- Kinh Tương Ưng Bộ
- HT. Thích Minh Châu dịch
- Phần 35d
- Năm Mươi Kinh Thứ Tư
I. Phẩm Duyệt Hỷ Tiêu Tận
155. I. Duyệt Hỷ Tiêu Tận (S.iv,142)
1). ..
3) -- Này các Tỷ-kheo, khi Tỷ-kheo
thấy mắt vô thường là vô thường, thấy vậy là chánh tri kiến. Do thấy
chơn chánh, vị ấy nhàm chán. Do duyệt hỷ tiêu tận (nandi) nên tham tiêu tận.
Do tham tiêu tận nên duyệt hỷ tiêu tận. Do duyệt hỷ, tham tiêu tận nên
tâm được gọi là khéo giải thoát.
4-7) Này các Tỷ-kheo, khi Tỷ-kheo thấy
tai vô thường là vô thường... thấy mũi vô thường là vô thường... thấy
lưỡi vô thường là vô thường... thấy thân vô thường là vô thường...
8) Này các Tỷ-kheo, khi Tỷ-kheo thấy
ý vô thường là vô thường, thấy vậy là chánh tri kiến. Do thấy chơn chánh,
vị ấy nhàm chán. Do duyệt hỷ tiêu tận nên tham tiêu tận. Do tham tiêu tận
nên duyệt hỷ tiêu tận. Do duyệt hỷ, tham tiêu tận nên tâm được gọi
là khéo giải thoát.
156. II. Duyệt Hỷ Tiêu Tận (2)(S.iv,142)
(Như kinh trên, chỉ khác là thế
vào các sắc, các tiếng, các hương, các vị, các xúc, các pháp).
157. III. Duyệt Hỷ Tiêu Tận (3)(S.iv,142)
1-2). ..
3) -- Này các Tỷ-kheo, hãy như lý
tác ý mắt, và hãy như thật chánh quán con mắt là vô thường. Này các Tỷ-kheo,
do như lý tác ý con mắt và như thật chánh quán con mắt là vô thường, Tỷ-kheo
nhàm chán đối với con mắt. Do duyệt hỷ tiêu tận nên tham tiêu tận. Do
tham tiêu tận nên duyệt hỷ tiêu tận. Do duyệt hỷ, tham tiêu tận nên
tâm được gọi là khéo giải thoát.
4-7) Này các Tỷ-kheo, hãy như lý
tác ý tai... mũi... lưỡi... thân...
8) Này các Tỷ-kheo, hãy như lý tác
ý và như thật chánh quán ý là vô thường. Này các Tỷ-kheo, do như lý
tác ý và như thật chánh quán ý là vô thường, Tỷ-kheo nhàm chán đối với
ý. Do duyệt hỷ tiêu tận nên tham tiêu tận. Do tham tiêu tận nên duyệt hỷ
tiêu tận. Do duyệt hỷ, tham tiêu tận nên tâm được gọi là khéo giải
thoát.
158. IV. Duyệt Hỷ Tiêu Tận (4)(S.iv,143)
(Như kinh trên chỉ thế vào các sắc,
tiếng, hương, vị, xúc và các pháp)
159. V. Trong Vườn Xoài Jiivaka (1)
(S,iv,143)
1) Một thời Thế Tôn ở Ràjagaha,
tại vườn xoài Jiivaka.
2) Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
3) -- Này các Tỷ-kheo, hãy tu tập
Thiền định. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo có tâm định tĩnh, sự vật như thật
hiển hiện. Và sự vật gì như thật hiển hiện?
4) Mắt vô thường như thật hiển
hiện. Các sắc vô thường như thật hiển hiện. Nhãn thức vô thường
như thật hiển hiện. Nhãn xúc vô thường như thật hiển hiện. Phàm
duyên nhãn xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ, hay bất khổ bất lạc;
cảm thọ ấy vô thường như thật hiển hiện.
5-8) Tai... Mũi... Lưỡi... Thân...
9) Ý vô thường như thật hiển hiện.
Các pháp vô thường như thật hiển hiện. Ý thức vô thường như thật hiển
hiện. Ý xúc vô thường như thật hiển hiện. Phàm duyên ý xúc khởi lên
cảm thọ gì, lạc, khổ, hay bất khổ bất lạc; cảm thọ ấy vô thường
như thật hiển hiện.
10) Này các Tỷ-kheo, hãy tu tập Thiền
định. Tỷ-kheo có tâm định tĩnh, sự vật như thật hiển hiện.
160. VI. Trong Vườn Xoài Jiivaka (2)
(S.iv,144)
161. VII. Kotthika (1)(S.iv,145)
1). ..
2) Rồi Tôn giả Mahà Kotthika đi đến
Thế Tôn...
3) Ngồi xuống một bên, Tôn giả
Mahà Kotthika bạch Thế Tôn:
-- Bạch Thế Tôn, lành thay, nếu Thế
Tôn thuyết pháp vắn tắt cho con. Sau khi nghe pháp từ Thế Tôn, con sẽ sống
một mình an tịnh, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.
-- Cái gì vô thường, này Kotthika,
ở đấy Ông cần phải đoạn trừ lòng dục. Này Kotthika, cái gì là vô thường?
4) Mắt là vô thường, này Kotthika,
ở đấy Ông cần phải đoạn trừ lòng dục. Các sắc là vô thường, ở
đấy Ông cần phải đoạn trừ lòng dục. Nhãn thức là vô thường, ở đấy
Ông cần phải đoạn trừ lòng dục. Nhãn xúc là vô thường, ở đấy Ông
cần phải đoạn trừ lòng dục. Phàm duyên nhãn xúc khởi lên cảm thọ
gì, lạc, khổ, hay bất khổ bất lạc; cảm thọ ấy là vô thường, ở đấy
Ông cần phải đoạn trừ lòng dục.
5-8) Tai... Mũi... Lưỡi... Thân...
9) Ý là vô thường, ở đấy Ông cần
phải đoạn trừ lòng dục. Các pháp là vô thường, ở đấy Ông cần phải
đoạn trừ lòng dục. Ý thức là vô thường, ở đấy Ông cần phải đoạn
trừ lòng dục. Ý xúc là vô thường, ở đấy Ông cần phải đoạn trừ lòng
dục. Phàm duyên ý xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ, hay bất khổ bất
lạc; cảm thọ ấy là vô thường, ở đấy Ông cần phải đoạn trừ lòng
dục.
10) Cái gì vô thường, này Kotthika,
ở đấy Ông cần phải đoạn trừ lòng dục.
162-163. VIII-IX. Kotthika (2)(3)(S,iv,146)
(Hai kinh này giống kinh trên chỉ
khác là một kinh nói đến khổ, một kinh nói đến vô ngã)
164. X. Tà Kiến (S.iv,147)
1). ..
2) Rồi một Tỷ-kheo đi đến Thế
Tôn...
3) Ngồi xuống một bên, Tỷ-kheo
ấy bạch Thế Tôn:
-- Bạch Thế Tôn, do biết như thế
nào, thấy như thế nào, tà kiến được đoạn trừ?
4-9) -- Tỷ-kheo do biết và thấy mắt
là vô thường nên tà kiến được đoạn trừ. Do biết và thấy nhãn thức
là vô thường nên tà kiến được đoạn trừ. Phàm duyên nhãn xúc khởi
lên cảm thọ gì, lạc, khổ, hay bất khổ bất lạc; do biết và thấy cảm
thọ ấy là vô thường nên tà kiến được đoạn trừ... Phàm duyên ý
xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ, hay bất khổ bất lạc; do biết và
thấy cảm thọ ấy là vô thường nên tà kiến được đoạn trừ.
10) Này các Tỷ-kheo, do biết như vậy,
do thấy như vậy nên tà kiến được đoạn trừ.
165. XI. Thân Kiến (S.iv,147)
(Như kinh trên, chỉ thế thân kiến
cho tà kiến. ..).
166. XII. Ngã Kiến (S.iv,148)
(Như kinh trên, chỉ thế vào ngã kiến).
II. Phẩm Sáu Mươi Lược Thuyết
167. I. Do Dục Niệm (18 kinh) (1)
(S.iv,148)
1-2). ..
3) -- Này các Tỷ-kheo, cái gì vô thường,
ở đấy, các Ông cần phải đoạn trừ lòng dục. Và này các Tỷ-kheo,
cái gì là vô thường? (Như kinh 161, chỉ khác, Thế Tôn nói với các Tỷ-kheo).
II. Do Dục Niệm (2)
(Như kinh trên, chỉ thế tham (ràga)
cho dục niệm).
III. Do Dục Niệm (3)
(Như kinh trên, chỉ thế dục và
tham cho dục niệm)...
168. IV-VI. Do Dục Niệm (4), (5),
(6). (S.iv,149)
1-2). ..
3) -- Cái gì khổ, này các Tỷ-kheo,
ở đấy các Ông cần phải đoạn trừ lòng dục... lòng tham... lòng dục
và tham... Và này các Tỷ-kheo, cái gì là khổ?
4) Mắt là khổ, này các Tỷ-kheo,
ở đấy các Ông cần phải đoạn trừ lòng dục... lòng tham... lòng dục
và tham...
5-8) Tai... Mũi... Lưỡi... Thân...
9) Ý là khổ, ở đấy các Ông cần
phải đoạn trừ lòng dục... lòng tham... lòng dục và tham...
10) Cái gì là khổ, này các Tỷ-kheo,
ở đấy các Ông cần phải đoạn trừ lòng dục... lòng tham... lòng dục
và tham.
169. VII-IX. Do Lòng Dục (7), (8),
(9), (S.iv,150)
1-2). ..
3) -- Cái gì vô ngã, này các Tỷ-kheo,
ở đấy các Ông cần phải đoạn trừ lòng dục... lòng tham... lòng dục
và tham... Và này các Tỷ-kheo, cái gì là vô ngã?
4) Mắt, này các Tỷ-kheo, là vô
ngã, ở đấy các Ông cần phải đoạn trừ lòng dục... lòng tham... lòng dục
và tham...
5-8) Tai... Mũi... Lưỡi... Thân...
9) Ý là vô ngã, ở đấy các Ông cần
phải đoạn trừ lòng dục... lòng tham... lòng dục và tham.
10) Cái gì là vô ngã, này các Tỷ-kheo,
ở đấy các Ông cần phải đoạn trừ lòng dục... lòng tham... lòng dục
và tham.
170. X-XII. Do Lòng Dục (10), (11),
(12) (S,iv,150)
1-2). ..
3) -- Cái gì vô thường, này các Tỷ-kheo,
ở đấy các Ông cần phải đoạn trừ lòng dục... lòng tham... lòng dục
và tham. Và này các Tỷ-kheo, cái gì là vô thường?
4) Các sắc là vô thường, này các
Tỷ-kheo, ở đấy các ông cần phải đoạn trừ lòng dục... lòng tham...
lòng dục và tham...
5-8) Các tiếng... Các hương... Các
vị... Các xúc...
9) Các pháp là vô thường, này các
Tỷ-kheo, ở đấy các Ông cần phải đoạn trừ lòng dục... lòng tham...
lòng dục và tham...
10) Cái gì vô thường, này các Tỷ-kheo,
ở đấy các Ông cần phải đoạn trừ lòng dục... lòng tham... lòng dục
và tham.
171. XIII-XV. Do Lòng Dục (13),
(14), (15) (S.iv,150)
1-2). ..
3) -- Cái gì khổ, này các Tỷ-kheo,
ở đấy các Ông cần phải đoạn trừ lòng dục... lòng tham... lòng dục
và tham... Và này các Tỷ-kheo, cái gì là khổ?
4) Các sắc, này các Tỷ-kheo, là khổ,
ở đấy các Ông cần phải đoạn trừ lòng dục... lòng tham... lòng dục
và tham...
5-8) Các tiếng... Các hương... Các
vị... Các xúc...
9) Các pháp là khổ, này các Tỷ-kheo,
ở đấy các Ông cần phải đoạn trừ lòng dục... lòng tham... lòng dục
và tham...
10) Cái gì khổ, này các Tỷ-kheo,
ở đấy các Ông cần phải đoạn trừ lòng dục... lòng tham... lòng dục
và tham...
172. XVI-XVIII. Do Lòng Dục (16),
(17), (18) (S.iv,151)
1-2). ..
3) -- Cái gì vô ngã, này các Tỷ-kheo,
ở đấy các Ông cần phải đoạn trừ lòng dục... lòng tham... lòng dục
và tham... Và này các Tỷ-kheo, cái gì là vô ngã?
4) Các sắc, này các Tỷ-kheo, là
vô ngã, ở đấy các Ông cần phải đoạn trừ lòng dục... lòng tham...
lòng dục và tham...
5-8) Các tiếng... Các hương... Các
vị... Các xúc...
9) Các pháp, này các Tỷ-kheo, là
vô ngã, ở đấy các Ông cần phải đoạn trừ lòng dục... lòng tham...
lòng dục và tham...
10) Cái gì là vô ngã, này các Tỷ-kheo,
ở đấy các Ông cần phải đoạn trừ lòng dục... lòng tham... lòng dục
và tham...
173. XIX. Thuộc Qúa Khứ (1)(9
kinh) (S.iv,151)
1-2). ..
3-9) -- Mắt, này các Tỷ-kheo, là
vô thường, thuộc quá khứ. Tai... Mũi... Lưỡi... Thân... Ý là vô thường,
thuộc quá khứ.
10) Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, vị
Đa văn Thánh đệ tử nhàm chán đối với mắt, nhàm chán đối với tai,
nhàm chán đối với mũi, nhàm chán đối với lưỡi, nhàm chán đối với
thân, nhàm chán đối với ý. Do nhàm chán, vị ấy ly tham. Do ly tham, vị
ấy được giải thoát. Trong sự giải thoát, trí khởi lên biết rằng:
"Ta đã được giải thoát". Vị ấy biết rõ: "Sanh đã tận,
Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng
thái này nữa".
XX. Thuộc Qúa Khứ (2)
1-2). ..
3-8) -- Mắt, này các Tỷ-kheo, là
vô thường, thuộc vị lai... Tai... Mũi... Lưỡi... Thân... Ý là vô thường,
thuộc vị lai.
9) Thấy vậy... "... không còn
trở lui trạng thái này nữa".
XXI. Thuộc Qúa Khứ (3)
1-2). ..
3-8) Mắt, này các Tỷ-kheo, là vô
thường, thuộc hiện tại. Tai... Mũi... Lưỡi... Thân... Ý là vô thường,
thuộc hiện tại...
9) Thấy vậy... "... không còn
trở lui trạng thái này nữa".
174. XXII-XXIV. Thuộc Qúa Khứ , (4),
(5), (6), (S.iv,152)
1-2). ..
3-8) -- Mắt, này các Tỷ-kheo, là khổ,
thuộc quá khứ... thuộc vị lai... thuộc hiện tại... Tai... Mũi... Lưỡi...
Thân... Ý là khổ, thuộc quá khứ... thuộc vị lai... thuộc hiện tại...
9) Thấy vậy... "... không còn
trở lui trạng thái này nữa".
175. XXV-XXVII. Thuộc Qúa Khứ (7),
(8), (9), (S.iv,152)
1-2). ..
3-8) -- Mắt, này các Tỷ-kheo, là
vô ngã, thuộc quá khứ... thuộc vị lai... thuộc hiện tại... Tai... Mũi...
Lưỡi... Thân... Ý là vô ngã, thuộc quá khứ... thuộc vị lai... thuộc hiện
tại...
9) Thấy vậy... "... không còn
trở lui trạng thái này nữa".
176. XXVIII-XXX. Thuộc Qúa Khứ (9
kinh) (10), (11), (12) (S.iv,152)
1-2). ..
3-8) -- Các sắc, này các Tỷ-kheo,
là vô thường, thuộc quá khứ... thuộc vị lai... thuộc hiện tại... Các
tiếng... Các hương.... Các vị... Các xúc... Các pháp là vô thường, thuộc
quá khứ... thuộc vị lai... thuộc hiện tại...
9) Thấy vậy... "... không còn
trở lui trạng thái này nữa".
177. XXXI-XXXIII. Thuộc Qúa Khứ (13),
(14), (15) (S.iv,152)
1-2). ..
3-8) -- Các sắc, này các Tỷ-kheo,
là khổ, thuộc quá khứ... thuộc vị lai... thuộc hiện tại... Các tiếng...
Các hương.... Các vị... Các xúc... Các pháp là khổ, thuộc quá khứ... thuộc
vị lai... thuộc hiện tại...
9) Thấy vậy... "... không còn
trở lui trạng thái này nữa".
178. XXXIV-XXXVI. Thuộc Qúa Khứ (16),
(17), (18) (S.iv,152)
1-2). ..
3-8) -- Các sắc, này các Tỷ-kheo,
là vô ngã, thuộc quá khứ... thuộc vị lai... thuộc hiện tại... Các tiếng...
Các hương.... Các vị... Các xúc... Các pháp là vô ngã, thuộc quá khứ...
thuộc vị lai... thuộc hiện tại...
9) Thấy vậy... "... không còn
trở lui trạng thái này nữa".
179. XXXVII. Cái Gì Vô Thường (18
kinh) (1)(S.iv,152)
1-2). ..
3) -- Mắt, này các Tỷ-kheo, là vô
thường, thuộc quá khứ. Cái gì vô thường, cái ấy là khổ. Cái gì khổ,
cái ấy là vô ngã. Cái gì vô ngã, cái ấy không phải là của tôi, cái
ấy không phải là tôi, cái ấy không phải là tự ngã của tôi. Như vậy,
cần phải như thật quán cái ấy với chánh trí tuệ.
4-7) Tai là vô thường... Mũi là vô
thường... Lưỡi là vô thường... Thân là vô thường...
8) Ý là vô thường, thuộc quá khứ.
Cái gì vô thường, cái ấy là khổ. Cái gì khổ, cái ấy là vô ngã. Cái
gì vô ngã, cái ấy không phải là của tôi, cái ấy không phải là tôi,
cái ấy không phải là tự ngã của tôi. Như vậy, cần phải như thật quán
cái ấy với chánh trí tuệ.
9) Thấy vậy... "... không còn
trở lui trạng thái này nữa".
XXXVIII. Cái Gì Vô Thường (2)
1-2). ..
3) -- Mắt, này các Tỷ-kheo, là vô
thường, thuộc vị lai. Cái gì vô thường là khổ... (như kinh trên, chỉ
khác đây thuộc vị lai).
XXXIX. Cái Gì Vô Thường (3)
(Như kinh trên, chỉ khác đây thuộc
hiện tại)
180. XL-XLII. Cái Gì Vô Thường (4),
(5), (6), (S.iv,154)
1-2). ..
3) -- Mắt, này các Tỷ-kheo, là khổ,
thuộc quá khứ... thuộc vị lai... thuộc hiện tại... Cái gì khổ, cái ấy
là vô ngã. Cái gì vô ngã, cái ấy không phải là của tôi, cái ấy không
phải là tôi, cái ấy không phải là tự ngã của tôi. Như vậy, cần phải
như thật quán cái ấy với chánh trí tuệ.
4-7) Tai... Mũi... Lưỡi... Thân...
8) Ý là khổ, thuộc quá khứ... thuộc
vị lai... thuộc hiện tại... Cái gì khổ, cái ấy là vô ngã. Cái gì vô
ngã, cái ấy không phải là của tôi, cái ấy không phải là tôi, cái ấy
không phải là tự ngã của tôi. Như vậy, cần phải như thật quán cái
ấy với chánh trí tuệ.
9) Thấy vậy... "... không còn
trở lui trạng thái này nữa".
181. XLIII-XLV. Cái Gì Vô Thường (7),
(8), (9) (S,iv,154)
1-2). ..
3) -- Mắt, này các Tỷ-kheo, là vô
ngã, thuộc quá khứ... thuộc vị lai... thuộc hiện tại... Cái gì vô ngã,
cái ấy không phải là của tôi, cái ấy không phải là tôi, cái ấy không
phải là tự ngã của tôi... (như trên)...
182. XLVI - XLVIII. Cái Gì Vô Thường
(10), (11), (12) (S.iv,154)
1-2). ..
3) -- Các sắc, này các Tỷ-kheo, là
vô thường, thuộc quá khứ... thuộc vị lai... thuộc hiện tại... Cái gì
vô thường, cái ấy là khổ. Cái gì khổ, cái ấy là vô ngã. Cái gì vô
ngã, cái ấy không phải là của tôi, cái ấy không là tôi, cái ấy không
phải là tự ngã của tôi. Như vậy, cần phải như thật quán cái ấy với
chánh trí tuệ.
4-7) Các tiếng... Các hương... Các
vị... Các xúc...
8) Các pháp là vô thường, thuộc
quá khứ... thuộc vị lai... thuộc hiện tại... Cái gì vô thường, cái ấy
là khổ. Cái gì khổ, cái ấy là vô ngã. Cái gì vô ngã, cái ấy không phải
là của tôi, cái ấy không phải là tôi, cái ấy không phải là tự ngã của
tôi. Như vậy, cần phải như thật quán cái ấy với chánh trí tuệ.
9) Thấy vậy... "... không còn
trở lui trạng thái này nữa".
183. XLIX-LI. Cái Gì Vô Thường (13),
(14), (15). (S.iv,155)
1-2). ..
3) -- Các sắc, này các Tỷ-kheo, là
khổ, thuộc quá khứ... thuộc vị lai... thuộc hiện tại... Cái gì khổ,
cái ấy là vô ngã. Cái gì vô ngã, cái ấy không phải là của tôi, cái
ấy không phải là tôi, cái ấy không phải là tự ngã của tôi. Như vậy,
cần phải như thật quán cái ấy với chánh trí tuệ.
4-7) Các pháp là khổ, thuộc quá khứ...
thuộc vị lai... thuộc hiện tại... Cái gì khổ, cái ấy là vô ngã. Cái
gì vô ngã, cái ấy không phải là của tôi, cái ấy không phải là tôi,
cái ấy không phải là tự ngã của tôi. Như vậy, cần phải như thật quán
cái ấy với chánh trí tuệ.
9) Thấy vậy... "... không còn
trở lui trạng thái này nữa".
184. LII-LIV. Cái Gì Vô Thường (16),
(17), (18) (S.iv,155)
1-2). ..
3) -- Các sắc, này các Tỷ-kheo, là
vô ngã, thuộc quá khứ... thuộc vị lai... thuộc hiện tại... Cái gì vô
ngã, cái ấy không phải là của tôi, cái ấy không phải là tôi, cái ấy
không phải là tự ngã của tôi.
4-7) Các tiếng... Các hương... Các
vị... Các xúc...
8) Các pháp là vô ngã, thuộc quá
khứ... thuộc vị lai... thuộc hiện tại... Cái gì vô ngã, cái ấy không
phải là của tôi, cái ấy không phải là tôi, cái ấy không phải là tự
ngã của tôi. Như vậy, cần phải như thật quán cái ấy với chánh trí tuệ.
9) Thấy vậy... "... không còn
trở lui trạng thái này nữa".
185. LV. Nội (3 kinh) (1) (S.iv,155)
1-2). ..
3-8) -- Mắt, này các Tỷ-kheo, là
vô thường. Tai... Mũi... Lưỡi... Thân... Ý là vô thường.
9) Thấy vậy... "... không còn
trở lui trạng thái này nữa".
LVI. Nội (2)
1-2). ..
3-8) -- Mắt, này các Tỷ-kheo, là khổ.
Tai... Mũi... Lưỡi... Thân... Ý là khổ...
9) Thấy vậy... "... không còn
trở lui trạng thái này nữa".
LVII. Nội (3)
1-2). ..
3-8) Mắt, này các Tỷ-kheo, là vô
ngã... Tai... Mũi... Lưỡi... Thân... Ý là vô ngã.
9) Thấy vậy... "... không còn
trở lui trạng thái này nữa".
186. LVIII. Ngoại (3 kinh)(1)
(S.iv,156)
1-2). ..
3-8) -- Các sắc, này các Tỷ-kheo,
là vô thường. Các tiếng... Các hương... Các vị... Các xúc... Các pháp
là vô thường...
9) Thấy vậy... "... không còn
trở lui trạng thái này nữa".
LIX. Ngoại (2)
1-2). ..
3-8) -- Các sắc, này các Tỷ-kheo,
là khổ. Các tiếng... Các hương... Các vị... Các xúc... Các pháp là khổ...
LX. Ngoại (3)
1-2). ..
3-8) -- Các sắc, này các Tỷ-kheo,
là vô ngã. Các tiếng... Các hương... Các vị... Các xúc... Các pháp là vô
ngã...
9) Thấy vậy... "... không còn
trở lui trạng thái này nữa".
III. Phẩm Biển
187. I. Biển (1) (S.iv,157)
2) -- "Biển, biển", này
các Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu nói như vậy. Cái ấy, này các Tỷ-kheo,
không phải là biển trong giới luật các bậc Thánh. Cái ấy (của kẻ
phàm phu), này các Tỷ-kheo, là một khối nước lớn, là một dòng nước lớn.
3-7) Con mắt là biển của người,
tốc độ của nó làm bằng các sắc. Ai điều phục được tốc độ làm
bằng các sắc ấy, này các Tỷ-kheo, người ấy được gọi là Bà-la-môn
đã vượt khỏi biển mắt, với những làn sóng (sàùmim), nước xoáy
(sàvattasu), các loại cá mập (sagàham), các loại La-sát (Rakkhasam), đến bờ
bên kia và đứng trên đất liền. Tai... Mũi... Lưỡi... Thân...
8) Ý, này các Tỷ-kheo, là biển của
người, tốc độ của nó làm bằng các pháp. Ai điều phục được tốc
độ làm bằng các pháp ấy, này các Tỷ-kheo, người ấy được gọi là
Bà-la-môn đã vượt khỏi biển ý, với những làn sóng, nước xoáy, các
loại cá mập, các loại La-sát, đến bờ bên kia, và đứng trên đất liền.
9) Bậc Đao Sư nói như sau:
Ai vượt qua biển này,
Với cá mập, La-sát.
Với sóng biển hãi hùng,
Biển rất khó vượt qua,
Bậc tối thắng trí tuệ,
Đã thành tựu Phạm hạnh,
Được gọi: "Đến bờ
kia",
Đã đạt thế giới biên.
188. II. Biển (2)(S.iv,157)
1). ..
2) -- "Biển, biển", này
các Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu nói như vậy. Cái ấy, này các Tỷ-kheo,
không phải là biển trong giới luật của bậc Thánh. Cái ấy (của kẻ
phàm phu) là một khối nước lớn, một dòng nước lớn.
3-5) Này các Tỷ-kheo, có những sắc
do mắt nhận thức khả lạc, khả hỷ, khá ý, khả ái, liên hệ đến dục,
hấp dẫn. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là biển trong giới luật của bậc
Thánh. Ở đây, thế giới này với Thiên giới, với Ma giới, với Phạm
thiên giới, với quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn, với chư Thiên và loài Người,
phần lớn chìm đắm trong ấy, bị rối ren như cuộn chỉ, bị bao trùm như
cuộn dây, thành như sợi dây bện bằng cỏ, không thể vượt qua cõi dữ,
ác thú, đọa xứ, luân hồi!
6-7) Này các Tỷ-kheo, có những tiếng
do tai nhận thức... có những hương do mũi nhận thức... có những vị do lưỡi
nhận thức... có những xúc do thân nhận thức...
8) Này các Tỷ-kheo, có những pháp
do ý nhận thức khả lạc, khả hỷ, khả ái, khả ý, liên hệ đến dục,
hấp dẫn. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là biển trong giới luật của bậc
Thánh. Ở đây, thế giới với Thiên giới, với Ma giới, với Phạm thiên
giới, với quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn, với chư Thiên và loài Người, phần
lớn chìm đắm trong ấy, bị rối ren như cuộn chỉ, bị bao trùm như cuộn
dây, thành như sợi dây bện bằng cỏ, không thể vượt qua cõi dữ, ác
thú, đọa xứ, luôn hồi!
189. III. Người Câu Cá (S.iv,158)
1). ..
2) -- Ai đoạn trừ được tham, sân
và vô minh, người ấy vượt qua biển khó vượt này, với các loài cá mập,
các loài La-sát, với các làn sóng hãi hùng khó vượt này.
Vượt trói buộc, thoát chết,
Không còn có sanh y,
Đoạn tận mọi khổ đau,
Không còn phải tái sanh.
Sanh tử được đoạn diệt,
Bậc không thể so sánh,
Ta nói, vị như vậy,
Đã hóa mù Thần chết.
3) Ví như, này các Tỷ-kheo, một người
câu cá trong hồ nước sâu, quăng xuống một lưỡi câu có mắc mồi. Một
con cá, với mắt nhìn vào mồi, nuốt lưỡi câu ấy. Như vậy, này các Tỷ-kheo,
con cá ấy vì nuốt lưỡi câu, đi đến bất hạnh, đi đến ách nạn, bị
người câu cá muốn làm gì thì làm. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, có sáu lưỡi
câu này ở trong đời, đưa đến bất hạnh cho các loài hữu tình, đưa đến
tai hại cho các loài chúng sanh. Thế nào là sáu?
4-8) Này các Tỷ-kheo, có những sắc
do mắt nhận thức khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến dục,
hấp dẫn. Nếu Tỷ-kheo hoan hỷ sắc ấy, tán dương, tham luyến an trú, thời
này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được gọi là đã nuốt lưỡi câu của Ác
ma, đã đi đến bất hạnh, đã đi đến ách nạn, đã bị Ác ma muốn làm
gì thì làm. Có những tiếng do tai nhận thức... Có những hương do mũi nhận
thức... Có những vị do lưỡi nhận thức... Có những xúc do thân nhận thức...
9) Này các Tỷ-kheo, có những pháp
do ý nhận thức khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến dục,
hấp dẫn. Nếu Tỷ-kheo hoan hỷ pháp ấy, tán dương, tham luyến an trú, thời
này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được gọi là đã nuốt lưỡi câu của Ác
ma, đã đi đến bất hạnh, đã đi đến ách nạn, đã bị Ác ma muốn làm
gì thì làm.
10-14) Này các Tỷ-kheo, có những sắc
do mắt nhận thức khả lạc, khả hỷ, khả ái, liên hệ đến dục, hấp
dẫn. Nếu Tỷ-kheo không hoan hỷ các sắc ấy, không tán dương, không tham
luyến an trú, thời này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được gọi là không nuốt
lưỡi câu của Ác ma, đã bẻ gãy lưỡi câu, đã bẻ nát lưỡi câu,
không đi đến bất hạnh, không đi đến ách nạn, không bị Ác ma muốn
làm gì thì làm. Này các Tỷ-kheo, có những tiếng do tai nhận thức... Có
những hương do mũi nhận thức... Có những vị do lưỡi nhận thức... Có
những xúc do thân nhận thức...
15) Này các Tỷ-kheo, có những pháp
do ý nhận thức khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến dục,
hấp dẫn. Nếu Tỷ-kheo không hoan hỷ pháp ấy, không tán dương, không tham
luyến an trú, thời này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được gọi là vị không
nuốt lưỡi câu của Ác ma, đã bẻ gãy lưỡi câu, đã bẻ nát lưỡi câu,
không đi đến bất hạnh, không đi đến ách nạn, không bị Ác ma muốn
làm gì thì làm.
190. IV. Cây Có Nhựa (S.iv,159)
1). ..
2-6) -- Này các Tỷ-kheo, đối với
các sắc do mắt nhận thức, Tỷ-kheo hay Tỷ-kheo-ni nào còn có tham, còn có
sân, còn có si, tham ấy chưa đoạn tận, sân ấy chưa đoạn tận, si ấy
chưa đoạn tận; dầu chỉ có phần nhỏ, khi các sắc do mắt nhận thức
đi vào trong tầm mắt nhận thức, chúng chinh phục tâm của vị ấy, còn
nói gì cả phần lớn. Vì sao? Này các Tỷ-kheo, vì còn có tham, còn có
sân, còn có si, và tham ấy chưa đoạn tận, sân ấy chưa đoạn tận, si
ấy chưa đoạn tận... Đối với các tiếng do tai nhận thức... Đối với
các hương do mũi nhận thức... Đối với các vị do lưỡi nhận thức...
Đối với các xúc do thân nhận thức...
7) Này các Tỷ-kheo, đối với các
pháp do ý nhận thức, Tỷ-kheo hay Tỷ-kheo-ni nào còn có tham, còn có sân,
còn có si, tham ấy chưa đoạn tận, sân ấy chưa đoạn tận, si ấy chưa
đoạn tận; dầu chỉ có phần nhỏ, khi các pháp do ý nhận thức đi vào
trong tầm ý nhận thức, chúng chinh phục tâm của vị ấy, còn nói gì cả
phần lớn. Vì sao? Này các Tỷ-kheo, vì còn có tham, còn có sân, còn có si,
và tham ấy chưa đoạn tận, sân ấy chưa đoạn tận, si ấy chưa đoạn tận.
8) Ví như, này các Tỷ-kheo, một
cây có nhựa, hoặc cây Bồ-đề (assattha), hoặc cây bàng (nigrodha), hoặc
cây sanh (pilakkha), hoặc cây udumbara(?), hoặc một loại cây còn tươi. Rồi
một người với cái búa sắc bén chặt vào cây ấy. Nước nhựa cây ấy
có chảy ra không?
-- Thưa có, bạch Thế Tôn.
-- Vì sao?
-- Vì rằng, bạch Thế Tôn, cây ấy
có nhựa.
9) -- Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, đối
với các sắc do mắt nhận thức, Tỷ-kheo hay Tỷ-kheo-ni nào còn có tham,
còn còn có sân, còn có si, tham ấy chưa đoạn tận, sân ấy chưa đoạn tận,
si ấy chưa đoạn tận; dầu chỉ có phần nhỏ, khi các sắc do mắt nhận
thức đi vào trong tầm mắt nhận thức, chúng chinh phục tâm của vị ấy,
còn nói gì cả phần lớn. Vì sao? Này các Tỷ-kheo, vì còn có tham, còn có
sân, còn có si, và tham ấy chưa đoạn tận, sân ấy chưa đoạn tận, si
ấy chưa đoạn tận... Đối với các tiếng do tai nhận thức... Đối với
các hương do mũi nhận thức... Đối với các vị do lưỡi nhận thức...
Đối với các xúc do thân nhận thức...
Này các Tỷ-kheo, đối với các
pháp do ý nhận thức, Tỷ-kheo hay Tỷ-kheo-ni nào còn có tham, còn có sân,
còn có si, tham ấy chưa đoạn tận, sân ấy chưa đoạn tận, si ấy chưa
đoạn tận; dầu chỉ có phần nhỏ, khi các pháp do ý nhận thức đi vào
trong tầm ý nhận thức, chúng chinh phục tâm của vị ấy, còn nói gì cả
phần lớn. Vì sao? Này các Tỷ-kheo, vì còn có tham, còn có sân, còn có si,
và tham ấy chưa đoạn tận, sân ấy chưa đoạn tận, si ấy chưa đoạn tận.
10-14) Này các Tỷ-kheo, đối với các
sắc do mắt nhận thức, Tỷ-kheo hay Tỷ-kheo-ni nào không có tham, không có
sân, không có si, tham ấy đã đoạn tận, sân ấy đã đoạn tận, si ấy
đã đoạn tận; dầu cho cả phần lớn, khi các sắc do mắt nhận thức đi
vào trong tầm mắt nhận thức, chúng không chinh phục tâm của vị ấy,
còn nói gì chỉ phần nhỏ. Vì sao? Này các Tỷ-kheo, vì không có tham,
không có sân, không có si, và tham ấy đã đoạn tận, sân ấy đã đoạn tận,
si ấy đã đoạn tận... Đối với các tiếng do tai nhận thức... Đối với
các hương do mũi nhận thức... Đối với các vị do lưỡi nhận thức...
Đối với các xúc do thân nhận thức...
15) Này các Tỷ-kheo, đối với các
pháp do ý nhận thức, Tỷ-kheo hay Tỷ-kheo ni nào không có tham, không có
sân, không có si, tham ấy đã đoạn tận, sân ấy đã đoạn tận, si ấy
đã đoạn tận; dầu cho cả phần lớn, khi các pháp do ý nhận thức đi vào
trong tầm ý nhận thức, chúng không chinh phục tâm của vị ấy, còn nói
gì chỉ có phần nhỏ. Vì sao? Này các Tỷ-kheo, vì không có tham, không có
sân, không có si ấy, và tham ấy đã đoạn tận, sân ấy đã đoạn tận,
si ấy đã đoạn tận.
16) Ví như, này các Tỷ-kheo, một
cây có nhựa, cây Bồ-đề hay cây bàng, hay cây sanh, hay cây udumbara đã
khô héo, không có nhựa, đã quá mùa. Rồi một người với cây búa sắc
bén chặt vào cây ấy. Nước nhựa cây ấy có chảy ra không?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
-- Vì sao?
-- Vì rằng, bạch Thế Tôn, cây ấy
không có nhựa.
-- Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, đối
với các sắc do mắt nhận thức, Tỷ-kheo hay Tỷ-kheo-ni nào không có tham,
không có sân, không có si... si ấy đã đoạn tận... Đối với các pháp do
ý nhận thức, tham ấy đã đoạn tận, sân ấy đã đoạn tận, si ấy đã
đoạn tận; dầu cho cả phần lớn, khi các pháp do ý nhận thức đi vào
trong tầm ý nhận thức, chúng không chinh phục tâm vị ấy, còn nói gì chỉ
có phần nhỏ. Vì sao? Này các Tỷ-kheo, vì không có tham ấy, không có sân
ấy, không có si ấy, và tham ấy đã đoạn tận, sân ấy đã đoạn tận,
si ấy đã đoạn tận.
191. V. Kotthika (S.iv,162)
1) Một thời Tôn giả Sàriputta và
Tôn giả Mahà Kotthika trú ở Bàrànasii, tại Isipatana, vườn Lộc Uyển.
2) Rồi Tôn giả Mahà Kotthika, vào
buổi chiều, từ chỗ tịnh cư đứng dậy, đi đến Tôn giả Sàriputta; sau
khi đến, nói lên với Tôn giả Sàriputta những lời chào đón hỏi thăm,
sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một
bên.
3) Ngồi xuống một bên, Tôn giả
Mahà Kotthika nói với Tôn giả Sàriputta:
-- Thưa Hiền giả, có phải con mắt
là kiết sử của các sắc, hay các sắc là kiết sử của con mắt?... Có
phải ý là kiết sử của các pháp hay các pháp là kiết sử của ý?
4) -- Này Hiền giả Kotthika, con mắt
không phải là kiết sử của các sắc, các sắc không phải là kiết sử của
con mắt; ở đây, do duyên cả hai khởi lên dục tham. Dục tham ở đây là
kiết sử... Ý không phải là kiết sử của các pháp, các pháp không phải
là kiết sử của ý; ở đây, do duyên cả hai khởi lên dục tham. Dục tham
ở đây là kiết sử.
5) Ví như, này Hiền giả, một con
bò đen và một con bò trắng bị cột lại bởi sợi dây hay cái ách. Nếu
có người nói con bò đen là kiết sử của con bò trắng, hay con bò trắng
là kiết sử của con bò đen, thời nói vậy có phải nói một cách chơn chánh
không?
-- Thưa không.
-- Này Hiền giả, con bò đen không
phải là kiết sử của con bò trắng. Và con bò trắng cũng không phải là
kiết sử của con bò đen. Do sợi dây hay cái ách cột lại, cái ấy ở đây
là kiết sử.
Này Hiền giả, cũng vậy, con mắt
cũng không phải là kiết sử của các sắc, các sắc không phải là kiết
sử của con mắt; ở đây, do duyên cả hai khởi lên dục tham. Dục tham ở
đây là kiết sử... Ý không phải là kiết sử của các pháp, các pháp
không phải là kiết sử của của ý; ở đây, do duyên cả hai khởi lên dục
tham. Dục tham ở đây là kiết sử.
6) Này Hiền giả, nếu con mắt là
kiết sử của các sắc, hay các sắc là kiết sử của con mắt, thời Phạm
hạnh này đưa đến chơn chánh đoạn tận khổ đau không thể tuyên bố.
Vì rằng, này Hiền giả, con mắt không phải là kiết sử của các sắc,
các sắc cũng không phải là kiết sử của con mắt; ở đây, do duyên cả
hai khởi lên dục tham. Dục tham ở đây là kiết sử. Do vậy, Phạm hạnh
đưa đến chơn chánh đoạn tận khổ đau có thể tuyên bố... Này Hiền giả,
nếu ý là kiết sử của các pháp, hay các pháp là kiết sử của ý, thời
Phạm hạnh này đưa đến chơn chánh đoạn tận khổ đau không thể tuyên
bố. Vì rằng, ý không phải là kiết sử của các pháp, hay các pháp không
phải là kiết sử của ý; ở đây, do duyên cả hai khởi lên dục tham. Dục
tham ở đây là kiết sử. Do vậy, Phạm hạnh đưa đến chơn chánh đoạn
tận khổ đau có thể tuyên bố.
7) Này Hiền giả, với pháp môn
này cần phải hiểu biết như vậy. Mắt không phải là kiết sử của sắc.
Sắc không phải là kiết sử của mắt; ở đây, do duyên cả hai khởi lên
dục tham. Dục tham ở đây là kiết sử... Ý không phải là kiết sử của
các pháp, các pháp không phải là kiết sử của mắt; ở đây, do duyên cả
hai khởi lên dục tham. Dục tham ở đây là kiết sử.
8) Này Hiền giả, Thế Tôn có mắt.
Với con mắt, Thế Tôn thấy sắc. Tham dục không có nơi Thế Tôn. Khéo giải
thoát là tâm Thế Tôn... Này Hiền giả, Thế Tôn có ý. Với ý, Thế Tôn
biết pháp. Tham dục không có nơi Thế Tôn. Khéo giải thoát là tâm Thế
Tôn.
9) Này Hiền giả, với pháp môn
này cần phải hiểu biết như vậy. Mắt không phải là kiết sử của các
sắc, các sắc không phải là kiết sử của mắt; ở đây, do duyên cả hai
khởi lên dục tham. Dục tham ở đây là kiết sử... Ý không phải là kiết
sử của các pháp, các pháp không phải là kiết sử của ý; ở đây, do
duyên cả hai khởi lên dục tham. Dục tham ở đây là kiết sử.
192. VI. Kàmabhù (S.iv,165)
(Tôn giả Kàmabhù đi đến Tôn giả
Ananda và hỏi cùng một câu và được trả lời tương tự như kinh trước).
193. VII. Udàyi (S.iv,166)
1) Một thời Tôn giả Ananda và Tôn
giả Udàyi trú ở Kosambi, tại vườn Ghosita.
2) Rồi Tôn giả Udàyi, vào buổi
chiều, từ chỗ tịnh cư đứng dậy, đi đến Tôn giả Ananda; sau khi đến
nói lên với Tôn giả Ananda những lời chào đón hỏi thăm... rồi ngồi xuống
một bên.
3) Ngồi xuống một bên, Tôn giả
Udàyi thưa với Tôn giả Ananda:
-- Thưa Hiền giả Ananda, như Thế Tôn
dùng nhiều phương tiện đã nói lên, đã khai mở, đã nêu rõ thân này là
vô ngã. Có thể chăng, cũng như vậy tuyên bố, tuyên thuyết, tường thuyết,
khai hiển, khai thị, phân biệt, minh hiển, minh thị rằng thức này cũng vô
ngã?
-- Này Hiền giả Udàyi, như Thế Tôn
dùng nhiều pháp môn đã nói lên, đã khai mở, đã nêu rõ thân này là vô
ngã. Cũng như vậy, có thể tuyên bố, tuyên thuyết, tường thuyết, khai hiển,
khai thị, phân biệt, minh hiển, minh thị rằng thức này cũng vô ngã.
4-6) Này Hiền giả, có phải do
duyên mắt và các sắc khởi lên nhãn thức?
-- Thưa phải, Hiền giả.
-- Này Hiền giả, do nhân nào, do
duyên nào khởi lên nhãn thức, nếu nhân ấy, nếu duyên ấy một cách
toàn diện, dưới mọi hình thức, được đoạn diệt hoàn toàn, không có
dư tàn, thời nhãn thức có thể nêu rõ được không?
-- Thưa không, Hiền giả.
-- Với pháp môn này, Thế Tôn đã
tuyên thuyết, đã khai mở, đã nêu rõ thức này là vô ngã... Có phải do
duyên tai và các tiếng khởi lên nhĩ thức?... Có phải do duyên mũi và các
hương khởi lên tỷ thức?... Có phải do duyên lưỡi và các vị khởi lên
thiệt thức?... Có phải do duyên thân và các xúc khởi lên thân thức?...
9) Này Hiền giả, có phải do duyên
ý và các pháp khởi lên ý thức?
-- Thưa phải, Hiền giả.
-- Này Hiền giả, do nhân nào, do
duyên nào khởi lên ý thức, nếu nhân ấy, nếu duyên ấy một cách toàn
diện, dưới mọi hình thức, được đoạn diệt hoàn toàn, không có dư tàn,
thời ý thức có thể nêu rõ được không?
-- Thưa không, Hiền giả.
-- Với pháp môn này, thưa Hiền giả,
Thế Tôn đã tuyên thuyết, đã khai mở, đã nêu rõ thức này là vô ngã.
10) Ví như, này Hiền giả, một người
cần dùng lõi cây, tìm cầu lõi cây, đi tìm lõi cây, cầm cây búa sắc
bén đi vào trong rừng. Ở đấy, người này thấy một thân cây chuối lớn,
thẳng, mới lớn và cao. Người ấy chặt đứt rễ cây, chặt đứt xong,
người ấy chặt ngọn. Sau khi chặt ngọn, người ấy lột vỏ ngoài ra. Người
ấy ở đây không tìm được giác cây, còn nói gì lõi cây.
11) Cũng vậy, này Hiền giả, Tỷ-kheo
trong sáu xúc xứ, không quán thấy có tự ngã và thuộc ngã. Do thấy như vậy,
vị ấy không chấp thủ một cái gì ở trong đời. Do không chấp thủ, vị
ấy không tham luyến. Do không tham luyến, vị ấy tự mình hoàn toàn tịch
tịnh. Vị ấy biết rõ: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc
nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa".
194. VIII. Với Lửa Cháy (S.iv,168)
1) -- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng
cho các Ông về pháp môn lửa cháy, pháp môn Chánh pháp. Hãy lắng nghe. Và
này các Tỷ-kheo, thế nào là pháp môn lửa cháy, pháp môn Chánh pháp?
2) Thật tốt hơn, này các Tỷ-kheo,
nếu nhãn căn bị hủy hoại với một cây kim bằng sắt nung đỏ, hừng cháy,
rực cháy, cháy lửa ngọn. Như vậy, không có chấp thủ tướng riêng,
không chấp thủ tướng chung đối với các sắc do mắt nhận thức, này
các Tỷ-kheo, thức có thể vững trú, kiên trú, bị trói buộc bởi vị ngọt
tướng chung hay bị trói buộc bởi vị ngọt tướng riêng. Trong thời gian
ấy, nếu mệnh chung, thời sự kiện này xảy ra: Đi thác sanh vào một
trong hai sanh thú này: địa ngục hay bàng sanh.
3) Này các Tỷ-kheo, do thấy nguy hiểm
này, Ta nói như vầy: Thật tốt hơn, này các Tỷ-kheo, nếu nhĩ căn bị hủy
hoại với một cái dùi bằng sắt nung đỏ, hừng cháy, rực cháy, cháy lửa
ngọn. Như vậy, không chấp thủ tướng riêng, không chấp thủ tướng
chung đối với các tiếng do tai nhận thức, này các Tỷ-kheo, thức có thể
vững trú, kiên trú, bị trói buộc bởi vị ngọt tướng chung, hay bị trói
buộc bởi vị ngọt tướng riêng. Trong thời gian ấy, nếu mệnh chung, thời
sự kiện này có thể xảy ra: Đi thác sanh vào một trong hai sanh thú này:
địa ngục hay bàng sanh.
4-6) Này các Tỷ-kheo, do thấy nguy
hiểm này, Ta nói như vầy: Thật tốt hơn, này các Tỷ-kheo, nếu tỷ căn bị
phá hủy với một cái kềm sắc bén, bị hừng cháy, rực cháy, cháy lửa
ngọn... nếu thiệt căn bị hủy hoại với một con dao sắc bén hừng
cháy, rực cháy, cháy lửa ngọn... nếu thân căn bị hủy hoại với một cái
kiếm sắc bén, hừng cháy, rực cháy, cháy lửa ngọn...
7) Này các Tỷ-kheo, do thấy nguy hiểm
này, Ta nói như vầy: Thật tốt hơn là nằm ngủ. Nằm ngủ, Ta nói rằng
là trống không đối với các loài có sinh mạng. Ta nói rằng là vô quả
đối với các loài có sanh mạng. Ta nói rằng là mù mờ đối với các
loài có sanh mạng. Vì rằng (nếu ngủ), thời không có suy nghĩ những vấn
đề để có thể bị những vấn đề tư duy chinh phục, để có thể phá
hòa hợp Tăng. Này các Tỷ-kheo, thấy sự trống không (của nằm ngủ) và
sự nguy hiểm (của tỉnh thức), Ta nói như vậy.
8) Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị
Đa văn Thánh đệ tử suy nghĩ như sau: "Hãy dừng lại, chớ để nhãn
căn bị hủy hoại với một cây kim bằng sắt nung đỏ, hừng cháy, rực
cháy, cháy lửa ngọn. Ta hãy tác ý như sau: ‘Đây, mắt là vô thường. Các
sắc là vô thường. Nhãn thức là vô thường. Nhãn xúc là vô thường. Phàm
duyên nhãn xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc thọ, khổ thọ, hay bất khổ bất
lạc thọ; cảm thọ ấy là vô thường’
9) Hãy dừng lại, chớ để nhĩ
căn bị hủy hoại với một cái dùi bằng sắt nung đỏ, hừng cháy, rực
cháy, cháy lửa ngọn. Ta hãy tác ý như sau: ‘Đây, tai là vô thường. Các
tiếng là vô thường. Nhĩ thức là vô thường. Nhĩ xúc là vô thường. Phàm
duyên nhĩ xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc thọ, khổ thọ, hay bất khổ bất
lạc thọ; cảm thọ ấy là vô thường’.
10) Hãy dừng lại, chớ để tỷ
căn bị hủy hoại với một cái kềm bằng sắc bén bị hừng cháy, rực
cháy, cháy lửa ngọn. Ta hãy tác ý như sau: ‘Đây, mũi là vô thường. Các
hương là vô thường. Tỷ thức là vô thường. Tỷ xúc là vô thường. Phàm
duyên tỷ xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc thọ, khổ thọ, hay bất khổ bất
lạc thọ; cảm thọ ấy là vô thường’.
11) Hãy dừng lại, chớ để thiệt
căn bị hủy hoại bởi một con dao sắc bén, hừng cháy, rực cháy, cháy lửa
ngọn. Ta hãy tác ý như sau: ‘Đây, lưỡi là vô thường. Các vị là vô
thường. Thiệt thức là vô thường, thiệt xúc là vô thường. Phàm duyên
thiệt xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc thọ, khổ thọ, hay bất khổ bất
lạc thọ; cảm thọ ấy là vô thường’.
12) Hãy dừng lại, chớ để thân căn
bị hủy hoại bởi một lưỡi kiếm sắc bén, hừng cháy, rực cháy, cháy
lửa ngọn. Ta hãy tác ý như sau: ‘Đây, thân căn là vô thường. Các xúc
là vô thường. Thân thức là vô thường, thân xúc là vô thường. Phàm
duyên thân xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc thọ, khổ thọ, hay bất khổ bất
lạc thọ; cảm thọ ấy là vô thường’.
13) Hãy dừng lại, chớ nằm ngủ
(?). Ta hãy tác ý như sau: ‘Đây, ý căn là vô thường. Các pháp là vô thường.
Ý thức là vô thường, ý xúc là vô thường. Phàm duyên ý xúc khởi lên cảm
thọ gì, lạc thọ, khổ thọ, hay bất khổ bất lạc thọ; cảm thọ ấy
là vô thường’".
14) Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, vị
Đa văn Thánh đệ tử nhàm chán đối với mắt, nhàm chán đối với các sắc,
nhàm chán đối với nhãn thức, nhàm chán đối với nhãn xúc. Phàm duyên
nhãn xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc thọ, khổ thọ, hay bất khổ bất lạc
thọ; vị ấy nhàm chán đối với cảm thọ ấy... nhàm chán đối với ý,
nhàm chán đối với các pháp, nhàm chán đối với ý thức, nhàm chán đối
với ý xúc. Phàm duyên ý xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc thọ, khổ thọ,
hay bất khổ bất lạc thọ; vị ấy nhàm chán đối với cảm thọ ấy. Do
nhàm chán, vị ấy ly tham. Do ly tham, vị ấy được giải thoát. Trong sự
giải thoát, trí khởi lên biết rằng: "Ta đã được giải thoát".
Vị ấy biết rõ: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc
nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa".
15) Này các Tỷ-kheo, đây là pháp
môn lửa cháy. Đây là pháp môn Chánh pháp.
195. IX. Ví Dụ Tay Và Chân (1)
(S.iv,171)
1) -- Nếu có các tay, này các Tỷ-kheo,
thời có thấy lượm lên và đặt xuống. Nếu có chân, thời có thấy đi
tới và đi lui. Nếu có tay chân, thời có thấy co lại và duỗi ra. Nếu
có bụng, thời có thấy đói và khát.
2) Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, nếu
có mắt và do duyên nhãn xúc, thời khởi lên nội lạc, nội khổ... Nếu
có ý, do duyên ý xúc thời khởi lên nội lạc, nội khổ.
3) Nếu không có các tay, này các Tỷ-kheo,
thời không có thấy lượm lên và đặt xuống. Nếu không có chân, thời
không có thấy đi tới và đi lui. Nếu không có tay chân, thời không có thấy
co lại và duỗi ra. Nếu không có bụng, thời không có thấy đói và khát.
4) Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, nếu
không có mắt, không có duyên nhãn xúc, thời không khởi lên nội lạc, nội
khổ... Nếu không có lưỡi, không có duyên thiệt xúc, thời không khởi
lên nội lạc, nội khổ... Nếu không có ý, không có duyên ý xúc, thời
không khởi lên nội lạc, nội khổ.
196. X. Ví Dụ Tay Và Chân (2)
(S.iv,172)
1-4) -- Nếu có các tay, này các Tỷ-kheo,
thời có lượm lên và đặt xuống. Nếu có chân, thời có đi tới và đi
lui... Nếu không có ý và không có duyên ý xúc, thời không khởi lên nội
lạc và nội khổ...
III. Phẩm Biển
187. I. Biển (1) (S.iv,157)
2) -- "Biển, biển", này
các Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu nói như vậy. Cái ấy, này các Tỷ-kheo,
không phải là biển trong giới luật các bậc Thánh. Cái ấy (của kẻ
phàm phu), này các Tỷ-kheo, là một khối nước lớn, là một dòng nước lớn.
3-7) Con mắt là biển của người,
tốc độ của nó làm bằng các sắc. Ai điều phục được tốc độ làm
bằng các sắc ấy, này các Tỷ-kheo, người ấy được gọi là Bà-la-môn
đã vượt khỏi biển mắt, với những làn sóng (sàùmim), nước xoáy
(sàvattasu), các loại cá mập (sagàham), các loại La-sát (Rakkhasam), đến bờ
bên kia và đứng trên đất liền. Tai... Mũi... Lưỡi... Thân...
8) Ý, này các Tỷ-kheo, là biển của
người, tốc độ của nó làm bằng các pháp. Ai điều phục được tốc
độ làm bằng các pháp ấy, này các Tỷ-kheo, người ấy được gọi là
Bà-la-môn đã vượt khỏi biển ý, với những làn sóng, nước xoáy, các
loại cá mập, các loại La-sát, đến bờ bên kia, và đứng trên đất liền.
9) Bậc Đao Sư nói như sau:
Ai vượt qua biển này,
Với cá mập, La-sát.
Với sóng biển hãi hùng,
Biển rất khó vượt qua,
Bậc tối thắng trí tuệ,
Đã thành tựu Phạm hạnh,
Được gọi: "Đến bờ
kia",
Đã đạt thế giới biên.
188. II. Biển (2)(S.iv,157)
1). ..
2) -- "Biển, biển", này
các Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu nói như vậy. Cái ấy, này các Tỷ-kheo,
không phải là biển trong giới luật của bậc Thánh. Cái ấy (của kẻ
phàm phu) là một khối nước lớn, một dòng nước lớn.
3-5) Này các Tỷ-kheo, có những sắc
do mắt nhận thức khả lạc, khả hỷ, khá ý, khả ái, liên hệ đến dục,
hấp dẫn. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là biển trong giới luật của bậc
Thánh. Ở đây, thế giới này với Thiên giới, với Ma giới, với Phạm
thiên giới, với quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn, với chư Thiên và loài Người,
phần lớn chìm đắm trong ấy, bị rối ren như cuộn chỉ, bị bao trùm như
cuộn dây, thành như sợi dây bện bằng cỏ, không thể vượt qua cõi dữ,
ác thú, đọa xứ, luân hồi!
6-7) Này các Tỷ-kheo, có những tiếng
do tai nhận thức... có những hương do mũi nhận thức... có những vị do lưỡi
nhận thức... có những xúc do thân nhận thức...
8) Này các Tỷ-kheo, có những pháp
do ý nhận thức khả lạc, khả hỷ, khả ái, khả ý, liên hệ đến dục,
hấp dẫn. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là biển trong giới luật của bậc
Thánh. Ở đây, thế giới với Thiên giới, với Ma giới, với Phạm thiên
giới, với quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn, với chư Thiên và loài Người, phần
lớn chìm đắm trong ấy, bị rối ren như cuộn chỉ, bị bao trùm như cuộn
dây, thành như sợi dây bện bằng cỏ, không thể vượt qua cõi dữ, ác
thú, đọa xứ, luôn hồi!
189. III. Người Câu Cá (S.iv,158)
1). ..
2) -- Ai đoạn trừ được tham, sân
và vô minh, người ấy vượt qua biển khó vượt này, với các loài cá mập,
các loài La-sát, với các làn sóng hãi hùng khó vượt này.
Vượt trói buộc, thoát chết,
Không còn có sanh y,
Đoạn tận mọi khổ đau,
Không còn phải tái sanh.
Sanh tử được đoạn diệt,
Bậc không thể so sánh,
Ta nói, vị như vậy,
Đã hóa mù Thần chết.
3) Ví như, này các Tỷ-kheo, một người
câu cá trong hồ nước sâu, quăng xuống một lưỡi câu có mắc mồi. Một
con cá, với mắt nhìn vào mồi, nuốt lưỡi câu ấy. Như vậy, này các Tỷ-kheo,
con cá ấy vì nuốt lưỡi câu, đi đến bất hạnh, đi đến ách nạn, bị
người câu cá muốn làm gì thì làm. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, có sáu lưỡi
câu này ở trong đời, đưa đến bất hạnh cho các loài hữu tình, đưa đến
tai hại cho các loài chúng sanh. Thế nào là sáu?
4-8) Này các Tỷ-kheo, có những sắc
do mắt nhận thức khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến dục,
hấp dẫn. Nếu Tỷ-kheo hoan hỷ sắc ấy, tán dương, tham luyến an trú, thời
này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được gọi là đã nuốt lưỡi câu của Ác
ma, đã đi đến bất hạnh, đã đi đến ách nạn, đã bị Ác ma muốn làm
gì thì làm. Có những tiếng do tai nhận thức... Có những hương do mũi nhận
thức... Có những vị do lưỡi nhận thức... Có những xúc do thân nhận thức...
9) Này các Tỷ-kheo, có những pháp
do ý nhận thức khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến dục,
hấp dẫn. Nếu Tỷ-kheo hoan hỷ pháp ấy, tán dương, tham luyến an trú, thời
này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được gọi là đã nuốt lưỡi câu của Ác
ma, đã đi đến bất hạnh, đã đi đến ách nạn, đã bị Ác ma muốn làm
gì thì làm.
10-14) Này các Tỷ-kheo, có những sắc
do mắt nhận thức khả lạc, khả hỷ, khả ái, liên hệ đến dục, hấp
dẫn. Nếu Tỷ-kheo không hoan hỷ các sắc ấy, không tán dương, không tham
luyến an trú, thời này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được gọi là không nuốt
lưỡi câu của Ác ma, đã bẻ gãy lưỡi câu, đã bẻ nát lưỡi câu,
không đi đến bất hạnh, không đi đến ách nạn, không bị Ác ma muốn
làm gì thì làm. Này các Tỷ-kheo, có những tiếng do tai nhận thức... Có
những hương do mũi nhận thức... Có những vị do lưỡi nhận thức... Có
những xúc do thân nhận thức...
15) Này các Tỷ-kheo, có những pháp
do ý nhận thức khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến dục,
hấp dẫn. Nếu Tỷ-kheo không hoan hỷ pháp ấy, không tán dương, không tham
luyến an trú, thời này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được gọi là vị không
nuốt lưỡi câu của Ác ma, đã bẻ gãy lưỡi câu, đã bẻ nát lưỡi câu,
không đi đến bất hạnh, không đi đến ách nạn, không bị Ác ma muốn
làm gì thì làm.
190. IV. Cây Có Nhựa (S.iv,159)
1). ..
2-6) -- Này các Tỷ-kheo, đối với
các sắc do mắt nhận thức, Tỷ-kheo hay Tỷ-kheo-ni nào còn có tham, còn có
sân, còn có si, tham ấy chưa đoạn tận, sân ấy chưa đoạn tận, si ấy
chưa đoạn tận; dầu chỉ có phần nhỏ, khi các sắc do mắt nhận thức
đi vào trong tầm mắt nhận thức, chúng chinh phục tâm của vị ấy, còn
nói gì cả phần lớn. Vì sao? Này các Tỷ-kheo, vì còn có tham, còn có
sân, còn có si, và tham ấy chưa đoạn tận, sân ấy chưa đoạn tận, si
ấy chưa đoạn tận... Đối với các tiếng do tai nhận thức... Đối với
các hương do mũi nhận thức... Đối với các vị do lưỡi nhận thức...
Đối với các xúc do thân nhận thức...
7) Này các Tỷ-kheo, đối với các
pháp do ý nhận thức, Tỷ-kheo hay Tỷ-kheo-ni nào còn có tham, còn có sân,
còn có si, tham ấy chưa đoạn tận, sân ấy chưa đoạn tận, si ấy chưa
đoạn tận; dầu chỉ có phần nhỏ, khi các pháp do ý nhận thức đi vào
trong tầm ý nhận thức, chúng chinh phục tâm của vị ấy, còn nói gì cả
phần lớn. Vì sao? Này các Tỷ-kheo, vì còn có tham, còn có sân, còn có si,
và tham ấy chưa đoạn tận, sân ấy chưa đoạn tận, si ấy chưa đoạn tận.
8) Ví như, này các Tỷ-kheo, một
cây có nhựa, hoặc cây Bồ-đề (assattha), hoặc cây bàng (nigrodha), hoặc
cây sanh (pilakkha), hoặc cây udumbara(?), hoặc một loại cây còn tươi. Rồi
một người với cái búa sắc bén chặt vào cây ấy. Nước nhựa cây ấy
có chảy ra không?
-- Thưa có, bạch Thế Tôn.
-- Vì sao?
-- Vì rằng, bạch Thế Tôn, cây ấy
có nhựa.
9) -- Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, đối
với các sắc do mắt nhận thức, Tỷ-kheo hay Tỷ-kheo-ni nào còn có tham,
còn còn có sân, còn có si, tham ấy chưa đoạn tận, sân ấy chưa đoạn tận,
si ấy chưa đoạn tận; dầu chỉ có phần nhỏ, khi các sắc do mắt nhận
thức đi vào trong tầm mắt nhận thức, chúng chinh phục tâm của vị ấy,
còn nói gì cả phần lớn. Vì sao? Này các Tỷ-kheo, vì còn có tham, còn có
sân, còn có si, và tham ấy chưa đoạn tận, sân ấy chưa đoạn tận, si
ấy chưa đoạn tận... Đối với các tiếng do tai nhận thức... Đối với
các hương do mũi nhận thức... Đối với các vị do lưỡi nhận thức...
Đối với các xúc do thân nhận thức...
Này các Tỷ-kheo, đối với các
pháp do ý nhận thức, Tỷ-kheo hay Tỷ-kheo-ni nào còn có tham, còn có sân,
còn có si, tham ấy chưa đoạn tận, sân ấy chưa đoạn tận, si ấy chưa
đoạn tận; dầu chỉ có phần nhỏ, khi các pháp do ý nhận thức đi vào
trong tầm ý nhận thức, chúng chinh phục tâm của vị ấy, còn nói gì cả
phần lớn. Vì sao? Này các Tỷ-kheo, vì còn có tham, còn có sân, còn có si,
và tham ấy chưa đoạn tận, sân ấy chưa đoạn tận, si ấy chưa đoạn tận.
10-14) Này các Tỷ-kheo, đối với các
sắc do mắt nhận thức, Tỷ-kheo hay Tỷ-kheo-ni nào không có tham, không có
sân, không có si, tham ấy đã đoạn tận, sân ấy đã đoạn tận, si ấy
đã đoạn tận; dầu cho cả phần lớn, khi các sắc do mắt nhận thức đi
vào trong tầm mắt nhận thức, chúng không chinh phục tâm của vị ấy,
còn nói gì chỉ phần nhỏ. Vì sao? Này các Tỷ-kheo, vì không có tham,
không có sân, không có si, và tham ấy đã đoạn tận, sân ấy đã đoạn tận,
si ấy đã đoạn tận... Đối với các tiếng do tai nhận thức... Đối với
các hương do mũi nhận thức... Đối với các vị do lưỡi nhận thức...
Đối với các xúc do thân nhận thức...
15) Này các Tỷ-kheo, đối với các
pháp do ý nhận thức, Tỷ-kheo hay Tỷ-kheo ni nào không có tham, không có
sân, không có si, tham ấy đã đoạn tận, sân ấy đã đoạn tận, si ấy
đã đoạn tận; dầu cho cả phần lớn, khi các pháp do ý nhận thức đi vào
trong tầm ý nhận thức, chúng không chinh phục tâm của vị ấy, còn nói
gì chỉ có phần nhỏ. Vì sao? Này các Tỷ-kheo, vì không có tham, không có
sân, không có si ấy, và tham ấy đã đoạn tận, sân ấy đã đoạn tận,
si ấy đã đoạn tận.
16) Ví như, này các Tỷ-kheo, một
cây có nhựa, cây Bồ-đề hay cây bàng, hay cây sanh, hay cây udumbara đã
khô héo, không có nhựa, đã quá mùa. Rồi một người với cây búa sắc
bén chặt vào cây ấy. Nước nhựa cây ấy có chảy ra không?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
-- Vì sao?
-- Vì rằng, bạch Thế Tôn, cây ấy
không có nhựa.
-- Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, đối
với các sắc do mắt nhận thức, Tỷ-kheo hay Tỷ-kheo-ni nào không có tham,
không có sân, không có si... si ấy đã đoạn tận... Đối với các pháp do
ý nhận thức, tham ấy đã đoạn tận, sân ấy đã đoạn tận, si ấy đã
đoạn tận; dầu cho cả phần lớn, khi các pháp do ý nhận thức đi vào
trong tầm ý nhận thức, chúng không chinh phục tâm vị ấy, còn nói gì chỉ
có phần nhỏ. Vì sao? Này các Tỷ-kheo, vì không có tham ấy, không có sân
ấy, không có si ấy, và tham ấy đã đoạn tận, sân ấy đã đoạn tận,
si ấy đã đoạn tận.
191. V. Kotthika (S.iv,162)
1) Một thời Tôn giả Sàriputta và
Tôn giả Mahà Kotthika trú ở Bàrànasii tại Isipatana, vườn Lộc Uyển.
2) Rồi Tôn giả Mahà Kotthika, vào
buổi chiều, từ chỗ tịnh cư đứng dậy, đi đến Tôn giả Sàriputta; sau
khi đến, nói lên với Tôn giả Sàriputta những lời chào đón hỏi thăm,
sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một
bên.
3) Ngồi xuống một bên, Tôn giả
Mahà Kotthika nói với Tôn giả Sàriputta:
-- Thưa Hiền giả, có phải con mắt
là kiết sử của các sắc, hay các sắc là kiết sử của con mắt?... Có
phải ý là kiết sử của các pháp hay các pháp là kiết sử của ý?
4) -- Này Hiền giả Kotthika, con mắt
không phải là kiết sử của các sắc, các sắc không phải là kiết sử của
con mắt; ở đây, do duyên cả hai khởi lên dục tham. Dục tham ở đây là
kiết sử... Ý không phải là kiết sử của các pháp, các pháp không phải
là kiết sử của ý; ở đây, do duyên cả hai khởi lên dục tham. Dục tham
ở đây là kiết sử.
5) Ví như, này Hiền giả, một con
bò đen và một con bò trắng bị cột lại bởi sợi dây hay cái ách. Nếu
có người nói con bò đen là kiết sử của con bò trắng, hay con bò trắng
là kiết sử của con bò đen, thời nói vậy có phải nói một cách chơn chánh
không?
-- Thưa không.
-- Này Hiền giả, con bò đen không
phải là kiết sử của con bò trắng. Và con bò trắng cũng không phải là
kiết sử của con bò đen. Do sợi dây hay cái ách cột lại, cái ấy ở đây
là kiết sử.
Này Hiền giả, cũng vậy, con mắt
cũng không phải là kiết sử của các sắc, các sắc không phải là kiết
sử của con mắt; ở đây, do duyên cả hai khởi lên dục tham. Dục tham ở
đây là kiết sử... Ý không phải là kiết sử của các pháp, các pháp
không phải là kiết sử của của ý; ở đây, do duyên cả hai khởi lên dục
tham. Dục tham ở đây là kiết sử.
6) Này Hiền giả, nếu con mắt là
kiết sử của các sắc, hay các sắc là kiết sử của con mắt, thời Phạm
hạnh này đưa đến chơn chánh đoạn tận khổ đau không thể tuyên bố.
Vì rằng, này Hiền giả, con mắt không phải là kiết sử của các sắc,
các sắc cũng không phải là kiết sử của con mắt; ở đây, do duyên cả
hai khởi lên dục tham. Dục tham ở đây là kiết sử. Do vậy, Phạm hạnh
đưa đến chơn chánh đoạn tận khổ đau có thể tuyên bố... Này Hiền giả,
nếu ý là kiết sử của các pháp, hay các pháp là kiết sử của ý, thời
Phạm hạnh này đưa đến chơn chánh đoạn tận khổ đau không thể tuyên
bố. Vì rằng, ý không phải là kiết sử của các pháp, hay các pháp không
phải là kiết sử của ý; ở đây, do duyên cả hai khởi lên dục tham. Dục
tham ở đây là kiết sử. Do vậy, Phạm hạnh đưa đến chơn chánh đoạn
tận khổ đau có thể tuyên bố.
7) Này Hiền giả, với pháp môn
này cần phải hiểu biết như vậy. Mắt không phải là kiết sử của sắc.
Sắc không phải là kiết sử của mắt; ở đây, do duyên cả hai khởi lên
dục tham. Dục tham ở đây là kiết sử... Ý không phải là kiết sử của
các pháp, các pháp không phải là kiết sử của mắt; ở đây, do duyên cả
hai khởi lên dục tham. Dục tham ở đây là kiết sử.
8) Này Hiền giả, Thế Tôn có mắt.
Với con mắt, Thế Tôn thấy sắc. Tham dục không có nơi Thế Tôn. Khéo giải
thoát là tâm Thế Tôn... Này Hiền giả, Thế Tôn có ý. Với ý, Thế Tôn
biết pháp. Tham dục không có nơi Thế Tôn. Khéo giải thoát là tâm Thế
Tôn.
9) Này Hiền giả, với pháp môn
này cần phải hiểu biết như vậy. Mắt không phải là kiết sử của các
sắc, các sắc không phải là kiết sử của mắt; ở đây, do duyên cả hai
khởi lên dục tham. Dục tham ở đây là kiết sử... Ý không phải là kiết
sử của các pháp, các pháp không phải là kiết sử của ý; ở đây, do
duyên cả hai khởi lên dục tham. Dục tham ở đây là kiết sử.
192. VI. Kàmabhù (S.iv,165)
(Tôn giả Kàmabhù đi đến Tôn giả
Ananda và hỏi cùng một câu và được trả lời tương tự như kinh trước).
193. VII. Udàyi (S.iv,166)
1) Một thời Tôn giả Ananda và Tôn
giả Udàyi trú ở Kosambi, tại vườn Ghosita.
2) Rồi Tôn giả Udàyi, vào buổi
chiều, từ chỗ tịnh cư đứng dậy, đi đến Tôn giả Ananda; sau khi đến
nói lên với Tôn giả Ananda những lời chào đón hỏi thăm... rồi ngồi xuống
một bên.
3) Ngồi xuống một bên, Tôn giả
Udàyi thưa với Tôn giả Ananda:
-- Thưa Hiền giả Ananda, như Thế Tôn
dùng nhiều phương tiện đã nói lên, đã khai mở, đã nêu rõ thân này là
vô ngã. Có thể chăng, cũng như vậy tuyên bố, tuyên thuyết, tường thuyết,
khai hiển, khai thị, phân biệt, minh hiển, minh thị rằng thức này cũng vô
ngã?
-- Này Hiền giả Udàyi, như Thế Tôn
dùng nhiều pháp môn đã nói lên, đã khai mở, đã nêu rõ thân này là vô
ngã. Cũng như vậy, có thể tuyên bố, tuyên thuyết, tường thuyết, khai hiển,
khai thị, phân biệt, minh hiển, minh thị rằng thức này cũng vô ngã.
4-6) Này Hiền giả, có phải do
duyên mắt và các sắc khởi lên nhãn thức?
-- Thưa phải, Hiền giả.
-- Này Hiền giả, do nhân nào, do
duyên nào khởi lên nhãn thức, nếu nhân ấy, nếu duyên ấy một cách
toàn diện, dưới mọi hình thức, được đoạn diệt hoàn toàn, không có
dư tàn, thời nhãn thức có thể nêu rõ được không?
-- Thưa không, Hiền giả.
-- Với pháp môn này, Thế Tôn đã
tuyên thuyết, đã khai mở, đã nêu rõ thức này là vô ngã... Có phải do
duyên tai và các tiếng khởi lên nhĩ thức?... Có phải do duyên mũi và các
hương khởi lên tỷ thức?... Có phải do duyên lưỡi và các vị khởi lên
thiệt thức?... Có phải do duyên thân và các xúc khởi lên thân thức?...
9) Này Hiền giả, có phải do duyên
ý và các pháp khởi lên ý thức?
-- Thưa phải, Hiền giả.
-- Này Hiền giả, do nhân nào, do
duyên nào khởi lên ý thức, nếu nhân ấy, nếu duyên ấy một cách toàn
diện, dưới mọi hình thức, được đoạn diệt hoàn toàn, không có dư tàn,
thời ý thức có thể nêu rõ được không?
-- Thưa không, Hiền giả.
-- Với pháp môn này, thưa Hiền giả,
Thế Tôn đã tuyên thuyết, đã khai mở, đã nêu rõ thức này là vô ngã.
10) Ví như, này Hiền giả, một người
cần dùng lõi cây, tìm cầu lõi cây, đi tìm lõi cây, cầm cây búa sắc
bén đi vào trong rừng. Ở đấy, người này thấy một thân cây chuối lớn,
thẳng, mới lớn và cao. Người ấy chặt đứt rễ cây, chặt đứt xong,
người ấy chặt ngọn. Sau khi chặt ngọn, người ấy lột vỏ ngoài ra. Người
ấy ở đây không tìm được giác cây, còn nói gì lõi cây.
11) Cũng vậy, này Hiền giả, Tỷ-kheo
trong sáu xúc xứ, không quán thấy có tự ngã và thuộc ngã. Do thấy như vậy,
vị ấy không chấp thủ một cái gì ở trong đời. Do không chấp thủ, vị
ấy không tham luyến. Do không tham luyến, vị ấy tự mình hoàn toàn tịch
tịnh. Vị ấy biết rõ: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc
nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa".
194. VIII. Với Lửa Cháy (S.iv,168)
1) -- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng
cho các Ông về pháp môn lửa cháy, pháp môn Chánh pháp. Hãy lắng nghe. Và
này các Tỷ-kheo, thế nào là pháp môn lửa cháy, pháp môn Chánh pháp?
2) Thật tốt hơn, này các Tỷ-kheo,
nếu nhãn căn bị hủy hoại với một cây kim bằng sắt nung đỏ, hừng cháy,
rực cháy, cháy lửa ngọn. Như vậy, không có chấp thủ tướng riêng,
không chấp thủ tướng chung đối với các sắc do mắt nhận thức, này
các Tỷ-kheo, thức có thể vững trú, kiên trú, bị trói buộc bởi vị ngọt
tướng chung hay bị trói buộc bởi vị ngọt tướng riêng. Trong thời gian
ấy, nếu mệnh chung, thời sự kiện này xảy ra: Đi thác sanh vào một
trong hai sanh thú này: địa ngục hay bàng sanh.
3) Này các Tỷ-kheo, do thấy nguy hiểm
này, Ta nói như vầy: Thật tốt hơn, này các Tỷ-kheo, nếu nhĩ căn bị hủy
hoại với một cái dùi bằng sắt nung đỏ, hừng cháy, rực cháy, cháy lửa
ngọn. Như vậy, không chấp thủ tướng riêng, không chấp thủ tướng
chung đối với các tiếng do tai nhận thức, này các Tỷ-kheo, thức có thể
vững trú, kiên trú, bị trói buộc bởi vị ngọt tướng chung, hay bị trói
buộc bởi vị ngọt tướng riêng. Trong thời gian ấy, nếu mệnh chung, thời
sự kiện này có thể xảy ra: Đi thác sanh vào một trong hai sanh thú này:
địa ngục hay bàng sanh.
4-6) Này các Tỷ-kheo, do thấy nguy
hiểm này, Ta nói như vầy: Thật tốt hơn, này các Tỷ-kheo, nếu tỷ căn bị
phá hủy với một cái kềm sắc bén, bị hừng cháy, rực cháy, cháy lửa
ngọn... nếu thiệt căn bị hủy hoại với một con dao sắc bén hừng
cháy, rực cháy, cháy lửa ngọn... nếu thân căn bị hủy hoại với một cái
kiếm sắc bén, hừng cháy, rực cháy, cháy lửa ngọn...
7) Này các Tỷ-kheo, do thấy nguy hiểm
này, Ta nói như vầy: Thật tốt hơn là nằm ngủ. Nằm ngủ, Ta nói rằng
là trống không đối với các loài có sinh mạng. Ta nói rằng là vô quả
đối với các loài có sanh mạng. Ta nói rằng là mù mờ đối với các
loài có sanh mạng. Vì rằng (nếu ngủ), thời không có suy nghĩ những vấn
đề để có thể bị những vấn đề tư duy chinh phục, để có thể phá
hòa hợp Tăng. Này các Tỷ-kheo, thấy sự trống không (của nằm ngủ) và
sự nguy hiểm (của tỉnh thức), Ta nói như vậy.
8) Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị
Đa văn Thánh đệ tử suy nghĩ như sau: "Hãy dừng lại, chớ để nhãn
căn bị hủy hoại với một cây kim bằng sắt nung đỏ, hừng cháy, rực
cháy, cháy lửa ngọn. Ta hãy tác ý như sau: ‘Đây, mắt là vô thường. Các
sắc là vô thường. Nhãn thức là vô thường. Nhãn xúc là vô thường. Phàm
duyên nhãn xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc thọ, khổ thọ, hay bất khổ bất
lạc thọ; cảm thọ ấy là vô thường’
9) Hãy dừng lại, chớ để nhĩ
căn bị hủy hoại với một cái dùi bằng sắt nung đỏ, hừng cháy, rực
cháy, cháy lửa ngọn. Ta hãy tác ý như sau: ‘Đây, tai là vô thường. Các
tiếng là vô thường. Nhĩ thức là vô thường. Nhĩ xúc là vô thường. Phàm
duyên nhĩ xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc thọ, khổ thọ, hay bất khổ bất
lạc thọ; cảm thọ ấy là vô thường’.
10) Hãy dừng lại, chớ để tỷ
căn bị hủy hoại với một cái kềm bằng sắc bén bị hừng cháy, rực
cháy, cháy lửa ngọn. Ta hãy tác ý như sau: ‘Đây, mũi là vô thường. Các
hương là vô thường. Tỷ thức là vô thường. Tỷ xúc là vô thường. Phàm
duyên tỷ xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc thọ, khổ thọ, hay bất khổ bất
lạc thọ; cảm thọ ấy là vô thường’.
11) Hãy dừng lại, chớ để thiệt
căn bị hủy hoại bởi một con dao sắc bén, hừng cháy, rực cháy, cháy lửa
ngọn. Ta hãy tác ý như sau: ‘Đây, lưỡi là vô thường. Các vị là vô
thường. Thiệt thức là vô thường, thiệt xúc là vô thường. Phàm duyên
thiệt xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc thọ, khổ thọ, hay bất khổ bất
lạc thọ; cảm thọ ấy là vô thường’.
12) Hãy dừng lại, chớ để thân căn
bị hủy hoại bởi một lưỡi kiếm sắc bén, hừng cháy, rực cháy, cháy
lửa ngọn. Ta hãy tác ý như sau: ‘Đây, thân căn là vô thường. Các xúc
là vô thường. Thân thức là vô thường, thân xúc là vô thường. Phàm
duyên thân xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc thọ, khổ thọ, hay bất khổ bất
lạc thọ; cảm thọ ấy là vô thường’.
13) Hãy dừng lại, chớ nằm ngủ
(?). Ta hãy tác ý như sau: ‘Đây, ý căn là vô thường. Các pháp là vô thường.
Ý thức là vô thường, ý xúc là vô thường. Phàm duyên ý xúc khởi lên cảm
thọ gì, lạc thọ, khổ thọ, hay bất khổ bất lạc thọ; cảm thọ ấy
là vô thường’".
14) Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, vị
Đa văn Thánh đệ tử nhàm chán đối với mắt, nhàm chán đối với các sắc,
nhàm chán đối với nhãn thức, nhàm chán đối với nhãn xúc. Phàm duyên
nhãn xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc thọ, khổ thọ, hay bất khổ bất lạc
thọ; vị ấy nhàm chán đối với cảm thọ ấy... nhàm chán đối với ý,
nhàm chán đối với các pháp, nhàm chán đối với ý thức, nhàm chán đối
với ý xúc. Phàm duyên ý xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc thọ, khổ thọ,
hay bất khổ bất lạc thọ; vị ấy nhàm chán đối với cảm thọ ấy. Do
nhàm chán, vị ấy ly tham. Do ly tham, vị ấy được giải thoát. Trong sự
giải thoát, trí khởi lên biết rằng: "Ta đã được giải thoát".
Vị ấy biết rõ: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc
nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa".
15) Này các Tỷ-kheo, đây là pháp
môn lửa cháy. Đây là pháp môn Chánh pháp.
195. IX. Ví Dụ Tay và Chân (1)
(S.iv,171)
1) -- Nếu có các tay, này các Tỷ-kheo,
thời có thấy lượm lên và đặt xuống. Nếu có chân, thời có thấy đi
tới và đi lui. Nếu có tay chân, thời có thấy co lại và duỗi ra. Nếu
có bụng, thời có thấy đói và khát.
2) Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, nếu
có mắt và do duyên nhãn xúc, thời khởi lên nội lạc, nội khổ... Nếu
có ý, do duyên ý xúc thời khởi lên nội lạc, nội khổ.
3) Nếu không có các tay, này các Tỷ-kheo,
thời không có thấy lượm lên và đặt xuống. Nếu không có chân, thời
không có thấy đi tới và đi lui. Nếu không có tay chân, thời không có thấy
co lại và duỗi ra. Nếu không có bụng, thời không có thấy đói và khát.
4) Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, nếu
không có mắt, không có duyên nhãn xúc, thời không khởi lên nội lạc, nội
khổ... Nếu không có lưỡi, không có duyên thiệt xúc, thời không khởi
lên nội lạc, nội khổ... Nếu không có ý, không có duyên ý xúc, thời
không khởi lên nội lạc, nội khổ.
196. X. Ví Dụ Tay Và Chân (2)
(S.iv,172)
1-4) -- Nếu có các tay, này các Tỷ-kheo,
thời có lượm lên và đặt xuống. Nếu có chân, thời có đi tới và đi
lui... Nếu không có ý và không có duyên ý xúc, thời không khởi lên nội
lạc và nội khổ...
IV. Phẩm Rắn Độc
197. I. Rắn Độc (S.iv,172)
1-2) Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú ở
Sàvatthi... gọi các Tỷ-kheo... Thế Tôn nói như sau:
3) -- Ví như, này các Tỷ-kheo, có bốn
con rắn độc, với sức nóng tột độ, với nọc độc mãnh liệt. Rồi
có người đến, muốn sống, không muốn chết, muốn lạc, ghét khổ. Người
ta nói với người ấy: "Này Bạn, có bốn con rắn độc này, với sức
nóng tột độ, với nọc độc mãnh liệt. Thỉnh thoảng hãy thức chúng dậy,
thỉnh thoảng hãy tắm cho chúng, thỉnh thoảng hãy cho chúng ăn, thỉnh thoảng
hãy cho chúng vào huyệt (để ngủ). Này Bạn, nếu một trong bốn con rắn
độc này, với sức nóng tột độ, với nọc độc mãnh liệt, tức giận,
thời này Bạn, Bạn sẽ đi đến chết, hay đau khổ gần như chết. Vậy này
Bạn, hãy làm những gì Bạn nghĩ cần phải làm".
4) Rồi này các Tỷ-kheo, người ấy
quá sợ hãi bốn con rắn độc, với sức nóng tột độ, với nọc độc mãnh
liệt, chạy trốn chỗ này, chỗ kia. Người ta nói với người ấy: "Này
Bạn, có năm kẻ sát nhân thù địch này, đang đi theo sau lưng Bạn. Chúng
nói: ‘Khi nào chúng ta thấy nó, chúng ta sẽ giết nó’. Này Bạn, hãy
làm những gì Bạn nghĩ là phải làm".
5) Rồi này các Tỷ-kheo, người ấy
quá sợ hãi bốn con rắn độc ấy, với sức nóng tột độ, với nọc độc
mãnh liệt, quá sợ hãi năm tên sát nhân thù địch ấy, chạy đi trốn chỗ
này, chỗ kia. Người ta nói với người ấy: "Này Bạn, có một tên thứ
sáu cướp nhà, giết người, với ngọn kiếm dơ lên, đang đi theo sau lưng
Bạn. Nó nói: ‘Khi nào ta thấy nó, ta sẽ chém đầu nó’. Này Bạn, hãy
làm những gì Bạn nghĩ là phải làm".
6) Rồi, này các Tỷ-kheo, người
ấy quá sợ hãi bốn con rắn độc, với sức nóng tột độ, với nọc độc
mãnh liệt, quá sợ hãi năm tên sát nhân thù địch, quá sợ hãi tên thứ
sáu cướp nhà, giết người với ngọn kiếm dơ lên, chạy đi trốn chỗ này,
chỗ kia. Rồi người ấy thấy một ngôi làng trống không. Nhà nào người
ấy đi vào, người ấy vào chỗ trống không, vào chỗ rỗng không, vào chỗ
tuyệt không. Người ấy sờ đến đồ dùng nào, người ấy sờ chỗ trống
không, người ấy sờ chỗ rỗng không, người ấy sờ chỗ tuyệt không.
Người ta nói với người ấy: "Này Bạn, bọn cướp phá hoại làng, sẽ
đánh cướp ngôi làng trống không này. Này Bạn, hãy làm những gì Bạn
nghĩ là phải làm".
7) Rồi này các Tỷ-kheo, người ấy
quá sợ hãi bốn con rắn độc với sức nóng tột độ, với nọc độc mãnh
liệt, quá sợ hãi năm tên giết người thù địch, quá sợ hãi tên thứ
sáu cướp nhà, giết người với ngọn kiếm dơ lên, quá sợ hãi các tên
cướp làng, liền chạy đi trốn chỗ này, chỗ kia. Rồi người ấy thấy
một đầm nước lớn, bờ bên này đầy những sợ hãi nguy hiểm, bờ bên
kia được an ổn, không có sợ hãi, nhưng không có thuyền để vượt qua,
không có cầu để đi qua đi lại.
8) Rồi này các Tỷ-kheo, người ấy
suy nghĩ như sau: "Đây là vùng nước đọng, bờ bên này nguy hiểm và
hãi hùng, bờ bên kia an ổn, không kinh hãi, nhưng không có thuyền để vượt
qua, cũng không có cầu bắc qua từ bờ bên này đến bờ bên kia. Nay ta
hãy thâu góp cỏ cây, nhành lá, cột lại thành chiếc bè, nhờ chiếc bè
này, tinh tấn dùng tay chân ta có thể vượt qua bờ bên kia một cách an
toàn".
9) Rồi này các Tỷ-kheo, người ấy
thâu góp cỏ cây, nhành lá, cột lại thành chiếc bè, nhờ chiếc bè này,
tinh tấn dùng tay chân, người ấy vượt qua bờ bên kia một cách an toàn.
Vị Bà-la-môn vượt qua bờ bên kia, đứng trên đất liền.
10) Ví dụ này, này các Tỷ-kheo, Ta
làm để giải thích ý nghĩa. Và đây là ý nghĩa:
11) Bốn con rắn độc với sức nóng
tột độ, với nọc độc mãnh liệt, này các Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với
bốn đại chủng: địa đại, thủy đại, hỏa đại và phong đại.
12) Năm tên giết người thù địch,
này các Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với năm thủ uẩn: sắc thủ uẩn, thọ
thủ uẩn, tưởng thủ uẩn, hành thủ uẩn, thức thủ uẩn.
13) Tên thứ sáu cướp nhà, giết
người với cây kiếm giơ lên, này các Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với dục
tham.
14) Ngôi làng trống không, này các
Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với sáu nội xứ. Này các Tỷ-kheo, nếu một người
hiền, kinh nghiệm, có trí, tìm hiểu nó với con mắt; vị ấy thấy nó là
trống không, là rỗng không, là tuyệt không... Nếu tìm hiểu nó với ý; vị
ấy thấy nó là trống không, là rỗng không, là tuyệt không.
15) Bọn cướp phá làng, này các Tỷ-kheo,
là đồng nghĩa với sáu ngoại xứ. Này các Tỷ-kheo, mắt bị tàn hại
trong các sắc khả ái và không khả ái. Này các Tỷ-kheo, tai bị tàn hại
trong các tiếng khả ái và không khả ái. Này các Tỷ-kheo, mũi bị tàn hại
trong các hương khả ái và không khả ái. Này các Tỷ-kheo, lưỡi bị tàn
hại trong các vị khả ái và không khả ái. Này các Tỷ-kheo, thân bị tàn
hại trong các xúc khả ái và không khả ái. Này các Tỷ-kheo, ý bị tàn hại
trong các pháp khả ái và không khả ái.
16) Vùng nước lớn, này các Tỷ-kheo,
là đồng nghĩa với bốn bộc lưu: dục bộc lưu, hữu bộc lưu, kiến bộc
lưu và vô minh bộc lưu.
17) Bờ bên này nguy hiểm và hãi
hùng, này các Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với thân kiến này.
18) Bờ bên kia an ổn và không kinh
hãi, này các Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với Niết-bàn.
19) Cái bè, này các Tỷ-kheo, là đồng
nghĩa với Thánh đạo Tám ngành.
20) Tinh tấn dùng tay và dùng chân,
này các Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với tinh tấn, tinh cần.
21) Vị Bà-la-môn vượt qua bờ bên
kia và đứng trên đất liền, này các Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với bậc
A-la-hán.
198. II. Hỷ Lạc (S.iv,175)
1-2). ..
3) -- Này các Tỷ-kheo, đầy đủ
được ba pháp ấy, một Tỷ-kheo ngay trong hiện tại, sống nhiều an lạc,
hoan hỷ, và tạo nguyên nhân bắt đầu đoạn tận các lậu hoặc. Thế
nào là ba? Hộ trì các căn, tiết độ trong ăn uống và chú tâm tỉnh
giác.
4) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
Tỷ-kheo hộ trì các căn? Ở đây, này các Tỷ-kheo, khi mắt thấy sắc, Tỷ-kheo
không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên
nhân gì khiến nhãn căn không được chế ngự, khiến tham ái, ưu bi, các
ác bất thiện pháp khởi lên, Tỷ-kheo tự chế ngự những nguyên nhân ấy,
hộ trì nhãn căn, thực hành hộ trì nhãn căn. Khi tai nghe tiếng... mũi ngửi
hương... lưỡi nếm vị... thân cảm xúc.... ý nhận thức các pháp, vị
ấy không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những
nguyên nhân gì khiến ý căn không được chế ngự, khiến tham ái, ưu bi, các
ác bất thiện pháp khởi lên, Tỷ-kheo tự chế ngự những nguyên nhân ấy,
hộ trì ý căn, thực hành hộ trì ý căn.
5) Ví như, này các Tỷ-kheo, trên đất
bằng, tại chỗ ngã tư, có chiếc xe đang đậu, thắng với ngựa hay, có
roi ngựa đặc biệt đang sẵn sàng. Có người mã thuật sư thiện xảo,
người đánh xe điều ngự các con ngựa đáng được điều ngự, leo lên
xe ấy, tay trái nắm lấy dây cương, tay mặt cầm lấy roi ngựa, có thể
đánh xe ngựa đi tới đi lui, như thế nào và tại chỗ nào theo ý mình muốn.
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo học hộ trì, học chế ngự, học điều
ngự, học tịnh chỉ sáu căn này. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo hộ
trì các căn.
6) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
Tỷ-kheo tiết độ trong ăn uống?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
chân chánh giác sát thọ dụng món ăn không phải để vui đùa, không phải
để đam mê, không phải để trang sức, không phải để tự làm đẹp mình,
mà chỉ để thân này được an trú, được bảo dưỡng, khỏi bị thương
hại, để hỗ trợ Phạm hạnh; vị ấy nghĩ rằng: "Như vậy, ta diệt
trừ các cảm thọ cũ, không cho khởi lên các cảm thọ mới, và ta sẽ
không có lỗi lầm, sống được an lạc".
7) Ví như, này các Tỷ-kheo, một người
bôi thuốc vào một vết thương để chữa lành vết thương ấy. Ví như một
người bôi dầu vào trục xe với mục đích để có thể chở đồ nặng.
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo chân chánh giác sát thọ dụng món ăn
không phải để vui đùa, không phải để đam mê, không phải để trang sức,
không phải để tự làm đẹp mình, mà chỉ để thân này được an trú,
được bảo dưỡng, khỏi bị thương hại, để hỗ trợ Phạm hạnh; vị
ấy nghĩ rằng: "Như vậy, ta diệt trừ các cảm thọ cũ, không cho khởi
lên các cảm thọ mới, và ta sẽ không có lỗi lầm, sống được an lạc".
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo
tiết độ trong ăn uống.
8) Và như thế nào, này các Tỷ-kheo,
là Tỷ-kheo chú tâm tỉnh giác?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
ban ngày trong khi đi kinh hành hay ngồi, tâm trừ sạch các chướng ngại pháp.
Ban đêm canh một, khi đi kinh hành hay ngồi, tâm trừ sạch các chướng ngại
pháp. Ban đêm canh giữa, vị ấy nằm phía hông bên phải, trong dáng nằm
con sư tử, hai chân để trên nhau, chánh niệm tỉnh giác, tác ý đến lúc
thức dậy. Ban đêm trong canh cuối cùng, vị ấy thức dậy và trong khi đi
kinh hành và ngồi, tâm trừ sạch các chướng ngại pháp.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo
chú tâm tỉnh giác.
9) Này các Tỷ-kheo, đầy đủ ba pháp
ấy, Tỷ-kheo ngay trong hiện tại, sống nhiều an lạc, hoan hỷ, và tạo
nguyên nhân bắt đầu đoạn tận các lậu hoặc.
199. III. Con Rùa (S.iv,177)
1-2). ..
3) -- Thuở xưa, này các Tỷ-kheo,
có một con rùa, vào buổi chiều, đang đi kiếm mồi dọc theo bờ sông. Một
con giả can, này các Tỷ-kheo, vào buổi chiều, cũng đi tìm mồi dọc theo bờ
sông.
4) Này các Tỷ-kheo, con rùa từ đàng
xa trông thấy con giả can đang đi tìm mồi, thấy vậy liền rụt bốn chân
và thứ năm là cổ vào trong mai rùa của mình và nằm bất động, im lặng.
5) Này các Tỷ-kheo, con giả can từ
đàng xa trông thấy con rùa, đi đến con rùa sau khi đến, đứng một bên
và nghĩ rằng: "Khi nào con rùa này thò ra thân phần nào và cổ là thứ
năm, ngay tại chỗ ấy, ta sẽ nắm lấy, bẻ gãy và ăn".
6) Nhưng, này các Tỷ-kheo, vì rằng
con rùa không thò ra một thân phần nào và cổ là thứ năm, nên con giả
can nhàm chán con rùa và bỏ đi, không nắm được cơ hội.
7) Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Ác
ma thường xuyên không gián đoạn, đứng trong tư thế rình mò các Ông với
ý nghĩ: "Rất có thể ta nắm được cơ hội để bắt gặp từ con mắt...
từ cái lưỡi... hay từ ý".
8) Do vậy, này các Tỷ-kheo, hãy sống
hộ trì các căn. Khi mắt thấy sắc, không nắm giữ tướng chung, không nắm
giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì khiến nhãn căn không được chế
ngự, khiến tham ái, ưu bi, các ác bất thiện pháp khởi lên, hãy tự chế
ngự những nguyên nhân ấy, hộ trì nhãn căn, thực hành hộ trì nhãn căn.
Khi tai nghe tiếng... mũi ngửi mùi... lưỡi nếm vị... thân cảm xúc... ý
nhận thức các pháp, không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng
riêng. Những nguyên nhân gì khiến ý căn không được chế ngự, khiến
tham ái, ưu bi, các ác bất thiện pháp khởi lên, hãy tự chế ngự những
nguyên nhân ấy, hộ trì ý căn, thực hành hộ trì ý căn. Này các Tỷ-kheo,
khi nào các Ông sống hộ trì các căn, thời Ác ma nhàm chán các Ông và sẽ
bỏ đi, không nắm giữ được cơ hội, như con giả can đối với con rùa.
Như rùa dấu thân phần,
Trong mai rùa của nó.
Cũng vậy, vị Tỷ-kheo,
Thâu nhóm mọi tâm tư,
Không nương tựa một ai,
Không hại một người nào,
Hoàn toàn đạt tịch tịnh,
Không nói xấu một ai.
200. IV. Khúc Gỗ (1) (S.iv,179)
1) Một thời Thế Tôn trú ở
Kosambi, trên bờ sông Gangà.
2) Thế Tôn thấy một khúc gỗ lớn
trôi theo dòng nước sông Hằng, thấy vậy liền gọi các Tỷ-kheo:
-- Này các Tỷ-kheo, các Ông có thấy
khúc gỗ to lớn này đang trôi theo dòng nước sông Hằng không?
-- Thưa có, bạch Thế Tôn.
3) -- Này các Tỷ-kheo, nếu khúc gỗ
không đâm vào bờ bên này, không đâm vào bờ bên kia, không chìm giữa
dòng, không mắc cạn trên miếng đất nổi, không bị loài Người nhặt lấy,
không bị phi nhân nhặt lấy, không bị mắc vào xoáy nước, không bị mục
bên trong; như vậy, này các Tỷ-kheo, khúc gỗ ấy sẽ hướng về biển, sẽ
xuôi theo biển, sẽ nghiêng nhập vào biển. Vì sao? Vì rằng, này các Tỷ-kheo,
dòng sông Hằng hướng về biển, xuôi theo biển, nghiêng trôi về biển. Cũng
vậy, này các Tỷ-kheo, nếu các Ông không đâm vào bờ bên này, không đâm
vào bờ bên kia, không chìm giữa dòng, không mắc cạn trên miếng đất nổi,
không bị loài Người nhặt lấy, không bị phi nhân nhặt lấy, không bị mắc
vào xoáy nước, không bị mục bên trong; như vậy, này các Tỷ-kheo, các
Ông sẽ hướng về Niết-bàn, sẽ xuôi theo Niết-bàn, sẽ nghiêng nhập
vào Niết-bàn. Vì sao? Vì rằng, này các Tỷ-kheo, chánh kiến hướng về Niết-bàn,
xuôi theo Niết-bàn, nghiêng nhập vào Niết-bàn.
4) Khi được nghe nói vậy, một Tỷ-kheo
bạch Thế Tôn:
-- Bạch Thế Tôn, bờ bên này là
gì? Bờ bên kia là gì? Thế nào là chìm giữa dòng? Thế nào là mắc cạn
trên miếng đất nổi? Thế nào là bị loài Người nhặt lấy? Thế nào
là bị phi nhân nhặt lấy? Thế nào là bị mắc vào xoáy nước? Thế nào
là bị mục nát bên trong?
5) -- Bờ bên này, này Tỷ-kheo, là
đồng nghĩa với sáu nội xứ này.
6) Bờ bên kia, này Tỷ-kheo, là đồng
nghĩa với sáu ngoại xứ.
7) Bị chìm giữa dòng, này Tỷ-kheo,
là đồng nghĩa với hỷ tham.
8) Bị mắc cạn trên miếng đất nổi,
này Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với ngã mạn.
9) Và này Tỷ-kheo, thế nào là bị
người nhặt lấy? Ở đây, Tỷ-kheo sống quá liên hệ với cư sĩ, chung
vui, chung buồn, an lạc khi họ an lạc, đau khổ khi họ bị đau khổ, tự
trói buộc mình trong các công việc phải làm được khởi lên của họ. Đây
gọi là Tỷ-kheo bị loài Người nhặt lấy.
10) Và thế nào, này Tỷ-kheo, là bị
phi nhân nhặt lấy? Ở đây, Tỷ-kheo sống Phạm hạnh với ước nguyện
được sanh cộng trú với một hạng chư Thiên: "Mong rằng với giới
luật này, với cấm giới này, với khổ hạnh này, với Phạm hạnh này,
ta sẽ trở thành Thiên nhân hay một loài chư Thiên!" Đây, này Tỷ-kheo,
được gọi là bị phi nhân nhặt lấy.
11) Bị mắc vào xoáy nước, này Tỷ-kheo,
là đồng nghĩa với năm dục công đức.
12) Và này Tỷ-kheo, thế nào là bị
mục nát bên trong? Ở đây, này Tỷ-kheo, có người thọ tà giới, theo ác
pháp, bất tịnh, có những hành vi đáng nghi ngờ, có những hành động che
đậy, không phải Sa-môn nhưng hiện tướng Sa-môn, không phải Phạm hạnh
nhưng hiện tướng Phạm hạnh, nội tâm bị hủ bại, đầy dục vọng, là
một đống rác bẩn. Đây, này Tỷ-kheo, được gọi là bị mục nát bên
trong.
11) Lúc bấy giờ Nanda, người chăn
bò, đứng không xa Thế Tôn bao nhiêu.
12) Rồi người chăn bò Nanda bạch
Thế Tôn:
-- Bạch Thế Tôn, con không đâm
vào bờ bên này, con không đâm vào bờ bên kia, con không bị chìm giữa
dòng, con không bị mắc cạn trên miếng đất nổi, con không bị loài Người
nhặt lấy, con không bị phi nhân nhặt lấy, con không bị mắc vào xoáy nước,
con không bị mục nát bên trong. Bạch Thế Tôn, mong Thế Tôn cho con được
xuất gia với Thế Tôn, được thọ đại giới.
13) -- Này Nanda, hãy đem trả các
con bò cho người chủ.
-- Bạch Thế Tôn, chúng sẽ đi trở
về. Các bò mẹ đang trông mong gặp lại các con bê của chúng.
-- Tuy vậy, này Nanda, Ông hãy trả
lui các con bò cho những người chủ.
14) Rồi Nanda, người chăn bò, sau
khi trả lui các con bò cho những người chủ, đi đến Thế Tôn; sau khi đến,
bạch Thế Tôn:
-- Bạch Thế Tôn, các con bò đã
được trả lui cho những người chủ. Bạch Thế Tôn, xin hãy cho con được
xuất gia với Thế Tôn. Hãy cho con thọ đại giới.
15) Nanda, người chăn bò được xuất
gia với Thế Tôn, được thọ đại giới. Sau khi thọ đại giới không bao
lâu, Tôn giả Nanda sống một mình, an tịnh...
16) Tôn giả Nanda trở thành một vị
A-la-hán nữa.
201. V. Khúc Gỗ (2)(S.iv,181)
1) Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở tại
Kimbilà, trên bờ sông Hằng.
2) Thế Tôn thấy một khúc gỗ
trôi theo dòng nước sông Hằng, thấy vậy, liền gọi các Tỷ-kheo:
-- Này các Tỷ-kheo, các Ông có thấy
khúc gỗ lớn này bị trôi theo dòng nước sông Hằng?
-- Thưa có, bạch Thế Tôn.
3) (Như kinh trước cho đến: Nghiêng
nhập vào Niết-bàn).
4) Được nghe nói vậy, Tôn giả
Kimbilà bạch Thế Tôn:
-- Bạch Thế Tôn, bờ bên này là
gì?... (như trên)...
12) -- Và này Kimbilà, thế nào là bị
mục nát bên trong? Ở đây, này Kimbilà, Tỷ-kheo phạm một giới tội
(àpatti), một giới tội không thể giải trừ(?). Này Kimbilà, đây gọi là
mục nát bên trong.
202. VI. Dục Lậu (S.iv,182)
1) Một thời Thế Tôn sống giữa
dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ), trong vườn Nigrodha.
2) Lúc bấy giờ có một hội đường
mới của những người Sakka ở Kapilavatthu được làm không bao lâu, chưa
được một Sa-môn, hay Bà-la-môn, hay một người nào đến ở.
3) Rồi một số người Sakka ở
Kapilavatthu đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi
xuống một bên.
4) Ngồi xuống một bên, các người
Sakka ở Kapilavatthu bạch Thế Tôn:
-- Ở đây, bạch Thế Tôn, có hội
đường mới của những người Sakka ở Kapilavatthu được làm không bao
lâu, chưa được một Sa-môn, hay Bà-la-môn, hay một người nào đến ở. Bạch
Thế Tôn, mong Thế Tôn hãy sử dụng ngôi nhà ấy đầu tiên, rồi sau các
người Sakka ở Kapilavatthu sẽ sử dụng. Như vậy, sẽ đưa đến hạnh phúc
và an lạc lâu dài cho những người Sakka ở Kapilivatthu.
Thế Tôn im lặng nhận lời.
5) Những người Sakka ở Kapilavatthu
sau khi biết Thế Tôn đã nhận lời, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ
Thế Tôn, thân phía hữu hướng về Ngài rồi đi đến hội đường mới
ấy. Sau khi đến, họ cho trải toàn bộ hội đường với những tấm đệm
(?), cho bày biện các chỗ ngồi, cho sắp đặt ghè nước, cho treo đèn dầu,
rồi đi đến Thế Tôn; sau khi đến, bạch Thế Tôn:
-- Bạch Thế Tôn, toàn bộ hội
đường đã được trải đệm. Các chỗ ngồi đã được bày biện. Một
ghè nước đã được đặt sẵn. Ngọn đèn dầu đã được treo lên. Nay
Thế Tôn hãy làm gì Ngài nghĩ là phải thời.
6) Rồi Thế Tôn đắp y, cầm y bát,
cùng với chúng Tỷ-kheo đi đến hội đường mới; sau khi đến, rửa chân,
đi vào hội đường và ngồi dựa vào cây cột ở giữa, mặt hướng về
phía Đông. Chúng Tỷ-kheo, sau khi rửa chân, bước vào hội đường, và ngồi
dựa vào bức tường phía Tây, mặt hướng về phía Đông, với Thế Tôn
trước mặt. Các người Sakka ở Kapilavatthu, sau khi rửa chân, bước vào hội
đường, ngồi dựa vào bức tường phía Đông, hướng mặt về phía Tây,
với Thế Tôn phía trước mặt.
7) Rồi Thế Tôn, phần lớn của đêm,
với pháp thoại thuyết giảng, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ
các người Sakka ở Kapilavatthu. Rồi Thế Tôn giải tán họ với câu:
-- Này các Sakka, đêm đã quá khuya,
nay các Ông hãy làm những gì các Ông nghĩ là hợp thời.
-- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Các người Sakka ở Kapilavatthu vâng
đáp Thế Tôn, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân hữu hướng
về Ngài rồi ra đi.
8) Rồi Thế Tôn, sau khi các người
Sakka ở Kapilavatthu ra đi không bao lâu, liền gọi Tôn giả Mahà Moggalàna:
-- Này Moggalàna, chúng Tỷ-kheo đã
đoạn trừ được buồn ngủ. Này Moggalàna, hãy thuyết pháp thoại cho
chúng Tỷ-kheo. Ta nay bị đau lưng, Ta muốn nằm xuống.
-- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Tôn giả Mahà Moggalàna vâng đáp Thế
Tôn.
9) Rồi Thế Tôn cho xếp y Sanghàti
(Tăng-già-lê) gấp bốn lại, và nằm xuống phía hông bên phải, trong dáng
nằm con sư tử, hai chân gác trên nhau, chánh niệm tỉnh giác, tác ý đến
lúc thức dậy.
10) Ở đây, Tôn giả Mahà Moggalàna
gọi các Tỷ-kheo:
-- Này chư Hiền.
-- Thưa Hiền giả.
Các Tỷ-kheo vâng đáp Tôn giả
Mahà Moggalàna. Tôn giả Mahà Moggalàna nói như sau:
-- Này chư Hiền, tôi sẽ giảng cho
chư Hiền về pháp môn nhiễm dục lậu, và pháp môn không nhiễm lậu. Hãy
lắng nghe và suy nghiệm kỹ. Tôi sẽ giảng.
-- Thưa vâng, Hiền giả.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả
Mahà Moggalàna. Tôn giả Mahà Moggalàna nói như sau:
11) -- Và này chư Hiền, thế nào
là nhiễm dục lậu? Ở đây, này chư Hiền, Tỷ-kheo khi mắt thấy sắc,
thiên chấp sắc khả ái, ghét bỏ các sắc không khả ái, sống với thân
niệm không an trú, với tâm nhỏ hẹp. Vị ấy không như thật rõ biết
tâm giải thoát, tuệ giải thoát ấy. Chính ở đây, các ác bất thiện
pháp ấy khởi lên không được trừ diệt không có dư tàn... Khi lưỡi nếm
vị... Khi ý biết các pháp, thiên chấp pháp khả ái, ghét bỏ pháp không
khả ái, sống với thân niệm không an trú, với tâm nhỏ hẹp. Vị ấy
không như thật rõ biết tâm giải thoát, tuệ giải thoát ấy. Chính ở đây,
các ác bất thiện pháp ấy khởi lên không được trừ diệt không có dư
tàn.
12) Này chư Hiền, đây gọi là Tỷ-kheo
bị nhiễm dục lậu đối với các sắc do mắt nhận thức... đối với các
vị do lưỡi nhận thức... đối với các pháp do ý nhận thức. Tỷ-kheo sống
như vậy, này chư Hiền, nếu Màra có đến vị ấy, ngang qua mắt, Màra nắm
được cơ hội, Màra nắm được đối tượng... Nếu Màra có đến vị
ấy, ngang qua lưỡi, Màra nắm được cơ hội, Màra nắm được đối tượng....
Nếu Màra có đến vị ấy, ngang qua ý, Màra nắm được cơ hội, Màra nắm
được đối tượng.
13) Cũng vậy, này chư Hiền, như một
cái nhà lợp bằng cây lau hay cỏ, héo khô, không có nhựa, xưa đến ba bốn
năm. Nếu từ phương Đông có người đến, với bó đuốc cháy đỏ, ngọn
lửa sẽ nắm được cơ hội, sẽ nắm được đối tượng. Nếu một người
từ phương Tây đến... Nếu một người từ phương Bắc đến... Nếu một
người từ phương Nam đến... Nếu một người từ phương dưới đến...
Nếu một người từ phương trên đến, hay một người bất cứ từ ở đâu
đến, với bó đuốc cháy đỏ, ngọn lửa nắm được cơ hội, ngọn lửa
nắm được đối tượng. Cũng vậy, này chư Hiền, nếu Tỷ-kheo sống như
vậy. Nếu Màra có đến vị ấy, ngang qua mắt, Màra nắm được cơ hội,
Màra nắm được đối tượng... Nếu Màra có đến vị ấy, ngang qua lưỡi...
Nếu Màra có đến vị ấy, ngang qua ý, Màra nắm được cơ hội, Màra nắm
được đối tượng.
14) Này chư Hiền, sống như vậy, các
sắc chinh phục vị Tỷ-kheo, không phải vị Tỷ-kheo chinh phục các sắc.
Các tiếng chinh phục vị Tỷ-kheo, không phải vị Tỷ-kheo chinh phục các
tiếng. Các hương chinh phục vị Tỷ-kheo, không phải vị Tỷ-kheo chinh phục
các hương. Các vị chinh phục vị Tỷ-kheo, không phải vị Tỷ-kheo chinh phục
các vị. Các xúc chinh phục vị Tỷ-kheo, không phải vị Tỷ-kheo chinh phục
các xúc. Các pháp chinh phục vị Tỷ-kheo, không phải vị Tỷ-kheo chinh phục
các pháp. Này chư Hiền, đây được gọi là Tỷ-kheo bị sắc chinh phục,
bị tiếng chinh phục, bị hương chinh phục, bị vị chinh phục, bị xúc
chinh phục, bị pháp chinh phục, không phải không bị chinh phục. Chinh phục
vị ấy là các ác bất thiện pháp bị nhiễm ô, đưa đến tái sanh, đầy
sợ hãi (sadarà), đưa đến quả khổ dị thục, tương lai là già chết. Như
vậy, này chư Hiền, là nhiễm dục lậu.
15) Và này chư Hiền, thế nào là
không nhiễm dục lậu? Ở đây, này chư Hiền, Tỷ-kheo khi mắt thấy sắc,
không thiên chấp sắc khả ái, không ghét bỏ sắc không khả ái, sống an
trú thân niệm, với tâm vô lượng. Vị ấy như thật rõ biết tâm giải
thoát, tuệ giải thoát. Chính ở nơi đây, các ác bất thiện pháp khởi
lên được đoạn diệt không có dư tàn... Khi lưỡi nếm vị... Khi ý biết
các pháp, vị ấy không thiên chấp các pháp khả ái, không ghét bỏ các
pháp không khả ái, sống an trú thân niệm, với tâm vô lượng. Vị ấy
như thật biết rõ tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Chính ở nơi đây,
các ác bất thiện pháp khởi lên được đoạn diệt không có dư tàn. Này
chư Hiền, đây gọi là vị Tỷ-kheo không bị nhiễm dục lậu đối với các
sắc do mắt nhận thức... đối với các vị do lưỡi nhận thức... đối
với các pháp do ý nhận thức... Tỷ-kheo sống như vậy, này chư Hiền, nếu
Màra có đến vị ấy, ngang qua mắt, Màra không nắm được cơ hội, Màra
không nắm được đối tượng... Nếu Màra có đến vị ấy, ngang qua lưỡi,
Màra không nắm được cơ hội, Màra không nắm được đối tượng... Nếu
Màra có đến vị ấy, ngang qua ý, Màra không nắm được cơ hội, Màra
không nắm được đối tượng.
16) Ví như, này chư Hiền, một cái
nhà có nóc nhọn hay một giảng đường có nóc nhọn xây bằng đất dày,
vừa mới xoa trét, nếu có người từ phương Đông lại với ngọn đuốc
cháy đỏ, ngọn lửa không nắm được cơ hội, không nắm được đối
tượng... từ phương Tây đến... từ phương Bắc đến... từ phương Nam
đến... từ phương dưới đến... từ phương trên đến hay từ bất cứ
phương nào đến, với ngọn đuốc cháy đỏ, ngọn lửa không nắm được
cơ hội, không nắm được đối tượng.
17) Sống như vậy, này chư Hiền, Tỷ-kheo
chinh phục các sắc, không phải các sắc chinh phục Tỷ-kheo. Tỷ-kheo chinh
phục các tiếng, không phải các tiếng chinh phục Tỷ-kheo. Tỷ-kheo chinh phục
các hương, không phải các hương chinh phục Tỷ-kheo. Tỷ-kheo chinh phục các
vị, không phải các vị chinh phục Tỷ-kheo. Tỷ-kheo chinh phục các xúc,
không phải các xúc chinh phục Tỷ-kheo. Tỷ-kheo chinh phục các pháp, không
phải các pháp chinh phục Tỷ-kheo. Này chư Hiền, đây gọi là Tỷ-kheo
chinh phục các sắc, chinh phục các tiếng, chinh phục các hương, chinh phục
các vị, chinh phục các xúc, chinh phục các pháp, không phải bị chinh phục.
Chính vị ấy chinh phục các ác bất thiện pháp bị nhiễm ô, đưa đến tái
sanh, đầy sợ hãi, đưa đến quả khổ dị thục tương lai là già chết.
Như vậy, này chư Hiền, là không nhiễm dục lậu.
18) Rồi Thế Tôn ngồi dậy và gọi
Tôn giả Màha Moggalàna:
-- Lành thay, lành thay, này
Moggalàna! Lành thay này Moggalàna! Ông đã thuyết cho các Tỷ-kheo về pháp
môn nhiễm dục lậu và pháp môn không nhiễm dục lậu.
19) Tôn giả Mahà Moggalàna thuyết
như vậy. Bậc Đạo Sư chấp nhận. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời
Tôn giả Mahà Moggalàna thuyết.
203. VII. Khổ Pháp (S,iv,188)
1-2). ..
3) -- Này các Tỷ-kheo, khi nào một
Tỷ-kheo như thật rõ biết sự tập khởi, sự chấm dứt của tất cả khổ
pháp, khi ấy, các dục được thấy. Khi vị ấy thấy dục (kàmà), thời dục
(kàmachanda), dục ái, dục mê, dục nhiệt não đối với các dục không có
tùy miên nơi vị ấy. Như vậy, sở hành và sở trú của vị ấy được
giác tri. Vì rằng, do sở hành như vậy, các tham ái, ưu, bi, các ác bất
thiện pháp không có tồn chỉ.
4) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
Tỷ-kheo như thật rõ biết sự tập khởi, và sự chấm dứt tất cả khổ
pháp? Đây là sắc, đây là sắc tập khởi, đây là sắc đoạn diệt. Đây
là thọ, đây là thọ tập khởi, đây là thọ đoạn diệt. Đây là tưởng...
Đây là các hành... Đây là thức, đây là thức tập khởi, đây là thức
đoạn diệt. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như thật rõ biết sự tập
khởi và sự đoạn diệt của tất cả khổ pháp.
5) Và này các Tỷ-kheo, như thế nào
là Tỷ-kheo thấy được các dục? Khi các dục được thấy, thời dục, dục
ái, dục mê, dục nhiệt não đối với các dục không có tùy miên. Ví như,
này các Tỷ-kheo, có một hố than sâu hơn thân người, đầy vun than hừng,
không có ngọn, không có khói. Rồi có người đi đến, muốn sống, không
muốn chết, muốn lạc, ghét bỏ khổ. Rồi hai người lực sĩ đến, kẹp
người ấy vào trong các cánh tay, và kéo người ấy đến hố than hừng.
Người ấy vật vã thân bên này, bên kia. Vì sao? Này các Tỷ-kheo, người
ấy được biết rằng: "Ta sẽ rơi vào trong hố than hừng này. Do nhân
này, ta sẽ đi đến chết hay đau khổ gần như chết". Cũng vậy, này
các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thấy các dục như hố than hừng và ai thấy được các
dục, thời dục, dục ái, dục mê, dục nhiệt não đối với các dục
không có tùy miên.
6) Thế nào, này các Tỷ-kheo, là sở
hành và sở trú của Tỷ-kheo được giác tri? Vì rằng, do sở hành như vậy,
các tham ái, ưu bi, các ác bất thiện pháp không có tồn chỉ. Ví như, này
các Tỷ-kheo, một người đi vào một khu rừng đầy những gai góc, trước
mặt người ấy là gai, phía Tây... phía Bắc... phía Nam... người ấy là
gai, phía dưới người ấy là gai, phía trên người ấy là gai. Chỗ nào người
ấy đi tới hay chỗ nào người ấy đi lui, người ấy nghĩ: "Mong sao tôi
chớ có bị vướng gai". Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, đối với sự vật
gì khả ái, khả lạc, sự vật ấy được gọi là gai trong giới luật của
bậc Thánh.
7) Sau khi biết vậy, này các Tỷ-kheo,
hộ trì và không hộ trì cần phải được hiểu.
8) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
không hộ trì? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo khi mắt thấy sắc, thiên
chấp các sắc khả ái, ghét bỏ các sắc không khả ái, sống với thân niệm
không an trú, với tâm nhỏ hẹp. Vị ấy không như thật rõ biết tâm giải
thoát, tuệ giải thoát. Chính ở nơi đây, các ác bất thiện pháp ấy khởi
lên không được đoạn diệt không có dư tàn. Như vậy, này các Tỷ-kheo,
là không hộ trì.
9) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
được hộ trì? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo khi mắt thấy sắc,
không thiên chấp các sắc khả ái, không ghét bỏ các sắc không khả ái,
sống với thân niệm an trú, với tâm vô lượng. Vị ấy như thật rõ biết
tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Chính ở nơi đây, các ác bất thiện
pháp ấy khởi lên được đoạn diệt không có dư tàn... khi lưỡi nếm vị...
khi ý biết pháp, không thiên chấp các pháp khả ái, không ghét bỏ các
pháp không khả ái, sống với thân niệm an trú, với tâm vô lượng. Vị
ấy như thật rõ biết tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Chính ở đây,
các ác bất thiện pháp ấy khởi lên được đoạn diệt không có dư tàn.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là có hộ trì.
10) Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sở
hành như vậy, sở trú như vậy, đôi lúc và đôi khi niệm bị thất
thoát, khởi lên các ác bất thiện pháp, các ức niệm, ước vọng liên hệ
đến kiết sử. Chậm chạp, này các Tỷ-kheo, là niệm được khởi lên.
Mau lẹ, vị ấy từ bỏ (trạng thái ấy), gột sạch, chấm dứt, không cho
hiện hữu. Ví như, này các Tỷ-kheo, một người làm rơi hai hay ba giọt
nước trên một nồi sắt được hơ nóng cả ngày. Chậm chạp, này các Tỷ-kheo,
là sự rơi xuống của các giọt nước. Mau chóng, chúng đi đến đoạn diệt,
hoại diệt. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo ấy sở hành như vậy,
sở trú như vậy, đôi lúc và đôi khi niệm bị thất thoát, khởi lên các
ác bất thiện pháp, các ức niệm, ước vọng liên hệ đến kiết sử. Chậm
chạp, này các Tỷ-kheo, là niệm được khởi lên. Mau lẹ, vị ấy từ bỏ
(trạng thái ấy), gột sạch, chấm dứt, không cho hiện hữu.
11) Như vậy, này các Tỷ-kheo, sở
hành như vậy, sở trú như vậy của Tỷ-kheo được giác tri. Do sở hành,
sở trú như vậy, các tham ái, ưu, bi, các ác bất thiện pháp không có tồn
chỉ. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy với sở hành như vậy, sở trú như vậy,
nếu có quốc vương hay đại thần của vua, bạn bè, thân hữu hay bà con
huyết thống đến dâng cúng tài sản và nói: "Hãy đến đây, này Bạn!
Sao lại để những y vàng ấy hành hạ Bạn? Sao lại sống với đầu trọc
và bình bát? Hãy hoàn tục, thọ hưởng tài sản và làm các công đức".
Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy có sở hành như vậy, có sở trú như vậy, sẽ
từ bỏ học pháp và hoàn tục; sự việc như vậy không xảy ra.
12) Ví như, này các Tỷ-kheo, sông Hằng
hướng về phía Đông, xuôi về phía Đông, nghiêng nhập vào phía Đông. Rồi
một đám dân chúng đông người đến với xuổng, cuốc, giỏ và nói:
"Chúng ta hãy làm cho sông Hằng này hướng về phía Tây, xuôi về phía
Tây, nghiêng nhập vào phía Tây". Các Ông nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo,
đám dân chúng đông người ấy có thể làm cho sông Hằng hướng về phía
Tây, xuôi về phía Tây và nghiêng nhập vào phía Tây không?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
-- Vì sao?
-- Vì sông Hằng này, bạch Thế
Tôn, hướng về phía Đông, xuôi về phía Đông, nghiêng nhập vào phía Đông;
không có dễ gì làm cho hướng về phía Tây, xuôi về phía Tây, nghiêng nhập
vào phía Tây được. Chỉ có đám dân chúng đông người ấy chuốc lấy mệt
mỏi và thất vọng thôi.
13) -- Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
ấy với sở hành như vậy, sở trú như vậy, nếu có quốc vương hay đại
thần của vua, bạn bè, thân hữu, hay bà con huyết thống đến dâng cúng
tài sản và nói: "Hãy đến đây, này Bạn. Sao lại để những y vàng
ấy hành hạ Bạn? Sao lại sống với đầu trọc và bình bát? Hãy hoàn tục,
thọ hưởng tài sản và làm các công đức". Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
ấy có sở hành như vậy, có sở trú như vậy, sẽ từ bỏ học pháp và
hoàn tục; sự việc như vậy không xảy ra. Vì sao? Này các Tỷ-kheo, vì
tâm của vị ấy đã lâu ngày hướng về viễn ly, xuôi về viễn ly,
nghiêng nhập vào viễn ly; do vậy sự hoàn tục không xảy ra.
204. VIII. Phải Gọi Là Gì (?)
(Kimsukà) (S.iv,191)
1). ..
2) Rồi một Tỷ-kheo đi đến một
Tỷ-kheo khác, sau khi đến, nói với Tỷ-kheo ấy:
-- Cho đến như thế nào, này Hiền
giả, sự thấy của Tỷ-kheo khéo thanh tịnh?
-- Này Hiền giả, Tỷ-kheo khi nào
như thật rõ biết sự tập khởi và sự đoạn diệt của sáu xúc xứ; cho
đến như vậy, này Hiền giả, sự thấy của Tỷ-kheo khéo thanh tịnh.
3) Tỷ-kheo ấy không thỏa mãn với
câu trả lời câu hỏi của Tỷ-kheo kia, liền đi đến một Tỷ-kheo khác
và nói:
-- Này Hiền giả, cho đến như thế
nào, sự thấy của Tỷ-kheo khéo thanh tịnh?
-- Này Hiền giả, khi nào Tỷ-kheo
như thật rõ biết sự tập khởi và sự đoạn diệt của năm thủ uẩn;
khi ấy, này Hiền giả, sự thấy của Tỷ-kheo khéo thanh tịnh.
4) Tỷ-kheo ấy không thỏa mãn với
câu trả lời của Tỷ-kheo kia, liền đi đến một Tỷ-kheo khác nữa và
nói:
-- Này Hiền giả, cho đến như thế
nào, sự thấy của Tỷ-kheo khéo thanh tịnh?
-- Này Hiền giả, khi nào Tỷ-kheo
như thật tuệ tri sự tập khởi và sự chấm dứt của bốn đại chủng;
khi ấy, này Hiền giả, sự thấy của Tỷ-kheo khéo thanh tịnh.
5) Rồi Tỷ-kheo ấy không thỏa
mãn...
-- Này Hiền giả, khi nào Tỷ-kheo
như thật rõ biết rằng, phàm pháp gì được khởi lên, tất cả pháp ấy
đều phải đoạn diệt; khi ấy, này Hiền giả, sự thấy của Tỷ-kheo
khéo thanh tịnh.
6) Rồi Tỷ-kheo ấy không thỏa mãn
với câu trả lời câu hỏi của Tỷ-kheo kia, liền đi đến Thế Tôn; sau
khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một
bên, Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
-- Ở đây, bạch Thế Tôn, con đi
đến một Tỷ-kheo và nói với Tỷ-kheo ấy: "Cho đến như thế nào,
này Hiền giả, sự thấy của Tỷ-kheo khéo thanh tịnh?" Khi được nói
vậy, Tỷ-kheo ấy nói với con: "Khi nào như thật tuệ tri sự tập khởi
và sự chấm dứt của sáu xúc xứ; khi ấy, này Hiền giả, sự thấy của
Tỷ-kheo khéo thanh tịnh". Bạch Thế Tôn, con không thỏa mãn câu trả lời
của Tỷ-kheo kia nên đi đến một Tỷ-kheo khác; sau khi đến, con nói với
Tỷ-kheo ấy: "Cho đến như thế nào, này Hiền giả, sự thấy của một
Tỷ-kheo khéo thanh tịnh?" Khi được nói vậy, bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo
ấy nói với con: "Khi nào, này Hiền giả, Tỷ-kheo như thật tuệ tri sự
tập khởi và sự chấm dứt của năm thủ uẩn... như thật tuệ tri sự tập
khởi và sự chấm dứt của bốn đại chủng... như thật tuệ tri rằng,
phàm có pháp gì được tập khởi, tất cả pháp ấy bị đoạn diệt, cho
đến như vậy, này Hiền giả, sự thấy của Tỷ-kheo khéo thanh tịnh".
Bạch Thế Tôn, con không thỏa mãn câu trả lời câu hỏi của Tỷ-kheo kia
nên con đi đến Thế Tôn (và bạch Thế Tôn): "Cho đến như thế nào,
bạch Thế Tôn, sự thấy của Tỷ-kheo khéo thanh tịnh?"
7) -- Ví như, này Tỷ-kheo, một người
chưa từng thấy cây kimsuka (?), người ấy đi đến một người khác đã
thấy cây kimsuka và nói: "Này Bạn, cây kimsuka là thế nào?". Người
ấy đáp như sau: "Này Bạn, cây kimsuma màu đen, như một khúc cây bị
cháy". Như vậy, này Tỷ-kheo, trong thời gian ấy, cây kimsuka đối với
người ấy là giống như người kia đã thấy. Rồi, này Tỷ-kheo, người
ấy không thỏa mãn với câu trả lời của người kia, liền đi đến một
người khác đã thấy cây kimsuka, sau khi đến, hỏi người ấy: "Này Bạn,
cây kimsuka là thế nào?" Người kia trả lời: "Này Bạn, cây
kimsuka màu đỏ, giống như một đống thịt". Và này Tỷ-kheo, như vậy
trong thời gian ấy, cây kimsuka đối với người ấy là giống người kia
đã thấy. Rồi, này Tỷ-kheo, người ấy không thỏa mãn với câu trả lời
của người kia, đi đến một người khác đã thấy cây kimsuka, sau khi đến
nói với người ấy: "Này Bạn, cây kimsuka là thế nào?" Người
kia trả lời: "Này Bạn, cây kimsuka bị lột vỏ, vỏ bị nứt nẻ ra
như cây keo (sirìso)". Này Tỷ-kheo, trong thời gian ấy, cây kimsuka đối
với người ấy là giống như người kia đã thấy. Rồi, này Tỷ-kheo, người
ấy không thỏa mãn với câu trả lời của người kia, liền đi đến một
người khác đã thấy cây kimsuka, sau khi đến, nói với người ấy: "Này
Bạn, cây kimsuka là thế nào?" Người kia nói như sau: "Này Bạn,
cây kimsuka có lá rậm rạp, bóng của nó dày và rậm, như cây bàng".
Như vậy, này Tỷ-kheo, trong thời gian ấy, cây kimsuka đối với người ấy
là giống như người kia đã thấy. Cũng vậy, này Tỷ-kheo, tùy theo sự thấy
của Chân nhân ấy khéo thanh tịnh, tùy thuộc theo đấy, họ đã trả lời.
8) Ví như, này Tỷ-kheo, có ngôi
thành của vua ở biên giới được xây dựng với pháo đài kiên cố, với
tường và tháp canh kiên cố và có đến sáu cửa thành. Tại đấy có người
giữ cửa thành, là bậc thông minh, có kinh nghiệm và có trí, ngăn chận những
người không quen biết, cho vào những người quen biết. Từ phương Đông,
hai người sứ giả cấp tốc đi đến, và nói với người giữ cửa thành:
"Này Bạn, vị chủ thành trì này ở đâu?" Người giữa cửa thành
ấy nói: "Thưa các Tôn giả, vị ấy đang ngồi giữa ngã tư đường".
Hai người sứ giả ấy cấp tốc tuyên bố lời như thật ngữ cho vị chủ
ngôi thành, rồi tiếp tục đi theo con đường họ đến. Từ phương Tây, lại
hai người sứ giả cấp tốc đi đến... từ phương Bắc, lại hai người
sứ giả cấp tốc đi đến, và nói với người giữ cửa thành: "Này
Bạn, vị chủ thành trì này ở đâu?" Người giữ cửa thành ấy nói:
"Thưa các Tôn giả, vị ấy đang ngồi giữa ngã tư đường". Rồi
hai người sứ giả ấy cấp tốc tuyên bố lời như thật ngữ cho vị chủ
ngôi thành, rồi tiếp tục theo con đường họ đến.
9) Này Tỷ-kheo, Ta nói ví dụ để
giải thích ý nghĩa, và đây là ý nghĩa: Ngôi thành, này Tỷ-kheo, là đồng
nghĩa với thân do bốn đại chủng tạo thành này, do cha mẹ sanh, do cơm cháo
nuôi dưỡng, vô thường, tiêu mòn, tiêu hao, hủy hoại, hủy diệt. Sáu cửa,
này Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với sáu nội xứ. Người giữ cửa, này Tỷ-kheo,
là đồng nghĩa với niệm. Hai vị sứ giả cấp tốc, này Tỷ-kheo, là đồng
nghĩa với chỉ và quán. Người chủ ngôi thành là đồng nghĩa với thức.
Ở giữa tại ngã tư đường là đồng nghĩa với bốn đại chủng: địa
giới, thủy giới, hỏa giới và phong giới. Lời như thật ngữ, này Tỷ-kheo,
là đồng nghĩa với Niết-bàn. Theo con đường họ đến là đồng nghĩa với
con đường Thánh đạo Tám ngành. Như chánh tri kiến... chánh định.
205. IX. Đờn Tỳ Bà (S.iv,195)
1-2). ..
3) --Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo hay Tỷ-kheo-ni
nào đối với các sắc do mắt nhận thức có khởi lên dục (chanda), tham,
sân, si hay hận tâm; hãy ngăn chận tâm đừng cho khởi lên như vậy. Con
đường này là con đường đầy sợ hãi, đầy kinh khủng, đầy gai góc,
đầy rừng rậm, con đường ác, con đường tà, con đường đầy trộm cướp.
Con đường này là con đường do phi thiện nhân dùng, không phải con đường
do thiện nhân dùng. Như vậy, với ý nghĩ: "Đây không phải con đường
xứng đáng cho ta". Hãy ngăn chận tâm đừng cho khởi lên như vậy đối
với các sắc do mắt nhận thức... Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo hay Tỷ-kheo-ni
nào đối với các vị do lưỡi nhận thức... đối với các pháp do ý nhận
thức, có khởi lên dục, tham, sân, si hay hận tâm; hãy ngăn chận tâm đừng
cho khởi lên như vậy. Con đường này là con đường đầy sợ hãi, đầy
kinh khủng, đầy gai góc, đầy rừng rậm, con đường ác, con đường tà,
con đường đầy trộm cướp. Con đường này là con đường do phi thiện
nhân dùng, không phải con đường do thiện nhân dùng. Như vậy với ý nghĩ:
"Đây không phải con đường xứng đáng cho ta", hãy ngăn chận tâm
đừng cho khởi lên như vậy đối với các pháp do ý nhận thức.
4) Ví như, này các Tỷ-kheo, lúa mì
đã chín và một người giữ lúa mì phóng dật (lơ đãng). Có con bò ăn lúa
mì, xâm phạm lúa mì, xâm phạm lúa mì ấy và mê say ăn một cách thỏa
thích. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu không hộ trì đối
với sáu xúc xứ, mê say thọ dụng một cách thỏa thích đối với năm dục
công đức.
5) Ví như, này các Tỷ-kheo, lúa mì
đã chín và một người đã giữ lúa mì, không phóng dật. Có con bò ăn lúa
mì, xâm phạm lúa mì ấy. Người giữ lúa mì nắm chắc cái lỗ mũi của
con bò; sau khi nắm chắc cái lỗ mũi, người ấy rị chặt trên cái trán.
Sau khi rị chặt trên cái trán, với cái gậy, người ấy đánh con bò một
trận nên thân. Sau khi lấy gậy đánh cho một trận nên thân, người ấy
thả con bò đi.
Lần thứ hai, này các Tỷ-kheo...
Lần thứ ba, này các Tỷ-kheo, có
con bò ăn lúa mì, xâm phạm lúa mì ấy. Người giữ lúa mì nắm chặt cái
mũi con bò; sau khi nắm chắc cái mũi, người ấy rị chặt trên cái trán.
Sau khi rị chặt trên cái trán, với cái gậy, người ấy đánh con bò một
trận nên thân. Sau khi lấy gậy đánh con bò một trận nên thân, người
ấy thả con bò đi. Như vậy, này các Tỷ-kheo, con bò ăn lúa mì ấy đi vào
làng, hay đi vào rừng, hay khi đứng, hay ngồi, nó không xâm phạm lúa mì
ấy, vì nó nhớ đến cảm xúc cái gậy lần trước. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo,
khi nào Tỷ-kheo có tâm chơn trực, chánh trực đối với sáu xúc xứ, thời
nội tâm được an trú, tịnh chỉ, nhứt tâm, Thiền định.
6) Ví như, này các Tỷ-kheo, một vị
vua hay đại thần của vua từ trước chưa từng được nghe tiếng đàn tỳ
bà, nay được nghe tiếng đàn tỳ bà, vị ấy nói: "Này Bạn, tiếng
ấy là tiếng gì, khả ái như vậy, khả lạc như vậy, mê ly như vậy, say
đắm như vậy, hấp dẫn như vậy?" Họ nói với vị ấy: "Thưa Tôn
giả, đây là đàn tỳ bà, với tiếng khả ái như vậy, mê ly như vậy, khả
lạc như vậy, say đắm như vậy, hấp dẫn như vậy". Vị ấy nói như
sau: "Hãy đi và đem đàn tỳ bà ấy về cho ta". Họ đem đàn tỳ
bà về cho vị ấy, và nói như sau: "Thưa Tôn giả, đàn tỳ bà này với
tiếng khả ái như vậy, khả lạc như vậy, mê ly như vậy, say đắm như vậy,
hấp dẫn như vậy". Vị ấy bèn nói: "Thôi vừa rồi đối với ta
về đàn tỳ bà này. Hãy đem tiếng lại cho ta". Họ thưa với vị ấy:
"Thưa Tôn giả, cái này được gọi là đàn tỳ bà, gồm có nhiều
thành phần, gồm có số lớn thành phần. Nhờ nhiều thành phần này nên
đàn phát âm. Như duyên cái bầu, duyên cái da, duyên cái cán, duyên cái đầu,
duyên cái dây, duyên cái cung, duyên nỗ lực thích nghi của người. Như vậy,
thưa Tôn giả, cái này gọi là đàn tỳ bà, gồm có nhiều thành phần, gồm
có số lớn thành phần. Nhờ gồm nhiều thành phần này nên đàn phát
âm". Rồi vua ấy đập đàn tỳ bà ấy ra thành 10 mảnh, 100 mảnh; sau
khi đập bể đàn tỳ bà ấy ra thành 10 mảnh, 100 mảnh, vị ấy chẻ
thành từng miếng nhỏ; sau khi chẻ thành từng miếng nhỏ, vị ấy lấy lửa
đốt; sau khi lấy lửa đốt, vị ấy vun lại thành đống tro; sau khi vun lại
thành đống tro, vị ấy đem quạt đống tro lớn ấy trước làn gió mạnh,
hay để chúng trôi theo dòng nước sông chảy mạnh. Rồi vị ấy nói:
"Thật là hạ liệt, cái gọi đàn tỳ bà này, dầu cho tỳ bà là cái
gì. Ở đây, đại chúng thường phóng dật, bị hướng dẫn sai lạc".
7) Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
quán sát sắc cho đến sở thú của sắc, quán sát thọ... quán sát tưởng...
quán sát các hành... quán sát thức cho đến sở thú của thức. Trong tất
cả quán sát này, không có cái gì là "Tôi", là "Của
tôi", là "Tôi là" cả.
206. X. Sáu Sanh Vật (S.iv,198)
1-2). ..
3) -- Ví như, này các Tỷ-kheo, có
người thân bị thương tích, thân bị lở loét, đi vào một khu rừng đầy
gai góc. Cỏ và gai đâm thủng chân người ấy, và cào rách thân lở loét
của người ấy. Như vậy, này các Tỷ-kheo, người ấy do nhân duyên ấy
còn cảm thọ khổ ưu nhiều hơn nữa. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây
có Tỷ-kheo đi vào làng hay đi vào rừng gặp người chỉ trích Tỷ-kheo ấy,
và người chỉ trích nói rằng: "Tôn giả làm như vậy, sở hành như vậy
là gai bất tịnh trong làng". Biết rằng vị ấy là gai, sau khi biết như
vậy, cả hai (người Tỷ-kheo và người chỉ trích) cần phải hiểu là
không hộ trì và có hộ trì.
4) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
không hộ trì? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo khi mắt thấy sắc, thiên
chấp sắc khả ái, ghét bỏ sắc không khả ái, sống với thân niệm
không an trú, với tâm nhỏ hẹp. Vị ấy không như thật tuệ tri tâm giải
thoát, tuệ giải thoát; chính ở nơi đây, các ác bất thiện pháp ấy khởi
lên không được đoạn diệt không có dư tàn... khi tai nghe tiếng... khi mũi
ngửi hương... khi lưỡi nếm vị... khi thân cảm xúc... khi ý nhận biết
pháp, thiên chấp pháp khả ái, ghét bỏ pháp không khả ái, sống với
thân niệm không an trú, với tâm nhỏ hẹp. Vị ấy không như thật tuệ
tri tâm giải thoát,tuệ giải thoát; chính ở nơi ấy, các ác, bất thiện
pháp ấy khởi lên không được đoạn diệt không có dư tàn...
5) Ví như, này các Tỷ-kheo, có người
bắt được sáu sinh vật, giới loại khác nhau, chỗ tìm món ăn khác nhau,
và cột chúng với một sợi dây vững chắc. Sau khi bắt được con rắn,
người ấy cột với sợi dây vững chắc. Sau khi bắt được con cá sấu,
người ấy cột một sợi dây vững chắc. Sau khi bắt được con chim, người
ấy cột với sợi dây vững chắc... Sau khi bắt được con chó, người ấy
cột với một sợi dây vững chắc. Sau khi bắt được con giả can, người
ấy cột với một sợi dây vững chắc. Sau khi bắt được con khỉ, người
ấy cột với một sợi dây vững chắc. Sau khi cột chúng với những sợi
dây vững chắc, người ấy cột một cái gút ở chính giữa và thả chúng
đi. Này các Tỷ-kheo, sáu con sinh vật ấy, với giới loại sai khác, với
chỗ tìm món ăn sai khác, mỗi con sẽ lôi kéo tùy theo chỗ tìm món ăn và
giới loại sai biệt của mình. Con rắn lôi kéo, nghĩ rằng: "Ta sẽ đi
vào gò mối". Con cá sấu lôi kéo, nghĩ rằng: "Ta sẽ đi vào trong
nước". Con chim lôi kéo, nghĩ rằng: "Ta sẽ bay lên trời".Con
chó lôi kéo, nghĩ rằng: " Ta sẽ đi vào làng". Con giả can lôi
kéo, nghĩ rằng: "Ta sẽ đi vào nghĩa địa". Con khỉ lôi kéo, nghĩ
rằng: "Ta sẽ đi vào rừng". Này các Tỷ-kheo, khi nào sáu con sinh vật
ấy trở thành mệt mỏi, khi ấy, con sinh vật nào mạnh hơn các sinh vật
còn lại, được chúng đi theo, chúng tuân theo, chúng phục tùng. Cũng vậy,
này các Tỷ-kheo, với Tỷ-kheo thân niệm không tu tập, không làm cho sung
mãn, con mắt sẽ lôi cuốn nó đối với các sắc khả ái và ghét bỏ đối
với các sắc không khả ái... Ý sẽ lôi cuốn nó đối với các pháp khả
ái và ghét bỏ đối với các pháp không khả ái.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là
không hộ trì.
6) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
hộ trì?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
khi mắt thấy sắc, không thiên chấp các sắc khả ái, không ghét bỏ các
sắc không khả ái, sống với thân niệm an trú, với tâm vô lượng. Vị
ấy như thật rõ biết tâm giải thoát, tuệ giải thoát; chính ở nơi đây,
các ác bất thiện pháp khởi lên được đoạn diệt không có dư tàn...
khi tai nghe tiếng... khi mũi ngửi hương... khi lưỡi nếm vị... khi thân cảm
xúc... khi ý biết các pháp, không thiên chấp các pháp khả ái, không ghét
bỏ các pháp không khả ái, an trú thân niệm, với tâm vô lượng. Vị ấy
như thật rõ biết tâm giải thoát, tuệ giải thoát; chính ở nơi đây các
ác bất thiện pháp ấy khởi lên được đoạn diệt không có dư tàn.
7) Ví như, này các Tỷ-kheo, có người
bắt được sáu con sinh vật, giới loại khác nhau, chỗ tìm món ăn khác
nhau, và cột chúng với một sợi dây vững chắc. Sau khi bắt được con rắn,
người ấy cột với một sợi dây vững chắc. Sau khi bắt được con cá sấu...
Sau khi bắt được con chim... Sau khi bắt được con chó... Sau khi bắt được
con giả can... Sau khi bắt được con khỉ, người ấy cột với sợi dây vững
chắc. Sau khi cột chúng với sợi dây vững chắc, người ấy cột vào một
cái cột hay cái trụ vững chắc. Rồi, này các Tỷ-kheo, sáu con sinh vật
ấy, với giới loại sai khác, với chỗ tìm món ăn sai khác, mỗi con sẽ
lôi kéo, tùy theo chỗ tìm món ăn và giới loại sai biệt của mình. Con rắn
lôi kéo, nghĩ rằng: "Ta sẽ đi vào gò mối". Con cá sấu lôi kéo,
nghĩ rằng: "Ta sẽ đi vào trong nước". Con chim lôi kéo nghĩ rằng:
"Ta sẽ bay lên trời". Con chó lôi kéo, nghĩ rằng: "Ta sẽ đi vào
làng". Con giả can lôi kéo nghĩ rằng: "Ta sẽ đi đến nghĩa địa".
Con khỉ lôi kéo, nghĩ rằng: "Ta sẽ đi vào rừng". Này các Tỷ-kheo,
khi nào sáu con sinh vật ấy trở thành mệt mỏi, chúng sẽ đứng gần bên,
ngồi gần bên, nằm gần bên cái cột ấy hay cái trụ ấy. Cũng vậy, này
các Tỷ-kheo, khi nào Tỷ-kheo thân niệm được tu tập, được làm sung
mãn, con mắt không lôi kéo vị ấy theo các sắc khả ái, đối với các sắc
không khả ái, không ghét bỏ... lưỡi không lôi kéo vị ấy theo các vị
khả ái, đối với vị không khả ái, không có ghét bỏ... ý không lôi
kéo vị ấy theo các pháp khả ái, đối với pháp không khả ái, không có
ghét bỏ.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hộ
trì.
8) Cái cột hay cái trụ vững chắc,
này các Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với thân niệm. Do vậy, này các Tỷ-kheo,
hãy học tập như sau: "Chúng ta sẽ tu tập thân niệm, làm cho sung mãn,
làm cho như thành cỗ xe, làm cho như thành cơ sở, an trú, tích tập, khéo nỗ
lực". Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập.
207. XI. Bó Lúa (S.iv,201)
1-2). ..
3) -- Ví như, này các Tỷ-kheo, một
bó lúa quăng tại ngã tư đường, rồi sáu người đến, tay cầm cái đập
và họ đập bó lúa ấy với sáu cái đập (vyàkggì)
Như vậy, này các Tỷ-kheo, bó lúa
ấy được khéo đập với sáu cái đập ấy. Rồi một người thứ bảy
đến, tay cầm cái đập, và người ấy đập bó lúa ấy với cái đập thứ
bảy. Như vậy, này các Tỷ-kheo, bó lúa ấy lại càng được khéo đập với
cái đập thứ bảy.
4) Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, kẻ
vô văn phàm phu bị đập trong con mắt bởi những sắc khả ái và không khả
ái... bị đập trong lưỡi bởi những vị khả ái và không khả ái... bị
đập trong ý bởi những pháp khả ái và không khả ái. Này các Tỷ-kheo, nếu
kẻ vô văn phàm phu ấy lại nghĩ đến tái sanh trong tương lai, như vậy, này
các Tỷ-kheo, kẻ ngu si ấy lại càng bị khéo đập hơn nữa. Ví như, này
các Tỷ-kheo, bó lúa ấy lại được đập với cái đập thứ bảy nữa.
5) Này các Tỷ-kheo, thuở xưa, cuộc
chiến xảy ra giữa chư Thiên và các A-tu-la rất là khốc liệt.
Này các Tỷ-kheo, Vepacitti, vua
A-tu-la gọi các A-tu-la: "Này Thân hữu, trong cuộc chiến đang khởi lên
giữa chư Thiên và loài A-tu-la rất là khốc liệt, nếu các A-tu-la thắng
và chư Thiên bại, hãy trói Thiên chủ Sakka hai tay, hai chân và thứ năm là
cổ, và dắt vua ấy đến trước mặt ta, trong thành của các A-tu-la".
Còn Thiên chủ Sakka gọi chư Thiên ở cõi trời Ba mươi ba: "Này Thân hữu,
trong trận chiến giữa chư Thiên và các loài A-tu-la, trận chiến rất là
khốc liệt, nếu chư Thiên thắng và các loài A-tu-la bại, hãy trói vua
A-tu-la Vepacitti, hai tay, hai chân và thứ năm là cổ, và dắt vua ấy đến
trước mặt ta, trong giảng đường Sudhamma (Thiện Pháp)".
6) Nhưng trận chiến ấy, chư Thiên
thắng và các loài A-tu-la bại. Rồi, này các Tỷ-kheo, chư Thiên ở cõi trời
Ba mươi ba trói vua A-tu-la Vepacitti, trói hai tay, hai chân và thứ năm là cổ,
rồi dẫn đến trước mặt Thiên chủ Sakka trong giảng đường Sudhamma.
7) Tại đây, này các Tỷ-kheo, vua
A-tu-la Vepacitti bị trói hai tay, hai chân và thứ năm là cổ. Này các Tỷ-kheo,
khi ấy vua A-tu-la Vepacitti suy nghĩ như sau: "Chư Thiên theo Chánh pháp,
còn A-tu-la theo phi pháp. Nay ta đi đến thành của chư Thiên", thời khi
ấy vua A-tu-la tự thấy mình được cởi trói hai chân, hai tay và thứ năm
là cổ, và được hưởng thọ, được thưởng thức đầy đủ năm dục công
đức cõi trời. Và này các Tỷ-kheo, khi vua A-tu-la suy nghĩ như sau: "Các
A-tu-la theo Chánh pháp, chư Thiên theo phi pháp. Ở đây, ta sẽ đi đến thành
của các A-tu-la", thời khi ấy vua A-tu-la tự thấy mình bị trói hai
tay, hai chân và thứ năm là cổ, và bị tước bỏ năm dục công đức cõi
trời.
8) Như vậy, này các Tỷ-kheo, thật
tế nhị là sự trói buộc của Vepacitti, và còn tế nhị hơn là sự trói
buộc của Màra. Ai có tư tưởng (Mannamàna), người ấy bị Màra trói buộc.
Ai không có tư tưởng, người ấy được giải thoát khỏi Ác ma. "Tôi
là", này các Tỷ-kheo, là một tư tưởng. "Cái này là tôi",
này các Tỷ-kheo, là một tư tưởng. "Tôi sẽ là", này các Tỷ-kheo,
là một tư tưởng. "Tôi sẽ không là", là một tư tưởng. "Tôi
sẽ có sắc", là một tư tưởng. "Tôi sẽ không có sắc", là
một tư tưởng. "Tôi sẽ có tưởng", là một tư tưởng. "Tôi
sẽ không có tưởng ", là một tư tưởng. "Tôi sẽ không có tưởng
và không không có tưởng", là một tư tưởng. Có tư tưởng, này các
Tỷ-kheo, là tham. Có tư tưởng là mụt nhọt. Có tư tưởng là mũi tên. Do
vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập: "Tôi sẽ sống với
tâm không có tư tưởng".
9) Như vậy, này các Tỷ-kheo, các
Ông cần phải hiểu: "Tôi là", này các Tỷ-kheo, là một động
chuyển (injitam). "Cái này là tôi", là một động chuyển. "Tôi
sẽ là", là một động chuyển. "Tôi sẽ không là", là một động
chuyển. "Tôi sẽ có sắc", là một động chuyển. "Tôi sẽ có
tưởng", là một động chuyển. "Tôi sẽ không có tưởng", là
một động chuyển. "Tôi sẽ không có tưởng và không không có tưởng",
là một động chuyển. Động chuyển, này các Tỷ-kheo, là tham. Động chuyển
là mụt nhọt. Động chuyển là mũi tên. Do vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông
cần phải học tập: "Tôi sẽ sống với tâm không có động chuyển".
10) Như vậy, này các Tỷ-kheo, các
Ông cần phải hiểu: "Tôi là", này các Tỷ-kheo, là một chấn động
(phanditam). "Cái này là tôi", là một chấn động. "Tôi sẽ
là", là một chấn động. "Tôi sẽ không là", là một chấn động.
"Tôi sẽ có sắc", là một chấn động. "Tôi sẽ không có sắc",
là một chấn động. "Tôi sẽ có tưởng", là một chấn động.
"Tôi sẽ không có tưởng", là một chấn động. "Tôi sẽ
không có tưởng và không không có tưởng", là một chấn động. Chấn
động, này các Tỷ-kheo, là tham. Chấn động là mụt nhọt. Chấn động là
mũi tên. Do vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập: "Tôi sẽ
sống với tâm không chấn động".
11) Như vậy, này các Tỷ-kheo, các
Ông cần phải hiểu: "Tôi là", này các Tỷ-kheo, là một hý luận
(papancitam). "Cái này là tôi", là một hý luận. "Tôi sẽ
là", là một hý luận. "Tôi sẽ không là", là một hý luận.
"Tôi sẽ có sắc", là một hý luận. "Tôi sẽ không có sắc",
là một hý luận. "Tôi sẽ có tưởng", là một hý luận. "Tôi
sẽ không có tưởng", là một hý luận. "Tôi sẽ không có tưởng
và không không có tưởng", là một hý luận. Hý luận, này các Tỷ-kheo,
là tham. Hý luận là mụt nhọt. Hý luận là mũi tên. Do vậy, này các Tỷ-kheo,
các Ông cần phải học tập: "Tôi sẽ sống với tâm không có hý luận".
12) Như vậy, này các Tỷ-kheo, các
Ông cần phải hiểu: "Tôi là", này các Tỷ-kheo, là một ngã mạn.
"Cái này là tôi", là một ngã mạn. "Tôi sẽ là", là một
ngã mạn. "Tôi sẽ không là", là một ngã mạn. "Tôi sẽ có sắc",
là một ngã mạn. "Tôi sẽ không có sắc", là một ngã mạn.
"Tôi sẽ có tưởng", là một ngã mạn. "Tôi sẽ không có tưởng",
là một ngã mạn. "Tôi sẽ không có tưởng và không không có tưởng",
là một ngã mạn. Ngã mạn, này các Tỷ-kheo, là tham. Ngã mạn là mụt nhọt.
Ngã mạn là mũi tên. Do vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập:
"Tôi sẽ sống với tâm trừ bỏ ngã mạn". Như vậy, này các Tỷ-kheo,
các Ông cần phải học tập.