- Kinh Tương Ưng Bộ
- HT. Thích Minh Châu dịch
- Phần 55
- Chương XI
- Tương Ưng Dự Lưu
I. Phẩm Veludvàra
1. I. Vua (S.v,342)
1-2) Sàvatthi. Ở đấy... nói như
sau:
3) -- Dầu cho, này các Tỷ-kheo, một
vị Chuyển luân vương làm chủ tể và cai trị bốn châu, sau khi thân hoại
mạng chung, được sanh lên thiện thú, thiên giới, thế giới này, cộng
trú với chư Thiên ở cõi Ba mươi ba; tại đấy, vị ấy trú trong rừng
Nandana, được chúng Thiên nữ đoanh vây, được đầy đủ, được cung cấp,
được bao bọc năm thiên dục công đức, nhưng không được đầy đủ bốn
pháp; tuy vậy, vị ấy chưa được giải thoát khỏi địa ngục, chưa được
giải thoát khỏi sanh vào loài bàng sanh, chưa giải thoát khỏi ngạ quỷ,
và chưa thoát khỏi ác sanh, ác thú, đọa xứ.
4) Nhưng này các Tỷ-kheo, vị Thánh
đệ tử, dầu muốn sống bằng các miếng ăn khất thực, đắp với y nhiều
tấm (nantakàni); vị ấy đầy đủ bốn pháp. Và vị ấy được giải thoát
khỏi địa ngục, được giải thoát khỏi sanh vào loài bàng sanh, được
giải thoát khỏi cõi ngạ quỷ, được giải thoát khỏi ác sanh, ác thú,
đọa xứ. Thế nào là bốn?
5) Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị
Thánh đệ tử thành tựu lòng tin bất động đối với đức Phật:
"Đây là Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ,
Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật,
Thế Tôn".
6) Vị ấy thành tựu lòng tin bất
động đối với Pháp: "Pháp do Thế Tôn khéo thuyết, thiết thực hiện
tại, có hiệu quả tức thời, đến để mà thấy, có khả năng hướng
thượng, được người trí tự mình giác hiểu".
7) Vị ấy thành tựu lòng tin bất
động đối với chúng Tăng: "Diệu hạnh là chúng đệ tử của Thế Tôn.
Trực hạnh là chúng đệ tử của Thế Tôn. Ứng lý hạnh là chúng đệ tử
của Thế Tôn. Chơn chánh hạnh là chúng đệ tử của Thế Tôn. Tức là bốn
đôi tám chúng. Chúng đệ tử của Thế Tôn là đáng cung kính, đáng cúng
dường, đáng tôn trọng, đáng được chấp tay, là phước điền vô thượng
ở đời".
8) Vị ấy thành tựu các giới được
các bậc Thánh ái kính, không bị phá hoại, không bị đâm cắt, không bị
nhiễm ô, không bị uế nhiễm, đem lại giải thoát, được người trí
tán thán, không bị chấp thủ, đưa đến Thiền định.
9) Vị ấy thành tựu bốn pháp
này.
10) Và này các Tỷ-kheo, có sự lợi
đắc của bốn châu và sự lợi đắc của bốn pháp. Sự lợi đắc bốn
châu không đáng giá (agahati) một phần mười sáu lợi đắc bốn pháp.
2. II. Thể Nhập (S.v,343)
1-2). ..
3) -- Thành tựu bốn pháp, này các
Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử là bậc Dự lưu, không có thối đọa, quyết
chắc chứng quả giác ngộ. Thế nào là bốn?
4) Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị
Thánh đệ tử thành tựu lòng tin bất động đối với đức Phật:
"Đây là Như Lai... Phật, Thế Tôn".
5-6) Đối với Pháp... Đối với
Tăng...
7) Vị ấy thành tựu các giới được
các bậc Thánh ái kính... đưa đến Thiền định.
8) Thành tựu bốn pháp này, này
các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử là bậc Dự lưu, không còn bị thối đọa,
quyết chắc chứng quả giác ngộ.
9) Thế Tôn thuyết như vậy, Thiện
Thệ thuyết vậy xong, bậc Đạo Sư lại nói thêm:
Ai có tín và giới,
Tịnh tín và thấy pháp,
Đến thời chúng chín muồi,
Nhập Phạm hạnh, được lạc.
3. III. Diighàvu (S.v,344)
1) Một thời, Thế Tôn ở Ràjagaha
(Vương Xá), Trúc Lâm, chỗ nuôi dưỡng các con sóc.
2) Lúc bấy giờ, cư sĩ Diighàvu bị
bệnh, đau đớn, bị trọng bệnh.
3) Rồi cư sĩ Diighàvu thưa với cha
là Jotika:
-- Hãy đi, thưa Cha, đi đến Thế Tôn,
sau khi đến, nhân danh con, cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn và thưa:
"Cư sĩ Diighàvu, bạch Thế Tôn, bị bệnh, đau đớn, bị trọng bệnh,
xin cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn". Rồi Cha hãy thưa như sau:
"Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn đi đến nhà cư sĩ Diighàvu
vì lòng từ mẫn!"
-- Được, này Con.
Gia chủ Jotika nghe lời cư sĩ Diighàvu,
đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn và ngồi xuống một
bên.
4) Ngồi một bên, gia chủ Jotika bạch
Thế Tôn:
-- Bạch Thế Tôn, cư sĩ Diighàvu bị
bệnh, đau đớn, bị trọng bệnh. Vị ấy cúi đầu đảnh lễ chân Thế
Tôn và thưa như sau: "Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn đi đến
trú xứ cư sĩ Diighàvu vì lòng từ mẫn!"
Thế Tôn im lặng nhận lời.
5) Rồi Thế Tôn đắp y, cầm y bát
đi đến trú xứ cư sĩ Diighàvu; sau khi đến, ngồi xuống trên chỗ đã soạn
sẵn. Ngồi xuống rồi, Thế Tôn nói với cư sĩ Diighàvu:
-- Này Diighàvu, Ông có kham nhẫn
được chăng? Ông có chịu đựng được chăng? Có phải khổ thọ giảm
thiểu, không có tăng trưởng? Có phải có dấu hiệu giảm thiểu, không tăng
trưởng?
-- Bạch Thế Tôn, con không có thể
kham nhẫn, con không có thể chịu đựng. Đau đớn kịch liệt nơi con không
có giảm thiểu, chúng tăng trưởng. Chúng có dấu hiệu tăng trưởng, không
có dấu hiệu giảm thiểu.
6) -- Do vậy, này Diighàvu, Ông hãy
học tập như sau: "Ta sẽ thành tựu lòng tin bất động đối với đức
Phật: ‘Đây là Như Lai, Ứng Cúng... Phật, Thế Tôn. Đối với Pháp... Đối
với chúng Tăng... Tôi sẽ thành tựu các giới được các bậc Thánh ái
kính... đưa đến Thiền định"". Như vậy, này Diighàvu, Ông cần
phải học tập.
7) -- Bạch Thế Tôn, đối với bốn
Dự lưu phần do Thế Tôn thuyết giảng, tất cả các pháp ấy đều có ở
trong con. Con thực hiện chúng đầy đủ. Bạch Thế Tôn, con thành tựu
lòng tin bất động đối với Phật: "Đây là Như Lai, Ứng Cúng... Phật,
Thế Tôn... Đối với Pháp... đối với chúng Tăng... Tôi thành tựu các giới
được các bậc Thánh ái kính... đưa đến Thiền định".
-- Do vậy, này Diighàvu, sau khi Ông
đã an trú trong bốn Dự lưu phần này, Ông hãy tu tập thêm sáu minh phần
pháp (chavijjà-bhàgiye dhamme).
8) Ở đây, này Diighàvu, Ông hãy
trú, quán vô thường trong tất cả hành, quán khổ tưởng trong vô thường,
quán vô ngã tưởng trong khổ, quán tưởng đoạn tận, quán tưởng ly tham,
quán tưởng đoạn diệt. Như vậy, này Diighàvu, Ông cần phải học tập.
-- Bạch Thế Tôn, đối với sáu
minh phần pháp được Thế Tôn thuyết giảng này, chúng đều có ở trong
con và con thực hiện chúng đầy đủ. Bạch Thế Tôn, con trú, quán vô thường
trong tất cả hành, quán khổ tưởng trong vô thường, quán vô ngã tưởng
trong khổ, quán tưởng đoạn tận, quán tưởng ly tham, quán tưởng đoạn
diệt.
9) Nhưng, bạch Thế Tôn, con có ý
nghĩ sau đây: "Ta không có muốn gia chủ Jotika, ở đây khi ta chết phải
rơi vào khốn khổ (vighàta)".
-- Này Diighàvu, chớ có tác ý như
vậy! Hãy nhìn, này Dighàvu! Những gì Thế Tôn đang nói cho con, con hãy
khéo tác ý.
10) Rồi Thế Tôn sau khi giáo giới
cho cư sĩ Diighàvu với lời giáo giới, từ chỗ ngồi đứng dậy, và ra
đi.
11) Cư sĩ Diighàvu, sau khi Thế Tôn
ra đi không bao lâu liền mệnh chung.
12) Rồi nhiều Tỷ-kheo đi đến Thế
Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi một
bên, các Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
-- Bạch Thế Tôn, người cư sĩ tên
là Diighàvu; sau khi được nghe Thế Tôn giáo giới một cách tóm tắt, đã
mệnh chung. Sanh thú cư sĩ ấy thế nào? Sanh xứ cư sĩ ấy chỗ nào?
-- Hiền minh, này các Tỷ-kheo, là cư
sĩ Diighàvu! Cư sĩ Diighàvu thực hiện các pháp và tùy pháp, không làm phiền
nhiều Ta với những kiện tụng về pháp.
13) Cư sĩ Diighàvu, sau khi đoạn diệt
năm hạ phần kiết sử, được hóa sanh nhập diệt ở tại đấy, không
còn trở lui thế giới này nữa.
4. IV. Sàriputta (1) (S.v,346)
1) Một thời, Tôn giả Sàriputta và
Tôn giả Ananda trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn của ông
Anàthapindika.
2) Rồi Tôn giả Ananda, vào buổi
chiều, từ chỗ Thiền tịnh đứng dậy... ngồi xuống một bên, Tôn giả
Ananda thưa với Tôn giả Sàriputta:
3) -- Thưa Hiền giả Sàriputta, do
nhân thành tựu bao nhiêu pháp, chúng sanh ở đời này được Thế Tôn
tuyên bố là bậc Dự lưu, không còn bị thối đọa, quyết chắc chứng quả
giác ngộ?
-- Này Hiền giả, do nhân thành tựu
bốn pháp nên chúng sanh ở đời này được Thế Tôn tuyên bố là bậc Dự
lưu, không còn bị thối đọa, quyết chắc sẽ chứng quả giác ngộ. Thế
nào là bốn?
4) Ở đây, này Hiền giả, vị
Thánh đệ tử thành tựu lòng tin bất động đối với đức Phật. .. đối
với Pháp... đối với chúng Tăng... đầy đủ các giới được các bậc
Thánh ái kính... đưa đến Thiền định.
5) Này Hiền giả, do nhân thành tựu
bốn pháp này nên các chúng sanh ở đời này được Thế Tôn tuyên bố là
bậc Dự lưu, không còn bị thối đọa, quyết chắc chứng quả giác ngộ.
5. V. Sàriputta (2) (S.v,347)
1). ..
2) Rồi Tôn giả Sàriputta đi đến
Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế
Tôn nói với Tôn giả Sàriputta đang ngồi một bên:
3) -- "Dự lưu phần, dự lưu phần",
này Sàriputta, được nói đến như vậy. Này Sàriputta, thế nào là Dự lưu
phần?
-- Thân cận bậc Chân nhân, bạch
Thế Tôn, là Dự lưu phần. Nghe diệu pháp là Dự lưu phần. Như lý tác ý
là Dự lưu phần. Thực hành pháp và tùy pháp là Dự lưu phần.
-- Lành thay, này Sàriputta! Lành
thay, này Sàriputta! Thân cận bậc Chân nhân là Dự lưu phần... thực hành
pháp và tùy pháp là Dự lưu phần.
4) "Dòng sông, dòng sông",
này Sàriputta, được nói đến như vậy. Này Sàriputta, thế nào là dòng
sông?
-- Bạch Thế Tôn, đây là dòng
sông Thánh đạo Tám ngành. Tức là chánh tri kiến... chánh định.
-- Lành thay, lành thay, này
Sàriputta! Này Sàriputta, đây là dòng sông Thánh đạo Tám ngành, tức là
chánh tri kiến... chánh định.
5) "Dự lưu, Dự lưu", này
Sàriputta, được gọi là như vậy. Này Sàriputta, thế nào là Dự lưu?
-- Bạch Thế Tôn, ai thành tựu
Thánh đạo Tám ngành này, người ấy gọi là Dự lưu, vị Tôn giả với
tên như vậy, với họ như vậy.
-- Lành thay, lành thay, này
Sàriputta! Này Sàriputta, ai thành tựu Thánh đạo Tám ngành này, người ấy
được gọi là bậc Dự lưu, vị Tôn giả với tên như thế này, với họ
như thế này.
6. VI. Các Người Thợ Mộc (Thapataye)
(S.v,348)
1) Nhân duyên ở Sàvatthi.
2) Lúc bấy giờ nhiều Tỷ-kheo
đang làm y cho Thế Tôn, nghĩ rằng: "Khi y xong, Thế Tôn sau ba tháng sẽ
ra đi, du hành".
3) Lúc bấy giờ, Isidatta và Puràna,
hai người thợ mộc trú ở Sàdhuka vì một vài công việc phải làm. Hai người
thợ mộc Isidatta và Puràna nghe rằng nhiều Tỷ-kheo đang làm y cho Thế
Tôn, khi y làm xong, Thế Tôn sau ba tháng sẽ ra đi, du hành.
4) Rồi hai thợ mộc Isidatta và
Puràna đặt một người đứng ở giữa đường và dặn:
-- Này Ông, khi nào Ông thấy Thế
Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác đi đến, hãy báo tin cho chúng tôi biết.
5) Sau khi đứng hai, ba ngày, người
ấy thấy Thế Tôn từ xa đi đến, thấy vậy liền đi đến hai người thợ
mộc Isidatta và Puràna và nói với họ:
-- Thưa Quý vị, bậc Thế Tôn ấy
đã đến, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác. Nay là thời Quý vị nghĩ phải
làm gì.
6) Rồi hai người thợ mộc Isidatta
và Puràna đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đi theo
sau lưng Thế Tôn.
7) Rồi Thế Tôn đi xuống đường,
đến một gốc cây; sau khi đến, ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn.
Isidatta và Puràna đảnh lễ Thế Tôn và ngồi xuống một bên. Ngồi một
bên, hai người thợ mộc Isidatta và Puràna bạch Thế Tôn:
8) -- Bạch Thế Tôn, khi chúng con
được nghe: "Thế Tôn sẽ đi khỏi Sàvatthi để du hành giữa dân
chúng Kosala"; khi ấy, chúng con không được hoan hỷ, có sự ưu buồn,
(nghĩ rằng): "Thế Tôn sẽ ở xa chúng ta". Và khi, bạch Thế Tôn,
chúng con được nghe: "Thế Tôn đã đi khỏi Sàvatthi, đang du hành giữa
dân chúng Kosala"; khi ấy, chúng con không được hoan hỷ, có sự ưu buồn
(nghĩ rằng): "Thế Tôn đã ở xa chúng ta".
9) Bạch Thế Tôn, khi chúng con được
nghe: "Thế Tôn sẽ đi khỏi dân chúng Kosala để du hành giữa dân
chúng Malla"; khi ấy, chúng con không hoan hỷ, có ưu buồn (nghĩ rằng):
"Thế Tôn sẽ ở xa chúng ta". Và khi, bạch Thế Tôn, chúng con được
nghe: "Thế Tôn đã ra đi khỏi dân chúng Kosala, và đang du hành giữa
dân chúng Malla"; khi ấy, chúng con không hoan hỷ, có ưu buồn (nghĩ rằng):
"Thế Tôn đã ở xa chúng ta".
10) Bạch Thế Tôn, khi chúng con được
nghe: "Thế Tôn sẽ ra đi khỏi dân chúng Malla để du hành giữa dân
chúng Vajji"; khi ấy, chúng con không hoan hỷ, có ưu buồn (nghĩ rằng):
"Thế Tôn sẽ ở xa chúng ta"; Và khi, bạch Thế Tôn, chúng con được
nghe: "Thế Tôn đã ra đi khỏi dân chúng Malla, và đang du hành giữa
dân chúng Vajji"; khi ấy, chúng con không hoan hỷ, có ưu buồn (nghĩ rằng):
"Thế Tôn đã ở xa chúng ta".
11) Bạch Thế Tôn, khi chúng con được
nghe: "Thế Tôn sẽ ra đi khỏi dân chúng Vajji để du hành giữa dân
chúng Kàsi"; khi ấy, chúng con không hoan hỷ, có ưu buồn (nghĩ rằng):
"Thế Tôn sẽ ở xa chúng ta". Và khi, bạch Thế Tôn, chúng con được
nghe: "Thế Tôn đã ra đi khỏi dân chúng Vajji, và đang du hành giữa
dân chúng Kàsi"; khi ấy, chúng con không hoan hỷ, có ưu buồn (nghĩ rằng):
"Thế Tôn đã ở xa chúng ta".
12) Bạch Thế Tôn, khi chúng con được
nghe: "Thế Tôn sẽ ra đi khỏi dân chúng Kàsi để du hành giữa dân
chúng Magadha"; khi ấy, chúng con không hoan hỷ, có ưu buồn (nghĩ rằng):
"Thế Tôn sẽ ở xa chúng ta". Và khi, bạch Thế Tôn, chúng con được
nghe: "Thế Tôn đã ra đi khỏi dân chúng Kàsi, và đang du hành giữa
dân chúng Magadha"; khi ấy, chúng con không hoan hỷ, có ưu buồn (nghĩ rằng):
"Thế Tôn đã ở xa chúng ta".
13) Bạch Thế Tôn, khi chúng con được
nghe: "Thế Tôn sẽ ra đi khỏi dân chúng Magadha để du hành giữa dân
chúng Kàsi"; khi ấy, chúng con được vui vẻ, có sự hoan hỷ (nghĩ rằng):
"Thế Tôn sẽ ở gần chúng ta". Khi chúng con được nghe: "Thế
Tôn đã ra đi khỏi dân chúng Magadha và đang du hành ở Kàsi"; khi ấy,
chúng con được vui vẻ, có sự hoan hỷ, (nghĩ rằng): "Thế Tôn đã
ở gần chúng ta".
14). .. "khỏi dân chúng Kàsi để
du hành ở giữa dân chúng Vajji..".
15). .. "khỏi dân chúng Vajji để
du hành ở giữa dân chúng Malla..".
16). .. "khỏi dân chúng Malla để
du hành ở giữa dân chúng Kosala..".
17) Bạch Thế Tôn, khi chúng con được
nghe: "Thế Tôn sẽ ra đi khỏi dân chúng Kosala, để du hành giữa dân
chúng Sàvatthi"; khi ấy, chúng con được vui vẻ, có sự hoan hỷ, (nghĩ
rằng): "Thế Tôn sẽ ở gần chúng ta". Khi chúng con được nghe:
"Thế Tôn trú ở Sàvatthi, Thắng Lâm, khu vườn ông Anàthapindika";
khi ấy vô lượng là sự vui vẻ của chúng con, vô lượng là hoan hỷ của
chúng con (nghĩ rằng): "Thế Tôn đã ở gần chúng ta".
18) -- Do vậy, này các người Thợ
mộc, chật hẹp là đời sống ở gia đình, đầy những bụi đời! Phóng
khoáng giữa trời là đời sống người xuất gia! Như vậy là vừa đủ, này
các người Thợ mộc, để các Ông không có phóng dật.
19) -- Nhưng bạch Thế Tôn, ở đây
chúng con có đàn áp khác, còn áp bức hơn, còn bội phần áp bức hơn.
-- Thế nào là sự đàn áp khác,
này các người Thợ mộc, còn áp bức hơn, còn bội phần hơn?
20) -- Ở đây, bạch Thế Tôn, khi
vua Pasenadi nước Kosala muốn đi ra viếng thăm khu vườn, thời các con voi của
vua Pasenadi nước Kosala cần phải được chúng con chuẩn bị và trang sức,
và các cung phi khả ái, khả ý của vua Pasenadi nước Kosala cần phải có
chúng con đặt ngồi một người ngồi trước, một người ngồi sau. Bạch
Thế Tôn, mùi hương của các cung phi ấy thật là thơm ngọt như một hộp
nước hoa vừa được mở ra, các cung phi của vua được ướp với mùi thơm
như vậy. Lại nữa, bạch Thế Tôn, thân xúc các cung phi này thật là mềm
dịu như một túm bông hoa hồng, vì họ được nuôi dưỡng rất an lạc. Bạch
Thế Tôn, trong lúc ấy, chúng con cần phải hộ trì cho voi, cần phải hộ
trì cho các cung phi, cần phải hộ trì cho tự ngã nữa.
21) Dầu vậy, bạch Thế Tôn, chúng
con không rõ biết sự khởi lên ái tâm đối với các cung phi ấy. Đây, bạch
Thế Tôn, là đàn áp khác, còn áp bức hơn, còn bội phần áp bức hơn!
22) -- Do vậy, này các người Thợ
mộc, chật hẹp là đời sống ở gia đình, đầy những bụi đời! Phóng
khoáng giữa trời là đời sống người xuất gia! Như vậy là vừa đủ, này
các người Thợ mộc, để các Người không có phóng dật!
23) Này các người Thợ mộc, thành
tựu bốn pháp, vị Thánh đệ tử là bậc Dự lưu, không còn bị thối đọa,
quyết chắc chứng quả giác ngộ. Thế nào là bốn?
24) Ở đây, này các người Thợ mộc,
vị Thánh đệ tử thành tựu lòng tin bất động đối với đức Phật:
"Đây là Như Lai... Phật, Thế Tôn"... đối với Pháp... đối với
chúng Tăng... Vị ấy sống ở gia đình, với tâm gột sạch, cấu uế, xan
tham. Vị ấy thường bố thí, bàn tay rộng mở, ưa thích từ bỏ, thích
được nhờ cậy, thích thú chia xẻ vật được bố thí. Thành tựu bốn
pháp này, này các người Thợ mộc, vị Thánh đệ tử là bậc Dự lưu, không
còn bị thối đọa, quyết chắc chứng quả giác ngộ.
25) Này các người Thợ mộc, các
Người thành tựu lòng tin bất động đối với đức Phật: "Đây là
Như Lai... Phật, Thế Tôn"... đối với Pháp... đối với chúng Tăng.
Trong gia đình các Người, phàm có vật được bố thí nào, tất cả đều
được chia xẻ hoàn toàn và vô tư cho những vị có trì giới và các thiện
nhân.
26) Các Ông nghĩ thế nào, này các
người Thợ mộc, có bao nhiêu người ở tại Kosala có thể ngang bằng các
Ông về phần chia vật bố thí?
27) -- Thật lợi đắc cho chúng con,
bạch Thế Tôn! Thật khéo lợi đắc cho chúng con, bạch Thế Tôn, được
Thế Tôn biết chúng con như vậy!
7. VII. Những Người Ở Veludvàra
(S.v,352)
1) Như vầy tôi nghe.
Một thời, Thế Tôn đang đi du hành
giữa Kosala cùng với đại chúng Tỷ-kheo và đi đến một làng Bà-la-môn của
dân chúng Kosala tên là Veludvàra.
2) Các Bà-la-môn gia chủ ở
Veludvàra được nghe: "Sa-môn Gotama là Thích tử, đã xuất gia từ gia tộc
họ Thích, đang đi du hành giữa dân chúng Kosala cùng với đại chúng Tỷ-kheo
và đã đến Veludvàra". Tiếng đồn tốt đẹp sau đây được truyền
đi về Thế Tôn Gotama: "Đây là Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh
Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng
Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Với thắng trí, Ngài tự thân chứng ngộ
thế giới này cùng với Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, cùng với
chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người. Sau khi chứng ngộ, Ngài
thuyết pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện có nghĩa, có văn. Ngài truyền
dạy Phạm hạnh hoàn toàn, đầy đủ, trong sạch. Tốt lành thay, sự chiêm
ngưỡng một vị A-la-hán như vậy!"
3) Rồi các Bà-la-môn gia chủ ở
Veludvàra đi đến Thế Tôn. Sau khi đến, một số đảnh lễ Thế Tôn rồi
ngồi xuống một bên; một số nói lên với Thế Tôn những lời chào đón
hỏi thăm sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi
xuống một bên; một số chấp tay vái chào Thế Tôn rồi ngồi xuống một
bên; một số nói lên với Thế Tôn tên và dòng họ rồi ngồi xuống một
bên; một số im lặng ngồi xuống một bên.
4) Ngồi một bên, các Bà-la-môn gia
chủ ở Veludvàra bạch Thế Tôn:
-- Thưa Tôn giả Gotama, chúng tôi
có ước vọng như thế này, có ước muốn như thế này, có chú tâm
(adhippàya) như thế này: "Mong rằng chúng tôi được sống trong một nhà
chật đầy trẻ con ! Mong chúng tôi được sử dụng các hương chiên đàn
từ Kàsi ! Mong rằng chúng tôi được trang sức bằng vòng hoa và phấn
sáp! Mong rằng chúng tôi được sử dụng vàng và bạc! Sau khi thân hoại mạng
chung, mong rằng chúng tôi được sanh thiện thú, thiên giới, cõi đời này!"
Mong rằng Tôn giả Gotama hãy thuyết pháp cho chúng tôi, những người có ước
vọng như vậy, có ước muốn như vậy, có chú tâm như vậy. Hãy thuyết
pháp như thế nào để chúng tôi được sống trong một nhà chật đầy trẻ
con, để chúng tôi được sử dụng các hương chiên đàn từ Kàsi... để
chúng tôi, khi thân hoại mạng chung, được sanh thiện thú, thiên giới,
cõi đời này.
5) -- Vậy này các Gia chủ, Ta sẽ
thuyết cho các Ông một pháp môn đưa đến lợi ích (tự lợi cho tự ngã)
(attuupanàyikam). Hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ giảng.
-- Thưa vâng, Tôn giả.
Các Bà-la-môn ở Veludvàra vâng đáp
Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
-- Này các Gia chủ, thế nào là
pháp môn đưa đến lợi ích cho tự ngã?
6) Ở đây, này các Gia chủ, vị
Thánh đệ tử suy nghĩ như sau: "Ta muốn sống, không muốn chết, muốn
lạc, ghét khổ. Nếu có ai đến đoạt mạng sống của ta, một người muốn
sống, không muốn chết, muốn lạc, ghét khổ, như vậy là một việc
không khả ái, không khả ý đối với ta. Nhưng nếu ta đoạt mạng sống một
người muốn sống, không muốn chết, muốn lạc, ghét khổ, như vậy là một
việc không khả ái, không khả ý đối với người ấy. Một pháp này
không khả ái, không khả ý cho ta, thời pháp ấy cũng không khả ái, không
khả ý cho người khác. Và một pháp này không khả ái, không khả ý cho
ta, thời sao ta lại đem cột pháp ấy cho một người khác?" Do suy tư
như vậy, vị ấy từ bỏ sát sanh, khuyến khích người khác từ bỏ sát
sanh, nói lời tán thán từ bỏ sát sanh. Như vậy, về thân hành, vị ấy
được hoàn toàn thanh tịnh (kotiparisuddham).
7) Lại nữa, này các Gia chủ, vị
Thánh đệ tử suy tư như sau: "Nếu có ai lấy của không cho của ta, gọi
là ăn trộm, như vậy là một việc không khả ái, không khả ý cho ta. Nhưng
nếu ta lấy của không cho của người khác, gọi là ăn trộm, như vậy là
một việc không khả ái, không khả ý cho người ấy. Một pháp này không
khả ái, không khả ý cho ta, thời pháp ấy cũng không khả ái, không khả
ý cho người khác. Và một pháp này không khả ái, không khả ý cho ta, thời
sao lại đem cột pháp ấy cho người khác?" Do suy tư như vậy, vị ấy
từ bỏ lấy của không cho, khuyến khích người khác từ bỏ lấy của
không cho, nói lời tán thán từ bỏ lấy của không cho. Như vậy, về thân
hành, vị ấy được hoàn toàn thanh tịnh.
8) Lại nữa, này các Gia chủ, vị
Thánh đệ tử suy nghĩ như sau: "Nếu ai có tà hạnh với vợ của ta,
như vậy là một việc không khả ái, không khả ý cho ta. Nhưng nếu ta có
tà hạnh với vợ của người khác, như vậy là một việc không khả ái,
không khả ý cho người ấy. Một pháp này không khả ái, không khả ý cho
ta, thời pháp này không khả ý, không khả ái cho người khác. Và một
pháp này không khả ý, không khả ái cho ta, thời sao ta lại đem cột pháp
ấy cho người khác?" Do suy tư như vậy, vị ấy tự mình từ bỏ tà hạnh
trong các dục, khuyến khích người khác từ bỏ tà hạnh trong các dục,
nói lời tán thán từ bỏ tà hạnh trong các dục. Như vậy, về thân hành,
vị ấy được hoàn toàn thanh tịnh.
9) Lại nữa, này các Gia chủ, vị
Thánh đệ tử suy nghĩ như sau: "Nếu có ai làm tổn hại lợi ích ta với
lời nói láo, như vậy là một việc không khả ái, không khả ý cho ta. Nhưng
nếu ta cũng làm tổn hại lợi ích người khác với lời nói láo, như vậy
là một việc không khả ái, không khả ý cho người ấy. Một pháp này...
cho một người khác?" Do suy tư như vậy, vị ấy tự mình từ bỏ nói
láo, khuyến khích người khác từ bỏ nói láo, nói lời tán thán từ bỏ
nói láo. Như vậy, về khẩu hành, vị ấy được hoàn toàn thanh tịnh.
10) Lại nữa, này các Gia chủ, vị
Thánh đệ tử suy tư như sau: "Nếu có ai chia rẽ bạn bè ta bằng lời
nói hai lưỡi,như vậy là một việc không khả ái, không khả ý cho ta. Nhưng
nếu ta chia rẽ bạn bè người khác bằng lời nói hai lưỡi, như vậy là
một việc không khả ái, không khả ý cho người ấy. Một pháp không khả
ái... đem cột pháp ấy cho một người khác?" Do suy tư như vậy, vị
ấy tự mình từ bỏ nói hai lưỡi, khuyến khích người khác từ bỏ nói
lời hai lưỡi, nói lời tán thán từ bỏ nói lời hai lưỡi. Như vậy, về
khẩu hành, vị ấy được hoàn toàn thanh tịnh.
11) Lại nữa, này các Gia chủ, vị
Thánh đệ tử suy tư như sau: "Nếu có ai đối xử với ta bằng thô
ác ngữ, như vậy là một việc không khả ái, không khả ý cho ta. Nhưng nếu
ta cũng đối xử với người khác bằng thô ác ngữ, như vậy là một việc
không khả ái, không khả ý cho người ấy. Và một pháp không khả ái...
đem cột pháp ấy cho một người khác?" Do suy tư như vậy, vị ấy tự
mình từ bỏ thô ác ngữ, khuyến khích người khác từ bỏ thô ác ngữ,
nói lời tán thán từ bỏ thô ác ngữ. Như vậy, về khẩu hành, vị ấy
được hoàn toàn thanh tịnh.
12) Lại nữa, này các Gia chủ, vị
Thánh đệ tử suy tư như sau: "Nếu có ai đối xử với ta với lời tạp
ngữ, với lời phù phiếm, như vậy là một việc không khả ái, không khả
ý cho ta. Nhưng nếu ta cũng đối xử với người khác với lời tạp ngữ,
với lời phù phiếm, như vậy là một việc không khả ái, không khả ý
cho người ấy. Và một pháp không khả ái, không khả ý cho ta, thời pháp
ấy cũng không khả ái, không khả ý cho người khác. Và một pháp này
không khả ái, không khả ý cho ta, thời sao ta lại đem cột pháp ấy cho một
người khác?" Do suy tư như vậy, vị ấy tự mình từ bỏ lời nói
phù phiếm, khuyến khích người khác từ bỏ nói lời phù phiếm, tán thán
từ bỏ nói lời phù phiếm. Như vậy, về khẩu hành, vị ấy được hoàn
toàn thanh tịnh.
13) Vị ấy thành tựu lòng tin bất
động đối với đức Phật: "Đây là Như Lai, bậc A-la-hán... Phật,
Thế Tôn".
14). .. đối với Pháp...
15). .. đối với chúng Tăng...
16) Vị ấy thành tựu các giới
được các bậc Thánh ái kính, không bị phá hoại, không bị đâm cắt,
không bị điểm ố, không bị uế nhiễm, đem lại giải thoát, được người
trí tán thán, không bị chấp thủ, đưa đến Thiền định.
17) Này các Gia chủ, khi nào vị
Thánh đệ tử thành tựu bảy pháp này và bốn lời nguyện xứ này, nếu
vị ấy muốn, vị ấy có thể tuyên bố về mình: "Ta đã đoạn tận
địa ngục, đoạn tận khỏi sanh vào loại bàng sanh, đoạn tận cõi ngạ
quỷ, đoạn tận ác sanh, ác thú, đọa xứ. Ta là bậc Dự lưu, không có bị
thối đọa, quyết chắc chứng quả giác ngộ".
18) Được nói vậy, các Bà-la-môn
gia chủ ở Veludvàra bạch Thế Tôn:
-- Thật vi diệu thay, bạch Thế
Tôn... từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng!
8. VIII. Gỉang Đường Bằng Gạch (1)
(S.v,356)
1) Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Nàtika, trong
ngôi giảng đường bằng gạch.
2) Rồi Tôn giả Ananda đi đến Thế
Tôn; sau khi đến... bạch Thế Tôn:
-- Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo Sàlha đã
mạng chung, sanh thú thế nào, thọ sanh chỗ nào? Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo-ni
Nànda mệnh chung, sanh thú thế nào, thọ sanh chỗ nào? Bạch Thế Tôn, cư
sĩ Sudatta mệnh chung, sanh thú thế nào, thọ sanh chỗ nào? Nữ cư sĩ Sujàtà
mệnh chung, sanh thú thế nào, thọ sanh chỗ nào?
3) -- Tỷ-kheo Sàlha, này Ananda, đoạn
tận các lậu hoặc, ngay trong hiện tại, tự mình với thắng trí, chứng
ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Tỷ-kheo-ni
Nànda, này Ananda, mệnh chung, sau khi đoạn diệt năm hạ phần kiết sử,
được hóa sanh, từ chỗ ấy nhập Niết-bàn, không phải trở lui thế giới
này. Cư sĩ Sudatta, này Ananda, do đoạn diệt ba kiết sử, làm cho muội lược
tham, sân, si, là bậc Nhất Lai, sau khi trở lui thế giới này một lần nữa,
sẽ đoạn tận khổ đau. Nữ cư sĩ Sujàtà, này Ananda, mạng chung, sau khi
đoạn tận ba kiết sử, là bậc Dự lưu, không còn bị thối đọa, quyết
chắc chứng quả giác ngộ.
4) Này Ananda, thật không có gì lạ
vấn đề con người phải mệnh chung. Nhưng mỗi lần có người mệnh chung
lại đến hỏi Như Lai về vấn đề này, thời này Ananda, như vậy làm phiền
nhiễu Như Lai. Này Ananda, vì vậy Ta sẽ giảng pháp môn Pháp kính (gương
Chánh pháp) để vị Thánh đệ tử sau khi thành tựu pháp môn này, nếu muốn,
sẽ tự tuyên bố về mình như sau: "Ta đã đoạn tận địa ngục, đoạn
tận khỏi sanh vào loài bàng sanh, đoạn tận cõi ngạ quỷ, đoạn tận ác
sanh, ác thú, đọa xứ. Ta đã chứng quả Dự lưu, không còn bị thối đọa,
quyết chắc chứng quả giác ngộ".
5) Này Ananda, pháp môn Pháp kính ấy
là gì mà Thánh đệ tử thành tựu pháp môn ấy, nếu muốn, sẽ tự mình
tuyên bố về mình như sau: "Ta đã đoạn tận địa ngục... Ta đã chứng
quả Dự lưu, không còn bị thối đọa, quyết chắc chứng quả giác ngộ"?
6) Ở đây, này Ananda, vị Thánh đệ
tử thành tựu lòng tin bất động đối với đức Phật: "Đây là Như
Lai, bậc A-la-hán... Phật, Thế Tôn"... với Pháp... với Tăng.... thành
tựu các giới được các bậc Thánh ái kính... đưa đến Thiền định.
7) Đây là pháp môn Pháp kính, này
Ananda, thành tựu pháp môn này, vị Thánh đệ tử nếu muốn, tự mình
tuyên bố về mình như sau: "Ta đã đoạn tận địa ngục, đoạn tận
khỏi sanh vào loài bàng sanh, đoạn tận cõi ngạ quỷ, đoạn tận ác sanh,
ác thú, đọa xứ. Ta là bậc Dự lưu, không còn bị thối đọa, quyết chắc
chứng quả giác ngộ".
8) (Kinh này và hai kinh sau đều cùng
một nhân duyên).
9. IX. Giảng Đường Bằng Gạch (2)
(S.v,358)
1-2). .. ngồi xuống một bên, Tôn
giả Ananda bạch Thế Tôn:
-- Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo Asokà đã
mệnh chung, sanh thú của vị ấy thế nào, sanh xứ chỗ nào? Bạch Thế
Tôn, Tỷ-kheo-ni Asokà đã mệnh chung... Nam cư sĩ Asokà đã mệnh chung... Nữ
cư sĩ Asokà đã mệnh chung, sanh thú của vị ấy thế nào, sanh xứ chỗ
nào?
3-6) -- Này Ananda, Tỷ-kheo Asokà đã
mệnh chung, sau khi đoạn tận các lậu hoặc, ngay trong hiện tại, tự mình
với thắng trí, chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải
thoát, tuệ giải thoát... (như kinh trên 8, đoạn số 3 với Tỷ-kheo-ni Asokà,
nam cư sĩ Asokà và nữ cư sĩ Asokà)...
7) Này Ananda, đây là pháp môn Pháp
kính, thành tựu pháp môn này, vị Thánh đệ tử nếu muốn, tự mình
tuyên bố về mình: "Ta đã đoạn tận địa ngục, ta đã đoạn tận
khỏi sanh vào loài bàng sanh, ta đã đoạn tận cõi ngạ quỷ, ta đã đoạn
tận ác sanh, ác thú, đọa xứ. Ta là bậc Dự lưu, không còn bị thối đọa,
quyết chắc chứng quả giác ngộ".
10. X. Ngôi Nhà Bằng Gạch (3)
(S.v,358)
1-2). .. ngồi xuống một bên, Tôn
giả Ananda bạch Thế Tôn:
-- Cư sĩ ở Nàtika tên Kakkata đã mệnh
chung, sanh thú của vị ấy thế nào, sanh xứ chỗ nào? Cư sĩ ở Nàtika
tên Kàlinga, bạch Thế Tôn, đã mệnh chung, sanh thú của vị ấy thế nào,
sanh xứ chỗ nào? Cư sĩ ở Nàtika tên Nikata... Cư sĩ Katissaha... Cư sĩ
Tuttha... Cư sĩ Santuttha... Cư sĩ Dhadda... Cư sĩ Subhadda ở Nàtika, bạch Thế
Tôn, đã mệnh chung, sanh thú của vị ấy thế nào, sanh xứ chỗ nào?
3) -- Cư sĩ Kakkata, này Ananda, đã mệnh
chung, sau khi đoạn diệt năm hạ phần kiết sử, được hóa sanh, từ đấy
nhập Niết-bàn, không còn phải trở lui cõi đời này. Cư sĩ Kàlinga, này
Ananda... Cư sĩ Nikata, này Ananda... Cư sĩ Katissaha, này Ananda... Cư sĩ Tuttha,
này Ananda... Cư sĩ Santuttha, này Ananda... Cư sĩ Bhadda, này Ànanda... Cư sĩ
Subhadda, này Ananda, sau khi đoạn diệt năm hạ phần kiết sử, được hóa
sanh, từ đấy nhập Niết-bàn, không còn phải trở lui cõi đời này nữa.
Tất cả đều cùng một sanh thú.
4) Hơn năm mươi cư sĩ ở Nàtika,
này Ananda, đã mệnh chung, sau khi đoạn tận năm hạ phần kiết sử, được
hóa sanh, từ đấy nhập Niết-bàn, không còn phải trở lui cõi đời này nữa.
Hơn chín mươi nam cư sĩ ở Nàtika, này Ananda, đã mệnh chung, sau khi đoạn
diệt ba kiết sử, sau khi làm cho muội lược tham, sân, là bậc Nhứt Lai,
sau khi trở lui thế giới này một lần nữa, sẽ đoạn tận khổ đau. Năm
trăm lẻ sáu nam cư sĩ ở Sàkata, này Ananda, đã mệnh chung, sau khi đoạn
diệt ba kiết sử, là bậc Dự lưu, không còn thối đọa, quyết chắc chứng
quả giác ngộ.
5-7) Này Ananda, thật không có gì lạ
vấn đề con người phải mệnh chung. Nhưng mỗi lần có người mệnh
chung, Ông lại đến hỏi Như Lai về vấn đề này; thời này Ananda, như vậy
làm phiền nhiễu Như Lai... (xem trên 9, đoạn số 4,5,6,7)... quyết chắc chứng
quả giác ngộ.
II. Phẩm Một Ngàn Hay Vườn Vua
11. I. Một Ngàn (S.v,360)
1) Một thời Thế Tôn ở Sàvatthi,
tại khu vườn Ràjaka.
2) Rồi một chúng gồm một ngàn Tỷ-kheo-ni
đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên.
3) Thế Tôn nói với các Tỷ-kheo-ni
đang đứng một bên:
-- Này các Tỷ-kheo-ni, vị Thánh đệ
tử thành tựu bốn pháp là bậc Dự lưu, không còn bị thối đọa, quyết
chắc chứng quả giác ngộ. Thế nào là bốn?
4) Ở đây, này các Tỷ-kheo-ni, vị
Thánh đệ tử thành tựu lòng tin bất động đối với đức Phật:
"Đây là Như Lai... Phật, Thế Tôn".
5-6). .. đối với Pháp... đối với
Tăng...
7) Vị ấy thành tựu các giới được
bậc Thánh ái kính... đưa đến Thiền định.
8) Thành tựu bốn pháp này, này
các Tỷ-kheo-ni, bậc Thánh đệ tử là bậc Dự lưu, không còn bị thối đọa,
quyết chắc chứng quả giác ngộ.
12. II. Các Bà La Môn (S.v,361)
1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi.
3) -- Này các Tỷ-kheo, các
Bà-la-môn trình bày một đạo lộ hướng thượng (udayagàminim). Họ khuyến
khích các đệ tử như sau: "Hãy đến, này các Ông! Sáng sớm dậy,
hãy đi hướng mặt về phía Đông. Chớ có tránh những lỗ hổng, lỗ trũng,
khúc cây, chỗ có gai, hố nước nhớp, chớ có tránh đường mương. Nếu
có rơi vào các chỗ ấy và đi đến chết, như vậy, này các Ông, sau khi
thân hoại mạng chung, các Ông sẽ sanh lên thiện thú, thiên giới, cõi đời
này".
4) Nhưng này các Tỷ-kheo, con đường
ấy của các Bà-la-môn là con đường của kẻ ngu, con đường của kẻ si,
không đưa đến yếm ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ,
Niết-bàn. Này các Tỷ-kheo, nay Ta trình bày một đạo lộ hướng thượng
trong luật của bậc Thánh, và con đường ấy nhứt hướng đưa đến yếm
ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Và này
các Tỷ-kheo, đạo lộ hướng thượng ấy là gì, đạo lộ đưa đến nhứt
hướng yếm ly... Niết-bàn?
5) Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị
Thánh đệ tử thành tựu lòng tin bất động đối với đức Phật:
"Đây là Như Lai..".. .. đối với pháp... đối với chúng Tăng... Vị
ấy thành tựu các giới được các bậc Thánh ái kính... đưa đến Thiền
định.
6) Đây là đạo lộ đưa đến hướng
thượng, này các Tỷ-kheo,... nhứt hướng yếm ly... đưa đến Niết-bàn.
13. III. Ananda (S.v,362)
1) Một thời, Tôn giả Ananda và
Tôn giả Sàriputta trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika.
2) Rồi Tôn giả Sàriputta, vào buổi
chiều, từ chỗ Thiền tịnh đứng dậy, đi đến Tôn giả Ànanda; sau khi
đến, nói lên với Tôn giả Ananda những lời chào đón hỏi thăm. Sau khi nói
lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, Tôn giả ngồi xuống một
bên. Tôn giả Sàriputta nói với Tôn giả Ananda:
3) -- Do đoạn tận những pháp nào,
này Hiền giả Ananda, do nhân thành tựu những pháp nào, quần chúng ở đời
này được Thế Tôn tuyên bố là bậc Dự lưu, không còn bị thối đọa,
quyết chắc chứng quả giác ngộ?
4) -- Do đoạn tận bốn pháp, thưa
Hiền giả, do nhân thành tựu bốn pháp, quần chúng ở đời này được Thế
Tôn tuyên bố là bậc Dự lưu, không còn bị thối đọa, quyết chắc chứng
quả giác ngộ. Thế nào là bốn?
5) Kẻ vô văn phàm phu, này Hiền giả,
không thành tựu tịnh tín đối với đức Phật, khi thân hoại mạng chung,
sanh vào ác sanh, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Như vậy là không có tịnh
tín đối với đức Phật. Và vị Đa văn Thánh đệ tử, thưa Hiền giả,
thành tựu tịnh tín bất động đối với đức Phật, sau khi thân hoại mạng
chung, được sanh lên thiện thú, thiên giới, cõi đời này. Như vậy là tịnh
tín bất động đối với đức Phật: "Đây là Như Lai... Phật, Thế Tôn".
6) Kẻ vô văn phàm phu, này Hiền giả,
không thành tựu tịnh tín đối với Pháp, khi thân hoại mạng chung, sanh
vào ác sanh, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Như vậy là không có tịnh tín
đối với Pháp. Và vị Đa văn Thánh đệ tử thành tựu tịnh tín bất động
đối với Pháp... Như vậy là tịnh tín bất động đối với Pháp:
"Pháp được Thế Tôn khéo thuyết... chỉ người có trí mới giác hiểu".
7) Kẻ vô văn phàm phu, này Hiền giả,
không thành tựu tịnh tín đối với chúng Tăng... Như vậy là tịnh tín bất
động đối với chúng Tăng: "Diệu hạnh là chúng đệ tử của Thế Tôn...
vô thượng phước điền ở đời".
8) Kẻ vô văn phàm phu, này Hiền giả,
thành tựu ác giới... Như vậy là không có tịnh tín bất động... Như vậy
tịnh tín bất động đối với các giới: "Các giới được các bậc
Thánh ái kính... đưa đến Thiền định".
9) Do đoạn tận bốn pháp này, này
Hiền giả, do nhân thành tựu bốn pháp này, quần chúng ở đời này được
Thế Tôn tuyên bố là bậc Dự lưu, không còn bị thối đọa, quyết chắc
chứng quả giác ngộ.
14. IV. Ac Thú (1) (S.v,364)
1-2)...
3) -- Do thành tựu bốn pháp này,
này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử vượt qua sợ hãi của tất cả ác
thú. Thế nào là bốn?
4-7) Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị
Thánh đệ tử thành tựu tịnh tín bất động đối với đức Phật:
"Đây là Như Lai, bậc A-la-hán... Phật, Thế Tôn"... đối với Pháp...
đối với chúng Tăng... thành tựu các giới được các bậc Thánh ái
kính... đưa đến Thiền định.
8) Do thành tựu bốn pháp này, vị
Thánh đệ tử vượt qua sợ hãi của tất cả ác thú.
15. V. Ac Thú (2) (S.v,364)
1-2)...
3) -- Do thành tựu bốn pháp này,
này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử vượt qua sợ hãi của tất cả ác
thú, đọa xứ. Thế nào là bốn?
4-7)... (như đoạn số 4-7, kinh trên)...
8) Do thành tựu bốn pháp này, vị
Thánh đệ tử vượt qua sợ hãi của tất cả ác thú, đọa xứ...
16. VI. Thân Hữu (1) (S.v,364)
1-2)...
3) -- Tất cả những ai, này các Tỷ-kheo,
các Ông có lòng từ mẫn, và những người mà các Ông nghĩ cần phải nghe
theo, những ai là bạn bè, hay thân hữu, hay bà con, hay cùng một huyết thống;
tất cả những vị ấy, này các Tỷ-kheo, cần phải được khuyến khích,
phải được áp đặt, phải được an trú trong bốn Dự lưu phần. Thế nào
là bốn?
4) Họ cần phải được khuyến khích,
phải được áp đặt, phải được an trú vào tịnh tín bất động đối
với đức Phật: "Đây là Như Lai, bậc A-la-hán... Phật, Thế
Tôn"... đối với Pháp... đối với Tăng... đối với các giới được
các bậc Thánh ái kính... đưa đến Thiền định.
5) Những ai mà các Ông có lòng từ
mẫn, này các Tỷ-kheo, những ai mà các Ông nghĩ là cần phải nghe theo,
các bạn bè, hay thân hữu, hay bà con, hay cùng một huyết thống; các người
ấy cần phải được khuyến khích, cần phải được áp đặt, cần phải
được an trú trong bốn Dự lưu phần này.
17. VII. Bạn Bè Thân Hữu (2)
(S.v,365)
1-2)...
3) -- Những ai, này các Tỷ-kheo,
các Ông có lòng từ mẫn, những ai mà các Ông nghĩ rằng cần phải nghe
theo, các bạn bè, thân hữu, hay bà con, hay cùng một huyết thống; các người
ấy cần phải được các Ông khuyến khích, áp đặt, an trú trong bốn Dự
lưu phần. Thế nào là bốn?
4) Cần phải khuyến khích, cần phải
áp đặt, cần phải an trú trong tịnh tín bất động đối với Phật:
"Đây là Như Lai, bậc A-la-hán... Phật, Thế Tôn". Dầu cho, này
các Tỷ-kheo, bốn đại chủng địa đại, thủy đại, hỏa đại, phong đại
có đổi khác, nhưng nhất định không có thay đổi trong vị Thánh đệ tử
đã thành tựu tịnh tín bất động đối với đức Phật. Ở đây, sự đổi
khác có nghĩa là: Một Thánh đệ tử thành tựu tịnh tín bất động như
vậy sẽ sanh vào địa ngục, hay vào loài bàng sanh, hay vào hàng ngạ quỷ;
sự kiện như vậy không xảy ra.
5-6). .. đối với Pháp... đối với
Tăng.
7) Cần phải khuyến khích, cần phải
áp đặt, cần phải an trú vào các giới được các bậc Thánh ái kính. Dầu
cho, này các Tỷ-kheo, bốn đại chủng địa đại, thủy đại, hỏa đại,
phong đại có đổi khác; nhưng nhất định không có sự đổi khác trong vị
Thánh đệ tử đã thành tựu tịnh tín bất động đối với các giới
được các bậc Thánh ái kính. Ở đây, sự đổi khác có nghĩa là vị
Thánh đệ tử thành tựu các giới được các bậc Thánh ái kính, sẽ sanh
vào địa ngục, hay các loài bàng sanh, hay các ngạ quỷ; sự kiện như vậy
không xảy ra.
8) Những ai mà các Ông có lòng từ
mẫn, này các Tỷ-kheo,. .. an trú trong bốn Dự lưu phần.
18. VIII. Du Hành Chư Thiên (S.v,366)
1) Nhân duyên ở Sàvatthi.
2) Rồi Tôn giả Mahà Moggalàna, như
nhà lực sĩ duỗi ra cánh tay đang co lại, hay co lại cánh tay đang duỗi ra;
cũng vậy, Tôn giả biến mất ở Jetavana và hiện ra ở cõi trời Ba mươi
ba.
3) Rồi một số đông chư Thiên
cõi Ba mươi ba đi đến Tôn giả Mohà Moggalàna; sau khi đến, đảnh lễ Tôn
giả Mahà Moggalàna rồi đứng một bên. Tôn giả Mahà Moggalàna nói với chư
Thiên đang đứng một bên:
4) -- Lành thay, chư Hiền, là sự
thành tựu tịnh tín bất động đối với đức Phật: "Đây là Như
Lai... Phật, Thế Tôn". Do nhân thành tựu lòng tịnh tín bất động đối
với đức Phật, như vậy ở đây, một số chúng sanh, sau khi thân hoại mạng
chung, được sanh lên thiện thú, thiên giới, cõi đời này.
5-6) Lành thay, chư Hiền, là tịnh
tín bất động đối với Pháp... đối với chúng Tăng...
7) Lành thay, chư Hiền, là sự
thành tựu các giới được các bậc Thánh ái kính... đưa đến Thiền định.
Do nhân thành tựu các giới được các bậc Thánh ái kính, chư Hiền, như
vậy ở đây, một số chúng sanh, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh
thiện thú, thiên giới, cõi đời này.
8) -- Lành thay, Tôn giả Moggalàna,
là sự thành tựu lòng tịnh tín bất động đối với đức Phật: "Đây
là Như Lai... Phật, Thế Tôn". Do nhân thành tựu lòng tịnh tín bất động
đối với đức Phật, thưa Tôn giả Moggalàna, như vậy ở đây, một số
chúng sanh, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên thiện thú, thiên giới,
cõi đời này.
9-11) Lành thay, Tôn giả Moggalàna,
là sự thành tựu tịnh tín bất động đối với Pháp... đối với chúng
Tăng... các giới được các bậc Thánh ái kính... đưa đến Thiền định.
Do nhân thành tựu các giới được các bậc Thánh ái kính, thưa Tôn giả
Moggalàna, như vậy ở đây, một số chúng sanh, sau khi thân hoại mạng
chung, được sanh lên thiện thú, thiên giới, cõi đời này.
19. IX. Thăm Viếng Chư Thiên (1)
(S.v,367)
1) Một thời Tôn giả Mahà
Moggalàna trú ở Sàvatthi, Jetavana, tại khu vườn của ông Anàthapindika.
2-7) Rồi Tôn giả Moggalàna, như
người lực sĩ... (như trên)...
8-11). .. (như trên)... một số
chúng sanh, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh thiện thú, thiên giới,
cõi đời này.
20. X. Thăm Viếng Chư Thiên (2)
(S,v,357)
(Giống như kinh 18, chỉ khác, đây
là Thế Tôn, không phải Mahà Moggalàna)...
III. Phẩm Saranàni
21. I. Mahànàma (1)
1) Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú giữa dân
chúng Sakka, tại Kapilavatthu khu, vườn Nigrodha.
2) Rồi họ Thích Mahànàma đi đến
Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi
một bên, họ Thích Mahànàma bạch Thế Tôn:
3) -- Kapilavatthu này, bạch Thế
Tôn, là phồn vinh, phú cường, dân cư đông đúc, quần chúng khắp nơi
chen chúc, chật hẹp. Bạch Thế Tôn, sau khi con hầu hạ Thế Tôn hay các Tỷ-kheo
đáng kính, vào buổi chiều, con đi vào Kapilavatthu, con gặp con voi cuồng chạy;
con gặp con ngựa cuồng chạy; con gặp người cuồng chạy; con gặp cỗ xe
lớn cuồng chạy; con gặp cỗ xe nhỏ cuồng chạy. Trong khi ấy, bạch Thế
Tôn, tâm con nghĩ đến Phật bị hoang mang, tâm con nghĩ đến Pháp bị hoang
mang, tâm con nghĩ đến chúng Tăng bị hoang mang. Rồi bạch Thế Tôn, con suy
nghĩ như sau: "Nếu lúc ấy con mệnh chung, thời sanh thú của con là
gì, sanh xứ đời sau chỗ nào?"
4) -- Chớ có sợ, này Mahànàma! Chớ
có sợ, này Mahànàma! Không ác sẽ là cái chết của Ông! Không ác là cái
chết của ông! Này Mahànàma, với ai đã lâu ngày tâm tu tập trọn vẹn về
tín, tâm tu tập trọn vẹn về giới, tâm tu tập trọn vẹn về sở văn, tâm
tu tập trọn vẹn về thí xả, tâm tu tập trọn vẹn về trí tuệ; với người
ấy, dầu thân có sắc này, do bốn đại hợp thành, do cha mẹ sanh, do cơm
cháo nuôi dưỡng, có bị vô thường phá hoại, phấn toái, đoạn tuyệt,
hoại diệt; dầu cho thân này ở đây bị quạ ăn, chim kên ăn, chim ưng
ăn, chó ăn, hay giả-can ăn, hay các loại chúng sanh sai khác ăn; nhưng nếu
tâm của vị ấy được lâu ngày tu tập trọn vẹn về tín, tu tập trọn
vẹn về giới, tu tập trọn vẹn về sở văn, tu tập trọn vẹn về thí xả,
tu tập trọn vẹn về trí tuệ, thời tâm của vị ấy thượng thặng, đi
đến thù thắng.
5) Ví như, này Mahànàma, một người
nhận chìm một ghè sữa bơ, hay một ghè dầu vào trong một hồ nước sâu
và đập bể ghè ấy. Ở đây, các mảnh ghè hay mảnh vụn chìm xuống nước;
nhưng sữa, bơ hay dầu thời nổi lên, trồi lên trên. Cũng vậy, này
Mahànàma, với ai đã lâu ngày, tâm được tu tập trọn vẹn về tín, tâm
được tu tập trọn vẹn về giới, tâm được tu tập trọn vẹn về sở
văn, tâm được tu tập trọn vẹn về thí xả, tâm được tu tập trọn vẹn
về trí tuệ; với người ấy, thân có sắc này, do bốn đại hợp thành,
do cha mẹ sanh, do cơm cháo nuôi dưỡng, có bị vô thường phá hoại, phấn
toái, đoạn tuyệt, đoạn diệt; dầu cho thân này ở đây bị quạ ăn,
chim kên ăn, chim ưng ăn, chó ăn, giả-can ăn hay các sanh loại sai khác ăn;
nhưng nếu tâm của vị ấy được lâu ngày tu tập trọn vẹn về tín, tu
tập trọn vẹn về giới, tu tập trọn vẹn về sở văn, tu tập trọn vẹn
về thí xả, tu tập trọn vẹn về trí tuệ; thời tâm của vị ấy thượng
thặng, đi đến thù thắng.
6) Này Mahànàma, đã lâu ngày tâm
Ông được tu tập trọn vẹn về tín, được tu tập trọn vẹn về giới,
được tu tập trọn vẹn về sở văn, được tu tập trọn vẹn về thí xả,
được tu tập trọn vẹn về trí tuệ. Chớ có sợ, này Mahànàma, chớ có
sợ, này Mahànàma, không ác sẽ là cái chết của Ông! Không ác là cái chết
của Ông!
22. II. Mahànàma (2) (S.v,371)
1) Như vầy tôi nghe.
2) Rồi Mahànàma...
3) -- Ở đây, bạch Thế Tôn,
Kapilavatthu...
4)-- Chớ có sợ hãi, này Mahànàma!
Chớ có sợ hãi, này Mahànàma! Không ác sẽ là cái chết của Ông! Không
ác là cái chết của Ông! Do thành tựu bốn pháp, này Mahànàma, vị Thánh
đệ tử thiên về Niết-bàn, hướng về Niết-bàn, xuôi về Niết-bàn. Thế
nào là bốn?
5) Ở đây, này Mahànàma, vị Thánh
đệ tử thành tựu lòng tịnh tín bất động đối với Phật: "Đây
là Như Lai, bậc A-la-hán... Phật, Thế Tôn..".... đối với Pháp... đối
với Tăng... thành tựu các giới được các bậc Thánh ái kính... đưa đến
Thiền định.
6) Ví như, này Mahànàma, một cây
thiên về phía Đông, hướng về phía Đông, xuôi về phía Đông, nếu bị
chặt đứt từ gỗc rễ, nó sẽ ngả về phía nào?
-- Bạch Thế Tôn, về phía nào nó
thiên, về phía nào nó hướng, về phía nào nó xuôi.
-- Cũng vậy, này Mahànàma, do thành
tựu bốn pháp này, vị Thánh đệ tử thiên về Niết-bàn, hướng về Niết-bàn,
xuôi về Niết-bàn.
23. III. Godhà Hay Mahànàma (3)
(S.v,371)
1) Nhân duyên ở Kapilavatthu.
2) Rồi họ Thích Mahànàma đi đến
họ Thích Godhà; sau khi đến, nói với họ Thích Godhà:
3) -- Này Godhà, theo như Hiền giả
biết một người là bậc Dự lưu, thành tựu bao nhiêu pháp thời không bị
thối đọa, quyết chắc chứng quả giác ngộ?
-- Này Mahànàma, theo như tôi biết
một người là bậc Dự lưu thành tựu ba pháp thời không còn bị thối đọa,
quyết chắc chứng quả giác ngộ.
4) Ở đây, này Mahànàma, vị Thánh
đệ tử thành tựu tịnh tín bất động đối với đức Phật: "Đây
là Như Lai.. Phật, Thế Tôn"... đối với Pháp... đối với chúng Tăng...
là vô thượng phước điền ở đời. Này Mahànàma, do thành tựu ba pháp
này, tôi được biết một người là bậc Dự lưu, không còn bị thối đọa,
quyết chắc chứng quả giác ngộ.
5) Nhưng này Mahànàma, theo như Hiền
giả biết, một người là bậc Dự lưu thành tựu bao nhiêu pháp thời
không còn thối đọa, quyết chắc chứng quả giác ngộ?
-- Này Gohdà, theo như tôi biết, một
người là bậc Dự lưu thành tựu bốn pháp thời không còn bị thối đọa,
quyết chắc chứng quả giác ngộ. Thế nào là bốn? Ở đây, này Godhà, vị
Thánh đệ tử thành tựu tịnh tín bất động đối với đức Phật:
"Đây là Như Lai... Phật, Thế Tôn"... đối với Pháp... đối với
Tăng... thành tựu các giới được các bậc Thánh ái kính... đưa đến Thiền
định. Này Godhà, theo như tôi biết, một người là bậc Dự lưu thành tựu
bốn pháp này thời không còn bị thối đọa, quyết chắc chứng quả giác
ngộ.
6) -- Hãy chờ một lát, này
Mahànàma, hãy chờ một lát, này Mahànàma. Thế Tôn biết rõ việc này,
thành tựu hay không thành tựu những pháp này. Này Godhà, chúng ta hãy đi
đến Thế Tôn và sau khi đến, hãy hỏi về ý nghĩa này.
7) Rồi họ Thích Mahànàma và họ
Thích Godhà đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi
xuống một bên. Ngồi một bên, họ Thích Mahànàma bạch Thế Tôn:
8) -- Ở đây, bạch Thế Tôn, con
đi đến họ Thích Godhà; sau khi đến, nói với họ Thích Godhà:
"-- Này Godhà, theo như Hiền giả
biết, một người là bậc Dự lưu thành tựu bao nhiêu pháp... giác ngộ?"
Được nói vậy, bạch Thế Tôn, họ
Thích Godhà nói với con:
"--Này Mahànàma, theo như tôi biết,
một người là bậc Dự lưu thành tựu ba pháp... giác ngộ. Thế nào là
ba? Ở đây, này Mahànàma, vị Thánh đệ tử thành tựu tịnh tín bất động
đối với đức Phật: ‘Đây là Như Lai... Phật, Thế Tôn’... đối với
Pháp... đối với chúng Tăng... Này Mahànàma, theo như tôi biết, một người
là bậc Dự lưu thành tựu ba pháp này thời không còn bị thối đọa, quyết
chắc chứng quả giác ngộ. Còn này Mahànàma theo như Hiền giả biết, một
người là bậc Dự lưu thành tựu bao nhiêu pháp... giác ngộ?"
9) Được nói vậy, bạch Thế Tôn,
con nói với họ Thích Godhàa
"-- Này Godhà, theo như tôi biết,
một người là bậc Dự lưu thành tựu bốn pháp... giác ngộ. Thế nào là
bốn? Ở đây, này Godhà, vị Thánh đệ tử thành tựu tịnh tín bất động
đối với đức Phật: ‘Đây là Như Lai... Phật, Thế Tôn"... đối với
Pháp... đối với Tăng... thành tựu các giới được các bậc Thánh ái
kính... đưa đến Thiền định. Này Godhà, theo như tôi biết, một người
là bậc Dự lưu thành tựu bốn pháp... giác ngộ".
Được nghe nói vậy, bạch Thế
Tôn, họ Thích Godhà, nói với con:
"-- Hãy chờ một lát, này
Mahànàma, hãy chờ một lát, này Mahanàma. Thế Tôn sẽ biết rõ việc này,
là thành tựu hay không thành tựu những pháp này".
10) Ở đây, bạch Thế Tôn, nếu
nói vấn đề pháp sự khởi lên (dhamma samuppàda), và một bên là Thế
Tôn, một bên là chúng Tỷ-kheo. Bên nào là Thế Tôn, bên ấy con theo. Vì bạch
Thế Tôn, đó là tịnh tín của con. Mong Thế Tôn chấp nhận.
11) Ở đây, bạch Thế Tôn, nếu
có vấn đề pháp sự khởi lên, và một bên là Thế Tôn, một bên là
chúng Tỷ-kheo và chúng Tỷ-kheo-ni. Bên nào là Thế Tôn, bên ấy con theo.
Vì bạch Thế Tôn... Mong Thế Tôn chấp nhận.
12) Ở đây, bạch Thế Tôn, nếu
có vấn đề pháp sự khởi lên, và một bên là Thế Tôn, một bên là
chúng Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo-ni và nam cư sĩ. Bên nào là Thế Tôn... Mong Thế
Tôn chấp nhận.
13) Ở đây, bạch Thế Tôn, nếu
có vấn đề pháp sự khởi lên, và một bên là Thế Tôn, một bên là
chúng Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo-ni, và nữ cư sĩ. Bên nào là Thế Tôn... Mong
Thế Tôn chấp nhận.
14) Ở đây, bạch Thế Tôn, nếu
có vấn đề pháp sự khởi lên, và một bên là Thế Tôn, một bên là
chúng Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo-ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ, chúng Thiên giới,
chúng Ma giới, chúng Phạm thiên giới, quần chúng Sa-môn và Bà-la-môn, chư
Thiên và loài Người. Bên nào là Thế Tôn, bên ấy con theo. Vì bạch Thế
Tôn, đó là tịnh tín của con. Mong Thế Tôn chấp nhận.
15) -- Họ Thích Mahànàma đã nói như
vậy, này Godhà, Ông có nói gì không?
-- Họ Thích Mahànàma đã nói như vậy,
con không có nói gì trừ lời nói "Thiện", trừ lời nói "Tốt".
24. IV. Sarakàni Hay Saranàni (1)(S.v,375)
1) Nhân duyên ở Kapilavatthu.
2) Lúc bấy giờ, họ Thích Sarakàni
mệnh chung và được Thế Tôn tuyên bố là bậc Dự lưu, không còn bị thối
đọa, quyết chứng quả giác ngộ.
3) Tại đấy, một số đông họ
Thích tụ họp lại với nhau, chỉ trích, phê bình, bàn tán: "Thật là
lạ lùng ! Thật là hy hữu! Ngày nay ai cũng có thể thành bậc Dự lưu, vì
rằng họ Thích Sarakàni đã mệnh chung, được Thế Tôn tuyên bố là bậc
Dự lưu, không còn bị thối đọa, quyết chắc chứng quả giác ngộ. Họ
Thích Sarakàni đã phạm giới và uống rượu".
4) Rồi họ Thích Mahànàma đi đến
Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi
một bên, họ Thích Mahànàma bạch Thế Tôn:
5) -- Ở đây, bạch Thế Tôn, họ
Thích Sarakàni đã mệnh chung và được Thế Tôn tuyên bố là bậc Dự lưu...
chứng quả giác ngộ. Ở đây, bạch Thế Tôn, một số đông họ Thích khi
tụ tập lại với nhau, chỉ trích, phê bình, bàn tán: "Thật là lạ
lùng! Thật là hy hữu!... Họ Thích Sarakàni đã phạm giới và uống rượu"
-- Này Mahànàma, một cư sĩ lâu
ngày qui y Phật, qui y Pháp, qui y Tăng làm sao có thể đi đến đọa xứ
được?
6) Này Mahànàma, nếu nói một cách
chơn chánh: Người cư sĩ nào đã lâu ngày qui y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng,
nói một cách chơn chánh phải nói là họ Thích Sarakàni. Này Mahànàma, họ
Thích Sarakàni đã lâu ngày quy y Phật, quy y Pháp, qui y Tăng, làm sao có thể
đi đến đọa xứ?
7) Ở đây, này Mahànàma, có người
thành tựu tịnh tín bất động đối với đức Phật: "Đây là Như
Lai, bậc A-la-hán... Phật, Thế Tôn"... đối với Pháp... đối với chúng
Tăng, có trí tuệ hoan hỷ (hàsapanna), có trí tuệ tốc hành và thành tựu
giải thoát. Vị ấy do đoạn tận các lậu hoặc ngay trong hiện tại với
thắng trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ
giải thoát. Người này, này Mahànàma, được giải thoát khỏi địa ngục,
được giải thoát khỏi loài bàng sanh, được giải thoát khỏi cõi ngạ
quỷ, được giải thoát khỏi ác sanh, ác thú, đọa xứ.
8) Ở đây, này Mahànàma, có người
thành tựu tịnh tín bất động đối với đức Phật. "Đây là Như
Lai... Phật, Thế Tôn"... đối với Pháp... đối với chúng Tăng... có
trí tuệ hoan hỷ, có trí tuệ tốc hành nhưng không thành tựu giải thoát.
Vị ấy do đoạn diệt năm hạ phần kiết sử, được hóa sanh, tại đấy
nhập Niết-bàn, không còn trở lui thế giới này nữa. Người này, này
Mahànàma, được giải thoát khỏi địa ngục, được giải thoát khỏi
loài bàng sanh, được giải thoát khỏi ngạ quỷ, được giải thoát khỏi
ác sanh, ác thú, đọa xứ.
9) Ở đây, này Mahànàma, có người
thành tựu lòng tịnh tin đối với đức Phật : "Đây là Như Lai, bậc
A-la-hán... Phật, Thế Tôn"... đối với Pháp... đối với chúng Tăng...
không có trí tuệ hoan hỷ, không có trí tuệ tốc hành, không thành tựu giải
thoát. Vị ấy sau khi đoạn diệt ba kiết sử, sau khi làm cho muội lược
tham, sân, thành bậc Nhất lai, chỉ trở lui đời này một lần nữa, đoạn
tận khổ đau. Người này, này Mahànàma, được giải thoát khỏi địa ngục,
được giải thoát khỏi loài bàng sanh, được giải thoát khỏi ngạ quỷ,
được giải thoát khỏi ác sanh, ác thú, đọa xứ.
10) Ở đây, này Mahànàma, có người
thành tựu lòng tịnh tín bất động đối với đức Phật... đối với Pháp...
đối với chúng Tăng, không có trí tuệ hoan hỷ, không có trí tuệ tốc
hành, không thành tựu giải thoát. Vị ấy sau khi đoạn diệt ba kiết sử,
là bậc Dự lưu không còn bị thối đọa, quyết chắc chứng quả giác ngộ.
Người này, này Mahànàma, được giải thoát khỏi địa ngục, được giải
thoát khỏi loài bàng sanh, được giải thoát khỏi ngạ quỷ, được giải
thoát khỏi ác sanh, ác thú, đọa xứ.
11) Ở đây, này Mahànàma, có người
không có lòng tịnh tín bất động đối với đức Phật... đối với Pháp...
đối với Tăng, không có trí tuệ hoan hỷ, không có trí tuệ tốc hành...
không thành tựu giải thoát. Nhưng vị ấy có những pháp này : Tín căn, tấn
căn, niệm căn, định căn, tuệ căn và những pháp này do Như Lai tuyên bố
được thiểu phần kham nhẫn quán sát với trí tuệ. Người này, này
Mahànàma, không đi đến địa ngục, không đi đến loài bàng sanh, không
đi đến cõi ngạ quỷ, không đi đến ác sanh, ác thú, đọa xứ.
12) Ở đây, này Mahànàma, có người
không thành tựu tịnh tín bất động đối với đức Phật, đối với pháp,
đối với chúng Tăng, không có trí tuệ hoan hỷ, không có trí tuệ tốc
hành, không thành tựu giải thoát. Nhưng vị ấy có những pháp này : Tín căn,
tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn, chỉ có lòng tin, chỉ có lòng
ái mộ ở Như Lai. Người này, này Mahànama, không có đi đến địa ngục,
không có đi đến loài bàng sanh, không có đi đến cõi ngạ quỷ, không có
đi đến cõi dữ, ác thú, đọa xứ.
13) Nếu những cây ta-la lớn này,
này Mahànàma, biết những gì là thiện thuyết, ác thuyết, thời Ta cũng sẽ
tuyên bố những cây ấy là những bậc Dự lưu, không còn bị thối đọa,
quyết chắc chứng quả giác ngộ, huống nữa là họ Thích Sarakàni. Này
Mahàanàma, họ Thích Sarakàni, sau khi mệnh chung, đã chấp nhận học giới.
25.V. Sarakàni Hay Saranàri (2)
(S.v,378)
1) Nhân duyên ở Kapilavatthu.
2-7). .. (giống như đoạn số 2-7
kinh trên)...
8) -- Nhưng ở đây, này Mahànàma,
có người có lòng nhứt hướng sùng tín đức Phật : "Đây là Như
Lai, bậc A-la-hán... Phật, Thế Tôn"... đối với Pháp, đối với chúng
Tăng, có trí tuệ hoan hỷ, có trí tuệ tốc hành, thành tựu giải thoát. Vị
này sau khi đoạn diệt năm hạ phần kiết sử, chứng được Trung gian Bát-niết-bàn,
chứng được Tổn hại Bát-niết-bàn, chứng được Vô hành Niết-bàn, chứng
được Hữu hành Niết-bàn, chứng được Thượng lưu, sanh ở Sắc cứu cánh
thiên. Người này, này Mahànàma, được giải thoát khỏi địa ngục...
được giải thoát khỏi cõi dữ, ác thú, đọa xứ.
9) Ở đây, này Mahànàma, có người
có lòng nhứt hướng sùng tín đức Phật : "Đây là Như Lai, bậc
A-la-hán... đối với Pháp... đối với chúng Tăng, không có trí huệ hoan hỷ,
không có trí tuệ tốc hành, không có thành tựu giải thoát. Vị này sau
khi đoạn diệt ba kiết sử, làm cho muội lược tham, sân, thành bậc Nhất
Lai, chỉ một lần trở lui cõi đời này. Này Mahànàma, người này được
giải thoát khỏi địa ngục... được giải thoát khỏi cõi dữ, ác thú,
đọa xứ.
10) Ở đây, này Mahànàma, có người
có lòng nhứt hướng sùng tín đức Phật : "Đây là Như Lai"... đối
với Pháp... đối với chúng Tăng, không có trí tuệ hoan hỷ, không có trí
tuệ tốc hành, không có thành tựu giải thoát. Vị này sau khi đoạn diệt
ba kiết sử, thành bậc Dự lưu, không còn bị thối đọa, quyết chắc chứng
quả giác ngộ. Người này, này Mahànàma, được giải thoát khỏi địa ngục...
được giải thoát khỏi cõi dữ, ác thú, đọa xứ.
11) Ở đây, này Mahànàma, có người
không có lòng nhứt hướng sùng tín đức Phật : "Đây là... Thế
Tôn..".. .. đối với Pháp, đối với chúng Tăng, không có trí tuệ
hoan hỷ, không có trí tuệ tốc hành, không có thành tựu giải thoát, nhưng
có những pháp này : Tín căn, tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn. Và
những pháp do Như Lai tuyên bố được thiểu phần kham nhẫn, quán sát với
trí tuệ. Người này, này Mahànàma, không có địa ngục... không có đi đến
cõi dữ, ác thú, đọa xứ.
12) Ở đây, này Mahànàma, có người
không có lòng nhứt hướng sùng tín đối với đức Phật... đối với Pháp,
đối với Tăng, không có thành tựu giải thoát, nhưng có những pháp này:
Tín căn, tấn căn, tuệ căn, chỉ có lòng tin, lòng ái mộ đối với Như
Lai. Người này, này Mahànàma, không có đi đến địa ngục... không có đi
đến cõi dữ, ác thú, đọa xứ.
13) Ví như, này Mahànàma, có đám
ruộng xấu, đám đất xấu, các gốc cây chưa được phá hủy, các hột
giống bị bể nát, bị hư thối, bị gió nắng làm cho hư hại, không thể
nẩy mầm, không khéo cấy trồng, và trời không mưa lớn thích hợp; thời
các hột giống ấy có thể lớn, tăng trưởng, lớn mạnh không ?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
-- Cũng vậy, này Mahànàma, ở đây,
pháp giảng kém, trình bày kém, không đưa đến xuất ly, không đưa đến
an tịnh, không được một vị Chánh Đẳng Giác thuyết giảng. Ta nói rằng
pháp này như ở đám ruộng xấu. Vị đệ tử ấy sống trong pháp ấy, thực
hiện pháp và tùy pháp, chơn chánh thực hành, hành trì đúng pháp. Như vậy,
Ta nói rằng, người này giống như hột giống xấu.
14) Ví như, này Mahànàma, một đám
ruộng tốt, đất tốt, các gốc khéo phá hủy, các hột giống không bị bể
nát, không bị hư thối, gió nắng không làm hư hại, có thể nẩy mầm,
khéo cấy, khéo trồng và trời mưa lớn thích hợp. Như vậy, các hột giống
ấy có lớn lên, có tăng trưởng, có lớn mạnh không?
-- Thưa có, bạch Thế Tôn.
-- Cũng vậy, này Mahànàma, ở đây,
pháp được khéo giảng, khéo trình bày, đưa đến xuất ly, đưa đến an tịnh,
được bậc Chánh Đẳng Giác thuyết giảng, Ta nói pháp này như đám ruộng
tốt. Vị đệ tử sống trong pháp ấy, thực hành theo pháp và tùy pháp, chơn
chánh thực hành, hành trì đúng pháp. Như vậy, Ta nói rằng người này như
hột giống tốt, huống nữa là họ Thích Sarakàni. Này Mahànàma, họ Thích
Sarakàni, khi mạng chung, đã làm viên mãn học giới.
26.VI. Ac Giới Hay Anàthapindika (1)
(S.v,380)
1) Nhân duyên ở Sàvatthi.
2) Lúc bấy giờ, gia chủ
Anàthapindika đang bị bệnh, đau đớn, bị trọng bệnh.
3) Rồi gia chủ Anàthapindika bảo một
người:
-- Hãy đến, này Bạn. Hãy đi đến
Tôn giả Sàriputta; sau khi đến nhân danh ta, cúi đầu đảnh lễ chân Tôn
giả Sàriputta và thưa : "Gia chủ Anàthapindika, thưa Tôn giả, bị bệnh,
đau đớn, bị trọng bệnh, cúi đầu đảnh lễ chân Tôn giả
Sàriputta"; và thưa : "Lành thay, thưa Tôn giả, nếu Tôn giả
Sàriputta đi đến trú xứ của gia chủ Anàthapindika vì lòng từ mẫn!"
-- Thưa vâng, Gia chủ.
Người ấy, vâng đáp gia chủ
Anàthapindika, đi đến Tôn giả Sàriputta; sau khi đến, đảnh lễ Tôn giả
Sàriputta rồi ngồi xuống một bên.
4) Ngồi một bên, người ấy thưa
với Tôn giả Sàriputta :
-- Gia chủ Anàthapindika, thưa Tôn giả,
bị bệnh, đau đớn, bị trọng bệnh, xin cúi đầu đảnh lễ chân Tôn giả
Sàriputta, gia chủ thưa : "Lành thay, thưa Tôn giả, nếu Tôn giả
Sàriputta đi đến trú xứ của gia chủ Anàthapindika vì lòng từ mẫn!"
Tôn giả Sàriputta im lặng nhận lời.
5) Rồi Tôn giả Sàriputta, vào buổi
sáng, đắp y, cầm y bát với Tôn giả Ananda là Sa-môn tùy tùng, đi đến
trú xứ của gia chủ Anàthapindika; sau khi đến, ngồi xuống chỗ đã soạn
sẵn. Ngồi xuống, Tôn giả Sàriputta nói với gia chủ Anàthapindika :
-- Này Gia chủ, Gia chủ có kham nhẫn
nổi không ? Gia chủ có chịu đựng nổi không ? Có phải khổ thọ giảm
thiểu, không có tăng trưởng ? Có phải có dấu hiệu giảm thiểu, không
có tăng trưởng?
-- Thưa Tôn giả, con không thể kham
nhẫn. Con không thể chịu đựng. Kịch liệt là khổ thọ nơi con. Chúng tăng
trưởng, không có giảm thiểu. Có dấu hiệu chúng tăng trưởng, không giảm
thiểu.
6) -- Vì rằng kẻ vô văn phàm phu,
này Gia chủ, thành tựu lòng bất tín đối với Phật, nên sau khi thân hoại
mạng chung, bị sanh vào ác sanh, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Nhưng Gia chủ
không có lòng bất tín đối với Phật. Trái lại, Gia chủ thành tựu lòng
tịnh tín bất động đối với Phật : "Đây là Như Lai, bậc A-la-hán...
Phật, Thế Tôn". Nếu Gia chủ tự thấy lòng tịnh tín bất động của
Gia chủ đối với đức Phật, thời lập tức các cảm thọ của Gia chủ
được an tịnh.
7) Vì rằng kẻ vô văn phàm phu,
này Gia chủ, thành tựu lòng bất tín đối với Pháp, nên sau khi thân hoại
mạng chung, bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Nhưng Gia
chủ không có lòng bất tín đối với Pháp. Trái lại, Gia chủ thành tựu
tịnh tín bất động đối với Pháp : "Pháp được Thế Tôn khéo thuyết...
tự mình giác hiểu". Nếu Gia chủ tự mình thấy lòng tịnh tín bất
động đối với Pháp, thời lập tức các cảm thọ của Gia chủ được
an tịnh.
8) Vì rằng kẻ vô văn phàm phu,
này Gia chủ, thành tựu lòng bất tín đối với chúng Tăng, nên sau khi
thân hoại mạng chung, bị sanh vào ác sanh, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
Nhưng Gia chủ không có lòng bất tín như vậy đối với chúng Tăng. Trái lại,
Gia chủ thành tựu tịnh tín đối với chúng Tăng : "Diệu hạnh là
chúng đệ tử của Thế Tôn... là phước điền vô thượng ở đời".
Nếu Gia chủ tự mình thấy lòng tịnh tín bất động đối với chúng Tăng,
thời lập tức các cảm thọ của Gia chủ được an tịnh.
9) Vì rằng kẻ vô văn phàm phu,
này Gia chủ, thành tựu ác giới, nên sau khi thân hoại mạng chung, bị sanh
vào... địa ngục. Nhưng Gia chủ không có ác giới như vậy. Trái lại, Gia
chủ có giới được các bậc Thánh ái kính... đưa đến Thiền định. Nếu
Gia chủ tự thấy các giới được các bậc Thánh ái kính ấy, thời lập
tức các cảm thọ của Gia chủ được an tịnh.
10) Vì rằng kẻ vô văn phàm phu,
này Gia chủ, thành tựu tà kiến như vậy, nên sau khi thân hoại... địa ngục.
Nhưng Gia chủ không có tà kiến như vậy. Trái lại, Gia chủ có chánh kiến.
Nếu Gia chủ tự mình thấy chánh kiến của Gia chủ, thời lập tức các cảm
thọ của Gia chủ được an tịnh.
11-19) Vì rằng kẻ vô văn phàm phu,
này Gia chủ, thành tựu tà tư duy... tà ngữ... tà nghiệp... tà mạng... tà
tinh tấn... tà niệm... tà định... tà trí... tà giải thoát như vậy, nên
sau khi thân hoại mạng chung, bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa
ngục. Nhưng Gia chủ không có từ tư duy... tà ngữ... tà nghiệp... tà mạng...
tà tinh tấn... tà niệm... tà định... tà trí... tà giải thoát như vậy.
Trái lại, Gia chủ có chánh tư duy... chánh ngữ... chánh nghiệp... chánh mạng...
chánh tinh tấn... chánh niệm... chánh định... chánh trí... chánh giải
thoát. Nếu Gia chủ tự mình thấy chánh tư duy... chánh ngữ... chánh nghiệp...
chánh mạng... chánh tinh tấn... chánh niệm... chánh định... chánh trí...
chánh giải thoát của Gia chủ, thời lập tức các cảm thọ của Gia chủ
được an tịnh.
20) Rồi các cảm thọ của gia chủ
Anàthapindika lập tức được an tịnh.
21) Rồi gia chủ Anàthapindika mời
Tôn giả Sàriputta và Tôn giả Ananda dùng bữa ăn (từ nơi nồi nấu cơm của
mình).
22) Sau khi Tôn giả Sàriputta ăn
xong, tay đã rời khỏi bát, gia chủ Anàthapindika đi đến Tôn giả
Sàriputta; sau khi đến, lấy một ghế thấp và ngồi xuống một bên.
23) Tôn giả Sàriputta tán thán gia
chủ Anàthapindika với những lời kệ này :
Ai tin tưởng Như Lai,
Bất động khéo an lập.
Ai có giới thiện lành,
Được bậc Thánh ái kính.
Ai tin tưởng chúng Tăng,
Sở kiến được chánh trực,
Người ấy gọi "Không
nghèo",
Đời sống không uổng phí.
Do vậy, bậc Hiền minh
Cần tu tập tín giới,
Thấy rõ được Chánh pháp,
Không quên lời Phật dạy.
24) Rồi Tôn giả Sàriputta, sau khi
nói lời hoan hỷ tán thán với các lời kệ này, từ chỗ ngồi đứng dậy
và ra đi.
25) Rồi Tôn giả Ananda đi đến Thế
Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn
nói với Tôn giả Aananda đang ngồi một bên :
26) -- Này Ananda, Ông đi đâu để
nghỉ trưa?
-- Bạch Thế Tôn, gia chủ
Anàthapindika đã được Tôn giả Sàriputta giáo giới với lời giáo giới
như thế này, thế này...
-- Hiền minh, này Ananda, là
Sàriputta ! Đại tuệ, này Ananda, là Sàriputta ! Vị ấy có thể chia chẻ bốn
Dự lưu phần thành mười tướng.
27.VII. Ác Giới Hay Anàthapindika (2)
(S.v,385)
1) Nhân duyên ở Sàvatthi.
2) Lúc bấy giờ, gia chủ
Anàthapindika bị bệnh, đau đớn, bị trọng bệnh.
3-5). .. (giống như kinh trước, chỉ
khác, đây là Tôn giả Ananda chứ không phải Tôn giả Sàriputta, và Tôn giả
Ananda đi chỉ có một mình, cho đến... có dấu hiệu tăng trưởng, không
có giảm thiểu).
6) -- Này Gia chủ, kẻ vô văn phàm
phu thành tựu bốn pháp nên run sợ, hoảng hốt, sợ hãi về cái chết, về
đời sau. Thế nào là bốn ?
7) Ở đây, này Gia chủ, kẻ vô văn
phàm phu thành tựu lòng bất tín đối với Phật. Khi vị ấy tự thấy lòng
bất tín của mình đối với Phật, vị ấy run sợ, hoảng hốt, sợ hãi về
cái chết, về đời sau. Lại nữa, này Gia chủ, kẻ vô văn phàm phu thành
tựu lòng bất tín đối với Pháp. Khi vị ấy tự thấy lòng bất tín của
mình đối với Pháp; vị ấy run sợ, hoảng hốt, sợ hãi về cái chết, về
đời sau. Lại nữa, này Gia chủ, kẻ vô văn phàm phu thành tựu lòng bất
tín đối với Tăng. Khi vị ấy tự thấy lòng bất tín của mình đối với
chúng Tăng; vị ấy run sợ, hoảng hốt, sợ hãi về cái chết, về đời
sau. Lại nữa, này Gia chủ, kẻ vô văn phàm phu thành tựu ác giới. Khi vị
ấy tự thấy sự thành tựu ác giới của mình; vị ấy run sợ, hoảng hốt,
sợ hãi về cái chết, về đời sau. Do thành tựu bốn pháp này, này Gia chủ,
kẻ vô văn phàm phu run sợ, hoảng hốt, sợ hãi về cái chết, về đời
sau.
8) Do thành tựu bốn pháp, này Gia
chủ, vị Đa văn Thánh đệ tử không có run sợ, không có hoảng hốt,
không có sợ hãi về cái chết, về đời sau. Thế nào là bốn ? Ở đây,
này Gia chủ, vị Đa văn Thánh đệ tử thành tựu tịnh tín bất động đối
với Phật: "Đây là Như Lai... Phật, Thế Tôn". Khi tự thấy lòng
tịnh tín bất động của mình đối với Phật, vị ấy không run sợ,
không hoảng hốt, không sợ hãi về cái chết, về đời sau. Lại nữa, này
Gia chủ, vị Đa văn Thánh đệ tử thành tựu lòng tịnh tín bất động đối
với Pháp : "Pháp được Thế Tôn khéo thuyết... chỉ người có trí tự
mình giác hiểu". Khi tự thấy lòng tịnh tín bất động của mình đối
với Pháp, vị ấy không run sợ, không hoảng hốt, không sợ hãi về cái
chết, về đời sau. Lại nữa, này Gia chủ... lòng tịnh tín bất động đối
với chúng Tăng: "Diệu hạnh là đệ tử của Thế Tôn... là phước
điền vô thượng ở đời"... về đời sau. Lại nữa, này Gia chủ, vị
Đa văn Thánh đệ tử thành tựu các giới được các bậc Thánh ái
kính... đưa đến Thiền định. Khi tự thấy sự thành tựu các giới được
các bậc Thánh ái kính của mình, vị ấy không run sợ, không hoảng hốt,
không sợ hãi về cái chết, về đời sau. Thành tựu bốn pháp này, này
Gia chủ, bậc Đa văn Thánh đệ tử không có run sợ, không có hoảng hốt,
không sợ hãi về cái chết, về đời sau.
9) -- Thưa Tôn giả Ananda, con không
sợ hãi. Sao con có thể sợ hãi ? Con đã thành tựu lòng tịnh tín đối với
Phật : "Đây là Như Lai, bậc A-la-hán... Phật, Thế Tôn"... đối với
Pháp... đối với chúng Tăng... thưa Tôn giả, phàm có những học giới
hòa kính (sàmici) tại gia do Thế Tôn thuyết giảng, con thấy không có tự
mình vi phạm một giới nào.
10) -- Lợi đắc thay cho Gia chủ, này
Gia chủ! Khéo lợi đắc thay cho Gia chủ, này Gia chủ ! Gia chủ đã tuyên bố
về Dự lưu quả rồi.
28.VIII. Hận Thù Hay Anàthapindika (3)
(S.v,387)
1) Nhân duyên ở Sàvatthi.
2) Rồi gia chủ Anàthapindika đi đến
Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế
Tôn nói với gia chủ Anàthapindika đang ngồi một bên :
3) -- Khi nào vị Thánh đệ tử, này
Gia chủ, làm cho tịnh chỉ năm sự sợ hãi hận thù (pancabhayàni), thành tựu
bốn Dự lưu phần, và nhờ trí tuệ, Thánh lý (nàya) được khéo thấy,
được khéo thông đạt, nếu vị ấy muốn, sẽ tự mình tuyên bố về
mình như sau : "Ta đã đoạn tận địa ngục; ta đã đoạn tận các
loài bàng sanh; ta đã đoạn tận cõi ngạ quỷ; ta là bậc Dự lưu, không
còn thối đọa, quyết chắc chứng quả giác ngộ". Thế nào là năm sự
sợ, hãi hận thù được tịnh chỉ ?
4) Sự sợ hãi, hận thù, này Gia chủ,
ngay trong hiện tại khởi lên cho người sát sanh; do duyên sát sanh, sự sợ,
hãi, hận thù khởi lên ở đời sau, sự khổ ưu do tâm người ấy cảm thọ.
Với người từ bỏ sát sanh, thời sự sợ hãi, hận thù như vậy được
tịnh chỉ.
... khởi lên cho người lấy của
không cho...
... khởi lên cho người tà hạnh
trong các dục...
... khởi lên cho người nói láo...
Sự sợ hãi, hận thù, này Gia chủ,
ngay trong hiện tại khởi lên cho người say đắm rượu men, rượu nấu; do
duyên say đắm rượu men, rượu nấu, sự sợ hãi, hận thù khởi lên ở
đời sau, khổ ưu do tâm người ấy cảm thọ. Với người từ bỏ say đắm
rượu men, rượu nấu, thời sự sợ hãi, hận thù như vậy được tịnh
chỉ.
Năm sự sợ hãi, hận thù này được
tịnh chỉ.
5) Với bốn Dự lưu phần nào, vị
ấy được thành tựu ?
Ở đây, này Gia chủ, vị Thánh đệ
tử thành tựu lòng tịnh tín bất động đối với đức Phật : "Đây
là Như Lai... Phật, Thế Tôn..". đối với Pháp... đối với chúng Tăng...
vị ấy thành tựu các giới được các bậc Thánh ái kính... đưa đến
Thiền định.
Bốn Dự lưu phần này được thành
tựu.
6) Thánh lý nào được vị ấy khéo
thấy với trí tuệ, khéo thông đạt ?
Ở đây, này Gia chủ, vị Thánh đệ
tử khéo như lý tác ý lý duyên khởi: Do cái này có mặt, cái kia có mặt.
Do cái này sanh khởi, cái kia sanh khởi. Do cái này không có mặt, cái kia
không có mặt. Do cái này diệt, cái kia diệt. Tức là vô minh duyên hành,
hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên sáu xứ, sáu xứ
duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu
duyên sanh, sanh duyên lão tử. Như vậy là sự tập khởi của toàn bộ khổ
uẩn này. Do sự ly tham, đoạn diệt vô minh không có dư tàn, nên hành diệt.
Do hành diệt, nên thức diệt... nên lão tử diệt. Như vậy là sự đoạn
diệt của toàn bộ khổ uẩn này vậy.
Đây là Thánh lý, với trí tuệ,
được khéo thấy, khéo thông đạt.
7) Khi nào vị Thánh đệ tử, này
Gia chủ, được tịnh chỉ năm sự sợ hãi, hận thù này, được thành tựu
bốn Dự lưu phần này, và thánh lý nhờ trí tuệ được khéo thấy, khéo
thông đạt thời nếu muốn, vị ấy có thể tự mình tuyên bố về mình
như sau : "Ta đã đoạn tận địa ngục; ta đã đoạn tận loài bàng
sanh; ta đã đoạn tận cõi ngạ quỷ; ta đã đoạn tận cõi dữ, ác thú,
đọa xứ. Ta là bậc Dự lưu, không còn bị thối đọa, quyết chắc chứng
quả giác ngộ".
29.IX. Sợ Hãi Hay Vị Tỷ Kheo (S.v,389)
1) Nhân duyên ở Sàvatthi.
2). .. (như kinh trên 28, chỉ khác,
đây là một số đông Tỷ-kheo đến đức Phật và đức Phật thuyết cho
các vị ấy)...
30.X. Lichavi Hay Nandaka (S.v,389)
1) Một thời, Thế Tôn trú ở
Vesàli, tại Đại Lâm, chỗ ngôi nhà có nóc nhọn.
2) Rồi đại thần người Licchavi tên
là Nandaka đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống
một bên. Thế Tôn nói với Nandaka, vị đại thần người Licchavi đang ngồi
một bên :
-- Này Nandaka, thành tựu bốn pháp,
một vị Thánh đệ tử là bậc Dự lưu... chứng quả giác ngộ. Thế nào
là bốn ?
3) Ở đây, này Nandaka, vị Thánh đệ
tử thành tựu lòng tịnh tín bất động đối với Phật : "Đây là Như
Lai, bậc A-la-hán... Phật, Thế Tôn"... đối với Pháp... đối với chúng
Tăng... Vị ấy thành tựu các giới được các bậc Thánh... đưa đến Thiền
định. Thành tựu bốn pháp này, này Nandaka, vị Thánh đệ tử là bậc Dự
lưu, không còn bị thối đọa, quyết chắc chứng quả giác ngộ.
4) Thành tựu bốn pháp này, này
Nadaka, vị Thánh đệ tử liên hệ đến tuổi thọ chư Thiên và loài Người,
liên hệ đến dung sắc, liên hệ đến an lạc, liên hệ đến thanh danh, liên
hệ đến lực tăng thượng (adhipateyya) chư Thiên và loài Người.
5) Điểm này, này Nandaka, Ta biết
chứ không phải nhờ nghe từ một Sa-môn hay Bà-la-môn nào rồi Ta tuyên bố.
Chính do tự Ta biết, tự Ta thấy, tự Ta ý thức rồi Ta tuyên bố.
6) Khi được nghe nói vậy, một người
thưa với Nandaka, vị đại thần người Licchavi :
-- Thưa Đại quan, nay đã đến giờ
tắm.
-- Thôi, nay đã vừa rồi, này Bạn,
đó chỉ là sự tắm rửa bề ngoài. Tắm rửa bên trong này là vừa đủ
cho ta, tức là lòng tịnh tín đối với Thế Tôn.
IV. Phẩm Phước Đức Sung Mãn
31. I. Sung Mãn (1) (S.v,391)
1) Nhân duyên ở Sàvatthi.
2) -- Này các Tỷ-kheo, có bốn phước
đức sung mãn, thiện sung mãn, món ăn cho lạc này. Thế nào là bốn?
3) Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị
Thánh đệ tử thành tựu lòng tịnh tín bất động đối với Phật:
"Đây là Như Lai, bậc A-la-hán...Phật, Thế Tôn". Đây là phước
đức sung mãn, thiện sung mãn, món ăn cho lạc thứ nhất.
4) Lại nữa, này các Tỷ-kheo, vị
Thánh đệ tử thành tựu lòng tịnh tín bất động đối với Pháp:
"Pháp được Thế Tôn khéo thuyết... chỉ người có trí tự mình giác
hiểu". Đây là phước đức sung mãn, thiện sung mãn, món ăn cho lạc
thứ hai.
5) Lại nữa, này các Tỷ-kheo, vị
Thánh đệ tử thành tựu lòng tịnh tín bất động đối với chúng Tăng:
"Diệu hạnh là chúng đệ tử của Thế Tôn... là phước điền vô thượng
ở đời". Đây là phước đức sung mãn, thiện sung mãn, món ăn cho lạc
thứ ba.
6) Lại nữa, này các Tỷ-kheo, vị
Thánh đệ tử thành tựu các giới được các bậc Thánh ái kính... đưa
đến Thiền định. Đây là phước đức sung mãn, thiện sung mãn, món ăn
cho lạc thứ tư.
7) Những pháp này, này các Tỷ-kheo,
là bốn phước đức sung mãn, thiện sung mãn, món ăn cho lạc.
32. II. Sung Mãn (2) (S.v,391)
1-5)... (giống như kinh trên, đoạn
1-5)...
6) -- Lại nữa, này các Tỷ-kheo, vị
Thánh đệ tử trú ở gia đình, với tâm thoát khỏi cấu uế của xan tham,
bố thí dễ dàng, bàn tay rộng mở, thích thú từ bỏ, đáp ứng điều yêu
cầu, thích thú chia xẻ vật bố thí. Đây là phước đức sung mãn, thiện
sung mãn, món ăn cho lạc thứ tư.
7) Những pháp này, này các Tỷ-kheo,
là bốn phước đức sung mãn, thiện sung mãn, món ăn cho lạc.
33. III. Sung Mãn (3) (S.v,392)
2-5)... (giống như kinh 31, đoạn
2-5)...
6) -- Vị ấy có trí tuệ, thành tựu
trí tuệ về sanh diệt (các pháp), trí tuệ các bậc Thánh thể nhập (các
pháp), đưa đến chơn chánh đoạn tận khổ đau. Đây là phước đức sung
mãn, thiện sung mãn, món ăn cho lạc thứ tư.
7) Những pháp này, này các Tỷ-kheo,
là bốn phước đức sung mãn, thiện sung mãn, món ăn cho lạc.
34. IV. Con Đường Của Chư Thiên (1)
(S.v,392)
1) Nhân duyên ở Sàvatthi.
2) -- Có bốn thiên đạo này của
chư Thiên, này các Tỷ-kheo, khiến chúng sanh chưa thanh tịnh được thanh tịnh,
khiến chúng sanh chưa thuần bạch được thuần bạch. Thế nào là bốn?
3) Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị
Thánh đệ tử thành tựu lòng tịnh tín đối với đức Phật... Đây là
thiên đạo thứ nhất của chư Thiên, khiến chúng sanh chưa thanh tịnh được
thanh tịnh, khiến chúng sanh chưa thuần bạch được thuần bạch.
4-6)... (như trên đối với Pháp, với
chúng Tăng, với các giới)... " Đây là thiên đạo thứ tư của chư
Thiên, khiến chúng... được thuần bạch.
7) Những pháp này, này các Tỷ-kheo,
là bốn thiên đạo của chư Thiên, khiến chúng sanh... được thuần bạch.
35. V. Con Đường Của Chư Thiên (2)
(S.v,393)
1)...
2) -- Có bốn thiên đạo của chư
Thiên này, này các Tỷ-kheo, khiến chúng sanh chưa thanh tịnh được thanh tịnh,
khiến chúng sanh chưa thuần bạch được thuần bạch. Thế nào là bốn?
3) Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị
Thánh đệ tử thành tựu lòng tịnh tín bất động với đức Phật:
"Đây là Như Lai, bậc A-la-hán, Phật, Thế Tôn". Vị ấy suy tư
như sau: "Thế nào là thiên đạo của chư Thiên? Nói rằng không sân hận
là tối thượng. Ta không làm hại một ai, các chúng sanh di động hay các
chúng sanh không di động. Thật vậy, ta sống thành tựu pháp của thiên đạo".
Đây là thiên đạo thứ nhất của chư Thiên khiến các loài chúng sanh...
được thuần bạch.
4-5) Lại nữa, này các Tỷ-kheo, vị
Thánh đệ tử thành tựu lòng tịnh tín bất động đối với Pháp... đối
với chúng Tăng...
6). .. thành tựu các giới được các
bậc Thánh ái kính... đưa đến Thiền định. Vị ấy suy tư như sau:
"Thế nào là thiên đạo của chư Thiên?". Vị ấy rõ biết như
sau: "Ta nghe các chư Thiên nói rằng không sân hận là tối thượng. Ta
không làm hại một ai, các chúng sanh di động hay các chúng sanh không di động.
Thật vậy, ta sống thành tựu pháp của thiên đạo". Đây là thiên đạo
thứ tư của chư Thiên, khiến các chúng sanh chưa thanh tịnh được thanh tịnh,
khiến các chúng sanh chưa thuần bạch được thuần bạch.
7) Các pháp này, này các Tỷ-kheo,
là bốn thiên đạo của chư Thiên, khiến chúng sanh... được thuần bạch.
36. VI. Đi Đến Bạn Bè (S.v,394)
1)...
2) -- Chư Thiên, này các Tỷ-kheo,
hoan hỷ nói chuyện bạn bè với ai thành tựu bốn pháp. Thế nào là bốn?
3) Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị
Thánh đệ tử thành tựu lòng tịnh tín bất động đối với đức Phật:
"Đây là Như Lai, bậc A-la-hán... Phật, Thế Tôn". Chư Thiên nào
thành tựu lòng tịnh tín bất động đối với đức Phật, sau khi mệnh
chung ở chỗ này, được sanh ở đây. Chư Thiên ấy suy nghĩ: "Như chúng
ta thành tựu lòng tịnh tín bất động đối với đức Phật, mệnh chung
chỗ kia, được sanh chỗ này". Vị Thánh đệ tử cũng thành tựu lòng
tịnh tín bất động như vậy. Họ nói với vị ấy: "Hãy đến đây,
đến gần chư Thiên".
4-5) Lại nữa, này các Tỷ-kheo, vị
Thánh đệ tử... đối với Pháp... đối với chúng Tăng...
6) Vị Thánh đệ tử thành tựu
các giới được các bậc Thánh ái kính... đưa đến Thiền định. Chư Thiên
nào thành tựu các giới được các bậc Thánh ái kính, sau khi mệnh chung
ở chỗ này, được tái sanh chỗ kia. Họ suy nghĩ như sau: "Chúng ta
thành tựu các giới được các bậc Thánh ái kính. Do vậy, chúng ta mệnh
chung tại chỗ kia, sanh tại chỗ này". Vị Thánh đệ tử cũng thành tựu
các giới được các bậc Thánh ái kính như vậy. Họ nói với vị ấy:
"Hãy đến đây, đến gần với chư Thiên".
7) Những ai thành tựu bốn pháp
này, này các Tỷ-kheo, chư Thiên hoan hỷ nói chuyện bạn bè với họ.
37. VII. Mahànàma (S.v,395)
1) Một thời, Thế Tôn trú giữa
dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, trong khu vườn cây bàng.
2) Rồi họ Thích Mahànàma đi đến
Thế Tôn, sau khi đến... ngồi xuống một bên, họ Thích Mahànàma bạch Thế
Tôn:
3) -- Cho đến như thế nào, bạch
Thế Tôn, là người cư sĩ?
-- Ai quy y Phật, này Mahànàma, quy y
Pháp, quy y chúng Tăng. Cho đến như vậy, này Mahànàma, là người cư sĩ.
4) -- Cho đến như thế nào, bạch
Thế Tôn, là người cư sĩ đầy đủ giới?
-- Này Mahànàma, người cư sĩ từ
bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ
bỏ nói láo, từ bỏ đắm say rượu men, rượu nấu. Cho đến như vậy, này
Mahànàma, là người cư sĩ đầy đủ giới.
5) -- Cho đến như thế nào, bạch
Thế Tôn, là người cư sĩ đầy đủ tín?
-- Ở đây, này Mahànàma, người
cư sĩ có lòng tin, tin tưởng ở sự giác ngộ của Như Lai: "Đây là
Như Lai, bậc A-la-hán... Phật, Thế Tôn". Cho đến như vậy, này
Mahànàma, là người cư sĩ đầy đủ tín.
6) -- Cho đến như thế nào, bạch
Thế Tôn là người cư sĩ đầy đủ lòng bố thí?
-- Ở đây, này Mahànàma, người
cư sĩ trú ở gia đình, tâm thoát khỏi cấu uế của xan tham, bố thí dễ
dàng, bàn tay rộng mở, thích thú từ bỏ, đáp ứng điều yêu cầu, thích
chú chia xẻ vật bố thí. Cho đến như vậy, này Mahànàma, là người cư
sĩ đầy đủ bố thí.
7) -- Cho đến như thế nào, bạch
Thế Tôn, là người cư sĩ đầy đủ trí tuệ?
-- Ở đây, này Mahànàma, người
cư sĩ có trí tuệ, thành tựu trí tuệ về sanh diệt (các pháp), trí tuệ
các bậc Thánh thể nhập (các pháp), đưa đến chơn chánh đoạn tận khổ
đau. Cho đến như vậy, này Mahànàma, là người cư sĩ đầy đủ trí tuệ.
38. VIII. Mưa (S.v,396)
1)...
2) -- Ví như, này các Tỷ-kheo, khi
trên đầu núi có cơn mưa to lớn, nước mưa ấy chảy theo hướng xuôi của
nó, tràn đầy các hang núi, khe núi; sau khi tràn đầy các hang núi, khe núi,
nó tràn đầy hồ nhỏ; sau khi tràn đầy hồ nhỏ, nó tràn đầy hồ lớn;
sau khi tràn đầy hồ lớn, nó tràn đầy sông nhỏ; sau khi tràn đầy sông
nhỏ, nó tràn đây sông lớn; sau khi tràn đầy sông lớn, nó tràn đầy biển,
đại dương.
3) Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, đối
với vị Thánh đệ tử, lòng tịnh tín bất động đối với đức Phật,
lòng tịnh tín bất động đối với Pháp, lòng tịnh tín bất động đối
với chúng Tăng, và các giới được các bậc Thánh ái kính; những pháp
này trôi chảy đến bờ bên kia, đưa đến đoạn diệt các lậu hoặc.
39. IX. Kàli (S.v,398)
1) Lúc bấy giờ Thế Tôn trú giữa
dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, khu vườn Cây Bàng.
2) Rồi Thế Tôn, vào buổi sáng, đắp
y, cầm y bát, đi đến nhà của Thích nữ Kàligodhà; sau khi đến, ngồi trên
chỗ đã soạn sẵn.
3) Rồi Thích nữ Kàligodhà đi đến
Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế
Tôn nói với Thích nữ Kàligodhà đang ngồi một bên:
-- Thành tựu bốn pháp, này Godhà,
vị nữ Thánh đệ tử là bậc Dự lưu, không còn bị thối đọa, quyết
chắc chứng quả giác ngộ. Thế nào là bốn?
4) Ở đây, này Godhà, vị nữ
Thánh đệ tử thành tựu lòng tịnh tín bất động đối với đức Phật:
"Đây là Như Lai... Phật, Thế Tôn"... đối với Pháp... đối với
chúng Tăng... Vị này trú ở gia đình, tâm thoát khỏi cấu uế của xan
tham, bố thí dễ dàng, bàn tay rộng mở, thích thú từ bỏ, đáp ứng điều
yêu cầu, thích thú chia xẻ vật bố thí. Này Godhà, thành tựu bốn pháp
này, một nữ Thánh đệ tử là bậc Dự lưu, không còn bị thối đọa,
quyết chắc chứng quả giác ngộ.
5) -- Bốn Dự lưu phần được Thế
Tôn thuyết giảng này, bạch Thế Tôn, chúng đều có trong con. Con thực hiện
những pháp này. Bạch Thế Tôn, con thành tựu lòng tịnh tín bất động đối
với Phật, Như Lai... đối với Pháp... đối với chúng Tăng... Phàm những
vật gì được đem bố thí trong gia đình, tất cả đều được phân phát
cho những người có giới và những người làm thiện.
6) -- Lợi đắc thay cho Người, này
Godhà! Thật khéo lợi đắc thay cho Người, này Godhà! Này Godhà, Người đã
tuyên bố về Dự lưu quả.
40) X. Nandiyà (S.v,397)
1) Một thời, Thế Tôn trú giữa
dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, trong khu vườn Cây Bàng.
2) Rồi họ Thích Nandiyà đi đến
Thế Tôn; sau khi đến... ngồi xuống một bên, họ Thích Nandiyà bạch Thế
Tôn:
3) -- Với vị Thánh đệ tử nào, bạch
Thế Tôn, toàn diện, toàn bộ không có bốn Dự lưu phần này; vị Thánh
đệ tử ấy, bạch Thế Tôn, có thể được gọi là trú phóng dật không?
-- Này Nandiyà, với ai toàn diện,
toàn bộ không có bốn Dự lưu phần này; người ấy, Ta tuyên bố là người
đứng ngoài, trong hàng ngũ kẻ phàm phu.
4) Tuy vậy, này Nandiyà, Ta sẽ nói
cho Ông như thế nào một Thánh đệ tử trú phóng dật và trú không phóng
dật. Hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ nói.
-- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Họ Thích Nandiyà vâng đáp Thế
Tôn, Thế Tôn nói như sau :
5) -- Này Nandiyà, thế nào là vị
Thánh đệ tử trú phóng dật?
Ở đây, này Nandiyà, vị Thánh đệ
tử thành tựu lòng tịnh tín bất động đối với đức Phật: "Đây
là Như Lai, bậc A-la-hán... Phật, Thế Tôn". Vị ấy thỏa mãn với
lòng tịnh tín bất động đối với Phật, không cố gắng thêm, ban ngày
không sống viễn ly ban đêm không sống Thiền tịnh. Do vị ấy sống phóng
dật như vậy, nên không có hân hoan. Do không có hân hoan, nên không có hỷ.
Do không có hỷ, nên không có khinh an. Do không khinh an, nên sống đau khổ.
Do tâm đau khổ, nên không định tĩnh. Do tâm không định tĩnh, nên các
pháp không hiện rõ. Do các pháp không hiện rõ, nên vị ấy được gọi là
trú phóng dật. Lại nữa, này Nandiyà, vị Thánh đệ tử... đối với Pháp...
đối với chúng Tăng... thành tựu các giới được các bậc Thánh ái
kính... đưa đến Thiền định. Vị này thỏa mãn với những giới được
các bậc Thánh ái kính, không cố gắng thêm, ban ngày không sống viễn ly,
ban đêm không sống Thiền tịnh. Do vị ấy trú phóng dật như vậy nên
không có hân hoan. Do không có hân hoan, nên không có hỷ. Do không có hỷ,
nên không có khinh an. Do không có khinh an, nên sống đau khổ. Do tâm đau khổ,
nên không định tĩnh. Do tâm không định tĩnh, nên các pháp không hiện
rõ. Do các pháp không hiện rõ, nên vị ấy được gọi là trú phóng dật.
6) Này Nandiyà, thế nào là vị
Thánh đệ tử trú không phóng dật?
Ở đây, này Nandiyà, vị Thánh đệ
tử thành tựu lòng tịnh tín bất động đối với đức Phật: "Đây
là Như Lai... Phật, Thế Tôn". Vị này không thỏa mãn với lòng tịnh
tín bất động ấy, cố gắng hơn nữa, ban ngày sống viễn ly, ban đêm sống
Thiền tịnh. Do vị ấy sống không phóng dật, nên hân hoan khởi. Do vị
ấy hân hoan, nên hỷ sanh. Do ý có hỷ, nên thân khinh an. Do thân khinh an,
nên vị ấy cảm thọ lạc. Do tâm được lạc, nên vị ấy định tĩnh. Do
tâm định tĩnh, các pháp được hiện ra. Do các pháp được hiện ra, vị
ấy được gọi là trú không phóng dật. Lại nữa, này Nandiyà, vị Thánh
đệ tử đối với Pháp... đối với chúng Tăng... vị ấy thành tựu các
giới được các bậc Thánh ái kính... đưa đến Thiền định. Vị ấy không
thỏa mãn với các giới được các bậc Thánh ái kính, cố gắng tinh tấn
hơn nữa, ban ngày sống viễn ly, ban đêm sống Thiền tịnh. Do vị ấy sống
không phóng dật như vậy, hân hoan sanh. Vị ấy có hân hoan, nên hỷ sanh.
Do ý có hỷ, nên thân kinh an. Do thân khinh an, nên vị ấy cảm thọ lạc.
Do tâm được lạc, nên vị ấy định tĩnh. Do tâm định tĩnh, các pháp
được hiện ra. Do các pháp được hiện ra, vị ấy được gọi là trú
không phóng dật. Như vậy, này Nandiyà, là vị Thánh đệ tử trú không
phóng dật.
V. Phẩm Phước Đức Sung Mãn Với
Kệ
41. I. Sung Mãn (1) (S.v,399)
1)...
2) -- Này các Tỷ-kheo, có bốn phước
đức sung mãn, thiện sung mãn, món ăn cho lạc này. Thế nào là bốn?
3) Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị
Thánh đệ tử thành tựu lòng tịnh tín bất động đối với Phật:
"Đây là Như Lai, bậc A-la-hán... Phật, Thế Tôn". Đây là phước
đức sung mãn, thiện sung mãn, món ăn cho lạc thứ nhất. Lại nữa, này
các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử thành tựu lòng tịnh tín bất động đối
với Pháp... đối với Tăng... thành tựu các giới được các bậc Thánh
ái kính... đưa đến Thiền định. Đây là phước đức sung mãn, thiện
sung mãn, món ăn cho lạc thứ tư. Những pháp này, này các Tỷ-kheo, là bốn
phước đức sung mãn, thiện sung mãn, món ăn cho lạc.
4) Với vị Thánh đệ tử thành tựu
bốn phước đức sung mãn, thiện sung mãn, món ăn cho lạc này, này các Tỷ-kheo,
thật không dễ đếm được vô lượng phước đức: "Số lượng như
thế này là phước đức sung mãn, thiện sung mãn, món ăn cho lạc". Chúng
chỉ có thể gọi được là vô số, vô lượng, đại uẩn phước đức.
5) Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, thật
không dễ đếm được số lượng nước trong biển lớn là có bao nhiêu
thùng, hay có bao nhiêu trăm thùng, hay có bao nhiêu trăm ngàn thùng. Chúng chỉ
có thể gọi được là vô số, vô lượng nước lớn tụ tập. Cũng vậy,
này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử thành tựu bốn phước đức sung mãn,
thiện sung mãn, món ăn cho lạc này, thật không dễ gì đếm được số
lượng phước đức: "Số lượng như thế này là phước đức sung mãn,
thiện sung mãn, món ăn cho lạc". Chúng chỉ có thể gọi được là vô
số, vô lượng, đại uẩn phước đức.
6) Thế Tôn nói như vầy :
Là đại dương, đại hải,
Nước mênh mông rộng lớn,
Đầy rẫy những hãi hùng,
Chứa vô lượng trân châu,
Phục vụ trăm ngàn người,
Các con sông (lớn, nhỏ),
Chúng tuôn chảy ồ ạt,
Chúng đổ về bể khơi.
Cũng vậy là những người,
Thí đồ ăn, uống, vải,
Bố thí giường, chỗ ngồi,
Mền, nệm, các đồ nằm,
Vô lượng nguồn phước đức,
Từ kẻ trí tuôn chảy,
Như sông hồ đầy nước,
Chảy tuôn ra bể cả.
42. II. Sung Mãn (2) (S.v,401)
1)...
2) -- Này các Tỷ-kheo, có bốn phước
đức sung mãn, thiện sung mãn, món ăn cho lạc này. Thế nào là bốn?
3) Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị
Thánh đệ tử thành tựu lòng tịnh tín bất động đối với đức Phật...
đối với Pháp... đối với chúng Tăng... trú ở gia đình, với tâm thoát
khỏi cấu uế của xan tham, bố thí dễ dàng, bàn tay rộng mở, thích thú
từ bỏ, đáp ứng điều yêu cầu, thích thú chia xẻ vật bố thí. Đây
là phước đức sung mãn, thiện sung mãn, món ăn cho lạc thứ tư. Những pháp
này, này các Tỷ-kheo, là bốn phước đức sung mãn, thiện sung mãn, món
ăn cho lạc.
4). .. (như đoạn số 4, kinh trên)...
5) Ví như, tại chỗ mà các con
sông lớn này gặp nhau, nhập vào một dòng với nhau, ví như sông Hằng,
sông Yamunà, sông Aciravati, sông Sarabhuu, sông Mahi, thật không dễ gì đếm
được số lượng nước tại chỗ ấy là có bao nhiêu thùng, bao nhiêu trăm
thùng, bao nhiêu trăm ngàn thùng. Chúng chỉ có thể gọi được là vô số,
vô lượng nước lớn tụ tập... đại uẩn phước đức.
6) Thế Tôn nói như vầy :
... (giống như hai bài kệ kinh
trên)...
43. III. Sung Mãn (3) (S.v,401)
1)...
2). .. (như đoạn số 2, kinh trên)...
3). .. (đoạn đầu giống kinh trên
về đối với Phật, Pháp, Tăng... ) có trí tuệ, thành tựu trí tuệ về
sanh diệt (các pháp), trí tuệ các bậc Thánh thể nhập (các pháp), đưa đến
chơn chánh đoạn tận khổ đau. Những pháp này, này các Tỷ-kheo, là bốn
phước đức sung mãn, thiện sung mãn, món ăn cho lạc.
4). .. (như đoạn số 4, kinh trước)...
5) Thế Tôn thuyết như vầy :
Ai ước muốn phước đức,
Vững trú trên điều thiện,
Tu tập theo con đường,
Đưa đến đạt bất tử,
Chứng được lõi của pháp,
Thích thú đoạn (lậu hoặc),
Vị ấy không run sợ,
Khi nghĩ đến thần chết.
44. IV. Rất Giàu Hay Giàu (1)
(S.v,402)
1)...
2) -- Thành tựu bốn pháp, này các
Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử được gọi là giàu, rất giàu, có tài sản lớn,
có danh xưng lớn. Thế nào là bốn?
3). .. (như các kinh trước, nói về
tịnh tín bất động đối với ba ngôi báu và các giới)...
4) Thành tựu bốn pháp này, này
các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử được gọi là giàu, rất giàu, có tài sản
lớn, có danh xưng lớn.
45. V. Rất Giàu Hay Giàu (2)
(S.v,402)
... (giống như kinh trước)...
46. VI. Tỷ Kheo Hay Thanh Tịnh (S.v,403)
1)...
2) -- Thành tựu bốn pháp, này các
Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử là bậc Dự lưu, không còn bị thối đọa, quyết
chắc chứng quả giác ngộ. Thế nào là bốn?
3). .. (như các kinh trước, nói về
tịnh tín đối với ba ngôi báu và các giới)...
4) Thành tựu bốn pháp này, này
các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử là bậc Dự lưu, không còn bị thối đọa,
quyết chắc chứng quả giác ngộ.
47. VII. Nandiya (S.v,403)
1) Nhân duyên ở Kapilavatthu.
2) Thế Tôn nói với họ Thích
Nandiya đang ngồi một bên: "Thành tựu bốn pháp này, này Nandiya, vị
Thánh đệ tử là bậc Dự lưu... giác ngộ. Thế nào là bốn?".
3). .. (thành tựu tịnh tín đối với
Ba Ngôi Báu và các giới)...
4). .. (như đoạn số 4, kinh trước)...
48. VIII. Bhaddiya (S.v,403)
... (như kinh trước, chỉ khác, đây
là họ Thích Bhaddiya )...
49. IX. Mahànàma (S.v,404)
... (như kinh trước, chỉ khác, đây
là họ Thích Mahànàma )...
50. X. Phần (S.v,404)
1)...
2) -- Có bốn Dự lưu phần này,
này các Tỷ-kheo. Thế nào là bốn?
3) Thân cận bậc Chân nhân, nghe diệu
pháp, như lý tác ý, thực hành pháp và tùy pháp.
4) Những pháp này, này các Tỷ-kheo,
là bốn Dự lưu phần.
VI. Phẩm Với Trí Tuệ
51. I. Với Bài Kệ (S,v,404)
1)...
2) -- Thành tựu bốn pháp, này các
Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử là bậc Dự lưu, không còn bị thối đọa, quyết
chắc chứng quả giác ngộ. Thế nào là bốn?
3). .. (Như các kinh trước, tịnh tín
Ba Ngôi báu và thành tựu các giới)... Này các Tỷ-kheo, thành tựu bốn
pháp này, vị Thánh đệ tử là bậc Dự lưu... giác ngộ.
4) Thế Tôn nói như vậy...
Với ai tin Như Lai,
Bất động, khéo an trú,
Với ai giới thiện lành,
Bậc Thánh kính, tán thán.
Với ai tịnh tín Tăng,
Với tri kiến chánh trực,
Được nói: không phải nghèo,
Sống vậy không vô ích.
Do vậy, bậc Hiền minh,
Cần tu tập tín giới,
Thấy rõ được Chánh pháp,
Không quên lời Phật dạy.
52. II. An Cư Mùa Mưa (S.v,405)
1) Một thời, Thế Tôn trú ở
Sàvatthi, Jetavana, tại khu vườn ông Anàthapindika.
2) Lúc bấy giờ, một Tỷ-kheo, sau
khi an cư mùa mưa ở Sàvatthi xong, đi đến Kapilavatthu vì một vài công việc.
3) Các họ Thích ở Kapilavatthu được
nghe một Tỷ-kheo, sau khi an cư mùa mưa xong ở Sàvatthi, đã đến
Kapilavatthu.
4) Rồi các họ Thích ở Kapilavatthu
đi đến Tỷ-kheo ấy; sau khi đến, đảnh lễ Tỷ-kheo ấy rồi ngồi xuống
một bên. Các họ Thích ở Kapilavatthu thưa với Tỷ-kheo ấy:
5) -- Thưa Tôn giả, Thế Tôn có sức
khỏe không, có khỏe mạnh không?
-- Này chư Hiền, Thế Tôn có sức
khỏe, có khỏe mạnh.
-- Thưa Tôn giả, Tôn giả Sariputta
và Tôn giả Moggallàna có sức khỏe không, có khỏe mạnh không?
-- Này chư Hiền, Tôn giả Sàriputta
và Tôn giả Moggalàna có sức khỏe, có khỏe mạnh.
-- Thưa Tôn giả, chúng Tỷ-kheo có
sức khỏe không, có khỏe mạnh không?
-- Này chư Hiền, chúng Tỷ-kheo có
sức khỏe, có khỏe mạnh.
6) -- Thưa Tôn giả, trong dịp an cư
này, Tôn giả có tự thân nghe, tự thân lãnh thọ gì từ Thế Tôn?
-- Này chư Hiền, tôi có tự thân
nghe, tự thân lãnh thọ từ Thế Tôn như sau: "Thật là ít, này các Tỷ-kheo,
là các Tỷ-kheo, sau khi đoạn diệt các lậu hoặc, ngay trong hiện tại, tự
mình với thắng trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải
thoát, tuệ giải thoát. Và nhiều hơn là các Tỷ-kheo, sau khi đoạn diệt
năm hạ phần kiết sử, được hóa sanh, từ đấy nhập Niết-bàn, không
còn trở lại đời này nữa".
7) Lại nữa, này chư Hiền, tôi tự
thân nghe, tự thân lãnh thọ từ Thế Tôn như sau: "Thật là ít, này
các Tỷ-kheo, là những Tỷ-kheo, sau khi đoạn diệt năm hạ phần kiết sử,
được hóa sanh, từ đấy nhập Niết-bàn, không còn trở lại đời này nữa.
Và nhiều hơn là những Tỷ-kheo, sau khi đoạn diệt ba kiết sử, làm cho muội
lược tham, sân, si là bậc Nhất lai, chỉ một lần trở lui đời này nữa
để chấm dứt khổ đau".
8) Lại nữa, này chư Hiền, tôi tự
thân nghe, tự thân lãnh thọ từ Thế Tôn như sau: "Thật là ít, này
các Tỷ-kheo, là những Tỷ-kheo, sau khi đoạn diệt ba kiết sử, làm cho muội
lược tham, sân, si, thành bậc Nhất lai, chỉ một lần trở lui đời này nữa
để chấm dứt khổ đau. Và nhiều hơn là những Tỷ-kheo, sau khi đoạn diệt
ba kiết sử, thành bậc Dự lưu, không còn phải thối đọa, quyết chắc
chứng quả giác ngộ".
53. III. Dhammadinna (S.v,406)
1) Một thời, Thế Tôn trú ở
Bàrànasi, tại Isipatana, ở vườn nai.
2) Rồi cư sĩ Dhammadinna với năm
trăm cư sĩ đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi
xuống một bên. Ngồi một bên, cư sĩ Dhammadinna bạch Thế Tôn:
3) -- Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy
giảng dạy cho chúng con. Thế Tôn hãy giáo giới cho chúng con! Nhờ vậy
chúng con được hạnh phúc, an lạc lâu dài.
-- Nếu vậy, này Dhammadinna, các
Ông cần phải học tập như sau: Các kinh điển nào do Như Lai thuyết giảng
thâm sâu, nghĩa lý thâm sâu, siêu thế, liên hệ đến nghĩa không, cần phải
thường thường được tìm đến và an trú (học hỏi). Như vậy, này
Dhammadinna, các Ông cần phải học tập.
4) -- Bạch Thế Tôn, thật không dễ
gì cho chúng con, phải sống trong những ngôi nhà đầy những trẻ con, sử
dụng hương chiên-đàn từ Kàsi, đeo các vòng hoa, hương và phấn sáp, thọ
dụng vàng và bạc, đối với các kinh điển do Thế Tôn thuyết giảng
thâm sâu, với ý nghĩa thâm sâu, siêu thế, liên hệ đến nghĩa không, có
thể thường thường tìm đến những kinh điển ấy và học hỏi. Bạch Thế
Tôn, chúng con là những người an trú trên năm học pháp, Thế Tôn hãy giảng
cho chúng con các pháp khác!
5) -- Do vậy, này Dhammadinna, các
Ông hãy học tập như sau: "Chúng ta sẽ thành tựu lòng tịnh tín bất
động đối với đức Phật: ‘Đây là Như Lai, bậc A-la-hán... Phật, Thế
Tôn... đối với Pháp... đối với chúng Tăng... thành tựu các giới được
các bậc Thánh ái kính... đưa đến Thiền định’". Như vậy, này
Dhammadinna, các Ông cần phải học tập.
-- Bạch Thế Tôn, bốn Dự lưu phần
này được Thế Tôn thuyết giảng, các pháp ấy có mặt ở nơi chúng con.
Chúng con thực hiện các pháp ấy.
6) Bạch Thế Tôn, chúng con thành tựu
lòng tịnh tín bất động đối với đức Phật: "Đây là Như Lai... Phật,
Thế Tôn... đối với Pháp.... đối với chúng Tăng... chúng con thành tựu
các giới được các bậc Thánh ái kính... đưa đến Thiền định".
7) -- Lợi đắc thay cho Ông, này
Dhammadinna! Thật khéo lợi đắc thay cho Ông, này Dhammadinna! Này Dhammadinna,
Ông đã tuyên bố về Dự lưu quả.
54. IV. Bị Bệnh (S.v,408)
1) Một thời, Thế Tôn trú ở giữa
dân chúng họ Thích, tại Kapilavatthu, khu vườn các cây bàng.
2) Lúc bấy giờ, nhiều Tỷ-kheo
đang làm y cho Thế Tôn, nghĩ rằng khi y làm xong, Thế Tôn sau ba tháng sẽ
đi du hành.
3) Họ Thích Mahànàma được nghe:
"Nhiều Tỷ-kheo đang làm y cho Thế Tôn và họ nghĩ rằng: ‘Khi y làm
xong, Thế Tôn sau ba tháng sẽ đi du hành"". Rồi họ Thích Mahànàma
đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một
bên. Ngồi một bên, họ Thích Mahànàma bạch Thế Tôn:
4) -- Bạch Thế Tôn, con được nghe
nhiều Tỷ-kheo đang làm y cho Thế Tôn và họ nghĩ rằng: "Sau khi y làm
xong, Thế Tôn sau ba tháng sẽ ra đi du hành". Chúng con chưa được tự
thân nghe từ Thế Tôn, tự thân lãnh thọ từ Thế Tôn điều này. Bạch Thế
Tôn, một cư sĩ có trí bị bệnh, đau đớn, bị trọng bệnh, cần phải
được một cư sĩ có trí giáo giới như thế nào?
5) -- Này Mahànàma, một cư sĩ có
trí bị bệnh, đau đớn, bị trọng bệnh, cần phải được an ủi với bốn
pháp an ủi như sau (assàsaniya dhamma): Tôn giả hãy yên tâm, với lòng tịnh
tín bất động của Tôn giả đối với đức Phật: "Đây là Như Lai,
bậc A-la-hán... Phật, Thế Tôn. Tôn giả hãy yên tâm, với lòng tịnh tín
bất động của Tôn giả đối với Pháp... Tôn giả hãy yên tâm, với
lòng tịnh tín bất động của của Tôn giả đối với chúng Tăng... Tôn
giả hãy yên tâm, với các giới của Tôn giả được các bậc Thánh ái
kính... đưa đến Thiền định".
6) Một cư sĩ có trí bị bệnh,
đau đớn, bị trọng bệnh, này Mahànàma, phải được một cư sĩ có trí
giáo giới với bốn pháp an ủi này. Cần phải nói như vậy.
7) Tôn giả ấy có lòng thương nhớ
cha mẹ. Nếu vị ấy nói: "Tôi còn có lòng thương nhớ cha mẹ",
thời nên nói với vị ấy như sau: "Thưa Tôn giả, Tôn giả thế nào cũng
phải chết. Dầu Tôn giả có lòng thương nhớ cha mẹ, Tôn giả cũng sẽ
chết. Dầu Tôn giả không có lòng thương nhớ cha mẹ, Tôn giả cũng sẽ
chết. Vậy tốt hơn là Tôn giả hãy từ bỏ lòng thương nhớ đối với
cha mẹ của Tôn giả".
8) Nếu vị ấy nói như sau: "Lòng
thương nhớ của tôi đối với cha mẹ, lòng thương nhớ ấy đã được
đoạn tận", vị ấy cần phải được nói như sau: "Tôn giả có
lòng thương nhớ vợ con hay không?" Nếu vị ấy nói: "Tôi có lòng
thương nhớ vợ con", thời vị ấy cần phải được nói như sau:
"Tôn giả thế nào cũng chết. Dầu Tôn giả có lòng thương nhớ vợ
con, Tôn giả cũng sẽ chết. Dầu Tôn giả không có lòng thương nhớ vợ
con, Tôn giả cũng sẽ chết. Vậy tốt hơn là Tôn giả hãy từ bỏ lòng thương
nhớ đối với vợ con của Tôn giả".
9) Nếu vị ấy nói như sau: "Lòng
thương nhớ của tôi đối với vợ con, lòng thương nhớ ấy đã được
đoạn tận", vị ấy cần phải được nói như sau: "Tôn giả có
lòng thương tiếc năm dục công đức của loài Người không?" Nếu vị
ấy nói như sau: "Tôi có lòng thương nhớ năm dục công đức của loài
Người", vị ấy cần phải được nói như sau: "Các Thiên dục đối
với nhân dục, còn hấp dẫn hơn, còn thù diệu hơn. Vậy tốt hơn Tôn giả
hãy từ bỏ tâm khỏi các nhân dục, và hướng tâm đến Tứ đại thiên vương
thiên".
10) Nếu vị ấy nói như sau: "Tâm
tôi đã từ bỏ nhân dục và hướng đến Tứ đại thiên vương thiên",
vị ấy cần được nói như sau: "Chư Thiên ở cõi Ba mươi ba còn hấp
dẫn hơn, còn thù diệu hơn Tứ đại thiên vương thiên. Tốt hơn Tôn giả
hãy từ bỏ tâm khỏi Tứ đại thiên vương thiên và hướng tâm đến chư
Thiên ở cõi trời Ba mươi ba".
11-16) Nếu vị ấy nói như sau:
"Tâm tôi đã từ bỏ Tứ đại thiên vương thiên và hướng đến chư
Thiên ở cõi trời Ba mươi ba", vị ấy cần được nói như sau:
"Chư Thiên Yamà, chư Thiên Tusità, chư Thiên Hóa lạc thiên, chư Thiên
Tha hóa tự tại thiên còn hấp dẫn hơn, còn thù diệu hơn chư Thiên ở
cõi trời Ba mươi ba".
17). .. "Chư Thiên ở Phạm thế
còn hấp dẫn hơn, còn thù diệu hơn chư Thiên ở Tha hóa tự tại thiên. Tốt
hơn Tôn giả từ bỏ tâm khỏi chư Thiên Tha hóa tự tại thiên và hướng
tâm đến Phạm thế, Phạm thiên giới".
18) Nếu vị ấy nói như sau: "Tâm
tôi đã từ bỏ chư Thiên Tha hóa tự tại thiên và hướng tâm về chư Thiên
ở Phạm thế", thời vị ấy cần phải được nói như sau: "Này
Tôn giả, Phạm thiên giới là vô thường, không thường hằng, bị thân kiến
giới hạn. Tốt hơn là Tôn giả hãy từ bỏ tâm khỏi Phạm thế và hướng
tâm đến đoạn diệt thân kiến (Sakkàya)".
19) Nếu vị ấy nói như sau: "Tâm
tôi đã từ bỏ Phạm thế và hướng đến đoạn diệt thân kiến"; vị
cư sĩ nói như vậy, này Mahànàama, và với Tỷ-kheo có tâm giải thoát khỏi
các lậu hoặc, Ta nói rằng không có gì sai biệt, tức là về phương diện
giải thoát.
55. V. Bốn Qủa (1) (S.v,410)
1)...
2) Có bốn pháp, này các Tỷ-kheo,
được tu tập, được làm cho sung mãn đưa đến chứng ngộ quả Dự lưu.
Thế nào là bốn?
3) Thân cận với bậc Chân nhân,
nghe diệu pháp, như lý tác ý, thực hiện pháp và tùy pháp.
4) Bốn pháp này, này các Tỷ-kheo,
được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến chứng ngộ quả Dự
lưu.
56. VI. Bốn Qủa (2) (S.v,411)
2)... (như kinh trên, chỉ khác, đây
đưa đến chứng ngộ quả Nhất lai ).
57. VII. Bốn Qủa (3) (S.v,411)
3)... (như kinh trên, chỉ khác, đây
đưa đến quả Nhất lai )
58. VIII. Bốn Qủa (4) (S.v,411)
4)... (như kinh trên, chỉ khác, đây
đưa đến quả A-la-hán )
59. IX. Lợi Đắc (S.v,411)
2)... đưa đến lợi đắc trí tuệ...
60. X. Tăng Trưởng (S.v,411)
2)... đưa đến tăng trưởng trí tuệ...
61. XI. Qủang Đại (S.v,411)
2). .. đưa đến quảng đại trí tuệ...
VII. Phẩm Đại Trí Tuệ
62. I. Đại (S.v,412)
4)... đưa đến đại trí tuệ...
63. II. Qủang Đại (Puthu)(S.v,412)
4)... đưa đến quảng đại trí tuệ...
64. III. Tăng Trưởng(Vipula)
(S.v,412)
4). .. đưa đến tăng trưởng trí
tuệ...
65. IV. Thâm Sâu (S.v,412)
4)... đưa đến trí tuệ thâm
sâu...
66. V. Kho6ng Có Ngang Bằng (Asamatta)
(S.v,412)
4). .. đưa đến trí tuệ không có
ngang bằng...
67. VI. Sung Mãn (Bhuuri) (S.v,412)
4). .. đưa đến trí tuệ sung
mãn...
68. VII. Nhiều (S.v,412)
4)... đưa đến trí tuệ sung túc...
69. VIII. Nhanh LẹϠ(Siigha)
(S.v,412)
4). .. đưa đến trí tuệ nhanh nhẹn...
70. IX. Khinh An(S.v,412)
4)... đưa đến trí tuệ khinh an...
71. X. Hoan Hỷ (Hàsa) (S.v,412)
4)... đưa đến trí tuệ hoan hỷ...
72. XI. Tốc Hành (S.v,413)
4)... đưa đến trí tuệ tốc
hành...
73. XII. Sắc Bén (S.v,413)
4). .. đưa đến trí tuệ sắc
bén...
74. XIII. Thể Nhập (Nibbedhika)
(S.v,413)
4)... đưa đến trí tuệ thể nhập.
Thế nào là bốn? (như trên).