- Kinh Tương Ưng Bộ
- HT. Thích Minh Châu dịch
- Phần 22c
- C. Năm Mươi Kinh Sau
I. Phẩm Biên
I. Biên Kinh (Tạp 3, Đại 2,18b)
(S.iii,157)
1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...
3) -- Có bốn biên này, này các Tỷ-kheo.
Thế nào là bốn? Hữu thân biên, hữu thân tập khởi biên, hữu thân đoạn
diệt biên, hữu thân đoạn diệt đạo biên.
4) Này các Tỷ-kheo, thế nào là
thân biên? Phải trả lời là năm thủ uẩn. Thế nào là năm? Tức là sắc
thủ uẩn, thọ thủ uẩn, tưởng thủ uẩn, hành thủ uẩn thức thủ uẩn.
Này các Tỷ-kheo, đây gọi là năm thủ uẩn.
5) Này các Tỷ-kheo, thế nào là hữu
thân tập khởi biên? Chính là khát ái này, đưa đến tái sanh, câu hữu với
hỷ tham, tìm cầu hỷ lạc chỗ này, chỗ kia. Tức là dục ái, hữu ái,
phi hữu ái. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là hữu thân tập khởi biên.
6) Này các Tỷ-kheo, thế nào là hữu
thân đoạn diệt biên? Chính là sự ly tham, đoạn diệt, không có dư tàn
khát ái ấy, sự xả ly, sự từ bỏ, sự giải thoát, sự thoát ly chấp trước.
Này các Tỷ-kheo, đây gọi là hữu thân đoạn diệt biên.
7) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
hữu thân đoạn diệt đạo biên? Chính là Thánh đạo Tám ngành, tức là
chánh tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh
tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là hữu
thân đoạn diệt đạo biên.
II. Khổ (S.iii,158)
1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...
3) -- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết
cho các Ông về Khổ, Khổ tập khởi, Khổ đoạn diệt, Con đường đưa đến
khổ đoạn diệt. Hãy lắng nghe.
4) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
Khổ? Phải trả lời là năm thủ uẩn. Thế nào là năm? Tức là sắc thủ
uẩn... thức thủ uẩn. Đây gọi là Khổ, này các Tỷ-kheo.
5) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
Khổ tập khởi? Chính là khát ái này, đưa đến tái sanh... phi hữu ái.
Này các Tỷ-kheo, đây gọi là Khổ tập khởi.
6) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
Khổ đoạn diệt? Chính là sự ly tham, đoạn diệt không dư tàn khát ái
ấy, sự xả ly, sự từ bỏ, sự giải thoát, sự thoát ly chấp trước. Này
các Tỷ-kheo, đây gọi là Khổ đoạn diệt.
7) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
Con đường đưa đến khổ đoạn diệt? Chính là con đường Thánh đạo Tám
ngành, tức là chánh tri kiến... chánh định. Này các Tỷ-kheo, đây gọi
là Con đường đưa đến khổ đoạn diệt.
III. Hữu Thân (Tạp 3, Đại
2,18b) (S.iii,159)
1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...
3) -- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng
cho các Ông về hữu thân, hữu thân tập khởi, hữu thân đoạn diệt, con
đường đưa đến hữu thân đoạn diệt. Hãy lắng nghe.
4) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
hữu thân? Phải trả lời rằng chính là năm thủ uẩn. Thế nào là năm? Tức
là sắc thủ uẩn, thọ thủ uẩn, tưởng thủ uẩn, hành thủ uẩn, thức
thủ uẩn. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là hữu thân.
5) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
hữu thân tập khởi? Chính là khát ái này... Này các Tỷ-kheo, đây gọi
là hữu thân tập khởi.
6) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
hữu thân đoạn diệt? Chính là sự ly tham, đoạn diệt không có dư tàn
khát ái ấy... sự thoát ly chấp trước. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là hữu
thân đoạn diệt.
7) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
con đường đưa đến hữu thân đoạn diệt? Chính là con đường Thánh đạo
Tám ngành, tức là chánh tri kiến... chánh định. Này các Tỷ-kheo, đây gọi
là con đường đưa đến hữu thân đoạn diệt.
IV. Sở Biến Tri (Tạp 3, Đại
2,19a) (S.iii,159)
1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...
3) -- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng
cho các Ông các pháp cần phải biến tri, sự biến tri và con người đã biến
tri. Hãy lắng nghe.
4) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
pháp cần phải biến tri? Sắc, này các Tỷ-kheo, là pháp cần phải biến
tri. Thọ... tưởng... các hành... thức là pháp cần phải biến tri. Này
các Tỷ-kheo, đây gọi là các pháp cần phải biến tri.
5) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
sự biến tri? Sự đoạn tận tham, sự đoạn tận sân, sự đoạn tận si.
Này các Tỷ-kheo, đây gọi là sự biến tri.
6) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
con người đã biến tri? Cần phải trả lời là bậc A-la-hán. Bậc Tôn giả
này, với tên như vậy, với dòng họ như vậy. Này các Tỷ-kheo, đây gọi
là con người đã biến tri.
V. Các Sa Môn (S.iii,160)
1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...
3) -- Có năm thủ uẩn, này các Tỷ-kheo.
Thế nào là năm? Tức là sắc thủ uẩn... thức thủ uẩn.
4) Những vị Sa-môn hay Bà-la-môn
nào, này các Tỷ-kheo, không như thật biết vị ngọt, sự nguy hiểm và sự
xuất ly của năm thủ uẩn này... như thật biết rõ...; tự mình chứng ngộ
với thượng trí, chứng đạt và an trú.
VI. Các Sa Môn (S.iii,160)
1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...
3) -- Này các Tỷ-kheo, có năm thủ
uẩn này. Thế nào là năm? Tức là sắc thủ uẩn, thọ thủ uẩn, tưởng
thủ uẩn, hành thủ uẩn, thức thủ uẩn.
4-5) Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào,
này các Tỷ-kheo, không như thật biết rõ sự tập khởi, sự đoạn diệt,
vị ngọt, sự nguy hiểm, sự xuất ly của năm thủ uẩn này... biết
rõ...; tự mình chứng ngộ với thắng trí, chứng đạt và an trú.
VII. Dự Lưu (S.iii,160)
1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...
3) -- Này các Tỷ-kheo, có năm thủ
uẩn này. Thế nào năm? Tức là sắc thủ uẩn... thức thủ uẩn.
4) Và khi nào vị Đa văn Thánh đệ
tử, này các Tỷ-kheo, như thật biết rõ sự tập khởi, sự đoạn diệt,
vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của năm thủ uẩn này, vị Đa
văn Thánh đệ tử ấy, này các Tỷ-kheo, được gọi là vị Dự lưu, không
còn bị thối thất, đã được quyết định, hướng đến Chánh Đẳng Giác.
VIII. A-La - Hán (S.iii,161)
1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...
3) -- Này các Tỷ-kheo, có năm thủ
uẩn này. Thế nào là năm? Tức là sắc thủ uẩn... thức thủ uẩn.
4) Và khi nào vị Tỷ-kheo, này các
Tỷ-kheo, như thật biết rõ sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự
nguy hiểm, sự xuất ly của năm thủ uẩn này, được giải thoát không có
chấp thủ. Vị Tỷ-kheo ấy, này các Tỷ-kheo, được gọi là vị A-la-hán,
các lậu hoặc được đoạn tận, Phạm hạnh đã thành, các việc nên làm
đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã đạt được mục đích, hữu kiết
sử đã được đoạn tận, được giải thoát nhờ chánh trí.
IX. Dục Được Đoạn Trừ (S.iii,161)
1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...
3) -- Này các Tỷ-kheo, phàm có dục
nào, tham nào, hỷ nào, khát ái nào đối với sắc, hãy đoạn trừ nó. Như
vậy sắc ấy sẽ được đoạn trừ, cắt đứt tận gốc rễ, làm cho như
thân cây ta-la, làm cho không thể tái sanh, không thể sanh khởi lại trong tương
lai.
4-6) Đối với thọ... đối với
tưởng... đối với các hành...
7) Này các Tỷ-kheo, phàm có dục
nào, tham nào, hỷ nào, khát ái nào đối với thức, hãy đoạn trừ nó. Như
vậy, thức sẽ được đoạn trừ, cắt đứt tận gốc rễ, làm cho như thân
cây ta-la, làm cho không thể tái sanh, không thể sanh khởi lại trong tương
lai.
X. Dục Được Đoạn Trừؠ(S.iii,161)
1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...
3) -- Này các Tỷ-kheo, phàm có dục
nào, tham nào, hỷ nào, khát ái nào, phàm có những chấp thủ phương tiện,
tâm thủ trước, thiên chấp tùy miên nào đối với sắc... hãy đoạn trừ
chúng. Như vậy, sắc ấy sẽ được đoạn tận, cắt đứt từ gốc rễ...
4-6)... Đối với thọ... đối với
tưởng... đối với các hành...
7) Này các Tỷ-kheo, phàm có dục
nào, tham nào, hỷ nào, khát ái nào, phàm có những chấp thủ phương tiện,
tâm thủ trước, thiên chấp tùy miên nào đối với thức, hãy đoạn trừ
chúng. Như vậy, thức ấy sẽ được đoạn tận, cắt đứt từ gốc rễ,
làm cho như thân cây ta-la, làm cho không thể tái sanh, không thể sanh khởi
lại trong tương lai.
II. Phẩm Thuyết Pháp
I. Vô Minh (Hay Vị Tỷ-kheo)
(S.iii,162)
1) Nhân duyên ở Sàvatthi.
2) Rồi một Tỷ-kheo đi đến Thế
Tôn...
3) Ngồi xuống một bên, Tỷ-kheo
ấy bạch Thế Tôn:
-- "Vô minh, vô minh", bạch
Thế Tôn, như vậy được nói đến. Bạch Thế Tôn, thế nào là vô minh?
Cho đến như thế nào, một người là vô minh?
4-8) -- Ở đây, này các Tỷ-kheo, kẻ
vô văn phàm phu không biết rõ sắc, không biết rõ sắc tập khởi, không
biết rõ sắc đoạn diệt, không biết rõ con đường đưa đến sắc đoạn
diệt, không biết rõ thọ... không biết rõ tưởng... không biết rõ các
hành... không biết rõ con đường đưa đến thức đoạn diệt.
9) Này Tỷ-kheo, đây gọi là vô
minh. Và cho đến như vậy, một người là vô minh.
II. Minh (Hay Vị Tỷ-kheo)
(S.iii,163)
1-4) Nhân duyên ở Sàvatthi... Ngồi
xuống một bên, vị Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
-- "Minh, minh", bạch Thế
Tôn, như vậy được nói đến. Bạch Thế Tôn, như thế nào là minh? Cho đến
như thế nào, một người là minh?
5) -- Ở đây, này Tỷ-kheo, bậc Đa
văn Thánh đệ tử biết rõ sắc, biết rõ sắc tập khởi, biết rõ sắc
đoạn diệt, biết rõ con đường đưa đến sắc đoạn diệt.
6-8)... biết rõ thọ... biết rõ tưởng...
biết rõ các hành... biết rõ con đường đưa đến thức đoạn diệt.
9) Này Tỷ-kheo, đây gọi là minh.
Và cho đến như vậy, một người là minh.
III. Vị Thuyết Pháp (Tập 3, Đại
2,5c) (S.iii,163)
1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...
3) Sau khi ngồi xuống, Tỷ-kheo ấy
bạch Thế Tôn:
-- "Vị thuyết pháp, vị thuyết
pháp", bạch Thế Tôn, như vậy được nói đến. Cho đến như thế nào,
được (gọi) là vị thuyết pháp?
4) -- Nếu Tỷ-kheo thuyết pháp về
sự nhàm chán, ly tham, đoạn diệt đối với sắc; như vậy là vừa đủ
để được gọi là Tỷ-kheo thuyết pháp. Nếu Tỷ-kheo đi vào thực hành sự
nhàm chán, ly tham, đoạn diệt đối với sắc; như vậy là vừa đủ để
được gọi là Tỷ-kheo thực hành pháp tùy pháp. Nếu Tỷ-kheo do nhàm
chán, ly tham, đoạn diệt đối với sắc, được giải thoát, không có chấp
thủ; như vậy là vừa đủ để được gọi là Tỷ-kheo đã đạt được
Niết-bàn ngay trong hiện tại.
5-7) Nếu Tỷ-kheo đối với thọ...
Nếu Tỷ-kheo đối với tưởng... Nếu Tỷ-kheo đối với các hành...
8) Nếu Tỷ-kheo thuyết pháp về sự
nhàm chán, ly tham, đoạn diệt đối với thức; như vậy là vừa đủ để
được gọi là Tỷ-kheo thuyết pháp. Nếu Tỷ-kheo đi vào thực hành sự
nhàm chán, ly tham, đoạn diệt đối với thức; như vậy là vừa đủ để
được gọi là Tỷ-kheo thực hành pháp tùy pháp. Nếu Tỷ-kheo do nhàm
chán, ly tham, đoạn diệt đối với thức, được giải thoát không có chấp
thủ; như vậy là vừa đủ để được gọi là Tỷ-kheo đã đạt được
Niết-bàn ngay trong hiện tại.
IV. Vị Thuyết Pháp (S.iii,164)
1) Nhân duyên ở Sàvatthi.
2) Ngồi xuống một bên, Tỷ-kheo
ấy bạch Thế Tôn:
-- "Vị thuyết pháp, vị thuyết
pháp", bạch Thế Tôn, như vậy được nói đến. Cho đến như thế nào,
bạch Thế Tôn, được gọi là vị thuyết pháp? Cho đến như thế nào,
được gọi là vị thực hành pháp tùy pháp? Cho đến như thế nào, được
gọi là vị đã đạt đến Niết-bàn ngay trong hiện tại?
3-4) -- Nếu Tỷ-kheo thuyết pháp về
sự nhàm chán, ly tham, đoạn diệt đối với sắc; như vậy là vừa đủ
để được gọi là Tỷ-kheo thuyết pháp. Nếu Tỷ-kheo đi vào thực hành sự
nhàm chán, ly tham, đoạn diệt đối với sắc; như vậy là vừa đủ để
được gọi là Tỷ-kheo thực hành pháp tùy pháp. Nếu Tỷ-kheo do nhàm
chán, ly tham, đoạn diệt đối với sắc, được giải thoát, không có chấp
thủ; như vậy là vừa đủ để được gọi là Tỷ-kheo đã đạt được
Niết-bàn ngay trong hiện tại.
5-7) Nếu Tỷ-kheo đối với thọ...
đối với tưởng... đối với các hành...
8) Nếu Tỷ-kheo thuyết pháp về sự
nhàm chán, ly tham, đoạn diệt đối với thức; như vậy là vừa đủ để
được gọi là Tỷ-kheo thuyết pháp. Nếu Tỷ-kheo đi vào thực hành sự
nhàm chán, ly tham, đoạn diệt đối với thức; như vậy là vừa đủ để
được gọi là Tỷ-kheo thực hành pháp tùy pháp. Nếu Tỷ-kheo do nhàm
chán, ly tham, đoạn diệt đối với thức, được giải thoát, không có chấp
thủ; như vậy là vừa đủ để được gọi là Tỷ-kheo đã đạt được
Niết-bàn ngay trong hiện tại.
V. Trói Buộc (Tạp 2, Đại
2,19b) (S.iii,164)
1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...
3) -- Ở đây, này các Tỷ-kheo, kẻ
vô văn phàm phu không thấy rõ các bậc Thánh... không tu tập pháp các bậc
Chân nhân, quán sắc như là tự ngã, hay tự ngã như là có sắc, hay sắc
ở trong tự ngã, hay tự ngã ở trong sắc. Người như vậy, này các Tỷ-kheo,
được gọi là kẻ vô văn phàm phu, bị trói buộc bởi các trói buộc của
sắc, bị trói buộc bởi các trói buộc nội ngoại, kẻ không thấy bờ
bên này, kẻ không thấy bờ bên kia, khi sanh bị trói buộc, khi chết bị
trói buộc, khi đi từ đời này qua đời khác bị trói buộc.
4-6). .. quán thọ... quán tưởng...
quán các hành...
7) Ở đây, này các Tỷ-kheo, kẻ
vô văn phàm phu không thấy rõ các bậc Thánh... không tu tập pháp các bậc
Chân nhân, quán thức như là tự ngã, tự ngã như là có thức, hay thức
ở trong tự ngã, hay tự ngã ở trong thức. Người như vậy, này các Tỷ-kheo,
được gọi là kẻ vô văn phàm phu, bị trói buộc bởi các trói buộc của
thức, bị trói buộc bởi các trói buộc của nội ngoại, kẻ không thấy
bờ bên này, kẻ không thấy bờ bên kia, khi sanh bị trói buộc, khi chết bị
trói buộc, khi đi từ đời này qua đời khác bị trói buộc.
8) Còn vị Đa văn Thánh đệ tử, này
các Tỷ-kheo, thấy rõ các bậc Thánh... tu tập pháp các bậc Chân nhân,
không quán sắc như là tự ngã, hay tự ngã như là có sắc, hay sắc ở
trong tự ngã, hay tự ngã ở trong sắc. Người như vậy, này các Tỷ-kheo,
được gọi là vị Đa văn Thánh đệ tử, không bị trói buộc bởi các
trói buộc của sắc, không bị trói buộc bởi các trói buộc nội ngoại,
vị đã thấy bờ bên này, vị đã thấy bờ bên kia. Ta nói, vị ấy được
giải thoát hoàn toàn khỏi đau khổ.
9-11)... Đối với thọ... với tưởng....
với các hành...
12). .. không quán thức như là tự
ngã, hay tự ngã như là có thức, hay thức ở trong tự ngã, hay tự ngã ở
trong thức. Vị như vậy, này các Tỷ-kheo, được gọi là vị Đa văn Thánh
đệ tử, không bị trói buộc bởi sự trói buộc của thức, không bị
trói buộc bởi sự trói buộc nội ngoại; vị đã thấy bờ bên này, đã
thấy bờ bên kia. Ta nói, vị ấy đã giải thoát hoàn toàn khỏi đau khổ.
VI. Gỉai Thoát (Tạp 2, Đại
2,19c) (S.iii,165)
1) Nhân duyên ở Sàvatthi.
2) -- Các Ông nghĩ thế nào, này
các Tỷ-kheo? Các Ông có quán sắc: "Cái này là của tôi, cái này là
tôi, cái này là tự ngã của tôi"?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
-- Lành thay! Này các Tỷ-kheo, các
Ông cần phải như thật quán với chánh trí tuệ: "Cái này không phải
của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của
tôi".
3-5). .. thọ... tưởng... các
hành...
6). .. các Ông có quán thức:
"Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của
tôi"?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
-- Lành thay! Này các Tỷ-kheo, các
Ông phải như thật quán thức với chánh trí tuệ: "Cái này không phải
của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của
tôi".
7) Do thấy vậy, này các Tỷ-kheo, vị
ấy biết rõ: "... không còn trở lui trạng thái này nữa".
VII. Gỉai Thoát (Tạp 2, Đại
2,19c) (S.iii,166)
1) Nhân duyên ở Sàvatthi.
2) -- Các Ông nghĩ thế nào, này
các Tỷ-kheo, các Ông có quán sắc: "Cái này không phải của tôi, cái
này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi"?
-- Thưa có, bạch Thế Tôn.
-- Lành thay! Này các Tỷ-kheo, các
Ông cần phải như thật quán sắc với chánh trí tuệ: "Cái này không
phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của
tôi".
3-5). .. thọ... tưởng... các
hành...
6). .. các Ông có quán thức:
"Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này
không phải tự ngã của tôi"?
-- Thưa có, bạch Thế Tôn.
-- Lành thay! Này các Tỷ-kheo, các
Ông cần phải như thật quán thức với chánh trí tuệ: "Cái này không
phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của
tôi".
7) Do thấy vậy, này các Tỷ-kheo, vị
ấy biết rõ: "... không còn trở lui trạng thái này nữa".
VIII. Kiết Sử (S.iii,166)
1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...
3) -- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết
cho các Ông về các pháp bị trói buộc và sự trói buộc. Hãy lắng nghe.
4) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
các pháp bị trói buộc? Thế nào là sự trói buộc? Sắc, này các Tỷ-kheo,
là pháp bị trói buộc. Dục và tham đối với sắc là sự trói buộc của
sắc.
5-7). .. Thọ... Tưởng... Các
hành...
8) Thức, này các Tỷ-kheo, là pháp
bị trói buộc. Dục và tham đối với thức là sự trói buộc của thức.
9) Này các Tỷ-kheo, các pháp này,
này các Tỷ-kheo, được gọi là các pháp bị trói buộc. Đây là sự trói
buộc.
IX. Chấp Thủ (S.iii,167)
1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...
3) -- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết
giảng cho các Ông về các pháp bị chấp thủ và sự chấp thủ. Hãy lắng
nghe.
4) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
các pháp bị chấp thủ? Thế nào là sự chấp thủ? Sắc, này các Tỷ-kheo,
là pháp bị chấp thủ. Dục và tham đối với sắc là sự chấp thủ đối
với sắc.
5-7)... Thọ... Tưởng... Các hành...
8) Thức, này các Tỷ-kheo, là pháp
bị chấp thủ. Dục và tham đối với thức là sự chấp thủ đối với
thức.
9) Này các Tỷ-kheo, các pháp này,
được gọi là các pháp bị chấp thủ. Đây là sự chấp thủ.
X. Vị Giữ Giới (Tạp 10, Đại
2,65b) (S.iii,167)
1) Một thời, Tôn giả Sàriputta
(Xá-lợi-phất) và Tôn giả Mahà Kotthika trú ở Bàrànasi (Ba-la-nại), tại
Isipatana (Chư Tiên đọa xứ), vườn Lộc Uyển.
2-3) Rồi Tôn giả Mahà Kotthika, vào
buổi chiều, từ Thiền tịnh đứng dậy, đi đến Tôn giả Sàriputta... thưa
như sau:
-- Thưa Hiền giả Sàriputta, những
pháp gì Tỷ-kheo giữ giới cần phải như lý tác ý?
4) -- Này Hiền giả Kotthika, Tỷ-kheo
giữ giới cần phải như lý tác ý năm thủ uẩn là vô thường, khổ, bệnh
hoạn, ung nhọt, mũi tên, bất hạnh, ốm đau, người lạ, hủy hoại, rỗng
không, vô ngã.
5) Thế nào là năm? Tức là sắc thủ
uẩn, thọ thủ uẩn, tưởng thủ uẩn, hành thủ uẩn, thức thủ uẩn.
Này Hiền giả Kotthika, vị Tỷ-kheo giữ giới cần phải như lý tác ý năm
thủ uẩn là vô thường, khổ, bệnh hoạn, ung nhọt, mũi tên, bất hạnh,
ốm đau, người lạ, hủy hoại, rỗng không, vô ngã.
6) Này Hiền giả, sự kiện này xảy
ra: Tỷ-kheo giữ giới do như tác ý năm thủ uẩn này là vô thường... vô
ngã, có thể chứng được quả Dự lưu.
7) -- Với Tỷ-kheo đã chứng quả Dự
lưu, này Hiền giả Sàriputta, những pháp gì cần phải như lý tác ý?
8-9) -- Với Tỷ-kheo đã chứng quả
Dự lưu, này Hiền giả Kotthika, cần phải như lý tác ý năm thủ uẩn này
là vô thường... vô ngã. Sự kiện này có thể xảy ra, này Hiền giả, Tỷ-kheo
Dự lưu, do như lý tác ý năm thủ uẩn này là vô thường... vô ngã, có thể
chứng được quả Nhứt lai.
10) -- Nhưng Tỷ-kheo Nhứt lai, này
Hiền giả Sàriputta, phải như lý tác ý các pháp gì?
11) -- Tỷ-kheo Nhứt lai, này Hiền
giả Kotthika, phải như lý tác ý năm thủ uẩn này là vô thường... vô
ngã. Sự kiện này có thể xảy ra, này Hiền giả, Tỷ-kheo Nhứt lai, do như
lý tác ý năm thủ uẩn này là vô thường... vô ngã, có thể chứng được
quả Bất lai.
12) -- Nhưng Tỷ-kheo Bất lai, này Hiền
giả Sàriputta, cần phải như lý tác ý những pháp gì?
13-15) -- Tỷ-kheo Bất lai, này Hiền
giả Kotthika, cần phải như lý tác ý năm thủ uẩn này là vô thường... vô
ngã. Sự kiện này có thể xảy ra, này Hiền giả, Tỷ-kheo Bất lai, do như
lý tác ý năm thủ uẩn này là vô thường... vô ngã, có thể chứng được
quả A-la-hán.
16) -- Nhưng vị A-la-hán, này Hiền
giả Sàriputta, cần phải như lý tác ý các pháp gì?
17) -- Vị A-la-hán, này Hiền giả
Kotthika, cần phải như lý tác ý năm thủ uẩn này là vô thường, khổ, bệnh
hoạn, ung nhọt, mũi tên, bất hạnh, ốm đau, người lạ, hủy hoại, rỗng
không, vô ngã.
18) Với vị A-la-hán, này Hiền giả,
không có gì phải làm nữa, hay không có phải thêm gì nữa trong công việc
làm. Nhưng sự tu tập, làm cho sung mãn những pháp này sẽ đưa đến hiện
tại lạc trú và chánh niệm tỉnh giác.
XI. Vị Có Nghe (S.iii,169)
(Hoàn toàn như kinh trước, chỉ
thay thế vị có nghe cho vị giữ giới ).
XII. Kappa (Tạp 1, Đại 2,4c)
(S.iii,169)
1) Nhân duyên ở Sàvatthi.
2) Rồi Tôn giả Kappa đi đến Thế
Tôn...
3) Ngồi xuống một bên, Tôn giả
Kappa bạch Thế Tôn:
-- Do biết như thế nào, do thấy như
thế nào, bạch Thế Tôn, đối với thân có thức này và đối với tất cả
tướng ở ngoài, lại không có (tư tưởng) ngã kiến, ngã sở kiến, ngã mạn?
4) -- Phàm có sắc gì, này Kappa, thuộc
quá khứ, vị lai, hiện tại, hoặc nội hay ngoại, hoặc thô hay tế, hoặc
thắng hay liệt, hoặc xa hay gần; tất cả sắc ấy cần phải như thật quán
với chánh trí tuệ là: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải
là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi".
5-7) Phàm có thọ gì... tưởng gì...
các hành gì...
8) Phàm có thức gì, này Kappa, thuộc
quá khứ, vị lai, hiện tại, hoặc nội hay ngoại, hoặc thô hay tế, hoặc
liệt hay thắng, hoặc xa hay gần; tất cả thức cần phải như quán với
chánh trí tuệ là: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải
là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi".
9) Do biết như vậy, do thấy như vậy,
này Kappa, đối với thân có thức này, và đối với tất cả tướng ở
ngoài, không có (tư tưởng) ngã kiến, ngã sở kiến, ngã mạn.
XIII. Kappa (S.iii,170)
1) Nhân duyên ở Sàvatthi.
2) Ngồi xuống một bên, Tôn giả
Kappa bạch Thế Tôn:
-- Do biết như thế nào, thấy như
thế nào, bạch Thế Tôn, đối với thân có thức này và đối với tất cả
tướng ở ngoài, tâm ý không còn các tư tưởng ngã kiến, ngã sở kiến,
ngã mạn, vượt qua kiêu mạn, tịch tịnh, khéo giải thoát?
3) -- Phàm có sắc gì, này Kappa, thuộc
quá khứ, vị lai, hiện tại... tất cả sắc, sau khi như thật quán với
chánh trí tuệ là: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải
là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi", được giải thoát,
không có chấp thủ.
4-6) Phàm có thọ gì... tưởng... các
hành...
7) Phàm có thức gì, này Kappa, thuộc
quá khứ, vị lai, hiện tại, hoặc nội hay ngoại, hoặc thô hay tế, hoặc
liệt hay thắng, hoặc xa hay gần; tất cả thức, sau khi như thật quán với
chánh trí tuệ là: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải
là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi", được giải thoát,
không có chấp thủ.
8) Do biết như vậy, thấy như vậy,
này Kappa, đối với thân có thức này, và trong tất cả tướng ở ngoài,
tâm ý không có (các tư tưởng) ngã kiến, ngã sở kiến, ngã mạn, vượt
ngoài kiêu mạn, khéo giải thoát.
III. Phẩm Vô Minh
I. Tập Pháp (Tạp 10, Đại
2,64b) (S.iii,171)
1) Nhân duyên ở Sàvatthi.
2) Rồi một Tỷ-kheo đi đến Thế
Tôn; sau khi đến...
3) Ngồi xuống một bên, Tỷ-kheo
ấy bạch Thế Tôn:
-- "Vô minh, vô minh", bạch
Thế Tôn, được nói đến như vậy. Bạch Thế Tôn, thế nào là vô minh?
Và cho đến như thế nào được gọi là vô minh?
4) -- Ở đây, này Tỷ-kheo, kẻ vô
văn phàm phu, không như thật biết rõ: "Sắc chịu sự tập khởi"
là sắc chịu sự tập khởi, không như thật biết rõ: "Sắc chịu sự
đoạn diệt" là sắc chịu sự đoạn diệt, không như thật biết rõ:
"Sắc chịu sự tập khởi và đoạn diệt" là sắc chịu sự tập
khởi và đoạn diệt.
5-7). .. "Thọ... Tưởng... Các
hành..".
8). .. không như thật biết rõ:
"Thức chịu sự tập khởi" là thức chịu sự tập khởi, không như
thật biết rõ: "Thức chịu sự đoạn diệt" là thức chịu sự
đoạn diệt, không như thật biết rõ: "Thức chịu sự tập khởi và
đoạn diệt" là thức chịu sự tập khởi và đoạn diệt.
9) Như vậy, này Tỷ-kheo, gọi là
vô minh. Cho đến như vậy được gọi là vô minh.
10) Khi được nói vậy, Tỷ-kheo ấy
bạch Thế Tôn:
-- "Minh, minh", bạch Thế
Tôn, được nói đến như vậy. Thế nào là minh, bạch Thế Tôn? Cho đến
như thế nào được gọi là minh?
11) -- Ở đây, bậc Đa văn Thánh đệ
tử như thật biết rõ: "Sắc chịu sự tập khởi" là sắc chịu sự
tập khởi, như thật biết rõ: "Sắc chịu sự đoạn diệt" là sắc
chịu sự đoạn diệt, như thật biết rõ: "Sắc chịu sự tập khởi
và đoạn diệt" là sắc chịu sự tập khởi và đoạn diệt.
12-14). .. "Thọ... Tưởng... Các
hành..".
15)... Như thật biết rõ: "Thức
chịu sự tập khởi" là thức chịu sự tập khởi, như thật biết rõ:
"Thức chịu sự đoạn diệt" là thức chịu sự đoạn diệt, như
thật biết rõ: "Thức chịu sự tập khởi và đoạn diệt" là thức
chịu sự tập khởi và đoạn diệt.
16) Như vậy, này Tỷ-kheo, được gọi
là minh, cho đến như vậy được gọi là minh.
II. Tập Pháp (S.iii,172)
1) Một thời, Tôn giả Sàriputta và
Tôn giả Mahà Kotthika trú ở Bàrànasi, tại Isipatana, vườn Lộc Uyển.
2) Rồi Tôn giả Mahà Kotthika, vào
buổi chiều, từ Thiền tịnh đứng dậy...
3) Ngồi xuống một bên, Tôn giả
Mahà Kotthika thưa với Tôn giả Sàriputta:
-- "Vô minh, vô minh", thưa
Hiền giả Sàriputta, được nói đến như vậy. Thế nào là vô minh, thưa
Hiền giả Sàruputta? Cho đến như thế nào được gọi là vô minh?
(... như kinh trên).
III. Tập Pháp (S.iii,173)
1-2) Một thời, Tôn giả Sàriputta
và Tôn giả Mahà Kotthika trú ở Bàrànasi (Ba-la-nại), Isipatana (Chư Tiên đọa
xứ), tại vườn Lộc Uyển.
3) Ngồi xuống một bên, Tôn giả
Mahà Kotthika thưa với Tôn giả Sàriputta:
-- "Minh, minh", thưa Tôn giả
Sàriputta, được nói đến như vậy. Thế nào là minh, thưa Hiền giả Sàriputta?
Cho đến như thế nào được gọi là minh?
(. .. như kinh trên).
IV. Vi Ngọt
1-2) Tại Bàrànasi, Isipatana, vườn
Lộc Uyển...
3) Ngồi xuống một bên, Tôn giả
Mahàa Kotthika thưa với Tôn giả Sàriputta:
-- "Vô minh, vô minh", thưa
Hiền giả Sàriputta, được nói đến như vậy. Thế nào là vô minh, thưa
Hiền giả? Và cho đến như thế nào được gọi là vô minh?
4) -- Ở đây, này Hiền giả, kẻ
vô văn phàm phu không như thật biết rõ vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất
ly của sắc.
5-7)... thọ... tưởng... các hành...
8)... không như thật biết rõ vị
ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của thức.
9) Đây là vô minh, này Hiền giả.
Cho đến như vậy được gọi là vô minh.
V. Vị Ngọt (S.iii,174)
1-2) Tại Bàrànasi, Isipatana, vườn
Lộc Uyển...
3) -- "Minh, minh", này Hiền
giả Sàriputta, được nói đến như vậy. Thế nào là minh, thưa Hiền giả?
Như thế nào được gọi là minh?
4-8) Ở đây, này Hiền giả, bậc
Đa văn Thánh đệ tử như thật biết rõ vị ngọt, sự nguy hiểm và sự
xuất ly của sắc... của thọ... của tưởng... của các hành... như thật
biết rõ vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của thức.
9) Đây gọi là vô minh, này Hiền
giả. Cho đến như vậy được gọi là vô minh.
VI. Tập Khởi (S.iii,174)
1-2) Bàrànasi, Isipatana, vườn Lộc
Uyển...
3) -- "Vô minh, vô minh", thưa
Hiền giả Sàriputa, được nói đến là như vậy. Và thế nào là vô minh,
thưa Hiền giả? Cho đến như thế nào được gọi là vô minh?
4) -- Ở đây, này Hiền giả, kẻ
vô văn phàm phu không như thật biết rõ sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị
ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của sắc.
5-7)... thọ... tưởng... các hành...
8)... không như thật biết rõ sự tập
khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của thức.
9) Như vậy, này Hiền giả, được
gọi là vô minh. Cho đến như vậy được gọi là vô minh.
VII. Tập Khởi (S.iii,174)
1-2) Bàrànasi, Isipatana, vườn Lộc
Uyển...
3) Ngồi xuống một bên, Tôn giả
Mahà Kotthika thưa với Tôn giả Sàriputta:
-- "Minh, minh" thưa Hiền giả
Sàriputta, được nói đến như vậy. Thế nào là minh, thưa Hiền giả? Cho
đến như thế nào được gọi là minh?
4) -- Ở đây, thưa Hiền giả, bậc
Đa văn Thánh đệ tử như thật biết rõ sự tập khởi, sự đoạn diệt,
vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của sắc.
5-7). .. thọ... tưởng... các
hành...
8). .. như thật biết rõ sự tập
khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của thức.
9) Như vậy được gọi là minh,
này Hiền giả. Cho đến như vậy được gọi là minh.
VIII. Kotthika (S.iii,175)
1) Bàrànasi, Isipatana, Migadàya.
2) Tôn giả Sàriputta vào buổi chiều...
3) Ngồi xuống một bên, Tôn giả
Sàriputta nói với Tôn giả Kotthika:
-- "Vô minh, vô minh", này Hiền
giả Kotthika, được nói đến như vậy. Thế nào là vô minh, thưa Hiền giả?
Cho đến như thế nào, được gọi là vô minh?
4) -- Ở đây, này Hiền giả, kẻ
vô văn phàm phu không như thật biết rõ vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất
ly của sắc.
5-7). .. thọ... tưởng... các
hành...
8). .. không như thật biết rõ vị
ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của thức.
9) Như vậy gọi là vô minh, thưa Hiền
giả. Cho đến như vậy được gọi là vô minh.
10) Khi được nói vậy, Tôn giả
Sàriputta và nói với Tôn giả Kotthika:
-- "Minh, minh", thưa Hiền giả
Kotthika, được nói đến như vậy. Thế nào là minh, thưa Hiền giả? Cho đến
như thế nào, được gọi là minh?
11) -- Ở đây, thưa Hiền giả, vị
Đa văn Thánh đệ tử như thật biết rõ vị ngọt, sự nguy hiểm, và sự
xuất ly của sắc.
12-14). .. thọ... tưởng... các
hành...
15). .. như thật biết rõ vị ngọt,
sự nguy hiểm và sự xuất ly của thức.
16) Như vậy, này Hiền giả, được
gọi là minh. Cho đến như vậy được gọi là minh.
IX. Kotthika (S.iii,175)
1) Bàrànasi, Isipatana, Migadàya.
2-3) -- "Vô minh, vô minh", thưa
Hiền giả Kotthika, được nói đến như vậy. Thế nào là vô minh, thưa Hiền
giả? Cho đến như thế nào được gọi là vô minh?
4) -- Ở đây, này Hiền giả, kẻ
vô văn phàm phu không như thật biết rõ sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị
ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của sắc.
5-7). .. thọ... tưởng... các
hành...
8). .. không như thật biết rõ sự
tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của
thức.
9) Như vậy, này Hiền giả, được
gọi là vô minh. Cho đến như vậy được gọi là vô minh.
10) Được nói vậy, Tôn giả
Sàriputta nói với Tôn giả Kotthika:
-- "Minh, minh", thưa Hiền giả
Kotthika, được nói đến như vậy. Thế nào là minh, thưa Hiền giả? Cho đến
như thế nào được gọi là minh?
11) -- Ở đây, này Hiền giả, bậc
Đa văn Thánh đệ tử như thật biết rõ sự tập khởi, sự đoạn diệt,
vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của sắc.
12-14). .. thọ... tưởng... các
hành...
15). .. như thật biết rõ sự tập
khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của thức.
16) Như vậy, này Hiền giả, được
gọi là minh. Cho đến như vậy, được gọi là minh.
X. Kotthika (S.iii,176)
1-2) Nhân duyên như trên.
3) Ngồi xuống một bên, Tôn giả
Sàriputta nói với Tôn giả Kotthika:
-- "Vô minh, vô minh", thưa
Hiền giả Kotthika, được nói đến như vậy. Và thế nào là vô minh, thưa
Hiền giả? Cho đến như thế nào, được gọi là vô minh?
4) -- Ở đây, thưa Hiền giả, kẻ
vô văn phàm phu không như thật biết rõ sắc, không biết rõ sắc tập khởi,
không biết rõ sắc đoạn diệt, không biết rõ con đường đưa đến sắc
đoạn diệt.
5-7). .. thọ... tưởng... các
hành...
8). .. không biết rõ thức, không biết
rõ thức tập khởi, không biết rõ thức đoạn diệt, không biết rõ con
đường đưa đến thức đoạn diệt.
9) Như vậy, này Hiền giả, được
gọi là vô minh. Cho đến như vậy được gọi là vô minh.
10) Khi được nói vậy, Tôn giả
Sàriputta nói với Tôn giả Kotthika:
-- "Minh, minh", thưa Hiền giả
Kotthika, được nói đến như vậy. Thế nào là minh, thưa Hiền giả? Cho đến
như thế nào, được gọi là minh?
11)-- Ở đây, này Hiền giả, bậc
Đa văn Thánh đệ tử như thật biết rõ sắc, biết rõ sắc tập khởi, biết
rõ sắc đoạn diệt, biết rõ con đường đưa đến sắc đoạn diệt.
12-14). .. thọ... tưởng... các
hành...
15). .. biết rõ thức, biết rõ thức
tập khởi, biết rõ thức đoạn diệt, biết rõ con đường đưa đến thức
đoạn diệt.
16) Như vậy, này Hiền giả, được
gọi là minh. Cho đến như vậy được gọi là minh.
IV. Phẩm Than Đỏ
I. Than Đỏ Hực (S.iii,177)
1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...
3) -- Sắc là than đỏ, này các Tỷ-kheo!
Thọ là than đỏ! Tưởng là than đỏ! Các hành là than đỏ! Thức là than
đỏ!
4) Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, bậc
Đa văn Thánh đệ tử nhàm chán đối với sắc, nhàm chán đối với thọ,
nhàm chán đối với tưởng, nhàm chán đối với các hành, nhàm chán đối
với thức.
5) Do nhàm chán nên ly tham, do ly tham
nên giải thoát. Trong sự giải thoát, trí khởi lên: "Ta đã được giải
thoát". Vị ấy biết rõ: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, các
việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa".
II. Vô Thường (S.iii,177)
1) Nhân duyên ở Sàvatthi.
2) -- Cái gì vô thường, này các Tỷ-kheo,
ở đây các Ông cần phải đoạn trừ lòng dục. Này các Tỷ-kheo, cái gì
là vô thường?
3) Này các Tỷ-kheo, sắc là vô thường.
4-6)... Thọ... Tưởng... Các hành...
7) Thức là vô thường, ở đây,
các Ông cần phải đoạn trừ lòng dục.
8) Cái gì vô thường, này các Tỷ-kheo,
ở đây các Ông cần phải đoạn trừ lòng dục.
III. Vô Thường
(Như kinh trên, chỉ khác là tham
(ràga) thay thế cho dục (chanda).
IV. Vô Thường
(Như kinh trên, chỉ khác là cả dục
và tham ).
V-VI-VII. Khổ (1,2,3)
(Như kinh trên, chỉ khác là khổ
thay thế cho vô thường ).
VIII-IX-X. Vô Ngã (1,2,3)
(Như kinh trên, chỉ khác là vô ngã
thay thế cho khổ ).
XI. Thiện Nam Tử Khổ (Tạp 2,
Đại 2,12a) (S.iii,179)
1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...
3) -- Đối với vị thiện nam tử vì
lòng tin xuất gia, này các Tỷ-kheo, đây là thuận pháp (anudhammam): Hãy sống
nhàm chán nhiều đối với sắc... đối với thọ... đối với tưởng...
đối với các hành, hãy sống nhàm chán nhiều đối với thức.
4) Ai sống nhàm chán nhiều đối với
sắc... đối với thọ... đối với tưởng... đối với các hành, ai sống
nhàm chán nhiều đối với thức thời sẽ biến tri sắc... thọ... tưởng...
các hành, biến tri thức.
5) Vị nào biến tri sắc, biến tri
thọ, biến tri tưởng, biến tri các hành, biến tri thức, thời được giải
thoát khỏi sắc, được giải thoát khỏi thọ, được giải thoát khỏi tưởng,
được giải thoát khỏi các hành, được giải thoát khỏi thức, được
giải thoát khỏi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Ta nói vị ấy
được giải thoát khỏi đau khổ.
XII. Thiện Nam Tử Khổ
(Như kinh trên, chỉ khác là thấy
vô thường thay thế sống nhàm chán ).
XIII. Thiện Nam Tử Khổ
(Như kinh trên, ở đây chỉ khác
là thấy vô ngã ).
V. Phẩm Kiến
I. Nội (Tạp 7, Đại 2,43b)
(S.iii,180)
1-2) Ở Sàvatthi...
3) -- Do có cái gì, này các Tỷ-kheo,
do chấp thủ cái gì, nội lạc, khổ khởi lên?
4) -- Bạch Thế Tôn, đối với chúng
con, các pháp lấy Thế Tôn làm căn bản...,...
5) -- Này các Tỷ-kheo, do có sắc,
do chấp thủ sắc, nội lạc, khổ khởi lên.
6-8)... thọ... tưởng... các hành...
9) Do có thức, do chấp thủ thức,
nội lạc, khổ khởi lên.
10) Các Ông nghĩ thế nào, này các
Tỷ-kheo, sắc là thường hay vô thường?
-- Vô thường, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
-- Là khổ, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự
biến hoại, nếu không chấp thủ cái ấy, nội lạc, khổ có thể khởi
lên không?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
11-13). .. Thọ... Tưởng... Các
hành...
14) -- Thức là thường hay vô thường?
-- Vô thường, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
-- Là khổ, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự
biến hoại, nếu không chấp thủ cái ấy, thời nội lạc, khổ có thể
sanh khởi không?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
15) Do thấy vậy... "... không
còn trở lui trạng thái này nữa".
II. Cái Này Là Của Tôi (Tạp 7,
Đại 2,43a) (S.iii,181)
1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...
3) -- Này các Tỷ-kheo, do có cái
gì, do chấp thủ cái gì, do thiên chấp cái gì mà quán: "Cái này là của
tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi"?
4) -- Bạch Thế Tôn, đối với chúng
con, các pháp lấy Thế Tôn làm căn bản...
5-9) -- Này các Tỷ-kheo, do có sắc,
do chấp thủ sắc, do thiên chấp sắc... do có thức, do chấp thủ thức, do
thiên chấp thức nên quán: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái
này là tự ngã của tôi".
10) Các Ông nghĩ thế nào, này các
Tỷ-kheo, sắc là thường hay vô thường?
-- Vô thường, bạch Thế Tôn...
-- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự
biến hoại, có nên chấp thủ cái ấy, và quán cái ấy là: "Cái này
là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi"?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
11-13). .. Thọ... Tưởng... Các
hành...
14) -- Thức là thường hay vô thường?
-- Vô thường, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự
biến hoại, có nên chấp thủ cái ấy và quán cái ấy là: "Cái này
là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi"?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
15) Do thấy vậy... vị ấy biết
rõ... "... không còn trở lui trạng thái này nữa".
III. Ngã (Tạp 7, Đại 2,43c)
(S.iii,182)
1-3) Nhân duyên ở Sàvatthi...
-- Này các Tỷ-kheo, do có cái gì,
do chấp thủ cái gì, do thiên chấp cái gì, tà kiến này khởi lên:
"Cái này là ngã, cái này là thế giới, cái này sau khi chết sẽ thường
còn, thường hằng, thường trú, không chịu sự biến hoại"?
4) -- Đối với chúng con, các pháp
lấy Thế Tôn làm căn bản...
5) -- Này các Tỷ-kheo, do có sắc,
chấp thủ sắc, thiên chấp sắc nên khởi lên tà kiến như sau: "Cái
này là ngã, cái này là thế giới, cái này sau khi chết sẽ thường còn,
thường hằng, thường trú, không chịu sự biến hoại".
6-9)... thọ... tưởng... các hành...
10) Do có thức, chấp thủ thức,
thiên chấp thức nên khởi lên tà kiến như sau: "Cái này là ngã, cái
này là thế giới, cái này sau khi chết sẽ thường còn, thường hằng,
thường trú, không chịu sự biến hoại".
-- Các Ông nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo,
sắc là thường hay vô thường?
-- Là vô thường, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
-- Là khổ, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự
biến hoại, có nên chấp thủ cái ấy, và khởi lên tà kiến như sau:
"Cái này là ngã, cái này là thế giới, cái này sau khi chết sẽ trở
thành thường còn, thường hằng, thường trú, không chịu sự biến hoại"?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
11-14). .. Thọ... Tưởng... Các
hành... Thức là thường hay vô thường?
-- Là vô thường, bạch Thế Tôn?
-- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
-- Là khổ, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự
biến hoại, có nên chấp thủ cái ấy, và khởi lên tà kiến như sau:
"Cái này là ngã, cái này là thế giới, cái này sau khi chết sẽ thường
còn, thường hằng, thường trú, không chịu sự biến hoại"?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
15) Do thấy vậy... vị ấy biết
rõ... "... không còn trở lui trạng thái này nữa".
IV. Và Nếu Không Phải Của Tôi (S.iii,183)
1) Nhân duyên ở Sàvatthi.
2) -- Do có cái gì, này các Tỷ-kheo,
do chấp thủ cái gì tà kiến như sau sanh khởi: "Nếu trước không có
ta, thời đã không có của ta. Nếu sẽ không có ta, thời sẽ không có của
ta"?
3) -- Đối với chúng con, bạch Thế
Tôn, các pháp lấy Thế Tôn làm căn bản...
4) -- Này các Tỷ-kheo, do có sắc,
chấp thủ sắc, thiên chấp sắc nên tà kiến này khởi lên: "Nếu trước
không có ta, thời đã không có của ta. Nếu sẽ không có ta, thời sẽ
không có của ta".
5-7). .. thọ... tưởng... các
hành...
8) Do có thức, chấp thủ thức,
thiên chấp thức nên tà kiến này khởi lên: "Nếu trước không có ta,
thời đã không có của ta. Nếu sẽ không có ta, thời sẽ không có của
ta".
9) Các Ông nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo,
sắc là thường hay vô thường?
-- Vô thường, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
-- Là khổ, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự
biến hoại, có nên chấp thủ cái ấy, và khởi lên tà kiến như sau:
"Nếu trước không có ta, thời đã không có của ta. Nếu sẽ không có
ta, thời sẽ không có của ta"?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
10-13)... Thọ... Tưởng... Các
hành... Thức là thường hay vô thường?
-- Là vô thường, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
-- Là khổ, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự
biến hoại, có nên chấp thủ cái ấy, và khởi tà kiến như sau: "Nếu
trước không có ta, thời đã không có của ta. Nếu sẽ không có ta, thời
sẽ không có của ta"?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
Do thấy vậy... vị ấy biết rõ...
"... không còn trở lui trạng thái này nữa".
V. Tà Kiến (S.iii,184)
1-3) Nhân duyên ở Sàvatthi...
-- Này các Tỷ-kheo, do có cái gì,
do chấp thủ gì, do thiên chấp gì, tà kiến khởi lên?
4) -- Đối với chúng con, bạch Thế
Tôn, các pháp lấy Thế Tôn làm căn bản...
5) -- Này các Tỷ-kheo, do có sắc,
có chấp thủ, do thiên chấp sắc, khởi lên tà kiến.
6-9)... thọ... tưởng... các hành...
Do có thức, có chấp thủ thức, do
thiên chấp thức nên khởi lên tà kiến.
10) Các Ông nghĩ thế nào, này các
Tỷ-kheo, sắc là thường hay vô thường?
-- Là vô thường, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
-- Là khổ, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự
biến hoại, có nên chấp thủ cái ấy, và khởi lên tà kiến không?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
11-14). .. Thọ... Tưởng... Các
hành... Thức là thường hay vô thường?
-- Là vô thường, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
-- Là khổ, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự
biến hoại, có nên chấp thủ cái ấy, và khởi lên tà kiến không?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
Do thấy vậy... vị ấy biết rõ...
"... không còn trở lui trạng thái này nữa".
VI. Hữu Thân
(Giống như kinh trước, chỉ thế hữu
thân cho tà kiến ).
VII. Ngã Kiến
(Giống như kinh trước, chỉ thế
ngã kiến (attànuditthi) cho hữu thân ).
VIII. Thiên Kiến
(Giống như kinh trước, chỉ thế bị
trói buộc, thiên chấp kiết sử cho ngã kiến ).
IX. Thiên Kiến
(Giống như kinh trước, chỉ thêm:
Sự tham trước về sự trói buộc, thiên chấp các kiết sử ).
X. Ananda (S.iii,187)
1) Nhân duyên ở Sàvatthi...
2) Rồi Tôn giả Ananda đi đến Thế
Tôn; sau khi đến... bạch Thế Tôn:
3) -- Lành thay, bạch Thế Tôn! Thế
Tôn hãy thuyết pháp vắn tắt cho con, để sau khi nghe pháp, con sống một
mình an tịnh, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.
4) -- Ông nghĩ thế nào, này Ananda,
sắc là thường hay vô thường?
-- Là vô thường, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
-- Là khổ, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự
biến hoại, có hợp lý chăng nếu quán cái ấy là: "Cái này là của
tôi, cái này là tôi, cái này tự ngã của tôi"?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
5-8) -- Thọ... Tưởng... Các hành...
Thức là thường hay vô thường?
-- Là vô thường, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
-- Là khổ, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự
biến hoại, có hợp lý chăng khi quán cái ấy là: "Cái này là của
tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi"?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
9) Do thấy vậy... vị ấy biết
rõ... "... không còn trở lui trạng thái này nữa".