như là tự ngã, hay tự ngã như là có sắc, hay sắc ở trong tự
ngã, hay tự ngã ở trong sắc. Đối với vị ấy, sắc ấy biến hoại và
đổi khác. Đối với vị ấy, khi sắc ấy biến hoại và đổi khác, thức
không tùy chuyển theo sự biến hoại của sắc. Các pháp ưu não do thức
tùy chuyển theo sự biến hoại của sắc không sanh khởi, không xâm chiếm
tâm và an trú. Do tâm không bị xâm chiếm nên không có khủng bố, không
có chướng ngại, không có khát vọng khởi lên và ưu não.
12) Không quán thọ như là tự ngã,
hay tự ngã như là có thọ, hay thọ ở trong tự ngã, hay tự ngã ở trong
thọ. Đối với vị ấy, thọ ấy biến hoại và đổi khác. Đối với vị
ấy, khi thọ ấy biến hoại và đổi khác, thức không tùy chuyển theo sự
biến hoại của thọ. Các pháp ưu não do thức tùy chuyển theo sự biến hoại
của thọ không sanh khởi, không xâm chiếm tâm và an trú. Do tâm không bị
xâm chiếm nên không có khủng bố, không có chướng ngại, không có khát vọng
khởi lên và ưu não.
13) Không quán tưởng như là tự
ngã...
14) Không quán các hành như là tự
ngã...
15) Không quán thức như là tự
ngã, hay tự ngã như là có thức, hay thức ở trong tự ngã, hay tự ngã ở
trong thức. Đối với vị ấy, thức ấy biến hoại và đổi khác. Đối với
vị ấy, khi thức ấy biến hoại và đổi khác, thức không tùy chuyển
theo sự biến hoại của thức. Các pháp ưu não do thức tùy chuyển theo sự
biến hoại của thức không sanh khởi, không xâm chiếm tâm và an trú. Do
tâm không bị xâm chiếm nên không có khủng bố, không có chướng ngại,
không có khát vọng khởi lên và ưu não.
16) Như vậy, này các Tỷ-kheo, là sự
không chấp thủ, không ưu não.
VIII. Chấp Thủ Và Ưu Não (Tạp
2.12, Hệ Trước, Đại 2,11a) (S.iii,18)
1) Nhân duyên ở Sàvatthi...
2) -- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng
cho các Ông về sự chấp thủ và ưu não, sự không chấp thủ và không ưu
não...
Thế Tôn nói như sau:
3) -- Này các Tỷ-kheo, thế nào là
chấp thủ và ưu não?
4) Ở đây, này các Tỷ-kheo, kẻ
vô văn phàm phu quán sắc: "Đây là của tôi, đây là tôi, đây là tự
ngã của tôi". Sắc ấy của vị này biến hoại, đổi khác. Vị này
khi sắc ấy biến hoại, đổi khác, khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não.
5). .. quán thọ...
6). .. quán tưởng....
7). .. quán các hành...
8). .. quán thức: "Đây là của
tôi, đây là tôi, đây là tự ngã của tôi". Thức ấy của vị này biến
hoại, đổi khác. Vị này khi thức ấy biến hoại, đổi khác, khởi lên sầu,
bi, khổ, ưu, não.
9) Như vậy, này các Tỷ-kheo, là chấp
thủ và ưu não.
10) Này các Tỷ-kheo, như thế nào
là không chấp thủ và không ưu não?
11) Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị
Đa văn Thánh đệ tử quán sắc: "Đây không phải của tôi, đây không
phải là tôi, đây không phải là tự ngã của tôi". Sắc ấy của vị
này biến hoại, đổi khác. Vị này, khi sắc biến hoại, đổi khác, không
khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não.
12). .. quán thọ: "Đây không phải
của tôi..".
13). .. quán tưởng: "Đây không
phải của tôi..".
14). .. quán các hành: "Đây
không phải của tôi.."..
15). .. quán thức: "Đây không
phải của tôi, đây không phải là tôi, đây không phải tự ngã của
tôi". Thức ấy của vị này biến hoại, đổi khác. Vị này, khi thức
ấy biến hoại, đổi khác, không khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não.
16) Như vậy, này các Tỷ-kheo, là
không chấp thủ, không ưu não.
IX. Ba Thời Là Vô Thường (Tạp
1.8 Quá Khứ, Đại 2,1c. Tạp 3.29-30 Lược Thuyết, Đại 2,20a) (S.iii,19)
1) Nhân duyên ở Sàvatthi...
2) -- Này các Tỷ-kheo, sắc là vô
thường, trong quá khứ, trong vị lai, còn nói gì đến hiện tại. Thấy vậy,
này các Tỷ-kheo, bậc Đa văn Thánh đệ tử đối với sắc quá khứ không
tiếc nuối (anapekkha), đối với sắc vị lai không hoan hỷ, đối với sắc
hiện tại hướng đến yếm ly, ly tham, đoạn diệt.
3) Này các Tỷ-kheo, thọ là vô thường...
4) Này các Tỷ-kheo, tưởng là vô
thường...
5) Này các Tỷ-kheo, các hành là vô
thường, trong quá khứ, trong vị lai, còn nói gì đến hiện tại. Thấy vậy,
này các Tỷ-kheo, bậc Đa văn Thánh đệ tử đối với các hành quá khứ
không tiếc nuối, đối với các hành vị lai không hoan hỷ, đối với các
hành hiện tại hướng đến yếm ly, ly tham, đoạn diệt.
6) Này các Tỷ-kheo, thức là vô thường
trong quá khứ, trong vị lai, còn nói gì đến hiện tại. Thấy vậy, này
các Tỷ-kheo, bậc Đa văn Thánh đệ tử đối với thức quá khứ không tiếc
nuối, đối với thức vị lai không hoan hỷ, đối với thức hiện tại
hướng đến yếm ly, ly tham, đoạn diệt.
X. Ba Thời Là Khổ
1) Nhân duyên ở Sàvatthi...
2) -- Sắc, này các Tỷ-kheo, là khổ,
quá khứ, vị lai, còn nói gì đến hiện tại. Thấy vậy, này các Tỷ-kheo,
vị Đa văn Thánh đệ tử, đối với sắc quá khứ không tiếc nuối, đối
với sắc vị lai không hoan hỷ, đối với sắc hiện tại hướng đến yếm
ly, ly tham đoạn diệt.
3) Thọ, này các Tỷ-kheo, là khổ...
4) Tưởng, này các Tỷ-kheo, là khổ...
5) Các hành, này các Tỷ-kheo, là khổ...
6) Thức, này các Tỷ-kheo, là khổ,
quá khứ, vị lai, còn nói gì đến hiện tại. Thấy vậy, này các Tỷ-kheo,
vị Đa văn Thánh đệ tử đối với thức quá khứ không tiếc nuối, đối
với thức vị lai không hoan hỷ, đối với thức hiện tại hướng đến yếm
ly, ly tham, đoạn diệt.
XI. Ba Thời Là Vô Ngã (S.iii,20)
1) Nhân duyên ở Sàvatthi...
2) -- Sắc, này các Tỷ-kheo, là vô
ngã, quá khứ, vị lai, còn nói gì đến hiện tại. Vị Đa văn Thánh đệ
tử đối với sắc quá khứ không tiếc nuối, đối với sắc vị lai không
hoan hỷ, đối với sắc hiện tại hướng đến yếm ly, ly tham, đoạn diệt.
3) Thọ, này các Tỷ-kheo, là vô
ngã...
4) Tưởng, này các Tỷ-kheo, là vô
ngã...
5) Các hành, này các Tỷ-kheo, là
vô ngã...
6) Thức, này các Tỷ-kheo, là vô
ngã, quá khứ, vị lai, còn nói gì đến hiện tại. Vị Đa văn Thánh đệ
tử đối với thức quá khứ không tiếc nuối, đối với thức vị lai không
hoan hỷ, đối với thức hiện tại hướng đến yếm ly, ly tham, đoạn diệt.
II. Phẩm Vô Thường
I. Vô Thường (Tạp 1.1 Vô thường,
Đại 2,1a) (S.iii,21)
1) Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Sàvathi...
2) Tại đấy...
3-6) -- Này các Tỷ-kheo, sắc là vô
thường..., thọ là vô thường..., tưởng là vô thường... các hành là vô
thường..., thức là vô thường.
7) Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, vị
Đa văn Thánh đệ tử yếm ly đối với sắc, yếm ly đối với thọ, yếm
ly đối với tưởng, yếm ly đối với các hành, yếm ly đối với thức...
Do yếm ly, vị ấy ly tham. Do ly tham, vị ấy giải thoát. Trong sự giải
thoát, trí khởi lên: "Ta đã được giải thoát". Vị ấy biết :
"Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm,
không còn trở lui trạng thái này nữa".
II. Khổ (S.iii,21)
1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...
3-7) -- Này các Tỷ-kheo, sắc là khổ...,
thọ là khổ..., tưởng là khổ..., các hành là khổ..., thức là khổ...
8) Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, vị
Đa văn Thánh đệ tử... "... không còn trở lui trạng thái này nữa".
III. Vô Ngã (S.iii,21)
1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...
3-7) -- Này các Tỷ-kheo, sắc là vô
ngã..., thọ là vô ngã..., tưởng là vô ngã..., các hành là vô ngã..., thức
là vô ngã...
8) Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, vị
Đa văn Thánh đệ tử yếm ly đối với sắc, yếm ly đối với thọ, yếm
ly đối với tưởng, yếm ly đối với các hành, yếm ly đối với thức.
Do yếm ly, vị ấy ly tham. Do ly tham, vị ấy giải thoát. Trong sự giải
thoát, trí khởi lên: "Ta được giải thoát". Vị ấy biết:
"Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm,
không còn trở lui trạng thái này nữa".
IV. Cái Gì Vô Thường (Tạp 1.9,
Vô Thường, Đại 2,2a) (S.iii,22)
1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...
3)-- Sắc,này các Tỷ-kheo, là vô thường;
cái gì vô thường là khổ; cái gì khổ là vô ngã; cái gì vô ngã, cần phải
như thật quán với chánh trí tuệ: "Cái này không phải của tôi; cái
này không phải là tôi; cái này không phải tự ngã của tôi".
4) Thọ, này các Tỷ-kheo, là vô thường;
cái gì vô thường là khổ; cái gì khổ là vô ngã; cái gì vô ngã cần phải
như thật quán với chánh trí tuệ: "Cái này không phải của tôi; cái
này không phải là tôi; cái này không phải tự ngã của tôi".
5) Tưởng, này các Tỷ-kheo, là vô
thường...
6) Các hành, này các Tỷ-kheo, là
vô thường...
7) Thức, này các Tỷ-kheo, là vô thường;
cái gì vô thường là khổ; cái gì khổ là vô ngã; cái gì vô ngã cần phải
như thật quán với chánh trí tuệ: "Cái này không phải của tôi; cái
này không phải là tôi; cái này không phải tự ngã của tôi".
8) Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, vị
Đa văn Thánh đệ tử yếm ly đối với sắc... "... không còn trở lui
trạng thái này nữa".
V. Cái Gì Khổ (Tạp 1.10 Vô Thường.
Đại 2,2a) (S.iii,22)
1-2) Nhân duyên tại Sàvatthi...
3) -- Sắc, này các Tỷ-kheo, là khổ.
Cái gì khổ là vô ngã; cái gì vô ngã cần phải như thật quán với chánh
trí tuệ: "Cái này không phải của tôi; cái này không phải là tôi;
cái này không phải tự ngã của tôi".
4) Thọ, này các Tỷ-kheo, là khổ...
5) Tưởng, này các Tỷ-kheo, là khổ...
6) Các hành, này các Tỷ-kheo, là khổ...
7) Thức, này các Tỷ-kheo, là khổ.
Cái gì khổ là vô ngã; cái gì vô ngã cần phải như thật quán với chánh
trí tuệ: "Cái này không phải của tôi; cái này không phải là tôi;
cái này không phải tự ngã của tôi".
8) Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, vị
Đa văn Thánh đệ tử yếm ly đối với sắc... "...không còn trở lui
trạng thái này nữa".
VI. Cái Gì Vô Ngã (S.iii,22)
1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...
3) -- Sắc, này các Tỷ-kheo, là vô
ngã. Cái gì vô ngã; cần phải như thật quán với chánh trí tuệ:
"Cái này không phải của tôi; cái này không phải là tôi; cái này
không phải tự ngã của tôi".
4-6) Thọ, này các Tỷ-kheo, là vô
ngã... Tưởng, này các Tỷ-kheo, là vô ngã... Các hành, này các Tỷ-kheo,
là vô ngã...
7) Thức, này các Tỷ-kheo, là vô
ngã. Cái gì vô ngã cần phải như thật quán với chánh trí tuệ: "Cái
này không phải của tôi; cái này không phải là tôi; cái này không phải tự
ngã của tôi".
8) Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, vị
Đa văn Thánh đệ tử yếm ly đối với sắc... "... không còn trở lui
trạng thái này nữa".
VII. Có Nhân Là Vô Thường (Tạp
1.11 Nhân. Đại 2,2a) (S.iii,23)
1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...
3) -- Sắc, này các Tỷ-kheo, là vô
thường. Cái gì là nhân, cái gì là duyên cho sắc sanh khởi; cái ấy cũng
vô thường. Sắc đã được cái vô thường làm cho sanh khởi, này các Tỷ-kheo,
từ đâu có thể thường được?
4) Thọ, này các Tỷ-kheo, là vô thường.
Cái gì là nhân, cái gì là duyên cho thọ sanh khởi; cái ấy cũng vô thường.
Thọ đã được cái vô thường làm cho sanh khởi, này các Tỷ-kheo, từ đâu
có thể thường được?
5) Tưởng, này các Tỷ-kheo, là vô
thường...
6) Các hành, này các Tỷ-kheo, là
vô thường...
7) Thức, này các Tỷ-kheo, là vô thường.
Cái gì là nhân, cái gì là duyên cho thức sanh khởi; cái ấy cũng vô thường.
Thức đã được cái vô thường làm cho sanh khởi, này các Tỷ-kheo, từ đâu
có thể thường được?
8) Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, vị
Đa văn Thánh đệ tử yếm ly đối với sắc... "... không còn trở lui
với trạng thái này nữa".
VIII. Có Nhân Là Khổ (Tạp 1.12
Nhân. Đại 2,2b) (S.iii,23)
1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...
3) -- Sắc, này các Tỷ-kheo, là khổ.
Cái gì là nhân, cái gì là duyên cho sắc sanh khởi; cái ấy cũng khổ. Sắc
đã được cái khổ làm cho sanh khởi, này các Tỷ-kheo, từ đâu có thể lạc
được?
4) Thọ, này các Tỷ-kheo, là khổ...
5) Tưởng, này các Tỷ-kheo, là khổ...
6) Các hành, này các Tỷ-kheo, là khổ...
7) Thức, này các Tỷ-kheo, là khổ.
Cái gì là nhân, cái gì là duyên cho thức sanh khởi; cái ấy cũng khổ. Thức
đã được cái khổ làm cho sanh khởi, này các Tỷ-kheo, từ đâu có thể lạc
được?
8) Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, vị
Đa văn Thánh đệ tử yếm ly đối với sắc... "... không còn trở lui
trạng thái này nữa".
IX. Có Nhân Là Vô Ngã (S.iii,23)
1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...
3) -- Sắc, này các Tỷ-kheo, là vô
ngã. Cái gì là nhân, cái gì là duyên cho sắc sanh khởi; cái ấy cũng vô
ngã. Sắc đã được cái vô ngã làm cho sanh khởi, này các Tỷ-kheo, từ đâu
là ngã được?
4-6) Thọ... Tưởng... Các hành, này
các Tỷ-kheo, là vô ngã...
7) Thức, này các Tỷ-kheo, là vô
ngã. Cái gì là nhân, cái gì là duyên cho thức sanh khởi; cái ấy cũng vô
ngã. Thức đã được cái vô ngã làm cho sanh khởi, này các Tỷ-kheo, từ
đâu là ngã được?
8) Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, vị
Đa văn Thánh đệ tử yếm ly đối với sắc... "... không còn trở lui
trạng thái này nữa".
X. Ananda (S.iii,24)
1) Ở tại Sàvatthi... trong vườn...
2) Lúc bấy giờ Tôn giả Ananda đi
đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một
bên.
3) Ngồi xuống một bên, Tôn giả
Ananda bạch Thế Tôn:
-- "Đoạn diệt, đoạn diệt",
bạch Thế Tôn, chúng con được nghe nói đến. Do đoạn diệt những pháp
nào, bạch Thế Tôn, được gọi là đoạn diệt?
4) -- Sắc, này Ananda, là vô thường,
hữu vi, do nhân duyên sanh khởi, chịu sự đoạn tận, chịu sự hoại diệt,
chịu sự ly tham, chịu sự đoạn diệt. Sự đoạn diệt của sắc được
gọi là đoạn diệt.
5) Thọ, này Ananda, là vô thường,
hữu vi, do nhân duyên sanh khởi, chịu sự đoạn tận, chịu sự hoại diệt,
chịu sự ly tham, chịu sự đoạn diệt. Sự đoạn diệt của thọ được
gọi là đoạn diệt.
6-7) Tưởng, này Ananda, là vô thường...
Các hành, này Ananda, là vô thường...
8) Thức, này Ananda, là vô thường,
hữu vi, do nhân duyên sanh khởi, chịu sự đoạn tận, chịu sự hoại diệt,
chịu sự ly tham, chịu sự đoạn diệt. Sự đoạn diệt của thức được
gọi là đoạn diệt.
9) Sự đoạn diệt của những pháp
này, này Ananda, được gọi là đoạn diệt.
III. Phẩm Gánh Nặng
I. Gánh Nặng (Tạp, 2.3, Trọng
Đởm. Đại 2,19a) (Tăng 25.4, Đại 2,631c) (S.iii,25)
1-2) Ở Sàvatthi...
3) -- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng
cho các Ông về gánh nặng, mang gánh nặng lên, đặt gánh nặng xuống. Hãy
nghe và khéo suy nghiệm, Ta sẽ giảng.
4) Này các Tỷ-kheo, thế nào là
gánh nặng? Năm thủ uẩn là câu trả lời. Thế nào là năm? Sắc thủ uẩn,
thọ thủ uẩn, tưởng thủ uẩn, hành thủ uẩn, thức thủ uẩn. Này các
Tỷ-kheo, đây gọi là gánh nặng.
5) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
kẻ mang gánh nặng? Người là câu trả lời. Vị Tôn giả này có tên như
thế này, dòng họ như thế này. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là kẻ mang
gánh nặng!
6) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
mang gánh nặng lên? Chính là tham ái này đưa đến tái sanh, câu hữu với
hỷ và tham, đi tìm hỷ lạc chỗ này, chỗ kia. Tức là dục ái, hữu ái,
phi hữu ái. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là mang gánh nặng lên.
7) Này các Tỷ-kheo, thế nào là đặt
gánh nặng xuống? Đây là sự ly tham, đoạn diệt ái ấy một cách hoàn
toàn, sự từ bỏ, sự xả ly, sự giải thoát, sự không chấp thủ. Này
các Tỷ-kheo, đây gọi là đặt gánh nặng xuống.
8) Thế Tôn thuyết như vậy, Thiện
Thệ nói như vậy xong, bậc Đạo Sư lại nói thêm:
- Năm uẩn là gánh nặng,
- Kẻ gánh nặng là người;
- Mang lấy gánh nặng lên,
- Chính là khổ ở đời.
- Còn đặt gánh nặng xuống,
- Tức là lạc (không khổ),
- Đặt gánh nặng xuống xong,
- Không mang thêm gánh khác.
- Nếu nhổ khát ái lên,
- Tận cùng đến gốc rễ,
- Không còn đói và khát,
- Được giải thoát tịnh lạc!
-
II. Liễu Tri (Parinna) (Tạp
3.22 Trì Pháp. Đại 2,19a)
1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...
3) -- Và này các Tỷ-kheo, Ta sẽ
thuyết những pháp cần phải liễu tri, phải được liễu tri. Hãy nghe và
khéo suy nghiệm, Ta sẽ nói...
4) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
các pháp cần phải liễu tri? Sắc, này các Tỷ-kheo, là pháp cần phải liễu
tri, thọ là pháp cần phải liễu tri, tưởng là pháp cần phải liễu tri,
các hành là pháp cần phải liễu tri, thức là pháp cần phải liễu tri. Những
pháp này, này các Tỷ-kheo, là những pháp cần phải liễu tri.
5) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
liễu tri? Này các Tỷ-kheo, sự đoạn tận tham, sự đoạn tận sân, sự
đoạn tận si, này các Tỷ-kheo, được gọi là liễu tri.
III. Thắng Tri (Tạp 1.3, Vô Tri.
Đại 2,1a) (S.iii,27)
1-2) Nhân duyên tại Sàvatthi...
3) -- Này các Tỷ-kheo, do không thắng
tri sắc, không liễu tri, không ly tham, không từ bỏ, nên không có thể đoạn
tận khổ.
4) Này các Tỷ-kheo, do không thắng
tri thọ...
5-6) Này các Tỷ-kheo, do không thắng
tri tưởng... không thắng tri các hành...
7) Này các Tỷ-kheo, do không thắng
tri thức, không liễu tri, không ly tham, không từ bỏ, nên không có thể đoạn
tận khổ.
8) Này các Tỷ-kheo, do thắng tri sắc,
liễu tri, ly tham, từ bỏ, nên có thể đoạn tận khổ.
9-11) Này các Tỷ-kheo, do thắng tri
thọ... thắng tri tưởng... thắng tri các hành...
12) Này các Tỷ-kheo, do thắng tri thức,
liễu tri, ly tham, từ bỏ, nên có thể đoạn tận khổ.
IV. Dục Tham (Tạp 3.27 Tham, Đại
2,19c) (S.iii,27)
1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...
3) -- Dục và tham (chandaràga) đối
với sắc, này các Tỷ-kheo, hãy từ bỏ nó. Như vậy, sắc ấy sẽ được
đoạn trừ, nhổ tận gốc rễ, làm cho như thân cây ta-la, làm cho không thể
tái sanh, không thể sanh khởi trong tương lai.
4) Dục và tham đối với thọ, này
các Tỷ-kheo, hãy từ bỏ nó. Như vậy, thọ ấy sẽ được đoạn trừ, nhổ
tận gốc rễ, làm cho như thân cây ta-la, làm cho không thể tái sanh, không
thể sanh khởi trong tương lai.
5) Dục và tham đối với tưởng...
6) Dục và tham đối với các
hành...
7) Dục và tham đối với thức, này
các Tỷ-kheo, hãy từ bỏ nó. Như vậy, thức ấy sẽ được đoạn trừ,
nhổ tận gốc rễ, làm cho như thân cây ta-la, làm cho không thể tái sanh,
không thể sanh khởi trong tương lai.
V. Vị Ngọt (Tạp 1.14, Vị, Đại
2,2c) (S.iii,27)
1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...
3) -- Này các Tỷ-kheo, trước khi Ta
giác ngộ, chưa chứng Chánh Đẳng Giác, còn là Bồ-tát, Ta suy nghĩ như
sau:
4) "Cái gì là vị ngọt, cái
gì là sự nguy hiểm, cái gì là sự xuất ly của sắc? Cái gì là vị ngọt,
cái gì là sự nguy hiểm, cái gì là sự xuất ly của thọ? Cái gì là vị
ngọt, cái gì là sự nguy hiểm, cái gì là sự xuất ly của tưởng? Cái
gì là vị ngọt, cái gì là sự nguy hiểm, cái gì là sự xuất ly của các
hành? Cái gì là vị ngọt, cái gì là sự nguy hiểm, cái gì là sự xuất
ly của thức?"
5) Rồi này các Tỷ-kheo, Ta suy nghĩ
như sau:
6) "Do duyên sắc, lạc hỷ sanh;
cái ấy gọi là vị ngọt của sắc. Sự vô thường, đau khổ, chịu sự
biến hoại của sắc; cái ấy gọi là sự nguy hiểm của sắc. Sự nhiếp
phục dục và tham đối với sắc, sự đoạn tận dục và tham; cái ấy là
xuất ly của sắc".
7) "Do duyên thọ, lạc hỷ
sanh.."..
8) "Do duyên tưởng, lạc hỷ
sanh..".
9) "Do duyên các hành, lạc hỷ
sanh; cái ấy gọi là vị ngọt của các hành. Sự vô thường, đau khổ, chịu
sự biến hoại của các hành; cái ấy gọi là sự nguy hiểm của các
hành. Sự nhiếp phục dục và tham đối với hành, sự đoạn tận dục và
tham; cái ấy là sự xuất ly của các hành".
10) "Do duyên thức, lạc hỷ
sanh; cái ấy gọi là vị ngọt của thức. Sự vô thường, đau khổ, chịu
sự biến hoại của thức; cái ấy gọi là sự nguy hiểm của thức. Sự
nhiếp phục dục và tham đối với thức, sự đoạn tận dục và tham; cái
ấy là sự xuấy ly của thức".
11) Này các Tỷ-kheo, cho đến khi nào
đối với năm thủ uẩn này, Ta chưa như thật thắng tri vị ngọt là vị
ngọt, nguy hiểm là nguy hiểm, xuất ly là xuất ly, thời này các Tỷ-kheo,
Ta không tuyên bố rằng Ta đã giác ngộ vô thượng Chánh Đẳng Giác đối
với thế giới gồm có Thiên, Ma, Phạm thiên, đối với quần chúng
Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người.
12) Nhưng này các Tỷ-kheo, khi nào
đối với năm thủ uẩn này, Ta như thật thắng tri vị ngọt là vị ngọt,
nguy hiểm là nguy hiểm, xuất ly là xuất ly, thời này các Tỷ-kheo, Ta
tuyên bố rằng Ta đã giác ngộ vô thượng Chánh Đẳng Giác đối với thế
giới gồm có Thiên, Ma, Phạm thiên, đối với quần chúng Sa-môn,
Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người.
13) Và tri kiến như sau khởi lên nơi
Ta:
"Tâm Ta giải thoát, bất động.
Đây là đời sống cuối cùng, nay không còn tái sanh nữa".
VI. Vị Ngọt (S.iii,29)
1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...
3) -- Này các Tỷ-kheo, Ta đã đi tìm
cầu vị ngọt của sắc. Vị ngọt của sắc là gì, Ta đã chứng đắc. Vị
ngọt của sắc như thế nào, Ta đã khéo thấy với trí tuệ.
4) Này các Tỷ-kheo, Ta đã đi tìm cầu
sự nguy hiểm của sắc. Sự nguy hiểm của sắc là gì, Ta đã chứng đắc.
Sự nguy hiểm của sắc như thế nào, Ta đã khéo thấy với trí tuệ.
5) Này các Tỷ-kheo, Ta đã đi tìm cầu
sự xuất ly của sắc. Sự xuất ly của sắc là gì, Ta đã chứng đắc. Sự
xuất ly của sắc như thế nào, Ta đã khéo thấy với trí tuệ.
6-8) Này các Tỷ-kheo, Ta đi tìm cầu
vị ngọt của thọ...
9-11) Này các Tỷ-kheo, Ta đã đi tìm
cầu vị ngọt của tưởng...
12-14) Này các Tỷ-kheo, Ta đã đi tìm
cầu vị ngọt của các hành...
15) Này các Tỷ-kheo, Ta đã đi tìm
cầu vị ngọt của thức. Vị ngọt của thức là gì, Ta đã chứng đắc.
Vị ngọt của thức như thế nào, Ta đã khéo thấy với trí tuệ.
16) Này các Tỷ-kheo, Ta đã đi tìm
cầu sự nguy hiểm của thức. Nguy hiểm của thức là gì, Ta đã chứng đắc.
Nguy hiểm của thức như thế nào, Ta đã khéo thấy với trí tuệ.
17) Này các Tỷ-kheo, Ta đã đi tìm
cầu sự xuất ly của thức. Xuất ly của thức là gì, Ta đã chứng đắc.
Xuất ly của thức như thế nào, Ta đã khéo thấy với trí tuệ.
18-19) Này các Tỷ-kheo, cho đến khi
nào đối với năm thủ uẩn này, Ta chưa như thật biết vị ngọt là vị
ngọt, nguy hiểm là sự nguy hiểm, xuất ly là xuất ly, thời này các Tỷ-kheo,
Ta không tuyên bố rằng... Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người.
20) Và tri kiến như sau khởi lên nơi
Ta: "Tâm Ta giải thoát, bất động. Đây là đời sống cuối cùng, nay
không còn tái sanh nữa".
VII. Vị Ngọt (Tạp 1.13 Vị, Đại
2,2bb) (S.iii,29)
1-2) Nhân duyên tại Sàvatthi...
3) -- Này các Tỷ-kheo, nếu không
có vị ngọt của sắc, thời các loài hữu tình không có tham đắm đối với
sắc. Và vì rằng, này các Tỷ-kheo, có vị ngọt của sắc cho nên các
loài hữu tình có tham đắm đối với sắc.
4) -- Này Tỷ-kheo, nếu không có sự
nguy hiểm của sắc, thời các loài hữu tình không có yếm ly đối với sắc.
Và vì rằng, này các Tỷ-kheo, có sự nguy hiểm của sắc cho nên các loài
hữu tình có yếm ly đối với sắc.
5) Này các Tỷ-kheo, nếu không có sự
xuất ly đối với sắc, thời các loài hữu tình không có xuất ly đối với
sắc. Và vì rằng, này các Tỷ-kheo, có sự xuất ly của sắc cho nên các
loài hữu tình có sự xuất ly đối với sắc.
6-8) Này các Tỷ-kheo, nếu không có
vị ngọt của thọ...
9-11) Này các Tỷ-kheo, nếu không
có vị ngọt của tưởng...
12-14) Này các Tỷ-kheo, nếu không
có vị ngọt của các hành...
15) Này các Tỷ-kheo, nếu không có
vị ngọt của thức, thời các loài hữu tình không có tham đắm đối với
thức. Và vì rằng, này các Tỷ-kheo, có vị ngọt của thức cho nên các
loài hữu tình có tham đắm đối với thức.
16) Này các Tỷ-kheo, nếu không có
sự nguy hiểm của thức, thời các loài hữu tình không có xuất ly đối với
thức. Và vì rằng, này các Tỷ-kheo, có sự nguy hiểm đối với thức cho
nên các loài hữu tình có yếm ly đối với thức.
17) Này các Tỷ-kheo, nếu không có
sự xuất ly đối với thức, thời các loài hữu tình không có xuất ly đối
với thức. Và vì rằng, này các Tỷ-kheo, có sự xuất ly đối với thức
cho nên các loài hữu tình có xuất ly đối với thức.
18) Này các Tỷ-kheo, khi nào các
loài hữu tình đối với năm thủ uẩn này không như thật thắng tri vị
ngọt là vị ngọt, nguy hiểm là nguy hiểm, xuất ly là xuất ly, thời các
loài hữu tình ấy, này các Tỷ-kheo, với thế giới chư Thiên, Ma, Phạm
thiên, với quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn, với chư Thiên và loài Người, không
thể sống xuất ly, thoát sự liên hệ, giải thoát, với tâm tự tại.
19) Và này các Tỷ-kheo, khi nào các
loài hữu tình đối với năm thủ uẩn này, như thật thắng tri vị ngọt
là vị ngọt, nguy hiểm là nguy hiểm, xuất ly là xuất ly, thời các loài hữu
tình ấy, này các Tỷ-kheo, với thế giới chư Thiên, Ma, Phạm thiên, với
quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn, với chư Thiên và loài Người, có thể sống
xuất ly, thoát sự liên hệ, giải thoát, với tâm tự tại.
VIII. Hoan Hỷ (Tạp 1.7, Ư Sắc Hỷ
Lạc, Đại 2,1c)(Tạp 1.5, Đại 2,1b) (S.iii,31)
1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...
3) -- Này các Tỷ-kheo, ai hoan hỷ sắc,
người ấy hoan hỷ khổ. Ai hoan hỷ khổ, Ta nói, người ấy không giải
thoát khỏi khổ.
4) Này các Tỷ-kheo, ai hoan hỷ thọ...
5) Này các Tỷ-kheo, ai hoan hỷ tưởng...
6) Này các Tỷ-kheo, ai hoan hỷ các
hành...
7) Này các Tỷ-kheo, ai hoan hỷ thức,
người ấy hoan hỷ khổ. Ai hoan hỷ khổ, Ta nói, người ấy không giải
thoát khỏi khổ.
8) Và này các Tỷ-kheo, ai không hoan
hỷ sắc, người ấy không hoan hỷ khổ. Ai không hoan hỷ khổ, Ta nói, người
ấy giải thoát khỏi khổ.
9) Và này các Tỷ-kheo, ai không hoan
hỷ thọ...
10) Và này các Tỷ-kheo, ai không
hoan hỷ tưởng...
11) Và này các Tỷ-kheo, ai không
hoan hỷ các hành...
12) Và này các Tỷ-kheo, ai không
hoan hỷ thức, người ấy không hoan hỷ khổ. Ai không hoan hỷ khổ, Ta
nói, người ấy giải thoát khỏi khổ.
IX. Sanh Khởi (Tạp 3.28 Sanh, Đại
2,20a) (S.iii,31)
1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...
3) -- Này các Tỷ-kheo, cái gọi là
sắc sanh, trú, khởi, hiện hữu; cái ấy là khổ sanh, bệnh tật trú, già
chết hiện hữu.
4-6) Này các Tỷ-kheo, cái gọi là
thọ sanh, trú, khởi, hiện hữu... tưởng sanh, trú, khởi, hiện hữu...
các hành sanh, trú, khởi, hiện, hữu...
7) Này các Tỷ-kheo, cái gọi là thức
sanh, trú, khởi, hiện hữu; cái ấy gọi là khổ sanh, bệnh tật trú, già
chết hiện hữu.
8) Này các Tỷ-kheo, cái gọi là sắc
đoạn diệt, an chỉ, biến mất; cái ấy gọi là khổ đoạn diệt, bệnh tật
an chỉ, già chết biến mất.
9-11) Này các Tỷ-kheo, cái gọi là
thọ đoạn diệt... tưởng đoạn diệt... các hành đoạn diệt...
12) Này các Tỷ-kheo, cái gọi là thức
đoạn diệt, an chỉ, biến mất; cái ấy là khổ đoạn diệt, bệnh tật
an chỉ, già chết biến mất.
X. Cội Gốc Của Đau Khổ (S.iii,32)
1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...
3) -- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết
về đau khổ và cội gốc của đau khổ. Hãy lắng nghe...
4) Này các Tỷ-kheo, thế nào là
đau khổ? Sắc, này các Tỷ-kheo, là đau khổ; thọ là đau khổ; tưởng là
đau khổ; các hành là đau khổ; thức là đau khổ. Đây, này các Tỷ-kheo,
gọi là đau khổ.
5) Này các Tỷ-kheo, thế nào là cội
gốc của đau khổ? Chính là khát ái này hướng tới tái sanh, câu hữu với
hỷ và tham, tìm cầu hỷ lạc chỗ này, chỗ kia; tức là dục ái, hữu
ái, phi hữu ái.
XI. Hoại Pháp (Tạp 2,19, Hoại
Pháp, Đại 2,12b) (S.iii,32)
1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...
3) -- Và này các Tỷ-kheo, Ta sẽ
thuyết về hoại pháp và bất hoại pháp. Hãy lắng nghe...
4) Và này các Tỷ-kheo, cái gì là
hoại pháp? Cái gì là bất hoại pháp?
5) Sắc, này các Tỷ-kheo, là hoại
pháp. Sự đoạn diệt của sắc ấy, sự an chỉ, biến mất là bất hoại
pháp.
6) Thọ, này các Tỷ-kheo, là hoại
pháp...
7) Tưởng, này các Tỷ-kheo, là hoại
pháp...
8) Hành, này các Tỷ-kheo, là hoại
pháp...
9) Thức, này các Tỷ-kheo, là hoại
pháp. Sự đoạn diệt của thức ấy, sự an chỉ, biến mất là bất hoại
pháp.
IV. Phẩm Không Phải Của Các Ông
I. Không Phải Của Các Ông (Tạp
10.14 Kỳ Lâm, Đại 2,10b) (S.iii,33)
1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...
3) -- Này các Tỷ-kheo, cái gì không
phải của các Ông, hãy từ bỏ nó. Từ bỏ nó sẽ đưa lại hạnh phúc,
an lạc cho các Ông.
4) Này các Tỷ-kheo, cái gì không phải
của các Ông?
5) Sắc, này các Tỷ-kheo, không phải
của các Ông, hãy từ bỏ nó. Từ bỏ nó sẽ đưa lại hạnh phúc, an lạc
cho các Ông.
6) Thọ, này các Tỷ-kheo, không phải
của các Ông, hãy từ bỏ nó. Từ bỏ nó sẽ đưa lại hạnh phúc, an lạc
cho các Ông.
7) Tưởng, này các Tỷ-kheo...
8) Các hành, này các Tỷ-kheo...
9) Thức, này các Tỷ-kheo, không phải
của các Ông, hãy từ bỏ nó. Từ bỏ nó sẽ đưa lại hạnh phúc, an lạc
cho các Ông.
10) Ví như, này các Tỷ-kheo, có người
mang lại cỏ, củi, cành cây, lá của Jetavana này, và đốt chúng hay tùy
theo duyên sử dụng chúng. Các Ông có nghĩ rằng: "Người (ấy) mang chúng
tôi, hay đốt, hay tùy theo duyên sử dụng chúng tôi"?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn. Vì
sao như vậy? Vì cái ấy không phải chúng con. Bạch Thế Tôn, cái ấy
không phải thuộc tự ngã của chúng con.
11) -- Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, sắc
không phải của các Ông, hãy từ bỏ nó. Từ bỏ nó sẽ đưa lại hạnh
phúc, an lạc cho các Ông. Thọ không phải của các Ông... Tưởng không phải
của các Ông. Các hành không phải của các Ông... Thức không phải của
các Ông, hãy từ bỏ nó. Từ bỏ nó sẽ đưa lại hạnh phúc, an lạc cho
các Ông.
II. Không Phải Của Các Ông (S.iii,34)
1-2) Nhân duyên ở Sàavatthi...
3) -- Cái gì không phải của các
Ông, này các Tỷ-kheo, hãy từ bỏ nó. Từ bỏ nó sẽ đưa lại hạnh phúc,
an lạc cho các Ông.
4) Này các Tỷ-kheo, cái gì không phải
của các Ông?
5) Sắc, này các Tỷ-kheo, không phải
của các Ông, hãy từ bỏ nó. Từ bỏ nó sẽ đưa lại hạnh phúc, an lạc
cho các Ông.
6-8) Thọ, này các Tỷ-kheo, không phải
của các Ông... Tưởng, này các Tỷ-kheo... Các hành, này các Tỷ-kheo...
9) Thức, này các Tỷ-kheo, không phải
của Ông, hãy từ bỏ nó. Từ bỏ nó sẽ đưa lại hạnh phúc, an lạc cho
các Ông.
III. Tỷ Kheo (S.iii,35)
1) Nhân duyên ở Sàvatthi.
I
2) Rồi một vị Tỷ-kheo đi đến
Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi
xuống một bên, Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
3) -- Lành thay, bạch Thế Tôn, Thế
Tôn hãy thuyết pháp vắn tắt cho con! Sau khi nghe Thế Tôn thuyết pháp, con
sẽ sống một mình, tịnh cư, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.
4) -- Này Tỷ-kheo, cái gì người ta
thiên chấp tùy miên, người ta sẽ được xưng danh tùy theo thiên chấp
tùy miên ấy. Cái gì người ta không thiên chấp tùy miên, người ta sẽ không
được xưng danh tùy theo thiên chấp tùy miên ấy.
-- Bạch Thế Tôn, con đã hiểu. Bạch
Thiện Thệ, con đã hiểu.
5) -- Như thế nào, này Tỷ-kheo,
Ông hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi điều Ta nói một cách vắn tắt?
6) -- Bạch Thế Tôn, nếu thiên chấp
sắc, do thiên chấp ấy được xưng danh. Nếu thiên chấp thọ, do thiên chấp
ấy được xưng danh. Nếu thiên chấp tưởng, do thiên chấp ấy được
xưng danh. Nếu thiên chấp các hành, do thiên chấp ấy được xưng danh. Nếu
thiên chấp thức, do thiên chấp ấy được xưng danh.
7) Bạch Thế Tôn, nếu không thiên
chấp sắc, không do thiên chấp ấy được xưng danh. Nếu không thiên chấp
thọ... Nếu không thiên chấp tưởng... Nếu không thiên chấp hành... Nếu
không thiên chấp thức, không do thiên chấp ấy được xưng danh. Bạch Thế
Tôn, với lời nói vắn tắt này của Thế Tôn, con hiểu ý nghĩa một cách
rộng rãi như vậy.
8) -- Lành thay, lành thay, Tỷ-kheo!
Lành thay, với lời nói vắn tắt này của Ta, Ông đã hiểu ý nghĩa một cách
rộng rãi như vậy. Nếu thiên chấp sắc, do thiên chấp ấy được xưng
danh. Nếu thiên chấp thọ... Nếu thiên chấp tưởng... Nếu thiên chấp
các hành... Nếu thiên chấp thức, do thiên chấp ấy được xưng danh. Này
Tỷ-kheo, nếu không thiên chấp sắc, không do thiên chấp ấy được xưng
danh... Nếu không thiên chấp thọ... Nếu không thiên chấp tưởng... Nếu
không thiên chấp các hành... Nếu không thiên chấp thức, không do thiên chấp
ấy được xưng danh. Với lời nói vắn tắt này của Ta, này Tỷ-kheo, Ông
cần phải hiểu một cách rộng rãi như vậy.
9) Rồi Tỷ-kheo ấy, sau khi hoan hỷ,
tín thọ lời Thế Tôn thuyết, từ chỗ ngồi đứng dậy, thân phía hữu hướng
về Ngài rồi ra đi.
II
10) Rồi Tỷ-kheo ấy sống một
mình, tịnh cư, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, không bao lâu chứng
được mục đích mà con nhà lương gia chân chánh xuất gia, từ bỏ gia đình,
sống không gia đình hướng đến: Đó là vô thượng cứu cánh Phạm hạnh.
Vị ấy ngay trong hiện tại, tự mình với thắng trí, chứng ngộ, chứng
đạt và an trú. Vị ấy biết: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những
việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa".
11) Và vị Tỷ-kheo ấy trở thành một
vị A-la-hán nữa.
IV. Vị Tỷ Kheo (S.iii,37)
1) Nhân duyên ở Sàvatthi...
2) Rồi một Tỷ-kheo đi đến Thế
Tôn... ngồi xuống một bên, Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
3) -- Bạch Thế Tôn, lành thay, nếu
Thế Tôn thuyết pháp một cách vắn tắt cho con. Sau khi nghe Thế Tôn thuyết
pháp, con sẽ sống một mình, tịnh cư, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.
4) -- Này Tỷ-kheo, cái gì người ta
thiên chấp (anuseti), cái ấy người ta được đo lường (anopuyti). Cái gì
người ta được đo lường, cái ấy người ta được xưng danh (sankham
gacchati). Cái gì người ta không thiên chấp, cái ấy người ta không được
đo lường. Cái gì người ta không được đo lường, cái ấy người ta không
được xưng danh.
-- Con đã hiểu, bạch Thế Tôn. Con
đã hiểu, bạch Thiện Thệ.
5) -- Lời nói vắn tắt này của
Ta, này Tỷ-kheo, Ông đã hiểu một cách rộng rãi như thế nào?
6) -- Nếu thiên chấp sắc, bạch Thế
Tôn, với sắc, người ta được đo lường. Với cái gì người ta được
đo lường, với cái ấy, người ta được xưng danh. Nếu thiên chấp thọ...
Nếu thiên chấp tưởng... Nếu thiên chấp các hành... Nếu thiên chấp thức,
với thức, người ta được đo lường. Với cái gì người ta được đo
lường, với cái ấy, người ta được xưng danh.
7) Nếu không thiên chấp sắc, bạch
Thế Tôn, với sắc, người ta không được đo lường. Với cái gì người
ta không được đo lường, với cái ấy, người ta không được xưng danh.
Nếu không thiên chấp thọ... Nếu không thiên chấp tưởng... Nếu không
thiên chấp các hành... Nếu không thiên chấp thức, với thức, người ta
không được đo lường. Với cái gì người ta không được đo lường, với
cái ấy, người ta không được xưng danh. Với lời nói vắn tắt này của
Thế Tôn, bạch Thế Tôn, con hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như vậy.
8) -- Lành thay, lành thay, này Tỷ-kheo!
Lành thay, này Tỷ-kheo! Lời nói vắn tắt này của Ta, Ông đã hiểu một
cách rộng rãi như vậy. Nếu thiên chấp sắc, này Tỷ-kheo, với sắc, người
ta được đo lường. Với cái gì được đo lường, với cái ấy, người
ta được xưng danh. Nếu thiên chấp thọ... Nếu thiên chấp tưởng... Nếu
thiên chấp các hành... Nếu thiên chấp thức, với thức, người ta được
đo lường. Với cái gì người ta được đo lường, với cái ấy, người
ta được xưng danh. Nếu không thiên chấp sắc, này Tỷ-kheo, với sắc, người
ta không được đo lường. Với cái gì người ta không được đo lường,
với cái ấy, người ta không được xưng danh. Nếu không thiên chấp thọ...
Nếu không thiên chấp tưởng... Nếu không thiên chấp các hành... Nếu
không thiên chấp thức, với thức, người ta không được đo lường. Với
cái gì người ta không được đo lường, với cái ấy, người ta không
được xưng danh. Với lời nói vắn tắt này của Ta, này Tỷ-kheo, Ông đã
hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như vậy.
9) Rồi vị Tỷ-kheo ấy, sau khi hoan
hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế
Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài rồi ra đi.
10) Rồi vị Tỷ-kheo ấy sống một
mình, tịnh cư...
11) Vị Tỷ-kheo ấy trở thành một
vị A-la-hán.
V. Ananda (S.iii,37)
1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...
3) Thế Tôn nói với Tôn giả Ananda
đang ngồi một bên:
-- Này Ananda, nếu có người hỏi
Ông: "Này Hiền giả Ananda, những pháp nào sự sanh khởi đã được thấy
rõ, sự diệt mất được thấy rõ, trong khi tồn tại, sự biến đổi được
thấy rõ?" Nếu được hỏi vậy, này Ananda, Ông trả lời như thế nào?
4) -- Bạch Thế Tôn, nếu có người
hỏi con: "Này Hiền giả Ananda, những pháp nào sự sanh khởi được thấy
rõ, sự diệt mất được thấy rõ, trong khi tồn tại, sự biến đổi được
thấy rõ?" Được hỏi vậy, bạch Thế Tôn,con sẽ trả lời như sau :
5) "Trong sắc, này Hiền giả, sự
sanh khởi được thấy rõ, sự diệt mất được thấy rõ, trong khi tồn tại,
sự biến đổi được thấy rõ. Trong thọ... Trong tưởng... Trong các
hành... Trong thức, này Hiền giả, sự sanh khởi được thấy rõ, sự diệt
mất được thấy rõ, trong khi tồn tại, sự biến đổi được thấy rõ".
Được hỏi vậy, bạch Thế Tôn, con sẽ trả lời như vậy.
6) -- Lành thay, lành thay, này Ananda!
Này Ananda, trong sắc sự sanh khởi được thấy rõ, sự diệt mất được
thấy rõ, trong khi tồn tại, sự biến đổi được thấy rõ. Trong thọ...
Trong tưởng... Trong các hành... Trong thức, sự sanh khởi được thấy rõ,
sự diệt mất được thấy rõ, trong khi tồn tại, sự biến đổi được
thấy rõ. Này Ananda, trong những pháp này, sự sanh khởi được thấy rõ, sự
diệt mất được thấy rõ, trong khi tồn tại, sự biến đổi được thấy
rõ. Được hỏi vậy, Này Ananda, Ông phải trả lời như vậy.
VI. Ananda (S.iii,38)
1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...
3) -- Này Ananda, nếu Ông được hỏi
như sau: "Trong những pháp nào, này Hiền giả Ananda, sự sanh khởi đã
được thấy rõ, sự diệt mất đã được thấy rõ, trong khi tồn tại, sự
biến đổi đã được thấy rõ? Trong những pháp nào sự sanh khởi sẽ
được thấy rõ, sự diệt mất sẽ được thấy rõ, trong khi tồn tại, sự
biến đổi sẽ được thấy rõ? Trong những pháp nào, sự sanh khởi được
thấy rõ, sự diệt mất được thấy rõ, trong khi tồn tại, sự biến đổi
được thấy rõ?" Được hỏi như vậy, này Ananda, Ông trả lời như
thế nào?
4) -- Bạch Thế Tôn, nếu con được
hỏi như sau: "Trong những pháp nào, này Hiền giả Ananda, sự sanh khởi
đã được thấy rõ, sự diệt mất đã được thấy rõ, trong khi tồn tại,
sự biến đổi đã được thấy rõ? Trong những pháp nào, sự sanh khởi sẽ
được thấy rõ, sự diệt mất sẽ được thấy rõ, trong khi tồn tại, sự
biến đổi sẽ được thấy rõ? Trong những pháp nào, sự sanh khởi được
thấy rõ, sự diệt mất được thấy rõ, trong khi tồn tại, sự biến đổi
được thấy rõ?" Được hỏi vậy, bạch Thế Tôn, con trả lời như
sau:
5) "Đối với sắc quá khứ,
này Hiền giả, đã đoạn diệt, đã biến hoại, đối với sắc ấy, sự
sanh khởi đã được thấy rõ, sự diệt mất đã được thấy rõ, trong
khi tồn tại, sự biến đổi đã được thấy rõ. Đối với thọ quá khứ,
đã đoạn diệt, đã biến hoại, sự sanh khởi của thọ ấy được thấy
rõ, sự diệt mất đã được thấy rõ, trong khi tồn tại, sự biến đổi
đã được thấy rõ. Đối với tưởng... Đối với các hành... Đối với
thức quá khứ, đã đoạn diệt, đã biến hoại, sự sanh khởi của thức
ấy đã được thấy rõ, sự diệt mất đã được thấy rõ, trong khi tồn
tại, sự biến đổi đã được thấy rõ. Trong những pháp này, Này Hiền
giả, sự sanh khởi đã được thấy rõ, sự diệt mất đã được thấy rõ,
trong khi tồn tại, sự biến đổi đã được thấy rõ.
6) Đối với sắc chưa sanh, này Hiền
giả, chưa hiện hữu, trong sắc ấy, sự sanh khởi sẽ được thấy rõ, sự
diệt mất sẽ được thấy rõ, trong khi tồn tại, sự biến đổi sẽ được
thấy rõ. Đối với thọ chưa sanh, chưa hiện hữu, trong thọ ấy, sự sanh
khởi sẽ được thấy rõ, sự diệt mất sẽ được thấy rõ, trong khi tồn
tại, sự biến đổi sẽ được thấy rõ. Đối với tưởng... Đối với
các hành... Đối với thức chưa sanh, chưa hiện hữu, sự sanh khởi sẽ
được thấy rõ, sự diệt mất sẽ được thấy rõ, trong khi tồn tại, sự
biến đổi sẽ được thấy rõ. Trong những pháp này, này Hiền giả, sự
sanh khởi sẽ được thấy rõ, sự diệt mất sẽ được thấy rõ, trong
khi tồn tại, sự biến đổi sẽ được thấy rõ.
7) Đối với sắc đã sanh, này Hiền
giả, đã hiện hữu, trong sắc ấy, sự sanh khởi được thấy rõ, sự diệt
mất được thấy rõ, trong khi tồn tại, sự biến đổi được thấy rõ.
Đối với thọ đã sanh, đã hiện hữu... Đối với tưởng đã sanh, đã
hiện hữu... Đối với các hành đã sanh, đã hiện hữu... Đối với thức
đã sanh, đã hiện hữu, trong thức ấy, sự sanh khởi được thấy rõ, sự
diệt mất được thấy rõ. Trong những pháp này, này Hiền giả, sự sanh
khởi được thấy rõ, sự diệt mất được thấy rõ, trong khi tồn tại,
sự biến đổi được thấy rõ".
Nếu con được hỏi như vậy, bạch
Thế Tôn, con sẽ trả lời như vậy.
8) -- Lành thay, lành thay, này Ananda!
Này Ananda, đối với sắc thuộc quá khứ đã đoạn diệt, đã biến hoại;
đối với sắc ấy, sự sanh khởi đã được thấy rõ, sự diệt mất đã
được thấy rõ, trong khi tồn tại, sự biến đổi đã được thấy rõ.
Đối với thọ... Đối với tưởng... Đối với các hành... Đối với thức,
thuộc quá khứ đã đoạn diệt, đã biến hoại, trong thức ấy, sự sanh
khởi đã được thấy rõ, sự biến mất đã được thấy rõ, trong khi tồn
tại, sự biến đổi đã được thấy rõ. Trong các pháp này, này Ananda, sự
sanh khởi đã được thấy rõ, sự biến mất đã được thấy rõ, trong
khi tồn tại, sự biến đổi đã được thấy rõ.
9) Đối với sắc chưa sanh, này
Ananda, chưa hiện hữu, trong sắc ấy, sự sanh khởi sẽ được thấy rõ, sự
diệt mất sẽ được thấy rõ, trong khi tồn tại, sự biến đổi sẽ được
thấy rõ. Đối với thọ... Đối với tưởng... Đối với các hành... Đối
với thức chưa sanh khởi, chưa hiện hữu, trong thức ấy, sự sanh khởi sẽ
được thấy rõ, sự diệt mất sẽ được thấy rõ, trong khi tồn tại, sự
biến đổi sẽ được thấy rõ. Đối với những pháp này, này Ananda, sự
sanh khởi sẽ được thấy rõ, sự diệt mất sẽ được thấy rõ, trong
khi tồn tại, sự biến đổi sẽ được thấy rõ.
10) Đối với sắc đã sanh, này
Ananda, đã hiện hữu, đối với sắc ấy, sự sanh khởi được thấy rõ,
sự diệt mất được thấy rõ, trong khi tồn tại, sự biến đổi được
thấy rõ. Đối với thọ... Đối với tưởng... Đối với các hành... Đối
với thức đã sanh, đã hiện hữu, đối với thức ấy, sự sanh khởi được
thấy rõ, sự diệt mất được thấy rõ, trong khi tồn tại, sự biến đổi
được thấy rõ. Trong những pháp này, sự sanh khởi được thấy rõ, sự
diệt mất được thấy rõ, trong khi tồn tại, sự biến đổi được thấy
rõ. Được hỏi như vậy, này Ananda, Ông cần phải trả lời như vậy.
VII. Tùy Pháp (S.iii,41)
1-2) Nhân duyên ở Sàavatthi...
3) -- Đối với vị Tỷ-kheo thực hành
pháp và tùy pháp, tùy pháp này có mặt: Đối với sắc, vị ấy sống nhiều
yếm ly; đối với thọ, vị ấy sống nhiều yếm ly; đối với tưởng, vị
ấy sống nhiều yếm ly; đối với các hành, vị ấy sống nhiều yếm ly;
đối với thức, vị ấy sống nhiều yếm ly.
4) Ai sống nhiều yếm ly đối với
sắc... đối với thọ... đối với tưởng... đối với các hành... ai sống
nhiều yếm ly đối với thức, vị ấy liễu tri sắc... liễu tri thọ... liễu
tri tưởng... liễu tri các hành... liễu tri thức. Do liễu tri sắc... thọ...
tưởng... các hành... do liễu tri thức, vị ấy được giải thoát khỏi sắc,
giải thoát khỏi thọ, giải thoát khỏi tưởng, giải thoát khỏi các
hành, giải thoát khỏi thức, giải thoát khỏi sanh, già chết, sầu, bi, khổ,
ưu, não. Ta nói vị ấy giải thoát khỏi đau khổ.
VIII. Tùy Pháp (S.iii,41)
1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...
3-5) -- Đối với vị Tỷ-kheo thực
hành pháp và tùy pháp, tùy pháp này có mặt: Vị ấy sống tùy quán vô thường
trong sắc... Ta nói vị ấy giải thoát khỏi đau khổ.
IX. Tùy Pháp (S.iii,41)
1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...
3-5) -- Đối với vị Tỷ-kheo thực
hành pháp và tùy pháp, tùy pháp này có mặt: Vị ấy sống tùy quán khổ
trong sắc... Ta nói vị ấy giải thoát khỏi đau khổ.
X. Tùy Pháp (S.iii,41)
1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...
3) -- Đối với vị Tỷ-kheo thực hành
pháp và tùy pháp, tùy pháp này có mặt: Vị ấy sống tùy quán vô ngã
trong sắc... trong thọ... trong tưởng... trong các hành. Vị ấy sống tùy
quán vô ngã trong thức...
4) Ai sống tùy quán vô ngã trong sắc,
trong thọ, trong tưởng, trong các hành, trong thức; vị ấy liễu tri sắc,
liễu tri thọ, liễu tri tưởng, liễu tri các hành, liễu tri thức. Do vị
ấy liễu tri sắc, liễu tri thọ, liễu tri tưởng, liễu tri các hành, liễu
tri thức; vị ấy giải thoát khỏi sắc, giải thoát khỏi thọ, giải
thoát khỏi tưởng, giải thoát khỏi các hành, giải thoát khỏi thức, giải
thoát khỏi sanh, già chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Ta nói vị ấy giải
thoát khỏi đau khổ.
V. Phẩm Tự Mình Làm Hòn Đảo.
I. Tự Mình Làm Hòn Đảo (Đại
2,8a) (S.iii,42)
1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...
3) -- Hãy sống tự mình làm hòn đảo
cho chính mình, này các Tỷ-kheo, hãy nương tựa nơi chính mình, không nương
tựa một ai khác. Hãy lấy pháp làm hòn đảo, hãy lấy pháp làm chỗ nương
tựa, không nương tựa một ai khác.
4) Với những ai sống tự mình làm
hòn đảo cho chính mình, này các Tỷ-kheo, nương tựa nơi chính mình, không
nương tựa một ai khác. Lấy pháp làm hòn đảo, lấy pháp làm chỗ nương
tựa, không nương tựa một ai khác, hãy như lý quán sát: "Sầu, bi, khổ,
ưu, não do nguồn gốc gì sanh? Do cái gì làm cho hiện hữu?"
5) Và này các Tỷ-kheo, sầu, bi, khổ,
ưu, não do nguồn gốc gì sanh? Do cái gì làm cho hiện hữu?
6) Ở đây, này các Tỷ-kheo, kẻ
vô văn phàm phu không thấy rõ các bậc Thánh, không thuần thục pháp các bậc
Thánh, không tu tập pháp các bậc Thánh, không thấy rõ các bậc Chân nhân,
không thuần thục pháp các bậc Chân nhân, không tu tập pháp các bậc Chân
nhân; quán (samamupassati) sắc như là tự ngã, hay tự ngã như là có sắc,
hay sắc ở trong tự ngã, hay tự ngã ở trong sắc. Sắc của vị ấy biến
hoại và đổi khác. Khi sắc của vị ấy biến hoại và đổi khác thì sầu,
bi, khổ, ưu, nào sẽ khởi lên.
7) Vị ấy quán thọ như là tự
ngã, hay tự ngã như là có thọ...
8) Vị ấy quán tưởng như là tự
ngã...
9) Vị ấy quán các hành như là tự
ngã...
10) Vị ấy quán thức như là tự
ngã, hay tự ngã như là có thức, hay thức ở trong tự ngã, hay tự ngã ở
trong thức. Thức này của vị ấy biến hoại và đổi khác. Khi thức của
vị ấy biến hoại và đổi khác thì sầu, bi, khổ, ưu, não sẽ khởi
lên.
11) Này các Tỷ-kheo, biết sắc là
vô thường, biến hoại, ly tham, đoạn diệt; vị ấy thấy tất cả sắc
xưa và nay là vô thường, khổ, chịu sự biến hoại. Do thấy như thật với
chánh trí tuệ như vậy, sầu, bi, khổ, ưu, não được đoạn tận. Do chúng
được đoạn tận, vị ấy không bị ưu, não. Do không bị ưu, não, vị
ấy sống an lạc. Do sống an lạc, vị Tỷ-kheo được gọi là
(Tadanganibbuto) vị đã lắng dịu mọi tướng phần, nhứt hướng Niết-bàn.
12) Này các Tỷ-kheo, biết thọ là
vô thường, biến hoại, ly tham, đoạn diệt, vị ấy thấy tất cả thọ
xưa và nay là vô thường, khổ, chịu sự biến hoại. Do thấy như thật với
chánh trí tuệ như vậy, các sầu, bi, khổ, ưu, não được đoạn tận. Do
chúng được đoạn tận, vị ấy không bị ưu, não. Do không bị ưu, não,
vị ấy sống an lạc. Do sống an lạc, vị Tỷ-kheo được gọi là vị đã
lắng dịu mọi tướng phần.
13) Này các Tỷ-kheo, biết tưởng là
vô thường...
14) Này các Tỷ-kheo, biết các hành
là vô thường...
15) Này các Tỷ-kheo, biết thức là
vô thường, biến hoại, ly tham, đoạn diệt; vị ấy thấy tất cả thức
xưa và nay là vô thường, khổ, chịu sự biến hoại. Do thấy như thật với
chánh trí tuệ như vậy, các sầu, bi, khổ, ưu, não được đoạn tận. Do
chúng được đoạn tận, vị ấy không bị ưu, não. Do không bị ưu, não,
vị ấy sống an lạc. Do sống an lạc, vị Tỷ-kheo được gọi là vị đã
lắng dịu mọi tướng phần.
II. Con Đường (Đại 2,8a)
(S.iii,44)
1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...
3) -- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng
cho các Ông con đường đưa đến thân kiến tập khởi và con đường đưa
đến thân kiến đoạn diệt. Hãy lắng nghe.
4) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
con đường đưa đến thân kiến tập khởi?
5) Ở đây, này các Tỷ-kheo, kẻ
vô văn phàm phu không thấy rõ các bậc Thánh, không thuần thục pháp các bậc
Thánh, không tu tập pháp các bậc Thánh, không thấy rõ các bậc Chân nhân,
không thuần thục pháp các bậc Chân nhân, không tu tập pháp các bậc Chân
nhân; quán sắc như là tự ngã, hay tự ngã như là có sắc, hay sắc ở
trong tự ngã, hay tự ngã ở trong sắc.
6-8). .. quán thọ... quán tưởng...
quán các hành...
9). . quán thức như là tự ngã, hay
tự ngã như là có thức, hay thức ở trong tự ngã, hay tự ngã ở trong thức.
10) Này các Tỷ-kheo, đây gọi là
con đường đưa đến thân kiến tập khởi. Con đường đưa đến thân kiến
tập khởi có nghĩa là: Sự quán sát đưa đến khổ tập khởi.
11) Và này các Tỷ-kheo, thế nào
là con đường đưa đến thân kiến đoạn diệt?
12) Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị
Đa văn Thánh đệ tử thấy rõ các bậc Thánh, thuần thục pháp các bậc
Thánh, tu tập pháp các bậc Thánh, thấy rõ các bậc Chân nhân, thuần thục
pháp các bậc Chân nhân, tu tập pháp các bậc Chân nhân; không quán sắc như
là tự ngã, hay không quán tự ngã như là có sắc, hay không quán sắc ở
trong tự ngã, hay không quán tự ngã ở trong sắc.
13-15). .. không quán thọ... không
quán tưởng... không quán các hành...
16). .. không quán thức như là tự
ngã, hay không quán tự ngã như là có thức, hay không quán thức ở trong tự
ngã, hay không quán tự ngã ở trong thức.
17) Này các Tỷ-kheo, đây gọi là
con đường đưa đến thân kiến đoạn diệt. Con đường đưa đến thân
kiến đoạn diệt có nghĩa là: Sự quán sát đưa đến sự khổ đoạn diệt.
III. Vô Thường (Tạp 3,35, Thanh
Tịnh, Đại 2,21c) (S.iii,44)
1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...
3) -- Sắc, này các Tỷ-kheo, là vô
thường. Cái gì vô thường là khổ. Cái gì khổ là vô ngã. Cái gì vô
ngã, cần phải như thật quán với chánh trí tuệ là: "Cái này không
phải của tôi; cái này không phải là tôi; cái này không phải tự ngã của
tôi". Do như thật quán với chánh trí tuệ như vậy, tâm ly tham, được
giải thoát, không có chấp thủ các lậu hoặc.
4-6) Thọ, này các Tỷ-kheo, là vô
thường... Tưởng, này các Tỷ-kheo... Các hành, này các Tỷ-kheo...
7) Thức, này các Tỷ-kheo, là vô thường.
Cái gì vô thường là khổ. Cái gì khổ là vô ngã. Cái gì là vô ngã, cần
phải như thật quán với chánh trí tuệ là: "Cái này không phải của
tôi; cái này không phải là tôi; cái này không phải tự ngã của
tôi". Do như thật quán với chánh trí tuệ như vậy, tâm ly tham, được
giải thoát, không có chấp thủ các lậu hoặc.
8) Này các Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo
đối với sắc giới có tâm ly tham, giải thoát, không có chấp thủ các lậu
hoặc, đối với thọ giới... đối với tưởng giới... đối với hành giới...
đối với thức giới, có tâm ly tham, giải thoát, không có chấp thủ các
lậu hoặc. Do giải thoát, vị ấy an trú. Do an trú, vị ấy tri túc. Do tri
túc, vị ấy không ưu não. Do không ưu não, vị ấy tự mình tịch tịnh. Vị
ấy biết: " Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm
đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa".
IV. Vô Thường (Tạp 3,36, Chánh
Quán Sát, Đại 2,21c) (S.iii,45)
1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...
3) -- Sắc, này các Tỷ-kheo, là vô
thường. Cái gì vô thường là khổ. Cái gì khổ là vô ngã. Cái gì vô
ngã, cần phải như thật quán với chánh trí tuệ là: "Cái này không
phải của tôi; cái này không phải là tôi; cái này không phải tự ngã của
tôi".
4-6) Thọ, này các Tỷ-kheo, là vô
thường... Tưởng, này các Tỷ-kheo, là vô thường... Các hành, này các Tỷ-kheo,
là vô thường...
7) Thức, này các Tỷ-kheo, là vô thường.
Cái gì vô thường là khổ. Cái gì khổ là vô ngã. Cái gì vô ngã, cần phải
như thật quán với chánh trí tuệ là: "Cái này không phải của tôi;
cái này không phải là tôi; cái này không phải tự ngã của tôi".
8) Do như thật quán với chánh trí
tuệ như vậy, vị ấy không có các tùy kiến về quá khứ. Do không có
các tùy kiến về quá khứ nên không có các tùy kiến về tương lai. Do không
có các tùy kiến về tương lai, kiên trì chấp thủ không có. Do không có
kiên trì chấp thủ, đối với sắc... đối với thọ... đối với tưởng...
đối với các hành... đối với thức, tâm ly tham, giải thoát, không chấp
thủ các lậu hoặc. Do giải thoát, vị ấy an trú. Do an trú, vị ấy tri
túc. Do tri túc, vị ấy không ưu não. Do không ưu não, vị ấy tự mình
được tịch tịnh một cách viên mãn. Vị ấy biết: "Sanh đã tận, Phạm
hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng
thái này nữa".
V. Quán Kiến (Tạp 2,13, Giác, Đại
2,11b) (S.iii,46)
1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...
3) -- Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn
hay Bà-la-môn nào quán tự ngã dưới nhiều hình thức sai khác, quán cả năm
thủ uẩn hay quán một trong năm thủ uẩn.
4) Thế nào là năm? Này các Tỷ-kheo,
ở đây kẻ vô văn phàm phu không được thấy rõ các bậc Thánh, không thuần
thục pháp các bậc Thánh, không tu tập pháp các bậc Thánh, không được
thấy rõ các bậc Chân nhân, không thuần thục pháp các bậc Chân nhân,
không tu tập pháp các bậc Chân nhân, quán sắc như là tự ngã, hay tự
ngã như là có sắc, hay sắc ở trong tự ngã, hay tự ngã ở trong sắc,
quán thọ... quán tưởng... quán các hành... quán thức như là tự ngã, hay
tự ngã như là có thức, hay thức ở trong tự ngã, hay tự ngã ở trong thức.
Nếu quán như vậy, thời đi đến chấp kiến: "Tôi là".
5) Này các Tỷ-kheo, khi đi đến chấp
kiến: "Tôi là", thời năm căn nhập vào avakkanti (hiện hữu), tức
là nhãn căn, nhĩ căn, tỷ căn, thiệt căn, thân căn.
6) Này các Tỷ-kheo, có ý, có các
pháp, có vô minh giới. Cảm xúc bởi cảm thọ, (cảm thọ này) sanh do xúc
chạm với vô minh; kẻ vô văn phàm phu đi đến chấp kiến: "Tôi
là", đi đến chấp kiến: "Cái này là tôi", đi đến chấp kiến:
" Tôi sẽ là", đi đến chấp kiến: "Tôi sẽ không là" đi
đến chấp kiến: "Tôi sẽ hiện hữu với sắc", đi đến chấp kiến:
"Tôi sẽ hiện hữu với vô sắc", đi đến chấp kiến: "Tôi sẽ
hiện hữu với tưởng", đi đến chấp kiến: "Tôi sẽ hiện hữu
với không tưởng", đi đến chấp kiến: "Tôi sẽ hiện hữu với
phi tưởng phi phi tưởng".
7) Như vậy, này các Tỷ-kheo, do năm
căn an trú ở đây, nhưng đối với vị Đa văn Thánh đệ tử, vô minh được
đoạn trừ và minh khởi lên. Do vô minh được viễn ly, do minh sanh khởi,
không đi đến chấp kiến: "Tôi là", không đi đến chấp kiến:
"Cái này là tôi", không đi đến chấp kiến: "Tôi sẽ hiện hữu"...
"Tôi sẽ không hiện hữu"... "Tôi sẽ hiện hữu với sắc"...
"Tôi sẽ hiện hữu với vô sắc"... "Tôi sẽ hiện hữu với tưởng"...
"Tôi sẽ hiện hữu với vô tưởng", không đi đến chấp kiến:
"Tôi sẽ hiện hữu với phi tưởng phi phi tưởng".
VI. Các Uẩn (Tạp 2,23 Ấm, Đại
2,13b) (S.iii,47)
1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...
3) -- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng
năm uẩn và năm thủ uẩn, hãy lắng nghe...
4) Này các Tỷ-kheo, thế nào là năm
uẩn?
5) Này các Tỷ-kheo, phàm có sắc
gì quá khứ, vị lai, hiện tại, thuộc nội hay ngoại, thô hay tế, liệt
hay thắng, xa hay gần; đây gọi là sắc uẩn.
6-8) Này các Tỷ-kheo, phàm có thọ
gì... phàm có tưởng gì... phàm có các hành gì...
9) Này các Tỷ-kheo, phàm có thức
gì quá khứ, vị lai, hiện tại, thuộc nội hay ngoại, thô hay tế, liệt
hay thắng, xa hay gần; đây gọi là thức uẩn.
10) Những cái này, này các Tỷ-kheo,
được gọi là năm uẩn.
11) Và này các Tỷ-kheo, thế nào
là năm thủ uẩn?
12) Này các Tỷ-kheo, phàm có sắc
gì quá khứ vị lai, hiện tại, thuộc nội hay ngoại... hoặc xa hay gần,
có lậu hoặc, được chấp thủ; đây gọi là sắc thủ uẩn.
13-15) Này các Tỷ-kheo, phàm có thọ
gì... phàm có tưởng gì... phàm có các hành gì...
16) Này các Tỷ-kheo, phàm có thức
gì, quá khứ, vị lai, hiện tại, thuộc nội hay ngoại, thô hay tế, liệt
hay thắng, xa hay gần, có lậu hoặc, được chấp thủ; đây gọi là thức
thủ uẩn.
17) Này các Tỷ-kheo, đây được gọi
là năm thủ uẩn.
VII. Sona (Tạp 1,20, Thu-lữ-na, Đại
2,6a) (S.iii,48)
1) Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Ràjagaha (Vương
Xá), Veluvana (Trúc Lâm), tại chỗ nuôi dưỡng các con sóc.
2) Rồi Sona, con một gia chủ, đi đến
Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn, rồi ngồi xuống một bên.
3) Thế Tôn nói với Sona, con một
gia chủ, đang ngồi một bên:
4) -- Này Sona, những Sa-môn hay
Bà-la-môn nào quán sắc vô thường, khổ, biến hoại là: "Ta tốt đẹp
hơn", hay quán: "Ta bằng nhau", hay quán: "Ta hạ liệt hơn";
những vị ấy đâu phải là những ai khác, nếu không phải là những người
không thấy như thật!
5). .. quán thọ vô thường, khổ,
biến hoại...
6). .. quán tưởng vô thường, khổ,
biến hoại...
7). .. quán các hành vô thường, khổ,
biến hoại...
8). .. quán thức vô thường, khổ,
biến hoại là : "Ta tốt đẹp hơn", hay quán: "Ta bằng
nhau", hay quán: "Ta hạ liệt hơn"; những vị ấy đâu phải là
những ai khác, nếu không phải là những người không thấy như thật!
9) Này Sona, những Sa-môn hay
Bà-la-môn nào không quán sắc vô thường, khổ, biến hoại là: "Ta tốt
đẹp hơn", hay không quán: "Ta bằng nhau", hay không quán:
"Ta hạ liệt hơn"; những vị ấy đâu phải là những ai khác, nếu
không phải là những vị thấy như thật!
10-12) Này Sona, những Sa-môn hay
Bà-la-môn nào không quán thọ... không quán tưởng... không quán các hành...
13) Này Sona, những Sa-môn hay
Bà-la-môn nào không quán thức vô thường, khổ, biến hoại là: "Ta tốt
đẹp hơn", hay không quán: "Ta bằng nhau", hay không quán:
"Ta hạ liệt hơn"; những vị ấy đâu phải là những ai khác, nếu
không phải là những vị thấy như thật!
14) Ông nghĩ thế nào, này Sona, sắc
là thường hay vô thường?
-- Vô thường, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
-- Là khổ, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự
biến hoại, có hợp lý chăng nếu quán cái ấy là: "Cái này là của
tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi"?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
15) -- Thọ là thường hay vô thường?...
16) Tưởng là thường hay vô thường?...
17) Các hành là thường hay vô thường?...
18) Thức là thường hay vô thường?
-- Vô thường, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
-- Là khổ, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự
biến hoại, có hợp lý hay chăng nếu quán cái ấy là: "Cái này là của
tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi"?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
19) -- Do vậy, này Sona, phàm sắc
gì quá khứ, vị lai, hiện tại, thuộc nội hay ngoại, thô hay tế, liệt
hay thắng, xa hay gần; tất cả sắc cần phải như thật quán với chánh
trí tuệ: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi,
cái này không phải tự ngã của tôi".
20-22) Phàm thọ gì... phàm tưởng gì...
phàm các hành gì...
23) Phàm thức gì quá khứ, vị lai,
hiện tại, thuộc nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần;
tất cả thức cần phải như thật quán với chánh trí tuệ: "Cái này
không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự
ngã của tôi".
24) Nếu thấy vậy, này Sona, vị
Đa văn Thánh đệ tử yếm ly đối với sắc, yếm ly đối với thọ, yếm
ly đối với tưởng, yếm ly đối với các hành, yếm ly đối với thức.
Do yếm ly, vị ấy ly tham. Do ly tham, vị ấy giải thoát. Trong sự giải
thoát, khởi lên chánh trí: "Ta đã giải thoát". Vị ấy biết rõ:
"Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm,
không còn trở lui trạng thái này nữa".
VIII. Sona (Tạp 1,31, Thu-lữ-na,
Đại 2,6c) (S.iii,50)
1) Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagala
(Vương Xá), Veluvana (Trúc Lâm), tại chỗ nuôi dưỡng các con sóc.
2) Rồi Sona, con vị gia chủ, đi đến
Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Ngài rồi ngồi xuống một bên.
3) Thế Tôn nói với Sona, con vị
gia chủ, đang ngồi một bên:
4) -- Những Sa-môn hay Bà-la-môn
nào, này Sona, không biết rõ sắc, không biết rõ (nappajananti) sắc tập khởi,
không biết rõ sắc đoạn diệt, không biết rõ con đường đưa đến sắc
đoạn diệt; không biết rõ thọ... không biết rõ tưởng... không biết rõ
các hành... không biết rõ thức, không biết rõ thức tập khởi, không biết
rõ thức đoạn diệt, không biết rõ con đường đưa đến thức đoạn diệt;
những Sa-môn hay Bà-la-môn ấy, này Sona, không những không được chấp nhận
là Sa-môn giữa các hàng Sa-môn, không được chấp nhận là Bà-la-môn giữa
các hàng Bà-la-môn; những vị ấy trong đời sống hiện tại, cũng không tự
mình chứng tri với thắng trí, chứng đạt và an trú mục đích của
Sa-môn hạnh hay mục đích của Bà-la-môn hạnh.
5) Còn những Sa-môn hay Bà-la-môn
nào, này Sona, biết rõ sắc, biết rõ sắc tập khởi, biết rõ sắc đoạn
diệt, biết rõ con đường đưa đến sắc đoạn diệt; biết rõ thọ... biết
rõ tưởng... biết rõ các hành... biết rõ thức, biết rõ thức tập khởi,
biết rõ thức đoạn diệt, biết rõ con đường đưa đến thức đoạn diệt;
những Sa-môn hay Bà-la-môn ấy, này Sona, không những được chấp nhận là
Sa-môn giữa các hàng Sa-môn, được chấp nhận là Bà-la-môn giữa các
hàng Bà-la-môn; những vị Tôn giả ấy, ngay trong đời sống hiện tại, còn
tự mình chứng tri với thắng trí, chứng đạt và an trú mục đích của
Sa-môn hạnh hay mục đích của Bà-la-môn hạnh.
IX. Hỷ Được Đoạn Tận (S.iii,51)
1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...
3) -- Này các Tỷ-kheo, khi một Tỷ-kheo
thấy sắc vô thường là vô thường; đấy là chánh tri kiến của vị ấy.
Thấy chơn chánh như vậy, vị ấy yếm ly. Do hỷ đoạn tận, tham được
đoạn tận. Do tham đoạn tận, hỷ được đoạn tận. Do hỷ, tham đoạn tận,
tâm được giải thoát, vị ấy được gọi là vị đã khéo giải thoát.
4-6) Này các Tỷ-kheo, khi một Tỷ-kheo
thấy thọ vô thường là vô thường... tưởng vô thường... các hành vô
thường...
7) Này các Tỷ-kheo, khi vị Tỷ-kheo
thấy thức vô thường là vô thường; đấy là chánh tri kiến của vị ấy.
Thấy chơn chánh như vậy, vị ấy yếm ly. Do hỷ đoạn tận, tham được
đoạn tận. Do tham đoạn tận, nên hỷ được đoạn tận. Do hỷ, tham đoạn
tận, tâm được giải thoát, vị ấy được gọi là vị đã được khéo
giải thoát.
X. Hỷ Được Đoạn Tân (S.iii,52)
1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...
3) -- Hãy như lý tác ý sắc, này
các Tỷ-kheo, hãy như thật quán (samanupassati) sắc là vô thường. Này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào như lý tác ý sắc, như thật quán sắc là vô thường,
vị ấy yếm ly đối với sắc. Do hỷ đoạn tận, tham được đoạn tận.
Do tham đoạn tận, hỷ được đoạn tận. Do hỷ, tham đoạn tận, tâm được
giải thoát, vị ấy được gọi là vị đã được khéo giải thoát.
4) Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào như
lý tác ý thọ... tác ý tưởng... tác ý các hành...
5) Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào như
lý tác ý thức, như thật quán thức là vô thường, vị ấy yếm ly đối
với thức. Do hỷ đoạn tận, tham được đoạn tận. Do tham đoạn tận, hỷ
được đoạn tận. Do hỷ, tham đoạn tận, tâm được giải thoát, vị ấy
được gọi là đã được khéo giải thoát