- Kinh Tương Ưng Bộ
- HT. Thích Minh Châu dịch
- Phần 40
- Chương VI
- Tương Ưng Moggalàna
I. Với Tầm (S.iv,262)
1) Một thời Tôn giả Mahà
Moggalàna trú ở Sàvatthi, Jetavana, tại vườn ông Anàthapindika.
2) Ở đấy, Tôn giả Mahà Moggalàna
gọi các Tỷ-kheo:
-- Này chư Hiền Tỷ-kheo.
-- Thưa Hiền giả.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả
Mahà Moggalàna.
3) Tôn giả Mahà Moggalàna nói như
sau:
-- Ở đây, này chư Hiền, trong khi
tôi độc cư Thiền tịnh, tâm tưởng tư duy như sau được khởi lên nơi tôi:
"Thiền thứ nhất, Thiền thứ nhất", được gọi là như vậy. Thế
nào là Thiền thứ nhất?
4) -- Này chư Hiền, tôi suy nghĩ
như sau: "Ở đây, Tỷ-kheo ly dục, ly bất thiện pháp, chứng và trú
Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ.
Đây gọi là Thiền thứ nhất.
5) Rồi này chư Hiền, tôi ly dục,
ly bất thiện pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất một trạng thái hỷ lạc
do ly dục sanh, có tầm có tứ. Này chư Hiền, do tôi trú với an trú này,
các tưởng câu hữu với dục (kàma) được tác ý và hiện hành
(samudàcaranti).
6) Rồi này chư Hiền, Thế Tôn với
thần thông đi đến tôi và nói: "Này Moggalàna, này Moggalàna, chớ có
phóng dật Thiền thứ nhất. Này Moggalàna, hãy đặt tâm vào Thiền thứ nhất!
Hãy nhứt tâm vào Thiền thứ nhất".
7) Rồi này chư Hiền, trong một thời
gian khác, tôi chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do
ly dục sanh, có tầm có tứ.
8) Này chư Hiền, nếu ai nói một
cách chơn chánh: "Vị đệ tử được bậc Đạo Sư hỗ trợ, chứng
được đại thắng trí", người ấy sẽ nói về tôi như sau: "Mahà
Moggahàna là người đệ tử được bậc Đạo Sư hỗ trợ, chứng được
đại thắng trí".
II. Không Tầm (S.iv,263)
1-2). ..
3) -- "Thiền thứ hai, Thiền thứ
hai", được nói đến như vậy. Thế nào là Thiền thứ hai?
4) Và này chư Hiền, tôi suy nghĩ
như sau: "Ở đây, Tỷ-kheo làm cho tịnh chỉ các tầm và tứ, chứng
và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm,
không tứ, nội tỉnh, nhứt tâm". Đây gọi là Thiền thứ hai.
5) Rồi này chư Hiền, tôi làm cho tịnh
chỉ các tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc
do định sanh, không tầm, không tứ, nội tỉnh, nhứt tâm. Này chư Hiền,
khi tôi trú với an trú này, các tưởng câu hữu với tầm được tác ý
và hiện hành.
6) Rồi này chư Hiền, Thế Tôn với
thần thông đi đến tôi và nói: "Này Moggalàna, này Moggalàna, chớ có
phóng dật Thiền thứ hai. Này Bà-la-môn, hãy đặt tâm vào Thiền thứ hai!
Hãy nhứt tâm vào Thiền thứ hai! Hãy định tâm vào Thiền thứ hai!"
7) Rồi này chư Hiền, trong một thời
gian khác, tôi chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định
sanh, không tầm, không tứ, nội tỉnh, nhứt tâm.
8) (Như đoạn 8 của kinh trên).
III. Với Lạc (S.iv,264)
1-2). ..
3) -- "Thiền thứ ba, Thiền thứ
ba", như vậy được nói đến. Như thế nào là Thiền thứ ba?
4) Rồi này chư Hiền, tôi suy nghĩ
như sau: "Ở đây, Tỷ-kheo ly hỷ trú xả, chánh niệm, tỉnh giác, thân
cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và
trú Thiền thứ ba". Đây gọi là Thiền thứ ba.
5) Rồi này chư Hiền, tôi ly hỷ
trú xả, chánh niệm, tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh
gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú Thiền thứ ba. Này chư Hiền, do
tôi trú với an trú này, các tưởng câu hữu với hỷ được tác ý và hiện
hành.
6) Rồi này chư Hiền, Thế Tôn với
thần thông đi đến tôi và nói như sau: "Này Moggalàna, này Moggalàna,
chớ có phóng dật Thiền thứ ba! Này Moggalàna, hãy đặt tâm vào Thiền thứ
ba! Hãy nhứt tâm vào Thiền thứ ba! Hãy định tâm vào Thiền thứ ba!"
7) Rồi này chư Hiền, trong một thời
gian khác, tôi ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ
mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú Thiền thứ ba.
8) (Như đoạn 8 của kinh trước)
IV. Xả۠(S.iv,265)
1-2). ..
3) -- "Thiền thứ tư, Thiền thứ
tư", như vậy được nói đến. Như thế nào là Thiền thứ tư?
4) Này chư Hiền, rồi tôi suy nghĩ
như sau: "Ở đây, Tỷ-kheo xả khổ, xả lạc, diệt hỷ ưu đã cảm thọ
trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm
thanh tịnh". Đây gọi là Thiền thứ tư.
5) Rồi này chư Hiền, tôi xả khổ,
xả lạc, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư,
không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Này chư Hiền, do tôi trú với
an trú này, các tưởng câu hữu với lạc được tác ý và hiện hành.
6) Rồi này chư Hiền, Thế Tôn với
thần thông đi đến tôi và nói: "Này Moggalàna, này Moggalàna, chớ có
phóng dật Thiền thứ tư. Này Moggalàna, hãy đặt tâm vào Thiền thứ tư!
Hãy nhứt tâm vào Thiền thứ tư! Hãy định tâm vào Thiền thứ tư!"
7) Rồi này chư Hiền, trong một thời
gian khác, tôi xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng
và trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh.
8) (Như đoạn 8 của kinh trên).
V. Hư Không (S.iv,266)
1-2). ..
3) -- "Không vô biên xứ, Không
vô biên xứ", như vậy được nói đến. Thế nào là Không vô biên xứ?
4) Này chư Hiền, tôi suy nghĩ như
sau: "Ở đây, Tỷ-kheo vượt qua sắc tưởng một cách hoàn toàn, chấm
dứt đối ngại tưởng, không tác ý sai biệt tưởng, tôi biết rằng: ‘Hư
không là vô biên", chứng và trú Không vô biên xứ". Đây gọi là
Không vô biên xứ.
5) Rồi này chư Hiền, đoạn tận sắc
tưởng một cách hoàn toàn, chấm dứt đối ngại tưởng, không tác ý sai
biệt tưởng, tôi biết rằng Hư không là vô biên, chứng và trú Không vô
biên xứ. Này chư Hiền, do tôi trú với an trú này, các tưởng câu hữu với
sắc được tác ý và hiện hành.
6) Rồi này chư Hiền, Thế Tôn với
thần thông đi đến tôi và nói như sau: "Này Moggalàna, này Moggalàna,
chớ có phóng dật Không vô biên xứ! Này Moggalàna, hãy đặt tâm vào
Không vô biên xứ! Hãy nhứt tâm vào Không vô biên xứ! Hãy định tâm vào
Không vô biên xứ!"
7) Rồi này chư Hiền, trong một thời
gian khác, vượt qua sắc tưởng một cách hoàn toàn, chấm dứt đối ngại
tưởng, không tác ý sai biệt tưởng, tôi biết rằng Hư không là vô biên,
chứng và trú Không vô biên xứ.
8) (Như đoạn 8 của kinh trên).
VI. Thức (S.iv,266)
1-2). ..
3) -- "Thức vô biên xứ, Thức
vô biên xứ", như vậy được nói đến. Thế nào là Thức vô biên xứ?
4) Này chư Hiền, tôi suy nghĩ như
sau: "Ở đây, Tỷ-kheo vượt qua Không vô biên xứ một cách hoàn toàn,
biết rằng: ‘Thức là vô biên’, chứng và trú Thức vô biên xứ".
Đây gọi là Thức vô biên xứ.
5) Rồi này chư Hiền, vượt qua Không
vô biên xứ, tôi biết rằng Thức là vô biên, chứng và trú Thức vô biên
xứ... Này chư Hiền, do tôi trú với an trú này, các tưởng câu hữu với
Không vô biên xứ được tác ý và hiện hành.
6) Rồi này chư Hiền, Thế Tôn với
thần thông đi đến tôi và nói như sau: "Này Moggalàna, này Moggalàna,
chớ có phóng dật Thức vô biên xứ! Này Moggalàna, hãy đặt tâm vào Thức
vô biên xứ! Hãy nhứt tâm vào Thức vô biên xứ! Hãy định tâm vào Thức
vô biên xứ!"
7) Rồi này chư Hiền,sau một thời
gian, tôi vượt qua Không vô biên xứ, biết rằng Thức là vô biên, chứng
và trú Thức vô biên xứ.
8) (Như đoạn 8 của kinh trên).
VII. Vô Sở Hữu Xứ (S.iv,267)
1-2). ..
3) -- "Vô sở hữu xứ, Vô sở
hữu xứ", như vậy được nói đến. Thế nào là Vô sở hữu xứ?
4) Này chư Hiền, tôi suy nghĩ như
sau: "Ở đây, Tỷ-kheo vượt qua Thức vô biên xứ một cách hoàn toàn,
biết rằng: ‘Không có sự vật gì", chứng và trú Vô sở hữu xứ".
Này chư Hiền, đây gọi là Vô sở hữu xứ.
5) Rồi này chư Hiền, sau khi vượt
qua Thức vô biên xứ, tôi biết rằng không có sự vật gì, chứng và trú
Vô sở hữu xứ. Này chư Hiền, do tôi trú với an trú này, các tưởng câu
hữu với Thức vô biên xứ được tác ý và hiện hành.
6) Rồi này chư Hiền, Thế Tôn với
thần thông đi đến tôi và nói như sau: "Này Moggalàna, này Moggalàna,
chớ có phóng dật Vô sở hữu xứ. Này Moggalàna, hãy đặt tâm vào Vô sở
hữu xứ! Hãy nhứt tâm vào Vô sở hữu xứ! Hãy định tâm vào Vô sở hữu
xứ!"
7) Rồi này chư Hiền, sau một thời
gian, vượt qua Thức vô biên xứ, tôi biết rằng không có sự vật gì, chứng
và trú Vô sở hữu xứ.
8) (Như đoạn 8 của kinh trên).
VIII. Phi Tưởng (S.iv,268)
1-2). ..
3) -- "Phi tưởng phi phi tưởng
xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ", như vậy được nói đến. Thế nào
là Phi tưởng phi phi tưởng xứ?
4) Rồi này chư Hiền, tôi suy nghĩ
như sau: "Ở đây, Tỷ-kheo vượt qua Vô sở hữu xứ một cách hoàn
toàn, chứng và trú Phi tưởng phi phi tưởng xứ". Đây gọi là Phi tưởng
phi phi tưởng xứ.
5) Rồi này chư Hiền, tôi vượt
qua Vô sở hữu xứ một cách hoàn toàn, chứng và trú Phi tưởng phi phi tưởng
xứ. Này chư Hiền, do tôi trú với an trú này, các tưởng câu hữu với
Vô sở hữu xứ được tác ý và hiện hành.
6) Rồi này chư Hiền, Thế Tôn với
thần thông đi đến tôi và nói như sau: "Này Moggalàna, này Moggalàna,
chớ có phóng dật Phi tưởng phi phi tưởng xứ! Này Moggalàna, hãy đặt tâm
vào Phi tưởng phi phi tưởng xứ! Hãy nhứt tâm vào Phi tưởng phi phi tưởng
xứ! Hãy định tâm vào Phi tưởng phi phi tưởng xứ!"
7) Rồi này chư Hiền, sau một thời
gian, tôi vượt qua Vô sở hữu xứ một cách hoàn toàn, chứng và trú Phi tưởng
phi phi tưởng xứ.
8) (Như số 8 của kinh trước).
IX. Vô Tướng (S.iv,268)
1-2). ..
3) -- "Vô tướng tâm định, Vô
tướng tâm định" (animitto cete samàdhi), như vậy được nói đến. Thế
nào là Vô tướng tâm định?
4) Và này chư Hiền, tôi suy nghĩ
như sau: "Ở đây, Tỷ-kheo không tác ý tất cả tướng, chứng và trú
Vô tướng tâm định". Đây gọi là Vô tướng tâm định.
5) Rồi này chư Hiền, tôi không
tác ý tất cả tướng, chứng và an trú Vô tướng tâm định. Này chư Hiền,
do tôi trú với an trú này, (tôi đạt được) thức tùy thuận tướng
(nimittànusarivinnànam).
6) Rồi này chư Hiền, Thế Tôn với
thần thông đi đến tôi và nói như sau: "Này Moggalàna, này Moggalàna,
chớ có phóng dật Vô tướng tâm định! Này Moggalàna, hãy đặt tâm vào
Vô tướng tâm định! Hãy nhứt tâm vào Vô tướng tâm định! Hãy định tâm
vào Vô tướng tâm định!"
7) Rồi này chư Hiền, sau một thời
gian, tôi không tác ý tất cả tướng, chứng và trú Vô tướng tâm định.
8) Này chư Hiền, nếu ai có nói một
cách chơn chánh: "Vị đệ tử được bậc Đạo Sư hỗ trợ, chứng và
đạt thắng trí". Người ấy sẽ nói về tôi như sau: "Moggalàna
là người đệ tử được bậc Đạo Sư hỗ trợ, chứng và đạt thắng
trí".
X. Sakka (ĐẾ-THÍCH) (S.iv,269)
1) Một thời Tôn giả Mahà
Moggalàna trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, vườn ông Anàthapindika.
2) Rồi Tôn giả Mahà Moggalàna như
người lực sĩ duỗi cánh tay đang co lại, hay co lại cánh tay đang duỗi
ra, như vậy biến mất ở Jetavana và hiện ra trước mặt chư Thiên ở
Tàvatimsa (Tam thập Tam thiên).
I
3) Rồi Thiên chủ Sakka cùng với
500 chư Thiên đi đến Tôn giả Mahà Moggalàna; sau khi đến, đảnh lễ Tôn
giả Mahà Moggalàna rồi đứng một bên.
4) Tôn giả Mahà Moggalàna nói với
Thiên chủ Sakka đang đứng một bên:
-- Lành thay, này Thiên chủ, là quy
y Phật. Do nhân quy y Phật, này Thiên chủ, ở đây một số chúng sanh, sau
khi thân hoại mạng chung, được sanh lên thiện thú, Thiên giới, cõi đời
này. Lành thay, này Thiên chủ, là quy y pháp. Do nhân quy y Pháp, này Thiên chủ,
ở đây một số chúng sanh, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên
thiện thú, Thiên giới, cõi đời này. Lành thay, này Thiên chủ, là quy y
chúng Tăng. Do nhân quy y chúng Tăng, này Thiên chủ, ở đây một số chúng
sanh, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên thiện thú, Thiên giới,
cõi đời này.
5) -- Lành thay, này Hiền giả
Moggalàna, là quy y Phật. Do nhân quy y Phật, này Hiền giả Moggalàna, ở đây
một số chúng sanh, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên thiện
thú, Thiên giới, cõi đời này. Lành thay, này Hiền giả Moggalàna, là quy y
Pháp, này Hiền giả Moggalàna... là quy y chúng Tăng. Do nhân quy y chúng Tăng,
thưa Hiền giả Moggalàna, ở đây một số chúng sanh, sau khi thân hoại mạng
chung, được sanh lên thiện thú, Thiên giới, cõi đời này.
6-7-8) Thiên chủ Sakka với 600 chư
Thiên...
9-10-11) Thiên chủ Sakka với 700 chư
Thiên...
12-13-14) Thiên chủ Sakka với 800 chư
Thiên...
15-16-17) Thiên chủ Sakka với 8000 chư
Thiên... (giống như số 3,4,5 như trên, với những thay đổi cần thiết)...
II
18) Rồi Thiên chủ Sakka với 500 chư
Thiên đi đến Tôn giả Mahà Moggalàna; sau khi đến, đảnh lễ Tôn giả
Moggalàna rồi đứng một bên.
19) Tôn giả Mahà Moggalàna nói với
Thiên chủ Sakka đang đứng một bên:
-- Lành thay, này Thiên chủ, là đầy
đủ lòng tin bất động (avecca pasàdena) đối với đức Phật: Đây là Thế
Tôn, bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải,
Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn. Do
nhân đầy đủ lòng tin bất động đối với đức Phật, này Thiên chủ,
như vậy, ở đây một số chúng sanh, sau khi thân hoại mạng chung, được
sanh thiện thú, Thiên giới, cõi đời này. Lành thay, này Thiên chủ, là
lòng tin bất động đối với Pháp: Pháp do Thế Tôn khéo thuyết, thiết thực
hiện tại, có hiệu quả tức thời, đến để mà thấy, có khả năng hướng
thượng, được người trí tự mình giác hiểu. Do nhân đầy đủ lòng tin
bất động như vậy đối với Pháp, này Thiên chủ, ở đây một số
chúng sanh, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên thiện thú, Thiên giới,
cõi đời này. Lành thay, này Thiên chủ, là đầy đủ lòng tin bất động
đối với chúng Tăng: Tế hạnh là chúng đệ tử của Thế Tôn. Trực hạnh
là chúng đệ tử của Thế Tôn. Chánh hạnh là chúng đệ tử của Thế Tôn.
Thanh tịnh hạnh là chúng đệ tử của Thế Tôn. Tức là bốn đôi tám
chúng. Chúng đệ tử của Thế Tôn là đáng cung kính, đáng cúng dường,
đáng tôn trọng, đáng được chấp tay, là phước điền vô thượng ở đời.
Do nhân đầy đủ lòng tin bất động đối với chúng Tăng, này Thiên chủ,
ở đây, một số chúng sanh, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên
thiện thú, Thiên giới, cõi đời này. Lành thay, này Thiên chủ, là đầy
đủ hoàn toàn các giới được các bậc Thánh ái kính, không bị phá hủy,
không bị phá hoại, không bị lấm tấm, không bị ô nhiễm, đem lại giải
thoát, được người trí tán thán, không bị ô nhiễm (bởi tham và si),
đưa đến Thiền định. Do nhân đầy đủ các giới được các bậc Thánh
ái kính, này Thiên chủ, như vậy ở đây một số chúng sanh, sau khi thân
hoại mạng chung, được sanh lên thiện thú, Thiên giới, cõi đời này.
20) -- Lành thay, thưa Hiền giả
Moggalàna, là đầy đủ lòng tin bất động đối với đức Phật: Đây là
Thế Tôn, bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế
Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế
Tôn. Do nhân đầy đủ lòng tin bất động đối với đức Phật, thưa Hiền
giả Moggalàna, ở đây một số chúng sanh, sau khi thân hoại mạng chung,
được sanh lên thiện thú, Thiên giới, cõi đời này. Lành thay, này Hiền
giả Moggalàna, là đầy đủ lòng tin bất động đối với Pháp: Đây là
pháp được Thế Tôn khéo giảng... được người có trí tự mình giác hiểu.
Do nhân đầy đủ lòng tin bất động đối với Pháp, thưa Hiền giả
Moggalàna, ở đây một số chúng sinh, sau khi thân hoại mạng chung, được
sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này. Lành thay, thưa Hiền giả
Moggalàna, là đầy đủ lòng tin bất động đối với chúng Tăng: Tế hạnh
là chúng đệ tử của Thế Tôn... là vô thượng phước điền ở đời.
Do nhân đầy đủ lòng tin bất động đối với chúng đệ tử của Thế Tôn,
thưa Hiền giả Moggalàna, như vậy, ở đây một số chúng sanh, sau khi thân
hoại mạng chung, được sanh lên thiện thú, Thiên giới, cõi đời này.
Lành thay, thưa Hiền giả Moggalàna, là đầy đủ các giới được các bậc
Thánh ái kính, không bị phá hủy... đưa đến Thiền định. Do nhân đầy
đủ các giới được các bậc Thánh ái kính, thưa Hiền giả Moggalàna, như
vậy, ở đây một số chúng sanh, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh
lên thiện thú, Thiên giới, cõi đời này.
21-23) Rồi Thiên chủ Sakka với 600
chư Thiên...
24-26) Rồi Thiên chủ Sakka với 700
chư Thiên...
27-29) Rồi Thiên chủ Sakka với 800
chư Thiên...
30) Rồi Thiên chủ Sakka với 8000 chư
Thiên đi đến Tôn giả Mahà Moggalàna; sau khi đến, đảnh lễ Tôn giả
Mahà Moggalàna rồi đứng một bên.
31) Tôn giả Mahà Moggalàna nói với
Thiên chủ Sakka đang đứng một bên:
-- Lành thay, này Thiên chủ, là đầy
đủ lòng tin bất động đối với đức Phật: Đây là Thế Tôn, bậc Ứng
Cúng, Chánh Biến Tri... được sanh lên thiện thú, Thiên giới, cõi đời này.
32) -- Lành thay, thưa Hiền giả
Moggalàna, là đầy đủ lòng tin bất động đối với đức Phật... được
sanh lên thiện thú, Thiên giới, cõi đời này.
III.
33) Rồi Thiên chủ Sakka cùng với
500 chư Thiên đi đến Tôn giả Mahà Moggalàna...
34) Tôn giả Mahà Moggalàna nói với
Thiên chủ Sakka đang đứng một bên:
-- Lành thay, này Thiên chủ, là quy
y Phật. Do nhân quy y Phật, này Thiên chủ, như vậy ở đây một số chúng
sanh, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên thiện thú, Thiên giới,
cõi đời này. Họ có được 10 pháp hơn chư Thiên khác: thiên thọ mạng,
thiên sắc, thiên an lạc, thiên danh dự, thiên thù thắng, thiên sắc, thiên
thanh, thiên hương, thiên vị, thiên xúc. Lành thay, này Thiên chủ, là sự
quy y Pháp. Do nhân quy y Pháp, này Thiên chủ, như vậy ở đây một số
chúng sanh, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên thiện thú, Thiên giới,
cõi đời này. Họ có được 10 pháp lợi hơn các chư Thiên khác: thiên thọ
mạng... thiên xúc. Lành thay, này Thiên chủ, là quy y Tăng. Do nhân quy y Tăng,
này Thiên chủ, như vậy, ở đây một số chúng sanh, sau khi thân hoại mạng
chung, được sanh lên thiện thú, Thiên giới, cõi đời này. Họ có được
10 pháp lợi hơn các chư Thiên khác: thiên thọ mạng... thiên xúc.
35) -- Lành thay, thưa Hiền giả
Moggalàna, là quy y Phật... thiên xúc (như trên).
36-38) Rồi Thiên chủ Sakka với 600
Thiên nhơn...
39-41) Rồi Thiên chủ Sakka với 700
Thiên nhơn...
42-44) Rồi Thiên chủ Sakka với 800
Thiên nhơn...
45-47) Rồi Thiên chủ Sakka với 8000
Thiên nhơn...
IV
48) Rồi Thiên chủ Sakka với 500
Thiên nhơn đi đến Tôn giả Mahà Moggalàna; sau khi đến, đảnh lễ Tôn giả
Mahà Moggalàna rồi đứng một bên.
49) Rồi Tôn giả Mahà Moggalàna nói
với Thiên chủ Sakka đang đứng một bên:
-- Lành thay, này Thiên chủ, là đầy
đủ lòng tin bất động đối với đức Phật: Đây là Thế Tôn, bậc Ứng
Cúng, Chánh Biến Tri... Thế Tôn. Do nhân đầy đủ lòng tin bất động đối
với đức Phật, ở đây một số chúng sanh, sau khi thân hoại mạng chung,
được sanh lên thiện thú, Thiên giới, cõi đời này. Họ có được 10 pháp
lợi hơn các chư Thiên khác: thiên thọ mạng... thiên xúc. Lành thay, này
Thiên chủ, là đầy đủ lòng tin bất động đối với Pháp... lòng tin bất
động đối với chúng Tăng... là đầy đủ các giới được bậc Thánh
ái kính... thiên xúc.
50) -- Lành thay, thưa Hiền giả
Moggalàna, là đầy đủ lòng tin bất động đối với đức Phật... thiên
xúc.
51-53) Rồi Thiên chủ Sakka với 600
chư Thiên...
54-56) Rồi Thiên chủ Sakka với 700
chư Thiên...
57-60) Rồi Thiên chủ Sakka với 800
chư Thiên...
61-63) Rồi Thiên chủ Sakka với 8000
chư Thiên... thiên xúc.
XI. Candana (S.iv,280)
1-63) Rồi Thiên tử Candana...
1-63) Rồi Thiên tử Suyàma...
1-63) Rồi Thiên tử Santusita...
1-63) Rồi Thiên chủ Sunimmita...
1-63) Rồi Thiên tử Vasavatti..