- Kinh Tương Ưng Bộ
- HT. Thích Minh Châu dịch
- Phần 35c
- Năm Mươi Kinh Thứ Ba
I. Phẩm An Ổn, Khỏi Các Khổ Ách
104. I. Người Được An Ổn, Khỏi
Các Khổ Ách (S.iv,85)
1). ..
2) -- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng
cho các Ông pháp môn đưa đến an ổn, khỏi các khổ ách, pháp môn đúng
pháp. Hãy lắng nghe.
3) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
pháp môn đưa đến an ổn, khỏi các khổ ách?
4-8) Này các Tỷ-kheo, có những sắc
do mắt nhận biết khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến dục,
hấp dẫn. Những sắc ấy đã được Như Lai đoạn tận, cắt đứt từ gốc
rễ, làm cho như thân cây ta-la, làm cho không thể tái sanh, không thể sanh
khởi trong tương lai. Để đoạn tận chúng, Như Lai tuyên bố cái ách. Do vậy,
Như Lai được gọi là vị đã được an ổn, khỏi các khổ ách... có những
tiếng... có những hương... có những vị... có những xúc...
9) Này các Tỷ-kheo, có những pháp
do ý nhận biết khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến dục,
hấp dẫn. Những pháp ấy đã được Như Lai đoạn tận, cắt đứt từ gốc
rễ, làm cho như thân cây ta-la, làm cho không thể tái sanh, không thể sanh
khởi trong tương lai. Để đoạn tận chúng, Như Lai tuyên bố cái ách. Do vậy,
Như Lai được gọi là vị đã được an ổn khỏi các khổ ách.
10) Này các Tỷ-kheo, đây là pháp
môn đưa đến an ổn khỏi các khổ ách, là pháp môn đúng pháp.
105. II. Chấp Thủ (S.iv,85)
1). ..
2) -- Này các Tỷ-kheo, do có mặt
cái gì, do chấp thủ cái gì khởi lên nội lạc, nội khổ?
3) -- Bạch Thế Tôn, đối với chúng
con, các pháp lấy Thế Tôn làm căn bản...
4) -- Này các Tỷ-kheo, do mắt có mặt,
do chấp thủ mắt nên khởi lên nội lạc, nội khổ... tai... mũi... lưỡi...
thân... Do ý có mặt, do chấp thủ ý nên khởi lên nội lạc, nội khổ.
5) Các Ông nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo,
mắt là thường hay vô thường?
-- Là vô thường, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
-- Là khổ, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự
biến hoại, nếu không chấp thủ cái ấy thời có thể khởi lên nội khổ,
nội lạc không?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
6) -- Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, bậc
Đa văn Thánh đệ tử nhàm chán đối với mắt... nhàm chán đối với ý.
Do nhàm chán nên vị ấy ly tham. Do ly tham nên vị ấy được giải thoát.
Trong sự giải thoát, trí khởi lên biết rằng: "Ta đã được giải
thoát". Vị ấy biết rõ: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những
việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa".
106. III. Khổ (S.iv,86)
1). ..
2) -- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng
về khổ tập khởi và khổ đoạn diệt. Hãy lắng nghe.
3) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
khổ tập khởi?
4-9) Do duyên mắt và các sắc khởi
lên nhãn thức. Do ba pháp này họp lại nên có xúc. Do duyên xúc nên có thọ.
Do duyên thọ nên có ái. Đây là khổ tập khởi. Do duyên tai... Do duyên mũi...
Do duyên lưỡi... Do duyên thân... Do duyên ý và các pháp khởi lên ý thức.
Do ba pháp này họp lại nên có xúc. Do duyên xúc nên có thọ. Do duyên thọ
nên có ái. Đây là khổ tập khởi, này các Tỷ-kheo.
10) Và này các Tỷ-kheo, thế nào
là khổ đoạn diệt?
11) Do duyên mắt và các sắc khởi
lên nhãn thức. Do ba pháp này họp lại nên có xúc. Do duyên xúc nên có thọ.
Do duyên thọ nên có ái. Do ly tham, đoạn diệt ái ấy một cách hoàn toàn
nên hữu diệt. Do hữu diệt nên sanh diệt. Do sanh diệt nên già chết, sầu,
bi, khổ, ưu, não diệt. Đây là toàn bộ khổ uẩn này đoạn diệt. Đây
là khổ chấm dứt.
12-13) Do duyên tai... Do duyên mũi...
14-15) Do duyên lưỡi... Do duyên
thân...
16) Do duyên ý và các pháp khởi
lên ý thức. Do ba pháp này họp lại nên có xúc. Do duyên xúc nên có thọ.
Do duyên thọ nên có ái. Do ly tham, đoạn diệt ái ấy một cách hoàn toàn
nên hữu diệt. Do hữu diệt nên sanh diệt. Do sanh diệt nên già, chết, sầu,
bi, ưu, não diệt. Đây là toàn bộ khổ uẩn này đoạn diệt. Đây là khổ
chấm dứt.
107. IV. Thế Giới (S.iv,87)
1). ..
2) -- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng
về thế giới tập khởi và thế giới đoạn diệt. Hãy lắng nghe.
3) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
thế giới tập khởi?
4) Do duyên mắt và các sắc khởi
lên nhãn thức. Do ba pháp này họp lại nên có xúc. Do duyên xúc nên có thọ.
Do duyên thọ nên có ái. Do duyên ái nên có thủ. Do duyên thủ nên có hữu.
Do duyên hữu nên có sanh. Do duyên sanh nên có già chết, sầu, bi, khổ, ưu,
não sanh khởi. Đây là thế giới tập khởi.
5-7) Do duyên tai... Do duyên mũi... Do
duyên lưỡi... Do duyên thân...
8) Và do duyên ý và các pháp khởi
lên ý thức. Do ba pháp này họp lại nên có xúc. Do duyên xúc nên có thọ.
Do duyên thọ nên có ái. Do duyên ái nên có thủ. Do duyên thủ nên có hữu.
Do duyên hữu nên có sanh. Do duyên sanh nên có già, chết, sầu, bi, khổ,
ưu, não sanh khởi. Này các Tỷ-kheo, đây là thế giới tập khởi.
9) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
thế giới đoạn diệt?
10-15) Do duyên mắt và các sắc khởi
lên nhãn thức. Do ba pháp này họp lại nên có xúc. Do duyên xúc nên có thọ.
Do duyên thọ nên có ái. Do sự ly tham, đoạn diệt ái ấy một cách hoàn
toàn nên thủ diệt. Do thủ diệt nên hữu diệt. Do hữu diệt nên sanh diệt.
Do sanh diệt nên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu não đoạn diệt. Như vậy,
đây là toàn bộ khổ uẩn này đoạn diệt.
16) Này các Tỷ-kheo, đây là thế
giới đoạn diệt.
108. V. Thắng (S. iv,88)
1). ..
2) -- Này các Tỷ-kheo, do có cái
gì, do chấp thủ cái gì, do thiên chấp cái gì nên có: "Thắng hơn là
tôi", "Ngang bằng là tôi" hay "Thấp kém là tôi"?
3) -- Bạch Thế Tôn, đối với chúng
con các pháp lấy Thế Tôn làm căn bản...
4-9) -- Này các Tỷ-kheo, do có mắt,
do chấp thủ mắt, do thiên chấp mắt nên có: "Thắng hơn là tôi",
"Ngang bằng là tôi" hay "Thấp kém là tôi"... Do có ý, do chấp
thủ ý, do thiên chấp ý nên có: "Thắng hơn là tôi", "Ngang bằng
là tôi" hay "Thấp kém là tôi".
10) Các Ông nghĩ thế nào, này các
Tỷ-kheo, mắt là thường hay vô thường?
-- Là vô thường, bạch Thế Tôn.
-- Cái vì vô thường là khổ hay lạc?
-- Là khổ, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự
biến hoại, nếu không chấp thủ cái ấy, thời (có thể) có ý nghĩ:
"Thắng hơn là tôi", "Ngang bằng là tôi", hay "Thấp
kém là tôi" không?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
11) -- Tai là thường hay vô thường...
12) Mũi là thường hay vô thường...
13) Lưỡi là thường hay vô thường...
14) Thân là thường hay vô thường...
15) Ý là thường hay vô thường?
-- Là vô thường, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
-- Là khổ, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự
biến hoại, nếu không chấp thủ cái ấy, thời (có thể) có ý nghĩ:
"Thắng hơn là tôi", "Ngang bằng là tôi" hay "Thấp kém
là tôi" không?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
16) -- Thấy vậy, này các Tỷ-kheo,
bậc Đa văn Thánh đệ tử nhàm chán đối với mắt... nhàm chán đối với
ý. Do nhàm chán nên vị ấy ly tham. Do ly tham nên vị ấy được giải thoát...
"... không còn trở lui trạng thái này nữa".
109. VI. Kiết Sử (S.iv,89)
1). ..
2) -- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng
về các pháp bị kiết sử và kiết sử. Hãy lắng nghe. Thế nào là kiết
sử?
3) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
các pháp bị kiết sử và... kiết sử?
4-9) Này các Tỷ-kheo, mắt là pháp
bị kiết sử. Ở đây, chỗ nào có dục và tham, ở đấy là kiết sử...
Ý là pháp bị kiết sử. Ở đây, chỗ nào có dục và tham, ở đấy là kiết
sử.
10) Này các Tỷ-kheo, đây được gọi
là những pháp bị kiết sử và kiết sử.
110. VII. Chấp Thủ (S.iv,89)
1). ..
2) -- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng
về các pháp bị chấp thủ và chấp thủ. Hãy lắng nghe.
3) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
các pháp bị chấp thủ, và thế nào là chấp thủ?
4-9) Mắt, này các Tỷ-kheo, là pháp
bị chấp thủ. Ở đây, chỗ nào có dục và tham, ở đấy là chấp thủ...
Ý là pháp bị chấp thủ. Ở đây, chỗ nào có dục và tham, ở đấy là
chấp thủ.
10) Này các Tỷ-kheo, đây được gọi
là những pháp bị chấp thủ, và chấp thủ.
111. VIII. Tuệ Tri (Pajànàti)
(S.iv,89)
1). ..
2) -- Này các Tỷ-kheo, do vì không
thắng tri, không liễu tri, không ly tham, không từ bỏ mắt nên không thể
đoạn tận khổ đau... tai... mũi... lưỡi... thân... Do vì không thắng tri,
không liễu tri, không ly tham, không từ bỏ ý nên không thể đoạn tận khổ
đau.
8-13) Và này các Tỷ-kheo, do thắng
tri, liễu tri, ly tham và từ bỏ mắt nên có thể đoạn tận khổ đau...
tai... mũi... lưỡi... thân... Do thắng tri, liễu tri, ly tham và từ bỏ ý
nên có thể đoạn tận khổ đau.
112. IX. Tuệ Tri (S.iv,90)
1). ..
2-7) -- Này các Tỷ-kheo, do không thắng
tri, không liễu tri, không ly tham, không từ bỏ các sắc nên không thể đoạn
tận khổ đau... các tiếng... các hương... các vị... các xúc... Do không thắng
tri, không liễu tri, không ly tham, không từ bỏ các pháp nên không thể đoạn
tận khổ đau.
8-13) Và này các Tỷ-kheo, do thắng
tri, liễu tri, ly tham, từ bỏ mắt nên có thể đoạn tận khổ đau...
tai... mũi... lưỡi... thân... Do thắng tri, liễu tri, ly tham, từ bỏ các
pháp nên có thể đoạn tận khổ đau.
113. X. Nghe Trộm (upassuti)
(S.iv,90)
1) Một thời Thế Tôn trú tại
Nàtika, trong ngôi nhà bằng gạch.
2) Rồi Thế Tôn trong khi độc cư
Thiền tịnh, nói lên lời pháp giáo này (dhammapariyàyam):
3) -- Do duyên mắt và các sắc khởi
lên nhãn thức. Do ba pháp này họp lại nên có xúc. Do duyên xúc nên có thọ.
Do duyên thọ nên có ái. Do duyên ái nên có thủ... Như vậy là toàn bộ khổ
uẩn này tập khởi.
4-7) Do duyên tai... Do duyên mũi... Do
duyên lưỡi... Do duyên thân...
8) Do duyên ý và các pháp khởi lên
ý thức. Do ba pháp này họp lại nên có xúc. Do duyên xúc nên có thọ. Do
duyên thọ nên có ái. Do duyên ái nên có thủ... Như vậy là toàn bộ khổ
uẩn này được tập khởi.
9) Do duyên mắt và các sắc khởi
lên nhãn thức. Do ba pháp này họp lại nên có xúc. Do duyên xúc nên có thọ.
Do duyên thọ nên có ái. Do ly tham, đoạn diệt ái ấy một cách hoàn toàn
nên thủ diệt... Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này được đoạn diệt.
10-13) Do duyên tai... Do duyên mũi...
Do duyên lưỡi... Do duyên thân...
14) Do duyên ý và các pháp khởi
lên ý thức. Do ba pháp này họp lại nên có xúc. Do duyên xúc nên có thọ.
Do duyên thọ nên có ái. Do ly tham, đoạn diệt ái ấy một cách hoàn toàn
nên thủ diệt... Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này được đoạn diệt.
15) Lúc bấy giờ một Tỷ-kheo đứng
nghe trộm Thế Tôn.
16) Thế Tôn thấy Tỷ-kheo ấy đứng
nghe trộm.
17) Thấy vậy, Thế Tôn liền nói với
Tỷ-kheo ấy:
-- Này Tỷ-kheo, Ông có nghe pháp
giáo này không?
-- Thưa có nghe, bạch Thế Tôn.
-- Này Tỷ-kheo, hãy học pháp giáo
này. Này Tỷ-kheo, hãy học thuộc lòng pháp giáo này. Này Tỷ-kheo, hãy thọ
trì pháp giáo này. Này Tỷ-kheo, pháp giáo này liên hệ đến mục đích,
là cứu cánh Phạm hạnh.
II. Phẩm Thế Giới Dục Công Đức
114. I. Ma Lưới Bẫy (S.iv,91)
1). ..
2-7) -- Này các Tỷ-kheo, có những sắc
do mắt nhận thức khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến dục,
hấp dẫn. Nếu một Tỷ-kheo hoan hỷ sắc ấy, tán dương, tham luyến an trú;
thời này các Tỷ-kheo, đây gọi là Tỷ-kheo đã đi đến trú xứ của Ma,
đã bị Ma chinh phục. Lưới bẫy của Ma đoanh vây vị ấy. Bị Ma trói buộc,
vị ấy bị Ác ma muốn làm gì vị ấy thì làm... Này các Tỷ-kheo, có những
pháp do ý nhận thức khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến
dục, hấp dẫn. Nếu Tỷ-kheo hoan hỷ pháp ấy, tán dương, tham luyến an trú;
thời này các Tỷ-kheo, đây gọi là Tỷ-kheo đã đi đến trú xứ của Ma,
đã bị Ma chinh phục. Lưới bẫy của Ma đoanh vây vị ấy. Bị Ma trói buộc,
vị ấy bị Ác ma muốn làm gì vị ấy thì làm.
8-13) Này các Tỷ-kheo, có những sắc
do mắt nhận thức khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến dục,
hấp dẫn. Nếu Tỷ-kheo không hoan hỷ sắc ấy, không tán dương, không tham
luyến an trú; thời này các Tỷ-kheo, đây gọi là Tỷ-kheo không đi đến
trú xứ của Ma, không bị Ma chinh phục. Lưới bẫy của Ma không đoanh vây
vị ấy. Được giải thoát khỏi Ma trói buộc, vị ấy không bị Ác ma muốn
làm gì vị ấy thì làm... Này các Tỷ-kheo, có những pháp do ý nhận thức
khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Nếu
Tỷ-kheo không hoan hỷ pháp ấy, không tán dương, không tham luyến an trú;
thời này các Tỷ-kheo, đây gọi là Tỷ-kheo không đi đến trú xứ của
Ma, không bị Ma chinh phục. Lưới bẫy của Ma không đoanh vây vị ấy. Được
giải thoát khỏi Ma trói buộc, vị ấy không bị Ác ma muốn làm gì vị
ấy thì làm.
115. II. Màra Lưới Bẫy (S.iv,92)
1). ..
2-7) -- Này các Tỷ-kheo, có những sắc
do mắt nhận thức khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến dục,
hấp dẫn. Nếu Tỷ-kheo hoan hỷ sắc ấy, tán dương, tham luyến an trú; thời
này các Tỷ-kheo, đây gọi là Tỷ-kheo bị trói buộc trong các sắc do mắt
nhận thức, đã đi đến trú xứ của Ma, đã bị Ma chinh phục, bị Ác ma
muốn làm gì vị ấy thì làm... Này các Tỷ-kheo, có những pháp do ý nhận
thức... tham luyến an trú; thời này các Tỷ-kheo, đây gọi là Tỷ-kheo bị
trói buộc trong các pháp do ý nhận thức, đã đi đến trú xứ của Ma, đã
bị Ma chinh phục, bị Ác ma muốn làm gì vị ấy thì làm.
8-13) Này các Tỷ-kheo, có những sắc
do mắt nhận thức, khả lạc... hấp dẫn. Nếu Tỷ-kheo không hoan hỷ sắc
ấy, không tán dương, không tham luyến an trú; thời này các Tỷ-kheo, đây
gọi là Tỷ-kheo được giải thoát khỏi các sắc do mắt nhận thức,
không đi vào trú xứ của Ma, không bị Ma chinh phục, không bị Ác ma muốn
làm gì thì làm... Này các Tỷ-kheo, có những pháp do ý nhận thức khả lạc,
khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Nếu Tỷ-kheo không
hoan hỷ pháp ấy, không tán dương, không tham luyến an trú; thời này các Tỷ-kheo,
đây gọi là Tỷ-kheo được giải thoát khỏi các pháp do ý nhận thức,
không đi vào trú xứ của Ma, không bị Ma chinh phục, không bị Ác ma muốn
làm gì thì làm.
116. III. Thế Giới Dục Công Đức (S.iv,93)
1). ..
2) -- Này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố
rằng sự tận cùng thế giới không thể biết, không thể thấy, không thể
đạt được bằng cách đi đến tận cùng thế giới. Ta cũng không tuyên bố
rằng, này các Tỷ-kheo, sự chấm dứt đau khổ có thể làm được bằng cách
đạt đến sự tận cùng thế giới.
Nói vậy xong, Thế Tôn từ chỗ ngồi
đứng dậy, đi vào tịnh xá.
3) Rồi các Tỷ-kheo ấy, sau khi Thế
Tôn ra đi không bao lâu, khởi lên tư tưởng sau đây: "Này chư Hiền,
Thế Tôn sau khi nói lên lời nói vắn tắt này, không phân tích ý nghĩa một
cách rộng rãi, từ chỗ ngồi đứng dậy, đã đi vào tịnh xá: ‘Này các
Tỷ-kheo, Ta tuyên bố rằng sự tận cùng thế giới không thể biết, không
thể thấy, không thể đạt được bằng cách đi đến tận cùng thế giới.
Ta cũng không tuyên bố rằng, này các Tỷ-kheo, sự chấm dứt đau khổ có
thể làm được bằng cách đạt đến sự tận cùng thế giới’. Lời Thế
Tôn tuyên bố vắn tắt này không được phân tích ý nghĩa một cách rộng
rãi, ai có thể phân tích ý nghĩa một cách rộng rãi"?
4) Rồi các Tỷ-kheo ấy lại suy nghĩ
như sau: "Tôn giả Ananda được Thế Tôn tán thán, được các bậc đồng
Phạm hạnh có trí kính trọng, Tôn giả Ananda có thể phân tích ý nghĩa một
cách rộng rãi lời Thế Tôn tuyên bố vắn tắt này. Chúng ta hãy đi đến
Tôn giả Ananda; sau khi đến, hãy hỏi Tôn giả Ananda về ý nghĩa này".
5) Rồi các Tỷ-kheo ấy đi đến Tôn
giả Ananda; sau khi đến, nói với Tôn giả Ananda những lời chào đón hỏi
thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống
một bên.
6) Ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo
ấy nói với Tôn giả Ananda:
-- Thưa Hiền giả Ananda, sau khi thuyết
giảng lời vắn tắt, không phân tích ý nghĩa một cách rộng rãi, Thế
Tôn từ chỗ ngồi đứng dậy, đã đi vào tịnh xá: "Này các Tỷ-kheo,
Ta tuyên bố rằng sự tận cùng thế giới không thể biết, không thể thấy,
không thể đạt được bằng cách đi đến tận cùng thế giới. Ta cũng không
tuyên bố rằng, này các Tỷ-kheo, sự chấm dứt đau khổ có thể làm được
bằng cách không đạt đến sự tận cùng thế giới". Thưa Hiền giả,
sau khi Thế Tôn đi không bao lâu, chúng tôi suy nghĩ như sau: "Này chư Hiền,
sau khi nói lên lời tuyên bố vắn tắt này cho chúng ta, không phân tích ý
nghĩa một cách rộng rãi, Thế Tôn từ chỗ ngồi đứng dậy, đã đi vào
tịnh xá: ‘Này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố rằng sự tận cùng thế giới
không thể biết, không thể thấy, không thể đạt được bằng cách đi đến
tận cùng thế giới. Ta cũng không tuyên bố rằng, này các Tỷ-kheo, sự chấm
dứt đau khổ có thể làm được bằng cách đạt đến sự tận cùng thế
giới’. Lời tuyên bố vắn tắt này của Thế Tôn, ai có thể phân tích
ý nghĩa một cách rộng rãi?". Rồi thưa Hiền giả, chúng tôi lại suy
nghĩ như sau: "Tôn giả Ananda được Thế Tôn tán thán, được các bạn
đồng Phạm hạnh có trí kính trọng, Tôn giả Ananda có thể phân tích ý
nghĩa một cách rộng rãi lời tuyên bố vắn tắt này của Thế Tôn. Chúng
ta hãy đi đến Tôn giả Ananda; sau khi đến, hãy hỏi Tôn giả Ananda về ý
nghĩa này". Mong Tôn giả Ananda hãy phân tích cho.
7) -- Này chư Hiền, ví như một
người cần thiết lõi cây, tìm cầu lõi cây, đang đi tìm cầu lõi cây, đứng
trước một cây lớn có lõi cây. Người ấy bỏ rễ, bỏ thân cây, nghĩ rằng
lõi cây cần phải tìm trong các nhánh cây, lá cây. Cũng vậy, là việc chư
Tôn giả làm... Chư Tôn giả đứng trước mặt Thế Tôn, chư Tôn giả lại
vượt qua Thế Tôn và nghĩ rằng cần phải hỏi tôi về ý nghĩa này. Nhưng
này chư Hiền, Thế Tôn biết những gì cần biết, thấy những gì cần thấy,
bậc có mắt, bậc có trí, bậc Pháp giả, bậc Phạm thiên, bậc Thuyết giả,
bậc tuyên thuyết, bậc dẫn đến mục đích, bậc đem cho bất tử, bậc
Pháp chủ, bậc Như Lai. Nay đã đến thời, chư Hiền hãy đến hỏi Thế Tôn
về ý nghĩa này. Thế Tôn giải thích cho chư Hiền như thế nào, hãy như vậy
thọ trì.
8) -- Thưa Hiền giảAnanda, chắc chắn
Thế Tôn biết những gì cần biết, thấy những gì cần thấy, bậc có mắt,
bậc có trí, bậc Pháp giả, bậc Phạm thiên, bậc Thuyết giả, bậc tuyên
thuyết, bậc dẫn đến mục đích, bậc đem cho bất tử, bậc Pháp chủ, bậc
Như Lai. Nay đã đến thời chúng tôi đến hỏi Thế Tôn về ý nghĩa này.
Thế Tôn giải thích cho chúng tôi như thế nào, chúng tôi sẽ như vậy thọ
trì. Nhưng Tôn giả Ananda được Thế Tôn tán thán, được các vị đồng
Phạm hạnh có trí kính trọng. Tôn giả Ananda có thể giải thích một
cách rộng rãi lời tuyên bố vắn tắt này của Thế Tôn chưa được phân
tích rộng rãi. Mong Tôn giả Ananda phân tích cho, nếu Tôn giả không cảm
thấy phiền phức (agarum katvà).
9) -- Vậy chư Hiền hãy lắng nghe
và suy nghiệm kỹ, tôi sẽ nói.
-- Thưa vâng, Hiền giả.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả
Ananda.
10) Tôn giả Ananda nói như sau:
-- Này chư Hiền, sau khi nói lên lời
thuyết giảng một cách vắn tắt, không phân tích ý nghĩa một cách rộng
rãi, Thế Tôn từ chỗ ngồi đứng dậy, đã đi vào tịnh xá: " Này
các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố rằng sự tận cùng thế giới không thể biết,
không thể thấy, không thể đạt được bằng cách đi đến tận cùng thế
giới. Ta cũng không tuyên bố rằng, này các Tỷ-kheo, sự chấm dứt đau khổ
có thể làm được bằng cách không đạt được sự tận cùng thế giới".
Này chư Hiền, lời tuyên bố vắn tắt này của Thế Tôn không được phân
tích ý nghĩa một cách rộng rãi, tôi hiểu một cách rộng rãi như sau:
11) Này chư Hiền, do cái gì trong thế
giới, người ta tưởng đến thế giới, người ta kiêu mạn về thế giới,
đây gọi là thế giới trong giới luật của bậc Thánh. Và này chư Hiền,
do cái gì trong thế giới, người ta tưởng đến thế giới, người ta kiêu
mạn về thế giới? Do con mắt, này chư Hiền, trong thế giới, người ta
tưởng đến thế giới, người ta kiêu mạn về thế giới. Do tai, này chư
Hiền... Do mũi, này chư Hiền... Do lưỡi, này chư Hiền.... Do thân, này chư
Hiền.... Do ý, này chư Hiền, trong thế giới, người ta tưởng đến thế
giới, người ta kiêu mạn về thế giới. Đây gọi là thế giới trong giới
luật của bậc Thánh.
12) Này chư Hiền, sau khi nói lên lời
thuyết giảng này một cách vắn tắt cho chư Hiền, không phân tích ý nghĩa
một cách rộng rãi, Thế Tôn từ chỗ ngồi đứng dậy đã đi vào tịnh
xá: "Này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố rằng sự tận cùng thế giới không
thể biết, không thể thấy, không thể đạt được bằng cách đi đến tận
cùng thế giới. Ta cũng không tuyên bố rằng, này các Tỷ-kheo, sự chấm dứt
đau khổ có thể làm được bằng cách không đạt đến sự tận cùng thế
giới". Này chư Hiền, lời tuyên bố vắn tắt này của Thế Tôn không
được phân tích ý nghĩa một cách rộng rãi, tôi hiểu ý nghĩa một cách
rộng rãi như vậy. Nhưng nếu muốn, chư Tôn giả hãy đi đến Thế Tôn
và hỏi ý nghĩa này. Thế Tôn giải thích như thế nào, hãy như vậy thọ
trì.
-- Thưa vâng, Hiền giả.
Các Tôn giả ấy vâng đáp Tôn giả
Ananda, từ chỗ ngồi đứng dậy, đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ
Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.
13) Ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo
ấy bạch Thế Tôn:
-- Bạch Thế Tôn, Thế Tôn sau khi
nói lên lời thuyết giảng này một cách vắn tắt, không phân tích ý nghĩa
một cách rộng rãi, từ chỗ ngồi đứng dậy, đã đi vào tịnh xá:
"Này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố rằng... sự tận cùng thế giới". Bạch
Thế Tôn, sau khi Thế Tôn ra đi không được bao lâu, chúng con khởi lên ý
nghĩ sau này: "Này chư Hiền, sau khi nói lên lời thuyết giảng này một
cách vắn tắt, không phân tích ý nghĩa một cách rộng rãi, Thế Tôn từ
chỗ ngồi đứng dậy và đã đi vào tịnh xá: ‘Này các Tỷ-kheo, Ta tuyên
bố rằng... sự tận cùng thế giới’. Lời Thế Tôn tuyên bố vắn tắt
này không được phân tích ý nghĩa một cách rộng rãi, ai có thể phân
tích ý nghĩa một cách rộng rãi?"
14) Rồi bạch Thế Tôn, chúng con
suy nghĩ như sau: "Tôn giả Ananda được Thế Tôn tán thán, được các
bạn đồng Phạm hạnh có trí kính trọng, Tôn giả Ananda có thể phân
tích ý nghĩa một cách rộng rãi lời Thế Tôn tuyên bố vắn tắt này.
Chúng ta hãy đi đến Tôn giả Ananda; sau khi đến, hãy hỏi Tôn giả Ananda
về ý nghĩa này". Và, bạch Thế Tôn, chúng con đã đi đến Tôn giả
Ananda và hỏi Tôn giả Ananda về ý nghĩa này.
15) Bạch Thế Tôn, với những lý
do này, với những câu này, với những chữ này, ý nghĩa được Tôn giả
Ananda giải thích cho chúng con...
-- Hiền trí, này các Tỷ-kheo, là
Ananda. Đại tuệ, này các Tỷ-kheo, là Ananda! Này các Tỷ-kheo, nếu các
Ông có hỏi Ta về ý nghĩa này, Ta cũng trả lời như vậy, như Ananda đã
trả lời. Đây là ý nghĩa của lời nói ấy. Hãy thọ trì như vậy.
117. IV. Thế Giới Dục Công Đức (S.iv,97)
1). ..
2) -- Này các Tỷ-kheo, trước khi Ta
chưa giác ngộ, chưa thành Chánh đẳng Chánh giác, còn là Bồ-tát, Ta khởi
lên ý nghĩ như sau: "Năm dục công đức mà tâm Ta trước kia cảm xúc,
đã thuộc quá khứ, đã đoạn diệt, đã biến hoại... Ở đây, tâm Ta đi
đến cuồng nhiệt khi chúng có mặt hiện tại và trở thành giảm thiểu
khi chúng chưa đến, còn ở vị lai". Rồi, này các Tỷ-kheo, Ta suy nghĩ
như sau: "Năm dục công đức mà tâm Ta trước kia cảm xúc, đã thuộc
quá khứ, đã đoạn diệt, đã biến hoại. Ở đây, vì lợi ích cho chính
Ta, hãy sống không phóng dật, gìn giữ tâm chánh niệm".
3) Do vậy, này các Tỷ-kheo, đối với
năm dục công đức mà tâm các Ông trước đây cảm xúc, đã thuộc quá khứ,
đã đoạn diệt, đã biến hoại; ở đây, tâm các Ông đi đến cuồng nhiệt
khi chúng có mặt hiện tại, và trở thành giảm thiểu khi chúng chưa đến,
còn ở vị lai. Do vậy, này các Tỷ-kheo, đối với năm dục công đức mà
tâm các Ông trước đây cảm xúc, đã thuộc quá khứ, đã đoạn diệt, đã
biến hoại. Ở đây, vì lợi ích cho chính các Ông, hãy sống không phóng dật,
gìn giữ tâm chánh niệm.
4) Do vậy, này các Tỷ-kheo, các xứ
cần phải được hiểu: "Chỗ nào mắt đoạn diệt, sắc tưởng được
ly tham; các xứ cần phải được hiểu... Chỗ nào ý được đoạn diệt,
pháp tưởng được ly tham, các xứ cần phải được hiểu". Các xứ cần
phải được hiểu như vậy.
5) Nói vậy xong, Thế Tôn từ chỗ
ngồi đứng dậy đi vào tịnh xá.
6) Rồi các Tỷ-kheo, sau khi Thế
Tôn ra đi chẳng bao lâu, khởi lên ý nghĩ sau đây: "Này chư Hiền, Thế
Tôn sau khi nói lên lời thuyết giảng này một cách vắn tắt... Ai có thể
phân tích ý nghĩa lời tuyên bố một cách rộng rãi?"
7) Rồi các Tỷ-kheo ấy lại suy nghĩ
như sau: "Tôn giả Ànanda được Thế Tôn tán thán.."..
8-11) (Như kinh trên, từ số 5 đến
số 9, chỉ khác về lời tuyên bố của Thế Tôn)
12) -- Vậy chư Hiền, hãy lắng và
suy nghiệm kỹ. Tôi sẽ nói.
-- Thưa vâng, Hiền giả.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả
Ananda.
13) Tôn giả Ananda nói như sau:
-- Này chư Hiền, sau khi nói lên lời
thuyết giảng vắn tắt này, không phân tích ý nghĩa một cách rộng rãi,
Thế Tôn từ chỗ ngồi đứng dậy và đi vào tịnh xá: "Do vậy, này
các Tỷ-kheo, các xứ cần phải được hiểu: ‘Chỗ nào mắt đoạn diệt,
sắc tưởng được ly tham; các xứ cần phải được hiểu... Chỗ nào ý
được đoạn diệt, pháp tưởng được ly tham, các xứ cần phải được
hiểu’". Này chư Hiền, lời Thế Tôn nói lên vắn tắt này, không
được phân tích ý nghĩa một cách rộng rãi, tôi hiểu ý nghĩa một cách
rộng rãi như sau: Lời Thế Tôn nói, này chư Hiền, là thuộc về đoạn diệt
sáu xứ. Do vậy, này chư Hiền, các xứ cần phải hiểu: "Chỗ nào mắt
đoạn diệt, sắc tưởng được ly tham, các xứ cần phải hiểu... Chỗ
nào ý đoạn diệt, các pháp tưởng được ly tham, các xứ cần phải hiểu
biết". Các xứ cần phải được hiểu như vậy.
14) Này chư Hiền, lời Thế Tôn
nói lên một cách vắn tắt này, ý nghĩa không được phân tích một cách
rõ ràng, ý nghĩa ấy tôi hiểu một cách rõ ràng như vậy. Nếu muốn, chư
Hiền hãy đi đến Thế Tôn và hỏi về ý nghĩa này. Thế Tôn giải thích
như thế nào, chư Hiền hãy như vậy thọ trì.
-- Thưa vâng, Hiền giả.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả
Ananda, từ chỗ ngồi đứng dậy, đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ
Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.
15) Ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo
ấy bạch Thế Tôn:
-- Bạch Thế Tôn, lời Thế Tôn
nói lên vắn tắt cho chúng con, không có phân tích ý nghĩa một cách rộng
rãi, rồi từ chỗ ngồi đứng dậy, Thế Tôn đi vào tịnh xá: "Do vậy,
này các Tỷ-kheo, các xứ cần phải được hiểu. ‘Chỗ nào mắt đoạn
diệt, chỗ ấy sắc tưởng được ly tham, các xứ cần phải được hiểu...
Chỗ nào ý đoạn diệt, chỗ ấy pháp tưởng được ly tham, các xứ phải
được hiểu’. Các xứ cần phải hiểu như vậy". Bạch Thế Tôn, sau
khi Thế Tôn ra đi không bao lâu, chúng con suy nghĩ như sau: "Này chư Hiền,
sau khi nói lên lời thuyết giảng này cho chúng ta, nhưng không phân tích ý
nghĩa một cách rộng rãi, Thế Tôn từ chỗ ngồi đứng dậy và đi vào tịnh
xá: `Do vậy, này các Tỷ-kheo, các xứ cần phải được hiểu: ‘Chỗ nào
mắt đoạn diệt, chỗ ấy sắc tưởng được ly tham, các xứ cần phải
được hiểu... Chỗ nào ý đoạn diệt, chỗ ấy các pháp tưởng được
ly tham, các xứ cần phải được hiểu’. Các xứ cần phải hiểu như vậy',
nhưng ý nghĩa không được phân tích một cách rộng rãi, ai có thể phân
tích ý nghĩa một cách rộng rãi?".
16) Bạch Thế Tôn, chúng con suy nghĩ
như sau: "Tôn giả Ananda được bậc Đạo Sư tán thán và được các bậc
đồng Phạm hạnh có trí kính trọng. Với lời Thế Tôn nói lên một cách
vắn tắt này, nhưng không được phân tích ý nghĩa một cách rộng rãi,
Tôn giả Ananda có thể phân tích ý nghĩa một cách rộng rãi. Vậy chúng ta
hãy đi đến Tôn giả Ananda; sau khi đến, hãy hỏi Tôn giả Ananda về ý
nghĩa này".
17) Rồi bạch Thế Tôn, chúng con
đi đến Tôn giả Ananda; sau khi đến, chúng con hỏi Tôn giả Ananda về ý
nghĩa này. Bạch Thế Tôn, Tôn giả Ananda với những lý do này, với những
câu này, với những chữ này, đã phân tích ý nghĩa.
-- Hiền trí, này các Tỷ-kheo, là
Ananda! Đại tuệ, này các Tỷ-kheo, là Ananda! Này các Tỷ-kheo, nếu các
Ông hỏi Ta về ý nghĩa này, Ta cũng sẽ trả lời như vậy, như Ananda đã
trả lời. Đây là ý nghĩa của lời nói ấy, hãy như vậy thọ trì.
118. V. Sakka (S.iv,101)
1) Một thời Thế Tôn ở Ràjagaha
(Vương Xá), tại Gijjhakùta (Linh Thứu).
2) Rồi Thiên chủ Sakka đi đến Thế
Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên.
3) Đứng một bên, Thiên chủ Sakka
bạch Thế Tôn:
-- Bạch Thế Tôn, do nhân gì, do
duyên gì, ở đây một số loài hữu tình ngay trong hiện tại không nhập
Niết-bàn? Bạch Thế Tôn, do nhân gì, do duyên gì, ở đây một số loài hữu
tình ngay trong hiện tại nhập được Niết-bàn?
4) -- Này Thiên chủ, có những sắc
do mắt nhận thức khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến dục,
hấp dẫn. Nếu Tỷ-kheo hoan hỷ sắc ấy, tán dương, tham luyến an trú, y cứ
vào đấy, thức khởi lên chấp thủ cái ấy. Vì có chấp thủ, này Thiên
chủ, Tỷ-kheo ấy không nhập Niết-bàn.
5-8) Này Thiên chủ, có những tiếng
do tai nhận thức... có những hương do mũi nhận thức... có những vị do lưỡi
nhận thức... có những xúc do thân cảm giác...
9) Này Thiên chủ, có những pháp do
ý nhận thức khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến dục, hấp
dẫn. Nếu Tỷ-kheo hoan hỷ pháp ấy, tán dương, tham luyến an trú. Do Tỷ-kheo
ấy hoan hỷ pháp ấy, tán dương, tham luyến an trú, y cứ vào đấy, thức
khởi lên chấp thủ cái ấy. Do có chấp thủ, này Thiên chủ, Tỷ-kheo ấy
không nhập Niết-bàn.
10) Này Thiên chủ, đây là nhân, đây
là duyên, ở đây một số loài hữu tình, ngay trong hiện tại không nhập
Niết-bàn.
11-16) Và này Thiên chủ, có những
sắc do mắt nhận thức khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến
dục, hấp dẫn. Nếu Tỷ-kheo không hoan hỷ sắc ấy, không tán dương, không
tham luyến an trú; thời do vị ấy không hoan hỷ sắc ấy, không tán dương,
không tham luyến an trú, không y cứ cái ấy, thức khởi lên không chấp thủ
cái ấy. Do không chấp thủ, này Thiên chủ, Tỷ-kheo nhập Niết-bàn. Có những
tiếng do tai nhận thức... Có những hương do mũi nhận thức... Có những vị
do lưỡi nhận thức... Có những xúc do thân cảm giác...
17) Này Thiên chủ, có những pháp
do ý nhận thức khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến dục,
hấp dẫn. Nếu Tỷ-kheo không hoan hỷ pháp ấy, không tán dương, không tham
luyến an trú; thời do Tỷ-kheo ấy không hoan hỷ pháp ấy, không tán dương,
không tham luyến an trú, không y cứ vào cái ấy, thức khởi lên không chấp
thủ cái ấy. Không chấp thủ, này Thiên chủ, Tỷ-kheo ấy nhập Niết-bàn.
18) Này Thiên chủ, đây là nhân, đây
là duyên, do vậy ở đây một số loài hữu tình ngay trong hiện tại nhập
Niết-bàn.
119. IV. Pancasikha (S.iv,103)
1) Một thời Thế Tôn ở Ràjagaha
(Vương Xá), tại núi Gijjhakùta (Linh Thứu).
2) Rồi Pancasikha, con vị vua
Gandhabba, đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn, rồi đứng một
bên.
3) Đứng một bên, Pancasikha, con
Gandhabba, bạch Thế Tôn: "...(giống như kinh trước, câu hỏi và câu đáp
giống như kinh trước)".
120. VII. Sàriputta (S.iv,103)
1) Một thời Tôn giả Sàriputta trú
ở Sàvatthi, tại Jetanvana, vườn ông Anàthapindika (Cấp Cô Độc).
2) Rồi một Tỷ-kheo đi đến Tôn
giả Sàriputta; sau khi đến, nói lên với Tôn giả Sàriputta những lời
chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu
liền ngồi xuống một bên.
3) Ngồi xuống một bên, Tỷ-kheo
ấy nói với Tôn giả Sàriputta:
-- Tỷ-kheo đồng trú, thưa Tôn giả
Sàriputta, đã từ bỏ học pháp và hoàn tục.
4) -- Này Hiền giả, như vậy xẩy
đến cho vị nào không hộ trì các căn, không tiết độ trong ăn uống, không
chú tâm tỉnh giác. Cho đến trọn đời, vị ấy có thể tiếp tục đời
sống Phạm hạnh hoàn toàn thanh tịnh, sự việc như vậy không xảy ra.
5) Này Hiền giả, một Tỷ-kheo hộ
trì các căn, tiết độ trong ăn uống, chú tâm tỉnh giác. Cho đến trọn
đời, vị ấy có thể tiếp tục đời sống Phạm hạnh hoàn toàn thanh tịnh,
sự việc như vậy có xảy ra.
6) Và này Hiền giả, thế nào là hộ
trì các căn? Này Hiền giả, khi mắt thấy sắc, Tỷ-kheo không nắm giữ tướng
chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì, vì đó nhãn căn
không được chế ngự, khiến tham ái, ưu bi, các ác bất thiện pháp khởi
lên, Tỷ-kheo tự chế ngự những nguyên nhân ấy, hộ trì nhãn căn, thực
hành sự hộ trì nhãn căn. Khi tai nghe tiếng... khi mũi ngửi hương... khi
lưỡi nếm vị... khi thân cảm xúc... khi ý nhận thức các pháp, vị ấy
không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên
nhân gì, vì đó ý căn không được chế ngự, khiến tham ái, ưu bi, các
ác bất thiện pháp khởi lên, Tỷ-kheo tự chế ngự những nguyên nhân ấy,
hộ trì ý căn, thực hành sự hộ trì ý căn. Như vậy, này Hiền giả, là
sự hộ trì các căn.
7) Này Hiền giả, thế nào là tiết
độ trong ăn uống? Ở đây, này Hiền giả, Tỷ-kheo như lý giác sát, thọ
dụng các món ăn. Không phải để vui đùa, không phải để đam mê, không
phải để trang sức, không phải để tự mình làm đẹp mình mà chỉ để
thân này được duy trì và được bảo dưỡng, để thân này khỏi bị thương
hại, để hỗ trợ Phạm hạnh, nghĩ rằng: "Như vậy, ta diệt trừ các
cảm thọ cũ và không cho khởi lên các cảm thọ mới, và ta sẽ không có
lỗi lầm, sống được an ổn". Như vậy, này Hiền giả, là tiết độ
trong ăn uống.
8) Và này Hiền giả, như thế nào
là chú tâm tỉnh giác? Ở đây, này Hiền giả, Tỷ-kheo ban ngày trong khi
đi kinh hành và ngồi, tâm gột sạch các pháp triền cái. Ban đêm trong canh
một, trong khi vị ấy đi kinh hành và ngồi, tâm gột sạch các pháp triền
cái. Ban đêm trong canh giữa, vị ấy nằm phía hông bên hữu, trong tư thế
con sư tử, chân này đặt trên chân kia, chánh niệm tỉnh giác, tác ý tưởng
đến lúc ngồi dậy. Ban đêm trong canh cuối, khi vị ấy đi kinh hành và
trong khi ngồi, tâm gột sạch khỏi các pháp triền cái. Như vậy, này Hiền
giả, là chú tâm tỉnh giác.
9) Do vậy, này Hiền giả, cần phải
học tập như sau: "Chúng tôi sẽ hộ trì các căn, tiết độ trong ăn uống,
chú tâm tỉnh giác".
Như vậy, này Hiền giả, ông cần
phải học tập.
121. VIII. Ràhula (S.iv, 105)
1) Một thời Thế Tôn ở trú ở
Sàvatthi, tại Jetavana, vườn ông Anàthapindika.
2) Rồi Thế Tôn trong khi độc cư
Thiền tịnh, các tư niệm sau đây được khởi lên: "Đã thuần thục
là các pháp đưa đến giải thoát được chín muồi cho Ràhula. Vậy Ta hãy
giảng dạy cho Ràhula những lời dạy cuối cùng đưa đến đoạn tận các
lậu hoặc".
3) Rồi Thế Tôn, vào buổi sáng, đắp
y, cầm y bát đi vào Sàvatthi để khất thực, khất thực xong, sau buổi
ăn, trên con đường đi khất thực trở về, gọi Tôn giả Ràhula:
-- Này Ràhula, hãy cầm tọa cụ đi
đến rừng Andha để nghỉ trưa.
-- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Tôn giả Ràhula vâng đáp Thế Tôn,
cầm lấy tọa cụ, và đi sau lưng Thế Tôn.
4) Lúc bấy giờ, rất nhiều ngàn
Thiên nhân đi theo Thế Tôn và nghĩ rằng: "Hôm nay, Thế Tôn sẽ giảng
dạy cho Ràhula những lời dạy cuối cùng đưa đến đoạn tận các lậu
hoặc".
5) Rồi Thế Tôn đi sâu vào rừng
Andha và ngồi xuống trên chỗ ngồi đã soạn sẵn dưới gốc cây. Rồi
Tôn giả Ràhula, sau khi đảnh lễ Thế Tôn liền ngồi xuống một bên. Thế
Tôn nói với Tôn giả Ràhula đang ngồi xuống một bên:
6) -- Ông nghĩ thế nào, này Ràhula,
mắt là thường hay vô thường?
-- Là vô thường, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
-- Là khổ, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự
biến hoại, có hợp lý chăng nếu chánh quán cái ấy: "Cái này là của
tôi. Cái này là tôi. Cái này là tự ngã của tôi"?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
-- Sắc là thường hay vô thường?...
Nhãn thức là thường hay vô thường?...
Nhãn xúc là thường hay vô thường?...
Do duyên nhãn xúc khởi lên cảm thọ
gì, lạc, khổ hay bất khổ bất lạc thọ; cảm thọ ấy là thường hay vô
thường?
-- Là vô thường, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
-- Là khổ, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự
biến hoại; có hợp lý chăng nếu quán cái ấy: "Cái này là của tôi.
Cái này là tôi. Cái này là tự ngã của tôi"?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
7-8) -- Tai... Mũi...
9-10) Lưỡi... Thân...
11) Ý là thường hay vô thường?
-- Là vô thường, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
-- Là khổ, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự
biến hoại; có hợp lý chăng nếu quán cái ấy là: "Cái này là của
tôi. Cái này là tôi. Cái này là tự ngã của tôi"?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
-- Các pháp là thường hay vô thường?...
Ý thức là thường hay vô thường?...
Ý xúc là thường hay vô thường?...
Do duyên ý xúc khởi lên cảm thọ
gì, lạc, khổ, hay bất khổ bất lạc thọ; cảm thọ ấy là thường hay vô
thường?
-- Là vô thường, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
-- Là khổ, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự
biến hoại; có hợp lý chăng nếu quán cái ấy: "Cái này là của tôi.
Cái này là tôi. Cái này là tự ngã của tôi"?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
12) -- Thấy vậy, này Ràhula, vị
Đa văn Thánh đệ tử nhàm chán đối với mắt, nhàm chán đối với các sắc,
nhàm chán đối với nhãn thức, nhàm chán đối với nhãn xúc. Phàm duyên
nhãn xúc này khởi lên cảm thọ gì, tưởng gì, hành gì, thức gì; nhàm
chán đối với pháp ấy... nhàm chán đối với tai... nhàm chán đối với
mũi... nhàm chán đối với lưỡi... nhàm chán đối với thân.... nhàm chán
đối với ý, nhàm chán đối với pháp, nhàm chán đối với ý thức, nhàm
chán đối với ý xúc. Do duyên ý xúc này khởi lên cảm thọ gì, tưởng gì,
hành gì, thức gì, nhàm chán đối với pháp ấy. Do nhàm chán, vị ấy ly
tham. Do ly tham, vị ấy được giải thoát. Trong sự giải thoát, khởi lên
trí hiểu biết: "Ta đã được giải thoát". Vị ấy biết rõ:
"Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm,
không còn trở lui trạng thái này nữa".
13) Thế Tôn thuyết như vậy. Tôn
giả Ràhula hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy. Trong khi lời thuyết giảng
này được nói lên, tâm Tôn giả Ràhula được giải thoát khỏi các lậu
hoặc, không có chấp thủ. Và hàng nhiều ngàn chư Thiên khởi lên pháp
nhãn ly trần vô cấu: "Phàm các pháp gì được sanh khởi, tất cả đều
bị đoạn diệt".
122. IX. Kiết Sử (S.iv,107)
1) -- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng
về các pháp bị kiết sử và kiết sử, Hãy lắng nghe.
2) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
các pháp bị kiết sử, thế nào là kiết sử?
3) Này các Tỷ-kheo, có những sắc
do mắt nhận thức khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến dục,
hấp dẫn. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là các pháp bị kiết sử. Ở đây,
chỗ nào có dục và tham, chỗ ấy là kiết sử.
4-7) Này các Tỷ-kheo, có các tiếng
do tai nhận thức... có những hương do mũi nhận thức... có những vị do lưỡi
nhận thức... có những xúc do thân cảm giác...
8) Này các Tỷ-kheo, có những pháp
do ý nhận thức khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến dục,
hấp dẫn. Này các Tỷ-kheo, đây được gọi là các pháp bị kiết sử. Chỗ
nào có dục và tham, chỗ ấy là kiết sử.
123. X. Chấp Thủ (S.iv,108)
1) -- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết
giảng về các pháp bị chấp thủ và chấp thủ. Hãy lắng nghe.
2) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
các pháp bị chấp thủ, thế nào là chấp thủ?
3-8) Này các Tỷ-kheo... (Giống như
từ số 3 đến số 8 của kinh trên).
III. Phẩm Gia Chủ
124. I. Vesàli (S.iv,109)
1) Một thời Thế Tôn ở tại
Vesàli, rừng Đại Lâm, tại Trùng Các giảng đường.
2) Rồi gia chủ Ugga, người Vesàli,
đi đến Thế Tôn...
3) Ngồi xuống một bên, gia chủ
Ugga, người Vesàli, bạch Thế Tôn:
-- Bạch Thế Tôn, do nhân gì, do
duyên gì, ở đây, một số loài hữu tình ngay trong hiện tại không được
hoàn toàn tịch tịnh (parinibbàyanti). Bạch Thế Tôn, do nhân gì, do duyên
gì, ở đây, một số loài hữu tình ngay trong hiện tại được hoàn toàn
tịch tịnh?
4-9) -- Này Gia chủ, có những sắc
do mắt nhận thức khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến dục,
hấp dẫn... (giống như kinh 118)... Này Gia chủ, Tỷ-kheo có chấp thủ,
không được hoàn toàn tịch tịnh...
10) Này Gia chủ, đây là nhân, đây
là duyên, do vậy, ở đây, một số các loài hữu tình ngay trong hiện tại
không được hoàn toàn tịch tịnh.
11-16) Này Gia chủ, có những sắc
do mắt nhận thức khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến dục,
hấp dẫn... (giống như kinh 118)... Này Gia chủ, Tỷ-kheo không có chấp thủ,
được hoàn toàn tịch tịnh...
17) Này Gia chủ, đây là nhân, đây
là duyên, do vậy, ở đây, một số loài hữu tình ngay trong hiện tại được
hoàn toàn tịch tịnh.
125. II. Vejji (S.iv,109)
1) Một thời Thế Tôn trú giữa
dân chúng Vajji tại làng Hatthi.
2) Rồi gia chủ Ugga, người làng
Hatthi, đi đến Thế Tôn...
3) Ngồi xuống một bên, gia chủ
Ugga, người làng Hatthi, bạch Thế Tôn:
-- Bạch Thế Tôn, do nhân gì, do
duyên gì, ở đây, có một số loài hữu tình ngay trong hiện tại không
được hoàn toàn tịch tịnh? Bạch Thế Tôn, do nhân gì, do duyên gì, ở đây,
một số loài hữu tình ngay trong hiện tại được hoàn toàn tịch tịnh?
4-16) (Giống như kinh trước)...
17) -- Này Gia chủ, đây là nhân, đây
là duyên, do vậy, ở đây, có một số loài hữu tình ngay trong hiện tại
được hoàn toàn tịch tịnh.
126. III. Nàalanda (S.iv,110)
1) Một thời Thế Tôn ở tại
Nàlanda, tại rừng Pàvàrikamba.
2) Rồi gia chủ Upàli đi đến Thế
Tôn...
3) Ngồi xuống một bên, gia chủ
Upàli bạch Thế Tôn:
-- Bạch Thế Tôn, do nhân gì, do
duyên gì, ở đây, một số loài hữu tình ngay trong hiện tại không được
hoàn toàn tịch tịnh? Bạch Thế Tôn, do nhân gì, do duyên gì, ở đây, một
số loài hữu tình ngay trong hiện tại được hoàn toàn tịch tịnh?...
4-16)... (Như kinh trước)
17) -- Này Gia chủ, đây là nhân, đây
là duyên, do vậy, ở đây, một số loài hữu tình ngay trong hiện tại được
hoàn toàn tịch tịnh.
127. IV. Bhàradvàja (S.iv,110)
1) Một thời Tôn giả
Pindolabhàradvàja trú ở Kosambi, tại vườn Ghosità.
2) Rồi vua Udena đi đến Tôn giả
Pindolabhàradvàja; sau khi đến, nói lên với Tôn giả Pindolabhàradvàja những
lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân
hữu rồi ngồi xuống một bên.
3) Ngồi xuống một bên, vua Udena thưa
với Tôn giả Pindolabhàradvàja:
-- Thưa Bhàradvàja, do nhân gì, do
duyên gì, những Tỷ-kheo trẻ tuổi này, còn non trẻ, tóc đen nhánh, đầy
đủ với tuổi trẻ hiền thiện, trong lúc tuổi còn thanh xuân lại không
tham nhiễm dục vọng, thực hành Phạm hạnh hoàn toàn thanh tịnh cho đến
trọn đời, và sống toàn thời gian một cách hoàn mãn (addhànam apàdenti)?
4) -- Thưa Đại vương, Thế Tôn, bậc
Tri giả, Kiến giả, bậc A-la-hán. Chánh Đẳng Giác đã nói như sau: "Hãy
đến, này các Tỷ-kheo, đối với những người chỉ là mẹ, hãy an trú
tâm người mẹ. Đối với những người chỉ là chị, hãy an trú tâm người
chị. Đối với người chỉ là con gái, hãy an trú tâm người con gái. Thưa
Đại Vương, đây là nhân, đây là duyên, do vậy các Tỷ-kheo trẻ tuổi
này, còn non trẻ, tóc đen nhánh, đầy đủ với tuổi trẻ hiền thiện,
trong lúc tuổi còn thanh xuân lại không tham nhiễm dục vọng, thực hành Phạm
hạnh hoàn toàn thanh tịnh cho đến trọn đời, và sống toàn thời gian một
cách hoàn mãn.
5) -- Tham vọng (loba), này
Bhàradvàja, là tâm. Đôi khi đối với những người chỉ là mẹ, tham pháp
khởi lên. Đối với những người chỉ là chị, tham pháp khởi lên. Đối
với những người chỉ là con gái, tham pháp khởi lên. Này Bhàradvàja, có
một nhân khác, có một duyên khác, do vậy các Tỷ-kheo trẻ tuổi này... một
cách hoàn mãn?
6) -- Thưa Đại vương, Thế Tôn, bậc
Tri giả, Kiến giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác đã nói như sau: "Hãy
đến, này các Tỷ-kheo, hãy quán sát thân này dưới từ bàn chân trở
lên, trên từ đảnh tóc trở xuống, bao bọc bởi da và chứa đầy bất tịnh
sai biệt. Trong thân này, đây là tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương,
tủy, thận, tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột, bao tử, phân, mật,
đàm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, nước miếng, nước mủ,
nước ở khớp xương, nước tiểu. Thưa Đại vương, đây là nhân, đây
là duyên, do vậy các Tỷ-kheo trẻ tuổi này... sống toàn thời gian một
cách hoàn mãn.
7) -- Này Bhàradvàja, đối với những
Tỷ-kheo nào, thân có tu tập, giới có tu tập, tâm có tu tập, tuệ có tu tập,
thời như vậy thật là dễ dàng. Và này Bhàradvàja, đối với những Tỷ-kheo
nào, thân không có tu tập, giới không có tu tập, tâm không có tu tập, tuệ
không có tu tập thời như vậy thật là khó khăn. Đôi khi, này Bhàradvàja,
có người nghĩ rằng: "Chúng ta sẽ tác ý bất tịnh", nhưng lại
đi đến tịnh (tướng). Này Bhàradvàja, có nhân nào khác, duyên nào khác,
do vậy các Tỷ-kheo trẻ tuổi này... sống toàn thời gian một cách hoàn
mãn?
8) -- Thưa Đại vương, Thế Tôn, bậc
Tri giả, Kiến giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác đã nói như sau: "Hãy
đến, này các Tỷ-kheo, hãy sống hộ trì các căn. Sau khi mắt thấy sắc,
chớ có nắm giữ tướng chung, chớ có nắm giữ tướng riêng. Những
nguyên nhân gì, vì đó nhãn căn không được chế ngự, khiến tham ái, ưu
bi, các ác bất thiện pháp khởi lên; hãy thực hành chế ngự nguyên nhân
ấy, hãy hộ trì nhãn căn, thực hành hộ trì nhãn căn. Khi tai nghe tiếng...
khi mũi ngửi hương... khi lưỡi nếm vị... khi thân cảm xúc... khi ý nhận
thức các pháp, chớ có nắm giữ tướng chung, chớ có nắm giữ tướng riêng.
Những nguyên nhân gì, vì đó ý căn không được chế ngự, khiến tham ái,
ưu bi, các ác bất thiện pháp khởi lên; hãy thực hành chế ngự nguyên
nhân ấy, hãy hộ trì ý căn, thực hành hộ trì ý căn. Thưa Đại vương,
đây là nhân, đây là duyên, do vậy những Tỷ-kheo trẻ tuổi này... sống
toàn thời gian một cách hoàn mãn.
9) -- Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả
Bhàradvàja! Thật hy hữu thay, thưa Tôn giả Bhàradvàja, là lời khéo nói
này của Thế Tôn, bậc Tri giả, Kiến giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác.
Chính nhân này, thưa Tôn giả Bhàradvàja, chính duyên này, do vậy các Tỷ-kheo
trẻ tuổi này, còn non trẻ, tóc đen nhánh, đầy đủ với tuổi trẻ hiền
thiện, trong lúc tuổi còn thanh xuân, lại không tham nhiễm dục vọng, thực
hành Phạm hạnh hoàn toàn thanh tịnh cho đến trọn đời, sống toàn thời
gian một cách hoàn mãn.
10) Tôi cũng vậy, thưa Tôn giả
Bhàradvàja, khi nào tôi vào trong nội cung với thân không phòng hộ, với lời
nói không phòng hộ, với tâm không phòng hộ, với niệm không an trú, với
các căn không chế ngự; thời trong khi ấy, tham pháp chinh phục tôi. Nhưng
thưa Tôn giả Bhàradvàja, trong khi tôi vào nội cung, với thân được phòng
hộ, với lời nói được phòng hộ, với tâm được phòng hộ, với niệm
được an trú, với các căn được chế ngự; thời trong khi ấy, tham pháp
không chinh phục tôi.
11) Thật hy hữu thay, thưa Tôn giả
Bhàradvàja! Thật hy hữu thay, thưa Tôn giả Bhàradvàja! Thưa Tôn giả
Bhàradvàja, như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi
bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho những kẻ lạc hướng, đem
đèn sáng vào trong bóng tối để cho những ai có mắt có thể thấy sắc.
Cũng vậy, Chánh pháp đã được Tôn giả Bhàradvàja dùng nhiều phương tiện
trình bày, giải thích. Vậy nay, thưa Tôn giả Bhàradvàja, con xin quy y Thế
Tôn, quy y Pháp, quy y chúng Tỷ-kheo. Tôn giả Bhàradvàja hãy nhận con làm đệ
tử cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con xin trọn đời quy ngưỡng.
128. V. Sona (S.iv,113)
1) Một thời Thế Tôn trú ở
Ràjagaha (Vương Xá), tại Veluvana (Trúc Lâm), chỗ nuôi dưỡng các con sóc.
2) Rồi Sona, con người gia chủ
Sona, đi đến Thế Tôn...
3) Ngồi xuống một bên, Sona, con người
gia chủ, bạch Thế Tôn:
-- Do nhân gì, do duyên gì, bạch Thế
Tôn, ở đây, một số loài hữu tình, ngay trong hiện tại, không được hoàn
toàn tịch tịnh? Do nhân gì, do duyên gì, ở đây, một số loài hữu tình,
ngay trong hiện tại được hoàn toàn tịch tịnh? (... Giống như kinh trước...)
-- Này Sona, đây là nhân, đây là
duyên... do vậy, ở đây, một số loài hữu tình... ngay trong hiện tại
được hoàn toàn tịch tịnh.
129. VI. Ghosita (S.iv,113)
1) Một thời Tôn giả Ananda trú ở
Kosambi, tại vườn Ghosita.
2) Rồi gia chủ Ghosita đi đến Tôn
giả Ananda...
3) Ngồi xuống một bên, gia chủ
Ghosita thưa với Tôn giả Ananda:
-- "Sai biệt về giới, sai biệt
về giới", thưa Tôn giả Ananda, được nói đến như vậy. Cho đến
như thế nào, thưa Tôn giả, Thế Tôn nói đến sai biệt về giới?
4) -- Này Gia chủ, khi nào nhãn giới,
sắc khả ý, và nhãn thức cùng khởi lên; do duyên lạc xúc khởi lên lạc
thọ. Này Gia chủ, khi nào nhãn giới, sắc không khả ý, và nhãn thức
cùng khởi lên; do duyên khổ xúc khởi lên khổ thọ. Này Gia chủ, khi nào
nhãn giới sắc trú xả và nhãn thức cùng khởi lên; do duyên bất khổ bất
lạc xúc khởi lên bất khổ bất lạc thọ.
5) Này Gia chủ, khi nào nhĩ giới...
6) Này Gia chủ, khi nào tỷ giới...
7) Này Gia chủ, khi nào thiệt giới...
8) Này Gia chủ, khi nào thân giới...
9) Này Gia chủ, khi nào ý giới,
pháp khả ý, và ý thức cùng khởi lên; do duyên lạc xúc khởi lên lạc thọ.
Này Gia chủ, khi nào ý giới... pháp không khả ý và ý thức cùng khởi
lên; do duyên khổ xúc khởi lên khổ thọ. Này Gia chủ, khi nào ý giới,
pháp giới trú xả và ý thức cùng khởi lên; do duyên bất khổ bất lạc
xúc khởi lên bất khổ bất lạc thọ.
10) Cho đến như vậy, này Gia chủ,
Thế Tôn đã nói đến về sai biệt các giới.
130. VII. Haliddhaka (S.iv,115)
1) Một thời Tôn giả Mahà Kaccàna
trú giữa dân chúng Avanti, tại Kuraraghara, trong một hang núi(?).
2) Rồi gia chủ Hàliddikàni đi đến
Tôn giả Mahà Kaccàna...
3) Ngồi xuống một bên, gia chủ
Hàliddikàni thưa với Tôn giả Mahà Kaccàna:
-- Thưa Tôn giả, Thế Tôn nói như
sau: "Do duyên sai biệt về giới khởi lên sai biệt về xúc. Do duyên
sai biệt về xúc khởi lên sai biệt về thọ". Như thế nào, thưa Tôn
giả, do duyên sai biệt về giới khởi lên sai biệt về xúc; do duyên sai biệt
về xúc khởi lên sai biệt về thọ?
4) -- Ở đây, này Gia chủ, Tỷ-kheo
khi mắt thấy sắc khả ý, nghĩ rằng: "Đây là vậy, đây là vậy",
được biết rõ nhãn thức có lạc xúc. Do duyên lạc xúc khởi lên lạc thọ.
Khi mắt thấy sắc bất khả ý, nghĩ rằng: "Đây là vậy, đây là vậy",
được biết rõ nhãn thức có khổ xúc. Do duyên khổ xúc khởi lên khổ thọ.
Khi mắt thấy sắc trú xả, nghĩ rằng: "Đây là vậy, đây là vậy",
được biết rõ nhãn thức có bất khổ bất lạc xúc. Do duyên bất khổ bất
lạc xúc khởi lên bất khổ bất lạc thọ.
5-9) Lại nữa, này Gia chủ, khi tai
nghe tiếng... khi mũi ngửi hương... khi lưỡi nếm vị... khi thân cảm
xúc... khi ý biết pháp khả ý, nghĩ rằng: "Đây là vậy, đây là vậy",
được biết rõ ý thức có lạc xúc. Do duyên lạc xúc khởi lên lạc thọ.
Khi ý biết pháp bất khả ý, nghĩ rằng: "Đây là vậy, đây là vậy",
được biết rõ ý thức có khổ xúc. Do duyên khổ xúc khởi lên khổ thọ.
Khi ý biết pháp trú xả, nghĩ rằng: "Đây là vậy, đây là vậy",
được biết rõ ý thức có bất khổ bất lạc xúc. Do duyên bất khổ bất
lạc xúc khởi lên bất khổ bất lạc thọ.
10) Như vậy, này Gia chủ, do duyên
sai biệt về giới khởi lên sai biệt về xúc. Do duyên sai biệt về xúc khởi
lên sai biệt về thọ.
131. VIII. Nakulapità (S.iv,116)
1) Một thời Thế Tôn trú giữa
dân chúng Bhagga, tại núi Sumsumàra, rừng Bhesakalà, vườn Lộc Uyển.
2) Rồi gia chủ Nakulapità...
3) Ngồi xuống một bên, gia chủ
Nakulapità bạch Thế Tôn:
-- Bạch Thế Tôn, do nhân gì, do
duyên gì, ở đây, có một số loài hữu tình, ngay trong hiện tại không
được hoàn toàn tịch tịnh? Bạch Thế Tôn, do nhân gì, do duyên gì, ở đây,
có một số loài hữu tình, ngay trong hiện tại được hoàn toàn tịch tịnh?
4-9) -- Này Gia chủ, có những sắc
do mắt nhận thức... (như kinh 118)
10) Này Gia chủ, đây là nhân, đây
là duyên, do vậy, ở đây, một số loài hữu tình, ngay trong hiện tại,
không được hoàn toàn tịch tịnh.
11-16) Này Gia chủ, có những sắc
do mắt nhận thức...
17) Này Gia chủ, đây là nhân, đây
là duyên, do vậy, ở đây, có một số loài hữu tình, ngay trong hiện tại,
được hoàn toàn tịch tịnh.
132. IX. Lohicca (S,iv,116)
1) Một thời Tôn giả Mahà Kaccàna
trú ở giữa dân chúng Avanti, tại Makkarakata, tại một chòi lá trong rừng.
2) Rồi một số đông đệ tử của
Bà-la-môn Lohicca, là những thanh niên lượm củi, đi đến chòi lá trong rừng
của Tôn giả Mahà Kaccàna; sau khi đến, đi qua đi lại, đi vòng quanh chòi
lá, cao tiếng, lớn tiếng, và làm đủ loại trò chơi nghịch ngợm:
"Những kẻ trọc đầu, Sa-môn giả hiệu, đê tiện, đen đủi, sanh từ
nơi chân này, lại được các kẻ nô tùy khuân vác cung kính, tôn trọng,
cúng dường, lễ bái".
3) Rồi Tôn giả Mahà Kaccàna từ
trong nhà bước ra và nói với các thanh niên ấy:
-- Này các Thanh niên, chớ có làm
ồn. Ta sẽ thuyết pháp cho các Ông.
Khi nghe nói vậy, các thanh niên đều
im lặng.
4) Rồi Tôn giả Mahà Kaccàna nói
lên những bài kệ với các thanh niên ấy:
1) Những bậc cổ nhân xưa,
Tối thắng trong giới hạnh,
Các bậc Bà-la-môn,
Ghi nhớ các cổ luật.
Các căn được hộ trì,
Được khéo léo chế ngự,
Họ nhiếp phục đoạn tận
Mọi tức giận phẫn nộ.
2) Họ hân hoan trong pháp,
Họ hân hoan trong Thiền,
Họ là Bà-la-môn,
Ghi nhớ các cổ luật.
Còn kẻ trốn luật này,
Chỉ lắp bắp tụng đọc,
Say mê trong giai cấp,
Họ bước đi khập khểnh.
3) Bị phẫn nộ nhiếp phục,
Dùng nhiều loại gậy gộc,
Họ rơi vào nguy hại,
Giữa kẻ tham, bậc Thánh,
Rỗng không là giới cấm,
Khi căn không chế ngự,
Như người được tài sản,
Trong cơn mộng nằm mơ.
4) Không ăn, quyết nhịn đói,
Nằm ngủ trên đất trần,
Sáng dậy, tắm sạch tội,
Tụng đọc ba Vệ-đà,
Mặc da thú thô cứng,
Bện tóc, da dính bùn,
Tụng đọc các thần chú,
Giới cấm thủ, khổ hạnh.
5) Giả dối và lừa đảo,
Sử dụng các gậy gộc,
Dùng nước để tắm rửa,
Dùng nước để súc miệng,
Đó là những sắc tướng,
Các hàng Bà-la-môn,
Họ làm và thực hiện,
Mong hưởng những lợi nhỏ.
6) Nhứt tâm, khéo định tĩnh,
Trong sáng, không cấu uế,
Nhu thuận mọi chúng sanh,
Con đườn g đạt tối thượng.
5) Rồi các thanh niên ấy, tức giận
và không vui, đi đến Bà-la-môn Lohicca; sau khi đến, thưa với Bà-la-môn
Lohicca:
-- Mong Tôn giả biết rằng, Sa-môn
Mahà Kaccàna đang một mạch chỉ trích và mạ lỵ thần chú của các
Bà-la-môn.
Khi nghe nói vậy, Bà-la-môn Lohicca tức
giận và không vui.
6) Rồi Bà-la-môn Lohicca suy nghĩ:
"Thật không thích đáng cho ta khi ta nghe một mình các thanh niên
Bà-la-môn, rồi phỉ báng và công kích Sa-môn Mahà Kaccàna. Vậy, ta hãy đi
đến và hỏi vị ấy".
7) Rồi Bà-la-môn Lohicca cùng với
các thanh niên Bà-la-môn ấy đi đến Tôn giả Mahà Kaccàna; sau khi đến, nói
lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một bên.
8) Ngồi xuống một bên, Bà-la-môn
Lohicca nói với Tôn giả Mahà Kaccàna:
-- Tôn giả Kaccàna, có phải có một
số đông đệ tử của chúng tôi, những thanh niên Bà-la-môn lượm củi đã
đến đây?
-- Này Bà-la-môn, một số đông đệ
tử của Ông, những thanh niên Bà-la-môn lượm củi có đến tại đây.
-- Thưa Tôn giả Kaccàna, Tôn giả
có nói chuyện với những thanh niên Bà-la-môn ấy không?
-- Này Bà-la-môn, tôi có nói chuyện
với những thanh niên Bà-la-môn ấy.
-- Như thế nào là câu chuyện giữa
Tôn giả Kaccàna với những thanh niên Bà-la-môn ấy?
-- Này Bà-la-môn, như thế nầy là
câu chuyện giữa tôi và các thanh niên Bà-la-môn ấy:
1) Những bậc cổ nhân xưa
Tối thắng trong giới hạnh,
Các bậc Bà-la-môn
Ghi nhớ các cổ luật.
... .. .. .. .. .. .
6) Nhứt tâm, khéo định tĩnh,
Trong sáng, không cấu uế,
Nhu thuận mọi chúng sanh,
Con đường đạt tối thượng.
Như vậy, này Bà-la-môn, là cuộc
nói chuyện giữa tôi và các thanh niên Bà-la-môn ấy.
9) -- Tôn giả Kaccàna có nói đến
hộ trì các căn. Cho đến như thế nào, thưa Tôn giả Kaccàna, là hộ trì
các căn?
10) -- Ở đây, này Bà-la-môn, có người
sau khi mắt thấy sắc, có tâm hướng đến các sắc khả ái, có tâm ghét
bỏ các sắc không khả ái, sống với niệm không an trú, với tâm nhỏ hẹp.
Người ấy không như thật biết rõ tâm giải thoát và tuệ giải thoát. Do
vậy, các ác bất thiện pháp đã khởi lên, không có đoạn diệt không có
dư tàn.
11-14). .. sau khi tai nghe tiếng... sau
khi mũi ngửi hương... sau khi lưỡi nếm vị... sau khi thân cảm xúc...
15). .. sau khi ý biết các pháp, tâm
hướng đến các pháp khả ái, tâm ghét bỏ các pháp không khả ái, sống
với niệm không an trú, với tâm nhỏ hẹp. Người ấy không như thật biết
rõ tâm giải thoát và tuệ giải thoát. Do vậy, các ác bất thiện pháp đã
khởi lên, không có đoạn diệt, không có dư tàn.
16) Như vậy, này Bà-la-môn, là các
căn không có hộ trì.
17) -- Thật là vi diệu, thưa Tôn giả
Kaccàna, thật là hy hữu, thưa Tôn giả Kaccàna, cách thức Tôn giả Kaccàna
đã định nghĩa các căn không hộ trì. Các căn có hộ trì, các căn có hộ
trì, Tôn giả Kaccàna đã nói như vậy; cho đến như thế nào, thưa Tôn giả
Kaccàna, là các căn có hộ trì?
18) -- Ở đây, này Bà-la-môn, Tỷ-kheo
sau khi mắt thấy sắc, tâm không hướng đến các sắc khả ái, tâm không
ghét bỏ các sắc không khả ái, sống với niệm an trú, với tâm vô lượng.
Vị ấy như thật biết rõ tâm giải thoát và tuệ giải thoát. Do vậy,
các ác bất thiện pháp đã khởi lên được đoạn diệt không có dư tàn.
19-22). .. sau khi tai nghe tiếng... sau
khi mũi ngửi hương... sau khi lưỡi nếm vị... sau khi thân cảm xúc...
23). .. sau khi ý nhận biết các
pháp, tâm không hướng đến các pháp khả ái, tâm không ghét bỏ các pháp
không khả ái, sống với niệm an trú, với tâm vô lượng. Vị ấy như thật
biết rõ tâm giải thoát và tuệ giải thoát. Do vậy, các ác bất thiện
pháp đã khởi lên được đoạn diệt không có dư tàn.
24) Như vậy, này Bà-la-môn, là các
căn được hộ trì.
25) -- Thật là vi diệu, thưa Tôn giả
Kaccàna, thật là hy hữu, thưa Tôn giả Kaccàna, cách thức Tôn giả Kaccàna
đã định nghĩa các căn được hộ trì. Thật vi diệu thay, Tôn giả
Kaccàna! Thật vi diệu thay, Tôn giả Kaccàna! Thưa Tôn giả Kaccàna, như người
dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị
che kín, chỉ đường cho kẻ lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối
để cho những ai có mắt được thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đã được
Tôn giả Kaccàna dùng nhiều phương tiện trình bày, giải thích. Vậy nay,
thưa Tôn giả Kaccàna, con xin quy y Thế Tôn, quy y Pháp, quy y chúng Tỷ-kheo.
Tôn giả Kaccàna hãy nhận con làm đệ tử cư sĩ, từ nay cho đến mạng
chung, con xin trọn đời quy ngưỡng. Và như Tôn giả Kaccàna đi đến viếng
các gia đình cư sĩ, cũng vậy, cũng vậy, mong Tôn giả Kaccàna hãy đến viếng
các gia đình Lohicca. Tại đấy, các thanh niên và thanh nữ sẽ đảnh lễ Tôn
giả Kaccàna, sẽ soạn chỗ ngồi, hay cúng dường nước cho Tôn giả
Kaccàna, và như vậy, họ sẽ được hạnh phúc, an lạc trong một thời
gian dài.
133. X. Verahaccàni (S.iv,121)
1) Một thời Tôn giả Udàyi trú ở
Kàmandàya, tại vườn xoài của Bà-la-môn Todeyya.
2) Rồi một đệ tử thanh niên của
nữ Bà-la-môn, thuộc dòng họ Verahaccàni, đi đến Tôn giả Udàyi; sau khi
đến, nói với Tôn giả Udàyi những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói
lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu liền ngồi xuống một bên.
3) Rồi Tôn giả Udàyi với bài
pháp thoại, trình bày, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ thanh
niên Bà-la-môn ấy đang ngồi xuống một bên.
4) Rồi thanh niên ấy, sau khi được
Tôn giả Udàyi với bài pháp thoại, trình bày, khích lệ, làm cho phấn khởi,
làm cho hoan hỷ, liền đi đến nữ Bà-la-môn thuộc dòng họ Verahaccàni;
sau khi đến, nói với nữ Bà-la-môn thuộc dòng họ Verahaccàni:
-- Mong nữ Tôn giả biết cho,
Sa-môn Udàyi thuyết pháp, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, với nghĩa, với
văn, và trình bày Phạm hạnh hoàn toàn viên mãn thanh tịnh.
5) -- Vậy này Thanh niên, hãy nhân
danh ta, mời Sa-môn Udàyi ngày mai đến dùng cơm.
-- Thưa vâng, Tôn giả.
Thanh niên Bà-la-môn ấy vâng đáp nữ
Bà-la-môn thuộc dòng họ Verahaccàni, đi đến Tôn giả Udàyi; sau khi đến
thưa với Tôn giả Udàyi:
-- Tôn giả Udàyi, hãy nhận đạo
sư phí của chúng tôi (là) buổi cơm ngày mai từ nữ Bà-la-môn thuộc dòng
họ Verahaccàni.
Tôn giả Udàyi im lặng nhận lời.
6) Rồi Tôn giả Udàyi, sau khi đêm
ấy đã mãn, vào buổi sáng, đắp y, cầm y bát, đi đến nhà của nữ
Bà-la-môn thuộc dòng họ Verahaccàni; sau khi đi đến, liền ngồi trên chỗ
đã soạn sẵn.
7) Rồi nữ Bà-la-môn thuộc dòng họ
Verahaccàni tự tay dâng cúng, hầu hạ Tôn giả Udàyi với các món ăn thượng
vị, loại cứng và loại mềm.
8) Rồi nữ Bà-la-môn thuộc dòng họ
Verahaccàni sau khi (thấy) Tôn giả Udàyi đã dùng cơm xong, tay đã rút lui khỏi
bát, liền mang dép, ngồi trên chỗ ngồi cao, trùm đầu, và thưa với Tôn
giả Udàyi:
-- Này Sa-môn, hãy thuyết pháp.
-- Này Chị, thời gian ấy sẽ đến.
Nói xong, Tôn giả Udàyi từ chỗ ngồi
đứng dậy và ra đi.
9) Lần thứ hai, thanh niên
Bà-la-môn ấy đi đến Tôn giả Udàyi; sau khi đến, nói lên với Tôn giả
Udàyi những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón
hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một bên. Rồi Tôn giả Udàyi với lời
pháp thoại trình bày, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ thanh
niên Bà-la-môn đang ngồi xuống một bên.
10) Lần thứ hai, thanh niên
Bà-la-môn ấy sau khi được Tôn giả Udàyi với pháp thoại, trình bày,
khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ, từ chỗ ngồi đứng dậy,
đi đến nữ Bà-la-môn thuộc dòng họ Verahaccàni; sau khi đến nói với nữ
Bà-la-môn thuộc dòng họ Verahaccàni:
-- Nữ Tôn giả hãy biết, Sa-môn
Udàyi thuyết pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, với nghĩa, với văn
và trình bày Phạm hạnh hoàn toàn viên mãn, thanh tịnh.
11) -- Như vậy, này Thanh niên
Bà-la-môn, Ông nói lời tán thán Sa-môn Udàyi. Nhưng Sa-môn Udàyi khi được
nói: "Này Sa-môn, hãy thuyết pháp", sau khi trả lời: "Này Chị,
thời ấy sẽ đến", từ chỗ ngồi đứng dậy, và đi về tịnh xá.
12) -- Thưa nữ Tôn giả, vì rằng nữ
Tôn giả đã đi dép, ngồi trên chỗ cao, trùm đầu và nói: "Này
Sa-môn, hãy thuyết pháp", các bậc Tôn giả ấy cung kính pháp, tôn trọng
pháp.
13) -- Vậy, này Thanh niên
Bà-la-môn, hãy nhân danh ta, ngày mai mời Sa-môn Udàyi đến dùng cơm.
-- Thưa vâng, nữ Tôn giả.
Thanh niên Bà-la-môn ấy vâng đáp nữ
Bà-la-môn thuộc dòng họ Verahaccàni, đi đến Tôn giả Udàyi; sau khi đến,
nói với Tôn giả Udàyi:
-- Tôn giả Udàyi, hãy chấp nhận
đạo sư phí của chúng tôi, (là) buổi cơm ngày mai từ nữ Bà-la-môn thuộc
dòng họ Verahaccàni.
Tôn giả Udàyi im lặng nhận lời.
14) Rồi Tôn giả Udàyi, sau khi đêm
ấy đã mãn, vào buổi sáng, đắp y, cầm y bát, đi đến nhà của nữ
Bà-la-môn thuộc dòng họ Verahaccàni; sau khi đến, ngồi trên chỗ đã soạn
sẵn.
15) Rồi nữ Bà-la-môn thuộc dòng họ
Verahaccàni, tự tay dâng cúng, hầu hạ Tôn giả Udàyi với các món ăn thượng
vị, loại cứng và loại mềm.
16) Rồi nữ Bà-la-môn thuộc dòng họ
Verahaccàni, sau khi thấy Tôn giả ăn xong, tay đã rút lui khỏi bát, liền cởi
dép, ngồi trên chỗ ngồi thấp, cởi khăn trùm đầu, rồi thưa Tôn giả
Udàyi:
-- Thưa Tôn giả, do cái gì hiện hữu,
các bậc A-la-hán trình bày về lạc khổ? Do cái gì không hiện hữu, các bậc
A-la-hán không trình bày lạc khổ?
17) -- Này Chị, do mắt hiện hữu,
các bậc A-la-hán trình bày lạc khổ. Do mắt không hiện hữu, các bậc
A-la-hán không trình bày lạc khổ... Do ý hiện hữu, các bậc A-la-hán
trình bày lạc khổ. Do ý không hiện hữu, các bậc A-la-hán không trình
bày lạc khổ.
18) Khi được nói vậy, nữ
Bà-la-môn thuộc dòng họ Verahaccàni thưa với Tôn giả Udàyi:
-- Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả!
Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả! Thưa Tôn giả, như người dựng đứng lại
những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, đem đèn
sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy,
Chánh pháp đã được Tôn giả Udàyi dùng nhiều phương tiện trình bày, giải
thích. Và nay, thưa Tôn giả Udàyi, con xin quy y Thế Tôn, quy y Pháp, quy y
chúng Tỷ-kheo Tăng. Tôn giả Udàyi nhận con làm đệ tử cư sĩ, từ nay cho
đến mạng chung, con xin trọn đời quy ngưỡng.
IV. Phẩm Devadaha
134. I. Sát Na Ở Devadaha (S.iv,124)
1) Một thời Thế Tôn ở giữa dân
chúng Sakka, tại một thị trấn của dân chúng Sakka, tên là Devadaha.
2) Ở đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
-- Này các Tỷ-kheo, Ta không tuyên bố
rằng đối với tất cả Tỷ-kheo cần phải cố gắng không phóng dật đối
với sáu xúc xứ. Nhưng này các Tỷ-kheo, Ta cũng không tuyên bố rằng đối
với tất cả Tỷ-kheo không cần phải cố gắng không phóng dật đối với
sáu xúc xứ.
3) Này các Tỷ-kheo, những Tỷ-kheo
nào là bậc A-la-hán, đã đoạn tận các lậu hoặc, đã thành tựu Phạm hạnh,
đã làm những việc phải làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã đạt được
mục đích, đã đoạn trừ hữu kiết sử, đã được giải thoát nhờ
chánh trí; thời này các Tỷ-kheo, đối với những Tỷ-kheo ấy, Ta tuyên bố
rằng không cần phải cố gắng không phóng dật đối với sáu xúc xứ.
Vì sao?
4) Vì các vị ấy đã hành trì
không phóng dật, đến nỗi họ không thể trở thành phóng dật.
5) Này các Tỷ-kheo, còn những Tỷ-kheo
nào còn là hữu học, sở nguyện chưa thành đạt, đang sống cần cầu vô
thượng an ổn khỏi các khổ ách; thời này các Tỷ-kheo, đối với các Tỷ-kheo
ấy, Ta tuyên bố rằng họ cần phải cố gắng không phóng dật đối với
sáu xúc xứ. Vì sao?
6) Này các Tỷ-kheo, có những sắc
do mắt nhận thức khả ái và không khả ái. Dầu chúng xúc chạm tâm nhiều
lần, chúng không chi phối được tâm và tồn tại. Do tâm không bị chi phối,
tinh cần, tinh tấn khởi lên, không có biếng nhác; niệm được an trú,
không có thất thoát; thân được khinh an, không có cuồng nhiệt; tâm được
định tĩnh, nhứt tâm. Này các Tỷ-kheo, thấy được quả không phóng dật
này, đối với những Tỷ-kheo ấy. Ta tuyên bố rằng, cần phải cố gắng
không phóng dật đối với sáu xúc xứ.
7-10) Này các Tỷ-kheo, có những tiếng
do tai nhận thức... có những hương do mũi nhận thức... có những vị do lưỡi
nhận thức... có những xúc do thân nhận thức...
11) Này các Tỷ-kheo, có những pháp
do ý nhận thức khả ái và không khả ái. Dầu chúng xúc chạm tâm nhiều
lần, chúng không chi phối được tâm và tồn tại. Do tâm không bị chi phối,
tinh cần, tinh tấn khởi lên, không có biếng nhác; niệm được an trú,
không có thất thoát; thân được khinh an, không cuồng nhiệt; tâm được
định tĩnh, nhứt tâm. Này các Tỷ-kheo, thấy được quả không phóng dật
này, đối với những Tỷ-kheo ấy, Ta tuyên bố rằng, cần phải cố gắng
không phóng dật đối với sáu xúc xứ.
135. II. Thâu Nhiếp (S.iv, 126)
1). ..
2) -- Này các Tỷ-kheo, các Ông được
lợi đắc. Này các Tỷ-kheo, các Ông được khéo lợi đắc. Các Ông đã nắm
được cơ hội (khana) để sống Phạm hạnh.
3) Này các Tỷ-kheo, Ta đã thấy
các địa ngục gọi là sáu xúc xứ địa ngục. Ở đấy, phàm mắt thấy
sắc gì, thấy sắc không khả lạc, không phải sắc khả lạc; thấy sắc
không khả hỷ, không phải sắc khả hỷ; thấy sắc không khả ý, không phải
sắc khả ý. Phàm tai nghe tiếng gì... Phàm mũi ngửi hương gì... Phàm lưỡi
nếm vị gì... Phàm thân cảm xúc gì... Phàm ý nhận thức pháp gì, nhận
thức pháp không khả lạc, không phải pháp khả lạc; nhận thức không phải
khả hỷ, không phải pháp khả hỷ; nhận thức pháp không khả ý, không phải
pháp khả ý.
Này các Tỷ-kheo, các Ông được lợi
đắc. Này các Tỷ-kheo, các Ông được khéo lợi đắc. Các Ông đã nắm
được cơ hội để sống Phạm hạnh.
4) Này các Tỷ-kheo, Ta đã thấy
các Thiên giới gọi là sáu xúc xứ Thiên giới. Tại đấy, phàm mắt thấy
sắc gì, thấy sắc khả lạc, không phải sắc không lạc; thấy sắc khả
hỷ, không phải sắc không khả hỷ; thấy sắc khả ý, không phải sắc
không khả ý. Phàm tai nghe tiếng gì... Phàm mũi ngửi hương gì... Phàm lưỡi
nếm vị gì... Phàm thân cảm xúc gì... Phàm ý nhận thức pháp gì, nhận
thức pháp khả lạc, không phải không khả lạc; nhận thức pháp khả hỷ,
không phải không khả hỷ; nhận thức pháp khả ý, không phải pháp không
khả ý.
Này các Tỷ-kheo, các Ông được lợi
đắc. Này các Tỷ-kheo, các Ông được khéo lợi đắc. Các Ông đã nắm
được cơ hội để sống Phạm hạnh.
136. III. Không Thâu Nhiếp (2)
(S.iv 126)
1). ..
2) Này các Tỷ-kheo, chư Thiên và Người
đời thích thú sắc, bị sắc kích thích. Khi sắc biến hoại, ly tham, đoạn
diệt, này các Tỷ-kheo, chư Thiên và Người đời sống đau khổ... thích
thú tiếng... thích thú hương... thích thú vị... thích thú xúc... Này các Tỷ-kheo,
chư Thiên và Người đời thích thú pháp, bị pháp kích thích. Khi pháp biến
hoại, ly tham, đoạn diệt, này các Tỷ-kheo,chư Thiên và Người đời sống
đau khổ.
3) Này các Tỷ-kheo, Như Lai, bậc
A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, sau khi như thật biết rõ sự tập khởi, sự
đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và xuất ly của sắc, không có thích
thú sắc, không có ưa thích sắc, không bị sắc kích thích. Khi sắc biến
hoại, ly tham, đoạn diệt, này các Tỷ-kheo, Như Lai sống an lạc... không
thích thú tiếng... không thích thú hương... không thích thú vị... không
thích thú xúc...
Sau khi như thật biết rõ sự tập
khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của pháp,
Như Lai không thích thú pháp, không ưa thích pháp, không bị pháp kích
thích. Khi pháp biến hoại, ly tham, đoạn diệt, Như Lai sống an lạc.
4) Thế Tôn nói như vậy, Thiện Thệ
nói vậy xong, bậc Đạo Sư lại nói thêm:
1) Sắc, thanh, hương, vị, xúc,
Và toàn thể các pháp,
Khả lạc, hỷ, khả ý,
Như vậy, chúng được gọi.
2) Chư Thiên và Người đời,
Xem chúng là khả lạc,
Chỗ nào chúng đoạn diệt,
Thiên, Nhân thấy đau khổ.
3) Bậc Thánh thấy an lạc,
Khi thân kiến đoạn diệt,
Bậc Thánh xem trái ngược,
Mọi quan điểm của đời.
4) Điều người gọi là lạc,
Bậc Thánh gọi là khổ.
Điều người gọi là khổ,
Thánh nhân biết là lạc.
5) Thấy pháp khó nhận biết,
Kẻ vô trí mê loạn,
Tối tăm đối vô minh,
Mù lòa đối không thấy.
6) Thiện nhân mắt rộng mở,
Thấy rõ ràng ánh sáng,
Sống gần, biết rõ ràng,
Thuần thục trong pháp lớn.
7) Bị tham sanh chinh phục,
Bị dòng hữu cuốn trôi,
Bị Ác ma chi phối,
Không giác ngộ pháp này.
8) Ngoài Thánh không có ai,
Giác ngộ con đường này,
Con đường đạt Niết-bàn,
Chánh trí thoát lậu hoặc.
5) Này các Tỷ-kheo, chư Thiên và Người
đời thích thú sắc, bị sắc kích thích. Khi sắc biến hoại, ly tham, đoạn
diệt, này các Tỷ-kheo, chư Thiên và Người đời sống đau khổ... thích
thú tiếng... thích thú hương... thích thú vị... thích thú xúc... Này các Tỷ-kheo,
chư Thiên và Người đời thích thú pháp, bị pháp kích thích. Khi pháp biến
hoại, ly tham, đoạn diệt, này các Tỷ-kheo, chư Thiên và Người đời sống
đau khổ.
6) Này các Tỷ-kheo, Như Lai, bậc
A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, sau khi như thật biết rõ sự tập khởi, sự
đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của sắc, không
thích thú sắc, không ưa thích sắc, không bị sắc kích thích. Khi sắc biến
hoại, ly tham, đoạn diệt, này các Tỷ-kheo, Như Lai sống an lạc... không
thích thú tiếng... không thích thú hương... không thích thú vị... không
thích thú xúc... Sau khi như thật biết rõ sự tập khởi, sự đoạn diệt,
vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của các pháp, Như Lai không thích
thú pháp, không ưa thích pháp, không bị các pháp kích thích. Khi các pháp
biến hoại, ly tham, đoạn diệt, này các Tỷ-kheo, Như Lai sống an lạc.
137. V. Các Lá٠(1) (S.iv,128)
1). ..
2) Này các Tỷ-kheo, cái gì không phải
của các Ông, hãy từ bỏ chúng. Từ bỏ chúng sẽ đem lại hạnh phúc, an
lạc cho các Ông. Và này các Tỷ-kheo, cái gì không phải của các Ông?
3-8) Mắt, này các Tỷ-kheo, không phải
của các Ông, hãy từ bỏ mắt. Từ bỏ mắt sẽ đem lại hạnh phúc, an lạc
cho các Ông... Tai... Mũi... Lưỡi... Thân... Ý, này các Tỷ-kheo, không phải
của các Ông, hãy từ bỏ ý. Từ bỏ ý sẽ đem lại hạnh phúc, an lạc
cho các Ông.
9) Ví như, này các Tỷ-kheo, trong rừng
Jeta này, có người mang đi, hoặc đem đốt, hoặc tùy duyên làm một việc
gì đối với cỏ, củi, cành và lá, thời các Ông có vì vậy mà nghĩ rằng
người ấy mang các Ông đi, đốt các Ông, hay tùy duyên làm một việc gì
với các Ông?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
-- Vì sao?
-- Bạch Thế Tôn, vì cái ấy không
phải tự ngã, không thuộc tự ngã.
10) Cũng vậy, này các Tỷ-kheo. Mắt
không phải của các Ông, hãy từ bỏ mắt. Từ bỏ mắt sẽ đem lại hạnh
phúc, an lạc cho các Ông. Tai... Mũi... Lưỡi... Thân... Ý, này các Tỷ-kheo,
không phải của các Ông, hãy từ bỏ ý. Từ bỏ ý, sẽ đem lại hạnh phúc,
an lạc cho các Ông.
138. V. Các Lá٠(2) (S.iv,129)
1). ..
2) -- Này các Tỷ-kheo, cái gì không
phải của các Ông, hãy từ bỏ chúng... (Như kinh trước, chỉ khác là thế
vào các sắc, các tiếng, các hương, các vị, các xúc, và các pháp).
139. VI. Nội Căn Do Nhân (1)
(S.iv,129)
1). ..
2) -- Này các Tỷ-kheo, mắt là vô
thường. Do nhân gì, do duyên gì khiến mắt khởi lên, cái ấy cũng vô thường.
Này các Tỷ-kheo, mắt do nhân vô thường khởi lên, từ đâu sẽ thường còn
được?
4-7). .. tai... mũi... lưỡi... thân...
8) Này các Tỷ-kheo, ý là vô thường.
Do nhân gì, do duyên gì khiến ý khởi lên, cái ấy cũng vô thường. Này
các Tỷ-kheo, ý do nhân vô thường khởi lên, từ đâu có thể thường được?
9) Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, vị
Đa văn Thánh đệ tử nhàm chán đối với mắt... đối với ý. Do nhàm
chán, vị ấy ly tham... "... không còn trở lui trạng thái này nữa".
140. VII. Nội Căn Do Nhân (2)
(S.iv,130)
(Như kinh trên, chỉ khác khổ thế
cho vô thường)...
141. VIII. Nội Căn Do Nhân (3)
(S.iv,130)
(Như kinh trên, chỉ khác vô ngã thế
cho vô thường)...
142 - 144. IX - X. Ngoại Căn Do Nhân (1)
(2)(3)(S.iv,131)
(Như các kinh trước, chỉ thế vào
sắc, các tiếng, các hương, các vị, các xúc, các pháp)...
V. Mới Và Cũ
145. I. Nghiệp (S.iv,132)
1). ..
2) -- Này các Tỷ-kheo, Ta thuyết về
các nghiệp mới và cũ, sự đoạn diệt các nghiệp, con đường đưa đến
sự đoạn diệt các nghiệp. Hãy lắng nghe và suy nghiệm kỹ. Ta sẽ giảng.
3) Này các Tỷ-kheo, thế nào là
nghiệp cũ?
Mắt, này các Tỷ-kheo, cần phải
quán là nghiệp cũ, được tác thành, được tư niệm, được cảm thọ.
Tai... Mũi... Lưỡi... Thân... Ý cần phải quán là nghiệp cũ, được tác
thành, được tư niệm, được cảm thọ.
Các Tỷ-kheo, đây được gọi là
nghiệp cũ.
4) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
nghiệp mới? Này các Tỷ-kheo, hiện tại phàm làm việc gì với thân, với
lời nói, hay với ý. Này các Tỷ-kheo, đây được gọi là nghiệp mới.
5) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
nghiệp đoạn diệt? Sự đoạn diệt thân nghiệp, ngữ nghiệp, ý nghiệp,
nhờ vậy cảm thấy giải thoát. Này các Tỷ-kheo, đây được gọi là nghiệp
đoạn diệt.
6) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
con đường đưa đến nghiệp đoạn diệt? Đây là con đường Thánh đạo
tám ngành, tức là chánh tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp,
chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Này các Tỷ-kheo, đây
gọi là con đường đưa đến nghiệp đoạn diệt.
7) Như vậy, này các Tỷ-kheo, Ta đã
giảng cho các Ông nghiệp cũ, đã giảng nghiệp mới, đã giảng nghiệp đoạn
diệt, đã giảng con đường đưa đến nghiệp đoạn diệt.
8) Này các Tỷ-kheo, phàm những gì
bậc Đạo Sư cần phải làm vì hạnh phúc, vì lòng thương đệ tử, những
việc ấy Ta đã làm cho các Ông, vì lòng thương tưởng các Ông.
9) Này các Tỷ-kheo, đây là những
gốc cây, đây là những căn nhà trống. Hãy Thiền tư, chớ có phóng dật,
chớ có hối hận về sau. Đây là lời giáo giới của Ta cho các Ông.
146. II. Thích Ứng (1) (S.iv,133)
1). ..
2) -- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng
cho các Ông con đường thích ứng với Niết-bàn. Hãy lắng nghe... Và này
các Tỷ-kheo, thế nào là con đường thích ứng với Niết-bàn?
3) Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
thấy mắt là vô thường, thấy các sắc là vô thường, thấy nhãn thức
là vô thường, thấy nhãn xúc là vô thường. Phàm duyên nhãn xúc khởi
lên cảm thọ gì, lạc, khổ hay bất khổ bất lạc; cảm thọ ấy là vô
thường.
4-5). . tai... mũi...
6-7). . lưỡi... thân...
8). . thấy ý là vô thường, thấy
các pháp là vô thường, thấy ý thức là vô thường, thấy ý xúc là vô
thường. Phàm duyên ý xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ hay bất khổ
bất lạc; cảm thọ ấy là vô thường.
9) Và này các Tỷ-kheo, đây là con
đường thích ứng với Niết-bàn.
147-148. III-IV. Thích Ứng (2)(3)
(S.iv,134)
(Như kinh trên, chỉ khác là thế
vào khổ và vô ngã)
149. V. Thích Ứng (4)(S.iv,135)
1). ..
2) -- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng
cho các Ông về con đường thích ứng với Niết-bàn. Hãy lắng nghe... Và
này các Tỷ-kheo, thế nào là con đường thích ứng với Niết-bàn?
3) Các Ông nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo,
mắt là thường hay vô thường?
-- Là vô thường, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
-- Là khổ, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự
biến hoại, có hợp lý chăng nếu quán cái ấy là: "Cái này là của
tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi"?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn...
(Như kinh 32)
150. VI. Đệ Tử Nội Trú (S.iv,136)
1-2). ..
3) -- Này các Tỷ-kheo, không có các
đệ tử nội trú, không có Đạo Sư. Phạm hạnh này được sống.
4) Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống
có đệ tử nội trú, có Đạo sư là sống đau khổ, không có thoải mái.
Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống không có đệ tử nội trú, không có Đạo
sư là sống an lạc, thoải mái.
5) Và thế nào, này các Tỷ-kheo, sống
có đệ tử nội trú, có Đạo sư là sống đau khổ, không có thoải mái?
6) Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
khi mắt thấy sắc, các ác bất thiện pháp, các ức niệm, ước vọng bị
khởi lên trói buộc, chúng trú ở trong vị ấy; các ác bất thiện pháp nội
trú trong vị ấy. Do vậy, được gọi là có đệ tử nội trú. Chúng theo
sát (Samudàcaranti) vị ấy; các ác bất thiện pháp theo sát vị ấy. Do vậy,
được gọi là Đạo sư.
7-10). .. khi tai nghe tiếng... khi mũi
ngửi hương... khi lưỡi nếm vị... khi thân cảm xúc...
11) Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
khi ý biết pháp, các ác bất thiện pháp, các ức niệm, ước vọng bị trói
buộc khởi lên, chúng trú ở trong vị ấy; các ác bất thiện pháp nội
trú ở trong vị ấy. Do vậy, được gọi là có đệ tử nội trú. Chúng
theo sát vị ấy; các ác bất thiện pháp theo sát vị ấy. Do vậy, được
gọi là có Đạo sư.
12) Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo
sống có đệ tử nội trú, có Đạo sư, là sống đau khổ, không có thoải
mái.
13) Và này các Tỷ-kheo, thế nào
là Tỷ-kheo sống không có đệ tử nội trú, không có Đạo sư, là sống
an lạc thoải mái?
14) Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
khi mắt thấy sắc, các ác bất thiện pháp, các ức niệm, ước vọng bị
trói buộc không khởi lên, chúng không trú ở trong vị ấy; các ác bất
thiện pháp không nội trú trong vị ấy. Cho nên, vị ấy được gọi là sống
không có đệ tử nội trú. Chúng không theo sát vị ấy; các ác bất thiện
pháp không theo sát vị ấy. Do vậy, vị ấy được gọi là không có Đạo
sư.
15-18) Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
khi tai nghe tiếng... khi mũi ngửi hương... khi lưỡi nếm vị... khi thân cảm
xúc...
19) Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
khi ý biết pháp, các ác bất thiện pháp, các ức niệm, ước vọng không
khởi lên, chúng không trú ở trong vị ấy; các ác bất thiện pháp không nội
trú ở trong vị ấy. Do vậy, được gọi là sống không có đệ tử nội
trú. Chúng không theo sát vị ấy; các ác bất thiện pháp không theo sát vị
ấy. Do vậy, vị ấy được gọi là không có Đạo sư.
20) Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo
sống không có đệ tử nội trú, không có Đạo sư.
Đây, này các Tỷ-kheo, được gọi
là Phạm hạnh không có đệ tử nội trú, không có Đạo sư.
21) Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống
có đệ tử nội trú, có Đạo sư là sống đau khổ, không có thoải mái.
Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống không có đệ tử nội trú, không có Đạo
sư, là sống an lạc, thoải mái.
151. VII. Với Mục Đích Gì? (S.iv,138)
1-2). ..
3) -- Này các Tỷ-kheo, nếu các du sĩ
ngoại đạo hỏi các Ông như sau: "Có cái gì, này chư Hiền, Phạm hạnh
được sống dưới Sa-môn Gotama?"; được hỏi vậy, này các Tỷ-kheo,
các Ông cần phải trả lời cho các du sĩ ngoại đạo ấy như sau:
4) "Này chư Hiền, vì liễu tri
đau khổ nên Phạm hạnh được sống dưới Thế Tôn".
5) Này các Tỷ-kheo, nếu các du sĩ
ngoại đạo hỏi các Ông như sau: "Thế nào, này chư Hiền, là vì liễu
tri đau khổ nên Phạm hạnh được sống dưới Sa-môn Gotama?"; được
hỏi vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải trả lời cho các du sĩ ngoại
đạo ấy như sau:
6-11) "Mắt, này chư Hiền, là
khổ. Vì liễu tri nó nên Phạm hạnh được sống dưới Thế Tôn. Nhãn
xúc là khổ. Vì liễu tri nó nên Phạm hạnh được sống dưới Thế Tôn.
Phàm duyên nhãn xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ, hay bất khổ bất lạc;
cảm thọ ấy là khổ. Vì liễu tri cảm thọ ấy nên Phạm hạnh được sống
dưới Thế Tôn... Phàm duyên ý xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ, hay
bất khổ bất lạc; cảm thọ ấy là khổ. Vì liễu tri cảm thọ ấy nên
Phạm hạnh được sống dưới Thế Tôn.
12) Đây là khổ, này chư Hiền, vì
liễu tri khổ nên Phạm hạnh được sống dưới Thế Tôn".
13) Được hỏi vậy, này các Tỷ-kheo,
các Ông cần phải trả lời như vậy cho những du sĩ ngoại đạo ấy.
152. VIII. Có Pháp Môn Nào? (S.iv,138)
1-2). ..
3) -- Có pháp môn nào, do pháp môn
ấy, Tỷ-kheo ngoài lòng tin, ngoài ưa thích, ngoài lắng nghe, ngoài suy tư về
phương pháp (àkàra-paritakkà), ngoài kham nhẫn, thích thú biện luận
(ditthini shànakhanti), có thể xác chứng chánh trí; vị ấy biết rõ:
"Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm,
không còn trở lui trạng thái này nữa"?
4) -- Bạch Thế Tôn, đối với chúng
con, Pháp lấy Thế Tôn làm căn bản...
5) -- Có một pháp môn, này các Tỷ-kheo,
do pháp môn ấy, Tỷ-kheo ngoài lòng tin, ngoài ưa thích, ngoài lắng nghe,
ngoài kham nhẫn, thích thú biện luận, có thể xác chứng chánh trí; vị
ấy biết rõ: "Sanh đã tận... trạng thái này nữa".
6) Pháp môn ấy là gì, do pháp môn
ấy... "...không còn trở lui trạng thái này nữa"?
7) Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
khi mắt thấy sắc, hoặc nội tâm có tham, sân, si, biết rõ: "Nội tâm
ta có tham, sân, si"; hoặc nội tâm không có tham, sân, si, biết rõ:
"Nội tâm ta không có tham, sân, si". Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo khi mắt
thấy sắc, hoặc nội tâm có tham, sân, si biết rõ: "Nội tâm ta có
tham, sân, si"; hoặc nội tâm không có tham, sân, si biết rõ: "Nội
tâm ta không có tham, sân, si". Này các Tỷ-kheo, biết rõ chúng có mặt
hay không có mặt trong tâm vị ấy, có phải chúng là những pháp do lòng
tin được hiểu biết, hay do ưa thích được hiểu biết, hay do lắng nghe
được hiểu biết, hay do suy tư về phương pháp được hiểu biết, hay do
kham nhẫn, thích thú về biện luận được hiểu biết?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
-- Có phải các pháp này, do thấy
chúng với trí tuệ nên được hiểu biết?
-- Thưa phải, bạch Thế Tôn.
-- Đây là pháp môn, này các Tỷ-kheo,
do pháp môn này, ngoài lòng tin, ngoài ưa thích, ngoài lắng nghe, ngoài suy tư
về phương pháp, ngoài kham nhẫn, thích thú biện luận, có thể xác chứng
với chánh trí; vị ấy biết rõ: "Sanh đã tận... không còn trở lui trạng
thái này nữa".
8-11) Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
khi tai nghe tiếng... khi mũi ngửi hương... khi lưỡi nếm vị... khi thân cảm
xúc...
12) Lại nữa, này các Tỷ-kheo, khi
ý biết pháp, hoặc nội tâm có tham, sân, si, biết rõ: "Nội tâm ta có
tham, sân, si"; hoặc nội tâm không có tham, sân, si, biết rõ: "Nội
tâm ta không có tham, sân, si". Này các Tỷ-kheo, khi ý biết pháp, hoặc
biết rõ nội tâm có tham, sân, si: "Nội tâm ta có tham, sân, si", hoặc
biết rõ nội tâm không có tham, sân, si: "Nội tâm ta không có tham,
sân, si". Này các Tỷ-kheo, sự biết rõ chúng có mặt hay không có mặt
trong tâm vị ấy, có phải chúng là những pháp do lòng tin được hiểu biết,
hay do ưa thích được hiểu biết, hay do lắng nghe được hiểu biết, hay
do suy tư về phương pháp được hiểu biết, hay do kham nhẫn, thích thú về
biện luận được hiểu biết?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
-- Có phải các pháp này, do thấy
chúng với trí tuệ nên được hiểu biết?
-- Thưa phải, bạch Thế Tôn.
13) -- Đây là pháp môn, này các Tỷ-kheo,
do pháp môn ấy, Tỷ-kheo ngoài lòng tin, ngoài ưa thích, ngoài lắng nghe,
ngoài suy tư về pháp môn, hay ngoài kham nhẫn, thích thú biện luận, có thể
xác chứng với chánh trí; vị ấy biết rõ: "Sanh đã tận, Phạm hạnh
đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này
nữa".
153. IX. Căn (S.iv,140)
1). ..
2) Rồi một Tỷ-kheo đi đến Thế
Tôn...
3) Ngồi xuống một bên, Tỷ-kheo
ấy bạch Thế Tôn:
-- "Các căn được thành tựu",
như vậy được nói đến. Cho đến như thế nào, bạch Thế Tôn, các căn
được thành tựu?
4) -- Nếu Tỷ-kheo quán sanh diệt
trong nhãn căn, vị ấy nhàm chán đối với nhãn căn... trong nhĩ căn...
trong tỷ căn... trong thiệt căn... trong thân căn... Nếu Tỷ-kheo quán sanh diệt
trong ý căn, vị ấy nhàm chán đối với ý căn. Do nhàm chán, vị ấy ly
tham. Do ly tham, vị ấy được giải thoát. Trong sự giải thoát, khởi lên
trí biết rằng: "Ta đã được giải thoát".Vị ấy biết rõ rằng:
"Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm,
không còn trở lui trạng thái này nữa".
5) Cho đến như vậy, Tỷ-kheo thành
tựu các căn.
154. X. Vị Thuyết Pháp (S.iv,141)
1). ..
2) Rồi một Tỷ-kheo đi đến Thế
Tôn...
3) Ngồi xuống một bên. Tỷ-kheo
ấy bạch Thế Tôn:
-- "Vị thuyết pháp, vị thuyết
pháp", bạch Thế Tôn, như vậy được nói đến. Cho đến như thế nào,
bạch Thế Tôn, là vị thuyết pháp?
4) -- Nếu Tỷ-kheo thuyết pháp đưa
đến nhàm chán, ly tham, đoạn diệt mắt, như vậy là vừa đủ để được
gọi là Tỷ-kheo thuyết pháp. Nếu Tỷ-kheo thực hành sự nhàm chán, ly
tham, đoạn diệt đối với mắt, như vậy là vừa đủ để được gọi là
Tỷ-kheo thành tựu pháp và thuận pháp. Nếu Tỷ-kheo do nhàm chán, ly tham,
đoạn diệt đối với mắt, được giải thoát không có chấp thủ, như vậy
là vừa đủ để được gọi là Tỷ-kheo chứng được Niết-bàn ngay trong
hiện tại.
5-8). .. tai... mũi... lưỡi... thân...
9) Nếu Tỷ-kheo thuyết pháp đưa đến
nhàm chán, ly tham, đoạn diệt ý, như vậy là vừa đủ để được gọi là
Tỷ-kheo thuyết pháp. Nếu Tỷ-kheo thực hành sự nhàm chán, ly tham, đoạn
diệt đối với ý, như vậy là vừa đủ để được gọi là Tỷ-kheo thực
hành pháp và thuận pháp. Nếu Tỷ-kheo do nhàm chán, ly tham, đoạn diệt đối
với ý, được giải thoát không có chấp thủ, như vậy là vừa đủ để
được gọi là Tỷ-kheo đạt được Niết-bàn ngay trong hiện tại.
V. Mới Và Cũ
145. I. Nghiệp (S.iv,132)
1). ..
2) -- Này các Tỷ-kheo, Ta thuyết về
các nghiệp mới và cũ, sự đoạn diệt các nghiệp, con đường đưa đến
sự đoạn diệt các nghiệp. Hãy lắng nghe và suy nghiệm kỹ. Ta sẽ giảng.
3) Này các Tỷ-kheo, thế nào là
nghiệp cũ?
Mắt, này các Tỷ-kheo, cần phải
quán là nghiệp cũ, được tác thành, được tư niệm, được cảm thọ.
Tai... Mũi... Lưỡi... Thân... Ý cần phải quán là nghiệp cũ, được tác
thành, được tư niệm, được cảm thọ.
Các Tỷ-kheo, đây được gọi là
nghiệp cũ.
4) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
nghiệp mới? Này các Tỷ-kheo, hiện tại phàm làm việc gì với thân, với
lời nói, hay với ý. Này các Tỷ-kheo, đây được gọi là nghiệp mới.
5) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
nghiệp đoạn diệt? Sự đoạn diệt thân nghiệp, ngữ nghiệp, ý nghiệp,
nhờ vậy cảm thấy giải thoát. Này các Tỷ-kheo, đây được gọi là nghiệp
đoạn diệt.
6) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
con đường đưa đến nghiệp đoạn diệt? Đây là con đường Thánh đạo
tám ngành, tức là chánh tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp,
chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Này các Tỷ-kheo, đây
gọi là con đường đưa đến nghiệp đoạn diệt.
7) Như vậy, này các Tỷ-kheo, Ta đã
giảng cho các Ông nghiệp cũ, đã giảng nghiệp mới, đã giảng nghiệp đoạn
diệt, đã giảng con đường đưa đến nghiệp đoạn diệt.
8) Này các Tỷ-kheo, phàm những gì
bậc Đạo Sư cần phải làm vì hạnh phúc, vì lòng thương đệ tử, những
việc ấy Ta đã làm cho các Ông, vì lòng thương tưởng các Ông.
9) Này các Tỷ-kheo, đây là những
gốc cây, đây là những căn nhà trống. Hãy Thiền tư, chớ có phóng dật,
chớ có hối hận về sau. Đây là lời giáo giới của Ta cho các Ông.
146. II. Thích Ứng (1) (S.iv,133)
1). ..
2) -- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng
cho các Ông con đường thích ứng với Niết-bàn. Hãy lắng nghe... Và này
các Tỷ-kheo, thế nào là con đường thích ứng với Niết-bàn?
3) Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
thấy mắt là vô thường, thấy các sắc là vô thường, thấy nhãn thức
là vô thường, thấy nhãn xúc là vô thường. Phàm duyên nhãn xúc khởi
lên cảm thọ gì, lạc, khổ hay bất khổ bất lạc; cảm thọ ấy là vô
thường.
4-5). . tai... mũi...
6-7). . lưỡi... thân...
8). . thấy ý là vô thường, thấy
các pháp là vô thường, thấy ý thức là vô thường, thấy ý xúc là vô
thường. Phàm duyên ý xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ hay bất khổ
bất lạc; cảm thọ ấy là vô thường.
9) Và này các Tỷ-kheo, đây là con
đường thích ứng với Niết-bàn.
147-148. III-IV. Thích Ứng (2)(3)
(S.iv,134)
(Như kinh trên, chỉ khác là thế
vào khổ và vô nga)
149. V. Thích Ứng (4)(S.iv,135)
1). ..
2) -- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng
cho các Ông về con đường thích ứng với Niết-bàn. Hãy lắng nghe... Và
này các Tỷ-kheo, thế nào là con đường thích ứng với Niết-bàn?
3) Các Ông nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo,
mắt là thường hay vô thường?
-- Là vô thường, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
-- Là khổ, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự
biến hoại, có hợp lý chăng nếu quán cái ấy là: "Cái này là của
tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi"?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn...
(Như kinh 32)
150. VI. Đệ Tử Nội Trú (S.iv,136)
1-2). ..
3) -- Này các Tỷ-kheo, không có các
đệ tử nội trú, không có Đạo Sư. Phạm hạnh này được sống.
4) Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống
có đệ tử nội trú, có Đạo sư là sống đau khổ, không có thoải mái.
Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống không có đệ tử nội trú, không có Đạo
sư là sống an lạc, thoải mái.
5) Và thế nào, này các Tỷ-kheo, sống
có đệ tử nội trú, có Đạo sư là sống đau khổ, không có thoải mái?
6) Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
khi mắt thấy sắc, các ác bất thiện pháp, các ức niệm, ước vọng bị
khởi lên trói buộc, chúng trú ở trong vị ấy; các ác bất thiện pháp nội
trú trong vị ấy. Do vậy, được gọi là có đệ tử nội trú. Chúng theo
sát (Samudàcaranti) vị ấy; các ác bất thiện pháp theo sát vị ấy. Do vậy,
được gọi là Đạo sư.
7-10). .. khi tai nghe tiếng... khi mũi
ngửi hương... khi lưỡi nếm vị... khi thân cảm xúc...
11) Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
khi ý biết pháp, các ác bất thiện pháp, các ức niệm, ước vọng bị trói
buộc khởi lên, chúng trú ở trong vị ấy; các ác bất thiện pháp nội
trú ở trong vị ấy. Do vậy, được gọi là có đệ tử nội trú. Chúng
theo sát vị ấy; các ác bất thiện pháp theo sát vị ấy. Do vậy, được
gọi là có Đạo sư.
12) Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo
sống có đệ tử nội trú, có Đạo sư, là sống đau khổ, không có thoải
mái.
13) Và này các Tỷ-kheo, thế nào
là Tỷ-kheo sống không có đệ tử nội trú, không có Đạo sư, là sống
an lạc thoải mái?
14) Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
khi mắt thấy sắc, các ác bất thiện pháp, các ức niệm, ước vọng bị
trói buộc không khởi lên, chúng không trú ở trong vị ấy; các ác bất
thiện pháp không nội trú trong vị ấy. Cho nên, vị ấy được gọi là sống
không có đệ tử nội trú. Chúng không theo sát vị ấy; các ác bất thiện
pháp không theo sát vị ấy. Do vậy, vị ấy được gọi là không có Đạo
sư.
15-18) Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
khi tai nghe tiếng... khi mũi ngửi hương... khi lưỡi nếm vị... khi thân cảm
xúc...
19) Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
khi ý biết pháp, các ác bất thiện pháp, các ức niệm, ước vọng không
khởi lên, chúng không trú ở trong vị ấy; các ác bất thiện pháp không nội
trú ở trong vị ấy. Do vậy, được gọi là sống không có đệ tử nội
trú. Chúng không theo sát vị ấy; các ác bất thiện pháp không theo sát vị
ấy. Do vậy, vị ấy được gọi là không có Đạo sư.
20) Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo
sống không có đệ tử nội trú, không có Đạo sư.
Đây, này các Tỷ-kheo, được gọi
là Phạm hạnh không có đệ tử nội trú, không có Đạo sư.
21) Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống
có đệ tử nội trú, có Đạo sư là sống đau khổ, không có thoải mái.
Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống không có đệ tử nội trú, không có Đạo
sư, là sống an lạc, thoải mái.
151. VII. Với Mục Đích Gì? (S.iv,138)
1-2). ..
3) -- Này các Tỷ-kheo, nếu các du sĩ
ngoại đạo hỏi các Ông như sau: "Có cái gì, này chư Hiền, Phạm hạnh
được sống dưới Sa-môn Gotama?"; được hỏi vậy, này các Tỷ-kheo,
các Ông cần phải trả lời cho các du sĩ ngoại đạo ấy như sau:
4) "Này chư Hiền, vì liễu tri
đau khổ nên Phạm hạnh được sống dưới Thế Tôn".
5) Này các Tỷ-kheo, nếu các du sĩ
ngoại đạo hỏi các Ông như sau: "Thế nào, này chư Hiền, là vì liễu
tri đau khổ nên Phạm hạnh được sống dưới Sa-môn Gotama?"; được
hỏi vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải trả lời cho các du sĩ ngoại
đạo ấy như sau:
6-11) "Mắt, này chư Hiền, là
khổ. Vì liễu tri nó nên Phạm hạnh được sống dưới Thế Tôn. Nhãn
xúc là khổ. Vì liễu tri nó nên Phạm hạnh được sống dưới Thế Tôn.
Phàm duyên nhãn xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ, hay bất khổ bất lạc;
cảm thọ ấy là khổ. Vì liễu tri cảm thọ ấy nên Phạm hạnh được sống
dưới Thế Tôn... Phàm duyên ý xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ, hay
bất khổ bất lạc; cảm thọ ấy là khổ. Vì liễu tri cảm thọ ấy nên
Phạm hạnh được sống dưới Thế Tôn.
12) Đây là khổ, này chư Hiền, vì
liễu tri khổ nên Phạm hạnh được sống dưới Thế Tôn".
13) Được hỏi vậy, này các Tỷ-kheo,
các Ông cần phải trả lời như vậy cho những du sĩ ngoại đạo ấy.
152. VIII. Có Pháp Môn Nào? (S.iv,138)
1-2). ..
3) -- Có pháp môn nào, do pháp môn
ấy, Tỷ-kheo ngoài lòng tin, ngoài ưa thích, ngoài lắng nghe, ngoài suy tư về
phương pháp (àkàra-paritakkà), ngoài kham nhẫn, thích thú biện luận
(ditthini shànakhanti), có thể xác chứng chánh trí; vị ấy biết rõ:
"Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm,
không còn trở lui trạng thái này nữa"?
4) -- Bạch Thế Tôn, đối với chúng
con, Pháp lấy Thế Tôn làm căn bản...
5) -- Có một pháp môn, này các Tỷ-kheo,
do pháp môn ấy, Tỷ-kheo ngoài lòng tin, ngoài ưa thích, ngoài lắng nghe,
ngoài kham nhẫn, thích thú biện luận, có thể xác chứng chánh trí; vị
ấy biết rõ: "Sanh đã tận... trạng thái này nữa".
6) Pháp môn ấy là gì, do pháp môn
ấy... "...không còn trở lui trạng thái này nữa"?
7) Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
khi mắt thấy sắc, hoặc nội tâm có tham, sân, si, biết rõ: "Nội tâm
ta có tham, sân, si"; hoặc nội tâm không có tham, sân, si, biết rõ:
"Nội tâm ta không có tham, sân, si". Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo khi mắt
thấy sắc, hoặc nội tâm có tham, sân, si biết rõ: "Nội tâm ta có
tham, sân, si"; hoặc nội tâm không có tham, sân, si biết rõ: "Nội
tâm ta không có tham, sân, si". Này các Tỷ-kheo, biết rõ chúng có mặt
hay không có mặt trong tâm vị ấy, có phải chúng là những pháp do lòng
tin được hiểu biết, hay do ưa thích được hiểu biết, hay do lắng nghe
được hiểu biết, hay do suy tư về phương pháp được hiểu biết, hay do
kham nhẫn, thích thú về biện luận được hiểu biết?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
-- Có phải các pháp này, do thấy
chúng với trí tuệ nên được hiểu biết?
-- Thưa phải, bạch Thế Tôn.
-- Đây là pháp môn, này các Tỷ-kheo,
do pháp môn này, ngoài lòng tin, ngoài ưa thích, ngoài lắng nghe, ngoài suy tư
về phương pháp, ngoài kham nhẫn, thích thú biện luận, có thể xác chứng
với chánh trí; vị ấy biết rõ: "Sanh đã tận... không còn trở lui trạng
thái này nữa".
8-11) Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
khi tai nghe tiếng... khi mũi ngửi hương... khi lưỡi nếm vị... khi thân cảm
xúc...
12) Lại nữa, này các Tỷ-kheo, khi
ý biết pháp, hoặc nội tâm có tham, sân, si, biết rõ: "Nội tâm ta có
tham, sân, si"; hoặc nội tâm không có tham, sân, si, biết rõ: "Nội
tâm ta không có tham, sân, si". Này các Tỷ-kheo, khi ý biết pháp, hoặc
biết rõ nội tâm có tham, sân, si: "Nội tâm ta có tham, sân, si", hoặc
biết rõ nội tâm không có tham, sân, si: "Nội tâm ta không có tham,
sân, si". Này các Tỷ-kheo, sự biết rõ chúng có mặt hay không có mặt
trong tâm vị ấy, có phải chúng là những pháp do lòng tin được hiểu biết,
hay do ưa thích được hiểu biết, hay do lắng nghe được hiểu biết, hay
do suy tư về phương pháp được hiểu biết, hay do kham nhẫn, thích thú về
biện luận được hiểu biết?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
-- Có phải các pháp này, do thấy
chúng với trí tuệ nên được hiểu biết?
-- Thưa phải, bạch Thế Tôn.
13) -- Đây là pháp môn, này các Tỷ-kheo,
do pháp môn ấy, Tỷ-kheo ngoài lòng tin, ngoài ưa thích, ngoài lắng nghe,
ngoài suy tư về pháp môn, hay ngoài kham nhẫn, thích thú biện luận, có thể
xác chứng với chánh trí; vị ấy biết rõ: "Sanh đã tận, Phạm hạnh
đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này
nữa".
153. IX. Căn (S.iv,140)
1). ..
2) Rồi một Tỷ-kheo đi đến Thế
Tôn...
3) Ngồi xuống một bên, Tỷ-kheo
ấy bạch Thế Tôn:
-- "Các căn được thành tựu",
như vậy được nói đến. Cho đến như thế nào, bạch Thế Tôn, các căn
được thành tựu?
4) -- Nếu Tỷ-kheo quán sanh diệt
trong nhãn căn, vị ấy nhàm chán đối với nhãn căn... trong nhĩ căn...
trong tỷ căn... trong thiệt căn... trong thân căn... Nếu Tỷ-kheo quán sanh diệt
trong ý căn, vị ấy nhàm chán đối với ý căn. Do nhàm chán, vị ấy ly
tham. Do ly tham, vị ấy được giải thoát. Trong sự giải thoát, khởi lên
trí biết rằng: "Ta đã được giải thoát".Vị ấy biết rõ rằng:
"Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm,
không còn trở lui trạng thái này nữa".
5) Cho đến như vậy, Tỷ-kheo thành
tựu các căn.
154. X. Vị Thuyết Pháp (S.iv,141)
1). ..
2) Rồi một Tỷ-kheo đi đến Thế
Tôn...
3) Ngồi xuống một bên. Tỷ-kheo
ấy bạch Thế Tôn:
-- "Vị thuyết pháp, vị thuyết
pháp", bạch Thế Tôn, như vậy được nói đến. Cho đến như thế nào,
bạch Thế Tôn, là vị thuyết pháp?
4) -- Nếu Tỷ-kheo thuyết pháp đưa
đến nhàm chán, ly tham, đoạn diệt mắt, như vậy là vừa đủ để được
gọi là Tỷ-kheo thuyết pháp. Nếu Tỷ-kheo thực hành sự nhàm chán, ly
tham, đoạn diệt đối với mắt, như vậy là vừa đủ để được gọi là
Tỷ-kheo thành tựu pháp và thuận pháp. Nếu Tỷ-kheo do nhàm chán, ly tham,
đoạn diệt đối với mắt, được giải thoát không có chấp thủ, như vậy
là vừa đủ để được gọi là Tỷ-kheo chứng được Niết-bàn ngay trong
hiện tại.
5-8). .. tai... mũi... lưỡi... thân...
9) Nếu Tỷ-kheo thuyết pháp đưa đến
nhàm chán, ly tham, đoạn diệt ý, như vậy là vừa đủ để được gọi là
Tỷ-kheo thuyết pháp. Nếu Tỷ-kheo thực hành sự nhàm chán, ly tham, đoạn
diệt đối với ý, như vậy là vừa đủ để được gọi là Tỷ-kheo thực
hành pháp và thuận pháp. Nếu Tỷ-kheo do nhàm chán, ly tham, đoạn diệt đối
với ý, được giải thoát không có chấp thủ, như vậy là vừa đủ để
được gọi là Tỷ-kheo đạt được Niết-bàn ngay trong hiện tại.