- Kinh Tương Ưng Bộ
- HT. Thích Minh Châu dịch
- Phần 52
- Chương VIII
- Tương Ưng Anuruddha
I. Phẩm Độc Cư
1.I. Độc Cư (1) (S.v,294)
1) Như vầy tôi nghe.
Một thời Tôn giả Anuruddha trú ở
Sàvatthi, tại Thắng Lâm, khu vườn ông Anàthapindika.
2) Rồi Tôn giả Anuruddha trong khi độc
cư Thiền tịnh, tâm tưởng suy tư sau đây được khởi lên: "Những ai
thối thất bốn niệm xứ, cũng thối thất đối với họ là Thánh đạo
đưa đến chơn chánh đoạn tận khổ đau. Những ai thành tựu bốn niệm xứ
thì cũng thực hiện được Thánh đạo đưa đến chơn chánh đoạn tận khổ
đau".
3) Rồi Tôn giả Mahà Moggalàna với
tâm của mình biết được tâm của Tôn giả Anuruddha. Như người lực sĩ
duỗi cánh tay co lại, hay co lại cánh tay đang duỗi ra; cũng vậy, Tôn giả
Mahà Moggalàna hiện ra trước mặt Tôn giả Anuruddha.
4) Rồi Tôn giả Mahà Moggalàna nói
với Tôn giả Anuruddha:
-- Cho đến như thế nào, này Hiền
giả Anuruddha, Tỷ-kheo thực hiện bốn niệm xứ?
5) -- Ở đây, này Hiền giả, Tỷ-kheo
trú, quán tánh tập khởi trên nội thân... quán tánh đoạn diệt trên nội
thân, quán tánh tập khởi, tánh đoạn diệt trên nội thân, nhiệt tâm, tỉnh
giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời.
6) Vị ấy trú, quán tánh tập khởi
trên ngoại thân... quán tánh đoạn diệt ngoại thân, quán tánh tập khởi,
tánh đoạn diệt trên ngoại thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp
phục tham ưu ở đời.
7) Vị ấy trú, quán tánh tập khởi
trên nội ngoại thân... trú, quán tánh đoạn diệt trên nội ngoại thân...
trú, quán tánh tập khởi và tánh đoạn diệt trên nội ngoại thân, nhiệt
tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời.
8) Nếu vị ấy muốn: "Ta sẽ
trú với tưởng nhàm chán đối với pháp không nhàm chán"; vị ấy
trú ở đây với tưởng nhàm chán. Nếu vị ấy muốn: "Ta sẽ trú với
tưởng không nhàm chán đối với pháp nhàm chán"; vị ấy trú ở đây
với tưởng không nhàm chán. Nếu vị ấy muốn: "Ta sẽ trú với tưởng
nhàm chán đối với các pháp không nhàm chán và pháp nhàm chán"; vị
ấy trú ở đây với tưởng nhàm chán. Nếu vị ấy muốn: "Ta sẽ trú
với tưởng không nhàm chán đối với pháp nhàm chán và pháp không nhàm
chán"; vị ấy trú ở đây với tưởng không nhàm chán. Nếu vị ấy
muốn: "Từ bỏ cả hai, không nhàm chán và nhàm chán, ta sẽ trú xả,
chánh niệm, tỉnh giác"; vị ấy trú ở đây với xả, chánh niệm, tỉnh
giác.
9) Vị ấy trú, quán tánh tập khởi
trên các nội thọ. Vị ấy trú, quán tánh đoạn diệt trên các nội thọ.
Vị ấy trú, quán tánh tập khởi và tánh đoạn diệt trên các nội thọ,
nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời.
10) Vị ấy trú, quán tánh tập khởi
trên các ngoại thọ. Vị ấy trú, quán tánh đoạn diệt trên các ngoại thọ.
Vị ấy trú, quán tánh tập khởi và tánh đoạn diệt trên các ngoại thọ,
nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời.
11) Vị ấy trú, quán tánh tập khởi
trên các nội ngoại thọ. Vị ấy trú, quán tánh đoạn diệt trên các nội
ngoại thọ. Vị ấy trú, quán tánh tập khởi và tánh đoạn diệt trên
các nội ngoại thọ, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham
ưu ở đời.
12) Nếu vị ấy muốn...
13). .. trên nội tâm...
14). .. trên ngoại tâm...
15). .. trên nội ngoại tâm...
16) Nếu vị ấy muốn...
17). .. trên nội tâm...
18). .. trên ngoại tâm...
19) Vị ấy trú, quán tánh tập khởi
trên các nội ngoại pháp. Vị ấy trú, quán tánh đoạn diệt trên các nội
ngoại pháp. Vị ấy trú, quán tánh tập khởi và tánh đoạn diệt trên
các nội ngoại pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham
ưu ở đời.
20) Nếu vị ấy muốn: "Ta sẽ
trú với tưởng nhàm chán đối với pháp không nhàm chán"; vị ấy
trú ở đây với tưởng nhàm chán... Ở đây, vị ấy trú xả, chánh niệm,
tỉnh giác.
21) Cho đến như vậy, này Hiền giả,
là Tỷ-kheo thực hiện bốn niệm xứ.
2. II. Độc Cư (2) (S.v,296)
1) Nhân duyên ở Sàvatthi.
2) Rồi Tôn giả Anuruddha, trong khi
độc cư Thiền định, tâm tưởng, suy tư sau đây được khởi lên:
"Những ai thối thất bốn niệm xứ, cũng thối thất đối với họ là
Thánh đạo đưa đến chơn chánh đoạn tận khổ đau. Những ai thành tựu
bốn niệm xứ, cũng thành tựu đối với họ là Thánh đạo đưa đến
chơn chánh đoạn tận khổ đau".
3) Rồi Tôn giả Mahà Moggalàna với
tâm của mình biết tâm tư suy tưởng của Tôn giả Anuruddha. Như một nhà
lực sĩ... hiện ra trước mặt Tôn giả Anuruddha.
4) Rồi Tôn giả Mahà Moggalàna nói
với Tôn giả Anuruddha:
-- Cho đến như thế nào, thưa Hiền
giả Anuruddha, là Tỷ-kheo thực hiện bốn niệm xứ?
5) -- Ở đây, thưa Hiền giả, Tỷ-kheo
trú, quán thân trên nội thân, tinh cần, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục
tham ưu ở đời; Tỷ-kheo trú, quán thân trên ngoại thân, tinh cần, tỉnh
giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời; Tỷ-kheo trú, quán thân
trên nội ngoại thân, tinh cần, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham
ưu ở đời.
6) Tỷ-kheo trú, quán thọ trên các
nội thọ...
7) Tỷ-kheo trú, quán tâm trên nội
tâm...
8) Tỷ-kheo trú, quán pháp trên các
nội pháp, tinh cần, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời;
Tỷ-kheo trú, quán pháp trên các ngoại pháp, tinh cần, tỉnh giác, chánh niệm,
nhiếp phục tham ưu ở đời; Tỷ-kheo trú, quán pháp trên các nội ngoại
pháp, tinh cần, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời.
9) Cho đến như vậy, này Hiền giả,
là Tỷ-kheo thành tựu bốn niệm xứ.
3. III. Sutanu (S.v,297)
1) Một thời Tôn giả Anuruddha trú
ở Sàvatthi, trên bờ sông Sutanu.
2) Rồi nhiều Tỷ-kheo đi đến Tôn
giả Anuruddha; sau khi đến, nói lên với Tôn giả Anuruddha những lời chào
đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu liền
ngồi xuống một bên.
3) Ngồi một bên, các Tỷ-kheo ấy
thưa với Tôn giả Anuruddha:
-- Tôn giả Anuruddha tu tập, làm cho
sung mãn những pháp nào đạt được đại thắng trí?
4) -- Thưa các Hiền giả, do tu tập,
do làm cho sung mãn bốn niệm xứ nên tôi đạt được đại thắng trí. Ở
đây, này chư Hiền, tôi trú, quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác,
chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời... quán thọ trên các cảm thọ...
quán tâm trên tâm... trú, quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác,
chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời. Này chư Hiền, chính do tu tập,
làm cho sung mãn bốn niệm xứ này, tôi được đại thắng trí.
5) Và thưa chư Hiền, chính do tu tập,
làm cho sung mãn bốn niệm xứ này, tôi chứng tri liệt pháp là liệt pháp,
trung pháp là trung pháp, thắng pháp là thắng pháp.
4. IV. Katakii (1) (S.v,298)
1) Một thời Tôn giả Anuruddha, Tôn
giả Sàriputta và Tôn giả Mahà Moggalàna trú ở Sàketa, tại rừng Kantakii.
2) Rồi Tôn giả Sàriputta và Tôn giả
Mahà Moggalàna, vào buổi chiều, từ độc cư đứng dậy, đi đến Tôn giả
Anuruddha; sau khi đến, nói lên với Tôn giả Anuruddha những lời chào đón
hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu liền ngồi
xuống một bên.
3) Ngồi một bên, Tôn giả
Sàriputta thưa với Tôn giả Anuruddha:
-- Thưa Hiền giả Anuruddha, Tỷ-kheo
hữu học, sau khi đạt pháp gì, phải an trú pháp ấy?
-- Thưa Hiền giả Sàriputta, Tỷ-kheo
hữu học, sau khi đạt bốn niệm xứ, phải an trú pháp ấy. Thế nào là bốn?
4) Ở đây, thưa Hiền giả, Tỷ-kheo
trú, quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục
tham ưu ở đời; Tỷ-kheo trú, quán thọ trên các cảm thọ, nhiệt tâm, tỉnh
giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời; Tỷ-kheo trú, quán tâm trên
tâm... Tỷ-kheo trú, quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh
niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời. Thưa Hiền giả Sàriputta, Tỷ-kheo hữu
học, sau khi chứng đạt bốn niệm xứ này, phải an trú pháp ấy.
5. V. Kantakii (2) (S.v,299)
1-2) Nhân duyên ở Sàketa... Ngồi một
bên, Tôn giả Sàriputta nói với Tôn giả Anuruddha:
3) -- Thưa Hiền giả Anuruddha, Tỷ-kheo
vô học, sau khi chứng đạt pháp gì, phải an trú pháp ấy?
-- Thưa Hiền giả Sàriputta, Tỷ-kheo
vô học, sau khi chứng đạt bốn niệm xứ, phải an trú pháp ấy. Thế nào
là bốn?
4) Ở đây, thưa Hiền giả, Tỷ-kheo
trú, quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục
tham ưu ở đời... quán thọ trên các cảm thọ... quán tâm trên tâm...
quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục
tham ưu ở đời. Thưa Hiền giả Sàriputta, Tỷ-kheo vô học, sau khi chứng
đạt bốn niệm xứ này, phải an trú pháp ấy.
6. VI. Kantakii (3) (S.v,299)
1-2) Tại Sàketa, ngồi xuống một
bên, vị ấy nói như sau:
3) -- Tôn giả Anuruddha do tu tập,
làm cho sung mãn những pháp gì, đã đạt được đại thắng trí?
-- Thưa Hiền giả, do tu tập, do làm
cho sung mãn bốn niệm xứ, tôi chứng đạt được đại thắng trí. Thế
nào là bốn?
4) Ở đây, thưa Hiền giả, tôi
trú, quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục
tham ưu ở đời... quán thọ trên các cảm thọ... quán tâm trên tâm...
quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục
tham ưu ở đời. Thưa Hiền giả, do tu tập, do làm cho sung mãn bốn niệm xứ
này, tôi chứng đạt đại thắng trí.
5) Thưa Hiền giả, do tu tập, làm
cho sung mãn bốn niệm xứ này, tôi thắng tri được một ngàn thế giới.
7. VII. Ai Tận (S.v,300)
1) Nhân duyên ở Sàvatthi...
2) Tại đây, Tôn giả Anuruddha nói
với các Tỷ-kheo:
3) -- Bốn niệm xứ này, thưa chư
Hiền, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến đoạn tận khát
ái. Thế nào là bốn?
4) Ở đây, thưa chư Hiền, Tỷ-kheo
trú, quán thân trên thân... quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác,
chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời. Thưa chư Hiền, bốn niệm xứ này
được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến đoạn tận khát ái.
8. VIII. Nhà Bằng Cây Sàla (S.v,300)
1) Một thời, Tôn giả Anuruddha trú
ở Sàvatthi, tại nhà làm bằng cây sàla.
2) Tại đây, Tôn giả Anuruddha gọi
các Tỷ-kheo... nói như sau:
3) -- Ví như, này chư Hiền, sông Hằng
thiên về phương Đông, hướng về phương Đông, xuôi về phương Đông. Rồi
một số đông quần chúng đến, cầm cuốc, thúng và nói: "Chúng ta sẽ
làm cho sông Hằng này thiên về phương Tây, hướng về phương Tây, xuôi về
phương Tây". Thưa chư Hiền, chư Hiền nghĩ thế nào, số đông quần
chúng này có thể làm cho sông Hằng thiên về phương Tây, hướng về
phương Tây, xuôi về phương Tây không?
-- Thưa không, Hiền giả. Vì sao? Thưa
Hiền giả, vì sông Hằng thiên về phương Đông, hướng về phương Đông,
xuôi về phương Đông, không dễ gì khiến cho thiên về phương Tây, hướng
về phương Tây, xuôi về phương Tây được. Và quần chúng ấy chỉ mệt
nhọc và tổn não mà thôi.
4) -- Cũng vậy, này chư Hiền, Tỷ-kheo
tu tập bốn niệm xứ, làm cho sung mãn bốn niệm xứ. Dầu cho vua chúa, hay
đại thần, hay thân hữu, hay bạn bè, hay bà con huyết thống có thể đến
dâng các tài vật và mời: "Hãy đến, này Người tốt kia, sao để các
áo vàng này hành hạ Ông? Sao lại đi biểu diễn với đầu trọc và bình
bát? Hãy hoàn tục, thọ hưởng các tài vật và làm các phước đức!";
Tỷ-kheo ấy, thưa chư Hiền, được tu tập bốn niệm xứ, được làm cho
sung mãn bốn niệm xứ, có thể từ bỏ giới trở lui hoàn tục; sự kiện
như vậy không xảy ra. Vì sao? Vì này chư Hiền, tâm người ấy đã lâu
ngày thiên về viễn ly, hướng về viễn ly, xuôi về viễn ly, lại trở lại
hoàn tục, sự kiện như vậy không xảy ra.
5) Và này chư Hiền, Tỷ-kheo tu tập
bốn niệm xứ như thế nào, làm cho sung mãn như thế nào? Ở đây, này chư
Hiền, Tỷ-kheo trú, quán thân trên thân... quán thọ trên các cảm thọ...
quán tâm trên tâm... trú, quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác,
chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời; như vậy, thưa chư Hiền, Tỷ-kheo
tu tập bốn niệm xứ, làm cho sung mãn bốn niệm xứ.
9. IX. Tất Cả Hay Ambapàla (S.v,301)
1) Một thời Tôn giả Anuruddha và
Tôn giả Sàriputta trú ở Vesàli, tại rừng Ambapàla.
2) Rồi Tôn giả Sàriputta, vào buổi
chiều, từ chỗ độc cư đứng dậy...
3) Ngồi một bên, Tôn giả
Sàriputta thưa với Tôn giả Anuruddha:
-- Thưa Hiền giả Anuruddha, các căn
của Hiền giả trong sáng, thanh tịnh, sắc mặt được sáng suốt. Tôn giả
Anuruddha nay trú nhiều sự an trú gì?
-- Thưa Hiền giả, nay tôi an trú
nhiều với tâm khéo an trú trên bốn niệm xứ. Thế nào là bốn?
4) Ở đây, thưa Hiền giả, tôi
trú, quán thân trên thân... quán thọ trên các cảm thọ... quán tâm trên
tâm... trú, quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp
phục tham ưu ở đời. Thưa Hiền giả nay tôi an trú nhiều với tâm khéo
an trú trên bốn niệm xứ.
5) Thưa Hiền giả, Tỷ-kheo nào là
bậc A-la-hán, các lậu hoặc đã đoạn tận, Phạm hạnh đã thành, những
việc nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, mục đích đã đạt tới,
hữu kiết sử đã đoạn tận, chánh trí, giải thoát; vị ấy an trú nhiều
với tâm khéo an trú trên bốn niệm xứ này.
6) -- Thật lợi ích cho chúng tôi,
thưa Hiền giả! Thật khéo lợi ích cho chúng tôi, thưa Hiền giả! Chúng
tôi đối mặt với Tôn giả Anuruddha, đã được nghe tiếng nói như ngưu
vương.
10. X. Bị Trdọng Bệnh Hay Bệnh (S.v,302)
1) Một thời, Tôn giả Anuruddha trú
ở Sàvatthi, tại rừng Andha, bị bệnh, khổ đau, bị trọng bệnh.
2) Rồi nhiều Tỷ-kheo đi đến Tôn
giả Anuruddha và nói với Tôn giả Anuruddha:
-- Tôn giả Anuruddha an trú với sự
an trú gì, khiến cho khổ thọ về thân khởi lên, lại không có ảnh hưởng
gì đến tâm?
-- Thưa chư Hiền, do tôi trú với
tâm khéo an trú trên bốn niệm xứ, nên các khổ thọ về thân khởi lên
không có ảnh hưởng gì đến tâm. Thế nào là bốn?
3) Ở đây, thưa chư Hiền, tôi
trú, quán thân trên thân... quán thọ trên các cảm thọ... quán tâm trên
tâm... quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp
phục tham ưu ở đời. Thưa chư Hiền, do tôi trú với tâm khéo an trú trên
bốn niệm xứ, nên các khổ thọ về thân khởi lên không có ảnh hưởng
đến tâm.
II. Phẩm Thứ Hai
11. I. Một Ngàn (S.v,303)
1) Một thời, Tôn giả Anuruddha trú
ở Sàvatthi, tại Thắng Lâm, trong khu vườn ông Anàthapindika.
2-3) Rồi nhiều Tỷ-kheo đi đến Tôn
giả Anuruddha; sau khi đến, nói lên với Tôn giả Anuruddha những lời chào
đón hỏi thăm... nói với Tôn giả Anuruddha:
-- Do tu tập, do làm cho sung mãn những
pháp gì, Tôn giả Anuruddha đạt được đại thắng trí?
-- Thưa chư Hiền, do tu tập, làm
cho sung mãn bốn niệm xứ, nên tôi chứng được đại thắng trí. Thế
nào là bốn?
4) Ở đây, này chư Hiền, tôi trú,
quán thân trên thân... quán thọ trên các cảm thọ... quán tâm trên tâm...
quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục
tham ưu ở đời. Do tu tập, do làm cho sung mãn bốn niệm xứ này, thưa chư
Hiền, nên tôi nhớ được ngàn kiếp.
12. II. Như Ý Lực (1) (S.v,303)
5) -- Thưa chư Hiền, do tu tập, do làm
cho sung mãn bốn niệm xứ này, tôi thực hiện nhiều loại thần thông: Một
thân hiện ra nhiều thân, nhiều thân hiện ra một thân... có thể tự thân
bay đến Phạm thiên giới.
13. III. Như Ý Lực (2) (S.v,304)
5) -- Thưa chư Hiền, do tu tập, do làm
cho sung mãn bốn niệm xứ này, tôi chứng được thiên nhĩ thông, thanh tịnh
siêu nhân, có thể nghe được hai thứ tiếng, chư Thiên và loài Người, hoặc
xa hoặc gần.
14. IV. Với Tâm Của Mình (S.v,304)
5) -- Thưa chư Hiền, do tu tập, do làm
cho sung mãn bốn niệm xứ, tôi với tâm của mình biết được tâm của
nhiều loại hữu tình khác, nhiều loại người khác. Với tâm có tham, tôi
rõ biết là tâm có tham... với tâm giải thoát, rõ biết là tâm giải
thoát.
15. V.Xứ (1) (S.v,304)
5) -- Thưa chư Hiền, do tu tập, do làm
cho sung mãn bốn niệm xứ này, tôi như thực rõ biết xứ là xứ, phi xứ
là phi xứ.
16. VI. Xứ (2) (S.v,304)
-- Thưa chư Hiền, do tu tập, do làm
cho sung mãn bốn niệm xứ này, tôi như thật rõ biết quả dị thục các
nghiệp báo (kammasamadanam) quá khứ, vị lai, hiện tại tùy thuộc sở do
(thànati) và tùy thuộc về thân (hetaso).
17. VII. Đạo Lộ (S.v,304)
5) -- Do tu tập, do làm cho sung mãn bốn
niệm xứ này, tôi như thật rõ biết con đường đưa đến tất cả cảnh
giới.
18. VIII. Thế Giớ (S.v,304)
5) -- Do tu tập, do làm cho sung mãn bốn
niệm xứ này, tôi như thật rõ biết thế giới với mọi cảnh giới, nhiều
chủng loại sai biệt.
19. IX. Thắng Giải Sai Biệt (S.v,305)
5) -- Do tu tập, do làm cho sung mãn bốn
niệm xứ này, tôi như thật rõ biết chỉ
hướng sai biệt của các loại hữu
tình.
20. X. Căn (S.v,305)
5) -- Do tu tập, do làm cho sung mãn bốn
niệm xứ này, tôi như thật rõ biết các căn thượng hạ
(indriyaparopariyattim) của các loại hữu tình và các loại người.
21. XI. Thiền (S.v,305)
5) -- Do tu tập, do làm cho sung mãn bốn
niệm xứ này, tôi như thật rõ biết sự tạp nhiễm, sự thanh tịnh, sự
xuất khởi của các Thiền chứng, về Thiền, về Giải thoát, về Định.
22. XII. Minh (1) (S.v,305)
5) -- Do tu tập, do làm cho sung mãn bốn
niệm xứ này, tôi nhớ được nhiều đời quá khứ, như một đời, hai đời...
nhiều đời sống quá khứ cùng các nét đại cương và các chi tiết.
23. XIII. Minh (2) (S.v,305)
5) -- Do tu tập, do làm cho sung mãn bốn
niệm xứ này, tôi chứng được thiên nhãn thanh tịnh, siêu nhân, thấy sự
sống và sự chết của chúng sanh.
24. XIV. Minh (3) (S.v,305)
5) -- Do tu tập, do làm cho sung mãn bốn
niệm xứ này, do đoạn tận các lậu hoặc, ngay trong hiện tại, với thắng
trí, tôi chứng ngộ, chứng đạt và an trú tâm giải thoát, tuệ giải
thoát.