- Kinh Tương Ưng Bộ
- HT. Thích Minh Châu dịch
- Phần 35b
- Năm Mươi Kinh Thứ Hai
I. Phẩm Vô Minh
Nhân duyên ở Sàtthi.
53.I. Vô Minh (S.iv,30)
1) Rồi một Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn; sau khi đến,
đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.
3) Ngồi xuống một bên, Tỷ-kheo ấy bạch Thế
Tôn:
-- Do biết như thế nào, bạch Thế Tôn, do thấy
như thế nào, vô minh được đoạn tận, minh được sanh khởi?
4) -- Này Tỷ-kheo, do biết, do thấy mắt là vô
thường, vô minh được đoạn tận, minh được sanh khởi. Do biết, do thấy
các sắc là vô thường, vô minh được đoạn tận, minh được sanh khởi...
nhãn thức... nhãn xúc... Do duyên nhãn xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ
hay bất khổ bất lạc ; do biết, do thấy cảm thọ ấy là vô thường, vô
minh được đoạn tận, minh được sanh khởi.
5-8) Tai... Mũi... Lưỡi... Thân...
9) Do biết, do thấy ý là vô thường, vô minh
được đoạn tận, minh được sanh khởi... Các pháp... Ý thức... Ý xúc...
Do duyên ý xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ, hay bất khổ bất lạc ;
do biết, do thấy cảm thọ ấy là vô thường, vô minh được đoạn tận,
minh được sanh khởi.
10) Do biết như vậy, này các Tỷ-kheo, do thấy
như vậy, vô minh được đoạn tận, minh được sanh khởi.
54.II Kiết Sử(1) (S.iv,31)
1). ..
3)-- Do biết như thế nào, bạch Thế Tôn, do thấy
như thế nào, các kiết sử được đoạn tận?
4-9) -- Này các Tỷ-kheo, do biết, do thấy mắt
là vô thường, các kiết sử được đoạn tận... Các sắc... Nhãn thức...
Nhãn xúc... Do duyên ý xúc khởi lên cảm thọ gì ; do biết, do thấy cảm
thọ ấy là vô thường, các kiết sử được đoạn tận.
10) Do biết như vậy, này các Tỷ-kheo, do thấy
như vậy, các kiết sử được đoạn tận.
55.III. Kiết Sử (2) (S.iv,31)
1-2). ..
3) -- Do biết như thế nào, bạch Thế Tôn, do thấy
như thế nào, các kiết sử được nhổ sạch?
4-6) -- Này các Tỷ-kheo, do biết, do thấy mắt
là vô ngã, các kiết sử được nhổ sạch... Các sắc... Nhãn thức...
Nhãn xúc... Do duyên ý xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ hay bất khổ
bất lạc ; do biết, do thấy cảm thọ ấy là vô ngã, các kiết sử được
nhổ sạch.
10) Do biết như vậy, này các Tỷ-kheo, do thấy
như vậy, các kiết sử được nhổ sạch.
56-57.IV-V. Các Lậu Hoặc (1-2) (S.iv,32)
(Như hai kinh trên, chỉ thế vào các lậu hoặc).
58-59.VI-VII. Các Tùy Miên (1-2) (S.iv,32)
(Như hai kinh trên, chỉ thế vào các tùy miên).
60.VIII. Liễu Tri (Parijnnà) (S.iv,32)
1). ..
2) -- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết cho các Ông
về pháp đưa đến liễu tri tất cả chấp thủ. Hãy lắng nghe.
3) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là pháp đưa đến
liễu tri tất cả chấp thủ?
4) Do duyên mắt và các sắc khởi lên nhãn thức.
Do ba pháp này hợp lại có xúc. Do duyên xúc có thọ. Thấy vậy, này các Tỷ-kheo,
bậc Đa văn Thánh đệ tử nhàm chán đối với mắt, nhàm chán đối với
các sắc, nhàm chán đối với nhãn thức, nhàm chán đối với nhãn xúc,
nhàm chán đối với với thọ. Do nhàm chán, vị ấy ly tham. Do ly tham, vị
ấy được giải thoát. Nhờ giải thoát, vị ấy biết rõ: "Ta đã liễu
tri chấp thủ".
5-8) Do duyên tai và các tiếng khởi lên nhĩ thức...
Do duyên mũi và các hương... Do duyên lưỡi và các vị... Do duyên thân và
các xúc...
9) Do duyên ý và các pháp khởi lên ý thức. Do
ba pháp này hợp lại có xúc. Do duyên xúc có thọ. Thấy vậy, này các Tỷ-kheo,
bậc Đa văn Thánh đệ tử nhàm chán đối với ý, nhàm chán đối với các
pháp, nhàm chán đối với ý thức, nhàm chán đối với ý xúc, nhàm chán
đối với thọ. Do nhàm chán, vị ấy ly tham. Do ly tham, vị ấy được giải
thoát. Nhờ giải thoát, vị ấy biết rõ: "Ta đã liễu tri chấp thủ".
10) Như vậy, này các Tỷ-kheo, là pháp đưa đến
liễu tri tất cả chấp thủ.
61.IX. Được Chấm Dứt (1) (Pariyàdinnam)
(S.iv,33)
1). ..
2) -- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết cho các Ông
về pháp đưa đến chấm dứt tất cả chấp thủ. Hãy lắng nghe.
3) Và thế nào, này các Tỷ-kheo, là pháp đưa đến
chấm dứt tất cả chấp thủ?
4) Do duyên con mắt và các sắc khởi lên nhãn thức.
Do ba pháp này hợp lại có xúc. Do duyên xúc có thọ. Thấy vậy, này các Tỷ-kheo,
bậc Đa văn Thánh đệ tử nhàm chán đối với mắt, nhàm chán đối với
các sắc, nhàm chán đối với nhãn thức, nhàm chán đối với nhãn xúc,
nhàm chán đối với thọ. Do nhàm chán, vị ấy ly tham. Do ly tham, vị ấy
được giải thoát. Nhờ giải thoát, vị ấy biết rõ: "Ta đã chấm dứt
chấp thủ".
5-8). .. tai... mũi... lưỡi... thân...
9) Và do duyên ý và các pháp khởi lên ý thức.
Do ba pháp này hợp lại có xúc. Do duyên xúc có thọ. Thấy vậy, này các Tỷ-kheo,
bậc Đa văn Thánh đệ tử nhàm chán đối với ý, nhàm chán đối với các
pháp, nhàm chán đối với ý thức, nhàm chán đối với ý xúc, nhàm chán
đối với thọ. Do nhàm chán, vị ấy ly tham. Do ly tham, vị ấy được giải
thoát. Nhờ giải thoát, vị ấy biết rõ: "Ta đã chấm dứt chấp thủ".
62.X. Được Chấm Dứt (2) (S.iv,34)
1). ..
2) -- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết cho các Ông
về pháp đưa đến chấm dứt tất cả chấp thủ.
3) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là pháp đưa đến
chấm dứt tất cả chấp thủ?
4) Các Ông nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo, mắt
là thường hay vô thường?
-- Là vô thường, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
-- Là khổ, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại,
có hợp lý chăng nếu quán cái ấy là: "Cái này là của tôi. Cái này
là tôi. Cái này là tự ngã của tôi"?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
-- Sắc... Nhãn thức... Nhãn xúc... Do duyên nhãn
xúc khởi lên cảm thọ gì...
5-8) Tai... Mũi... Lưỡi... Thân...
9) Ý... Các pháp... Ý thức... Ý xúc... Do duyên
ý xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ hay bất khổ bất lạc; cảm thọ
ấy là thường hay vô thường...
-- Là vô thường, bạch Thế Tôn.
...
10) -- Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, bậc Đa văn
Thánh đệ tử nhàm chán đối với mắt, nhàm chán đối với các sắc,
nhàm chán đối với nhãn thức, nhàm chán đối với nhãn xúc. Do duyên
nhãn xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ hay bất khổ bất lạc; vị ấy
nhàm chán đối với cảm thọ ấy...
Đối với tai... Đối với mũi... Đối với lưỡi...
Đối với thân...
Vị ấy nhàm chán đối với ý, nhàm chán đối
với các pháp, nhàm chán đối với ý thức, nhàm chán đối với ý xúc. Do
duyên ý xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ hay bất khổ bất lạc; vị
ấy nhàm chán đối với cảm thọ ấy. Do nhàm chán, vị ấy ly tham. Do ly
tham, vị ấy được giải thoát. Trong sự giải thoát, trí khởi lên biết
rằng: "Ta đã giải thoát". Vị ấy biết rõ: "Sanh đã tận, Phạm
hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng
thái này nữa".
11) Đây, này các Tỷ-kheo, là pháp đưa đến chấm
dứt tất cả chấp thủ.
II. Phẩm Migajàla
63.I. Bởi Migajàla (S.iv,35)
1) Nhân duyên ở Sàvatthi...
2) Tôn giả Migajàla đi đến Thế Tôn...
3) Ngồi xuống một bên, Tôn giả Migajàla bạch
Thế Tôn:
-- "Sống một mình! Sống một mình!", bạch
Thế Tôn, được nói đến như vậy. Bạch Thế Tôn, cho đến như thế nào
là sống một mình? Và cho đến như thế nào là sống có người thứ hai?
4) -- Này Migajàla, có những sắc do mắt nhận thức
khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Nếu
Tỷ-kheo hoan hỷ, tán dương và trú với lòng tham luyến sắc ấy ; do vị
ấy hoan hỷ, tán dương và trú với lòng tham luyến sắc ấy nên hỷ
(nandi) khởi lên. Do hỷ có mặt nên dục tham (sàràgo) có mặt. Do dục tham
có mặt nên triền phược có mặt. Bị trói buộc bởi hỷ triền phược,
này Migajàla, nên Tỷ-kheo được gọi là người sống có người thứ hai.
5-8). .. có những tiếng do tai nhận thức... có
những hương do mũi nhận thức... có những vị do lưỡi nhận thức... có
những xúc do thân nhận thức...
9) Này Migajàla, có những pháp do ý nhận thức
khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Nếu
Tỷ-kheo hoan hỷ, tán dương và trú với lòng tham luyến pháp ấy ; do vị
ấy hoan hỷ, tán dương và trú với lòng tham luyến pháp ấy nên hỷ khởi
lên. Do hỷ có mặt nên dục tham có mặt. Do dục tham có mặt nên triền phược
có mặt. Bị trói buộc bởi hỷ triền phược, này Migajàla, nên Tỷ-kheo
được gọi là người sống có người thứ hai.
10) Tỷ-kheo sống như vậy, này Migajàla, dầu cho
đến ở các trú xứ xa vắng, các khóm rừng, các khu rừng, ít tiếng động,
ít ồn ào, khỏi hơi thở quần chúng (vijanavàtàni), vắng người, thích hợp
với tịnh; dầu vậy, vẫn được gọi là sống với người thứ hai.
11) Vì sao? Vì rồng ái, người thứ hai, chưa
được đoạn tận cho nên được gọi là sống có người thứ hai.
12-14) Và này Migajala, có các sắc do mắt nhận
thức, khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến dục, hấp dẫn.
Nếu Tỷ-kheo không hoan hỷ, không tán dương và trú với lòng không tham luyến
pháp ấy; thời do vị ấy không hoan hỷ, không tán dương trú với lòng
không tham luyến pháp ấy, nên hỷ đoạn diệt; thời do hỷ không có mặt
nên dục tham không có mặt. Do dục tham không có mặt nên triền phược không
có mặt. Do không bị trói buộc bởi hỷ triền phược, này Migajàla, nên Tỷ-kheo
được gọi là người trú một mình.
15-16). ..Này Migajàla, có những vị do lưỡi nhận
thức...
17) Này Migajàla, có những pháp do ý nhận thức
khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Nếu
Tỷ-kheo không hoan hỷ, không tán dương và trú với tâm không tham luyến
pháp ấy; thời do vị ấy không hoan hỷ, không tán dương, trú với tâm
không tham luyến pháp ấy nên hỷ đoạn diệt. Do hỷ không có mặt nên dục
tham không có mặt. Do dục tham không có mặt nên triền phược không có mặt.
Do không bị trói buộc bởi hỷ triền phược, này Migajàla, nên Tỷ-kheo
được gọi là người trú một mình.
18) Tỷ-kheo sống như vậy, này Migajàla, dầu có
ở giữa làng tràn đầy những Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ,
vua chúa, đại thần của vua, các ngoại đạo và các đệ tử các ngoại
đạo, vị ấy vẫn được gọi là vị sống một mình.
19) Vì sao? Vì rằng ái, người thứ hai, được
đoạn tận, do vậy được gọi là sống một mình.
64.II. Migajàla (S.iv,37)
1). ..
2) Rồi Tôn giả Migajàla đi đến Thế Tôn...
3) Ngồi xuống một bên, Tôn giả Migajàla bạch
Thế Tôn:
-- Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn thuyết
pháp vắn tắt cho con. Sau khi nghe pháp ấy con sẽ sống một mình, an tịnh,
không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.
4-6) -- Này Migajàla, có những sắc do mắt nhận
thức khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến dục, hấp dẫn.
Nếu Tỷ-kheo hoan hỷ, tán dương, sống với tâm tham luyến sắc ấy ; do vị
ấy hoan hỷ, tán dương, sống với tâm tham luyến sắc ấy nên hỷ sanh.
Này Migajàla, Ta nói rằng do hỷ tập khởi nên khổ tập khởi... Các tiếng...
Các hương...
7-8)... Các vị... Các xúc...
9) Này Migajàla, có những pháp do ý nhận thức
khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Nếu
Tỷ-kheo hoan hỷ, tán dương, sống với tâm tham luyến pháp ấy ; do vị ấy
hoan hỷ, tán dương sống với tâm tham luyến pháp ấy nên hỷ sanh. Này
Migajàla, Ta nói rằng do hỷ tập khởi nên khổ tập khởi.
10-12) Này Migajàla, có những sắc do mắt nhận
thức khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến dục, hấp dẫn.
Nếu Tỷ-kheo không hoan hỷ, không tán dương, sống với tâm không tham luyến
sắc ấy ; do vị ấy không hoan hỷ, không tán dương, sống với tâm không
tham luyến, không an trú tham luyến sắc ấy nên hỷ diệt. Này Migajàla, Ta
nói rằng do hoan hỷ đoạn diệt nên khổ đoạn diệt... Các tiếng... Các
hương...
13-14)... Các vị... Các xúc...
15) Này Migajàla, có những pháp do ý nhận thức
khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Nếu
Tỷ-kheo không hoan hỷ, không tán dương, sống với tâm không tham luyến
pháp ấy; do vị ấy không hoan hỷ, không tán dương, sống với tâm không
tham luyến pháp ấy nên hỷ diệt. Này Migajàla, Ta nói rằng do hỷ đoạn
diệt nên khổ đoạn diệt.
16) Rồi Tôn giả Migajàla, sau khi hoan hỷ, tín thọ
lời Thế Tôn dạy, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn,
thân bên hữu hướng về Ngài rồi ra đi.
17) Rồi Tôn giả Migajàla sống một mình, an tịnh,
không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, không bao lâu đạt được mục đích
mà các thiện nam tử chơn chánh xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia
đình, chính là mục đích cứu cánh Phạm hạnh, ngay trong hiện tại với
thắng trí tự mình chứng ngộ, chứng đạt và an trú. Vị ấy biết rõ rằng:
"Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc gì nên làm đã làm,
không còn trở lui trạng thái này nữa".
18) Và Tôn giả Migajàla trở thành một vị
A-la-hán nữa.
65.III.Samiddhi (I) (S.iv,38)
1) Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha (Vương Xá),
Veluvana (Trúc Lâm), tại chỗ nuôi dưỡng các con sóc.
2-3) Rồi Tôn giả Samiddhi đi đến Thế Tôn...
và bạch Thế Tôn:
-- "Màra, Màra", như vậy được nói đến.
Cho đến như thế nào, bạch Thế Tôn, là Màra, hay là danh nghĩa Màra
(Màrapannatti)?
4) -- Này Samiddhi, chỗ nào có mắt, có các sắc,
có nhãn thức, có các pháp do mắt nhận thức, tại chỗ ấy có Màra, hay
có danh nghĩa Màra.
5-6)... có tai... có mũi...
7-8)... có lưỡi... có thân...
9) Chỗ nào có ý, có các pháp, có ý thức, có
các pháp do ý nhận thức, chỗ ấy có Màra, hay có danh nghĩa Màra.
10-12) Và này Samiddhi, chỗ nào không có mắt,
không có các sắc, không có nhãn thức, không có các pháp do mắt nhận thức,
tại chỗ ấy không có Màra, hay không có danh nghĩa Màra... tai... mũi...
13-14) Chỗ nào không có lưỡi... không có
thân...
15) Chỗ nào không có ý, không có các pháp,
không có ý thức, không có các pháp do ý nhận thức, tại chỗ ấy không
có Màra, hay không có danh nghĩa Màra.
66.IV.Samiddhi (2) (S.iv,39)
1-2). ..
3-15)-- "Hữu tình, hữu tình (Satta)", bạch
Thế Tôn, như vậy được nói đến. Cho đến như thế nào, bạch Thế
Tôn, là hữu tình, hay danh nghĩa hữu tình?... (như trên)...
67.V.Samiddhi (3) (S.iv,39)
1-2). ..
3-15) -- "Khổ, khổ", bạch Thế Tôn, như
vậy được nói đến. Cho đến như thế nào, bạch Thế Tôn, là khổ, hay
là danh nghĩa của khổ?... (như trên)...
68.VI.Sàmiddhi (4) (S.iv,39)
1-2). ..
3)... "Thế giới, thế giới", bạch Thế
Tôn, như vậy được nói đến. Cho đến như thế nào, bạch Thế Tôn, là
thế giới, hay là danh nghĩa thế giới?
4-9) -- Chỗ nào, này Samiddhi, có mắt, có các sắc,
có nhãn thức, có các pháp do mắt nhận thức, tại chỗ ấy có thế giới,
hay danh nghĩa thế giới... (như trên)... Chỗ nào có ý, có các pháp, có ý
thức, có các pháp do ý nhận thức, tại chỗ ấy có thế giới hay có danh
nghĩa thế giới.
10-15) Và tại chỗ nào, này Samiddhi, không có mắt,
không có các sắc, không có nhãn thức, không có các pháp do mắt nhận thức,
tại chỗ ấy không có thế giới, hay không có danh nghĩa thế giới... không
có ý... tại chỗ ấy, không có thế giới hay không có danh nghĩa thế giới.
69.VIl. Upasena (S.iv,40)
1) Một thời Tôn giả Sàriputta và Tôn giả
Upasena trú ở Ràjagaha (Vương Xá), rừng Sitavana (Hàn Lâm), tại hang Đầu
Con Rắn (Sappapon-dikapabbàra).
2) Lúc bấy giờ, một con rắn độc rơi trên
thân Tôn giả Upasena.
3) Rồi Tôn giả Upasena gọi các Tỷ-kheo:
-- Chư Hiền, hãy đến và nhắc cái giường cùng
với cái thân này của tôi đưa ra ngoài, trước khi thân này ở đây phân
tán như một nắm rơm.
4) Được nói vậy, Tôn giả Sàriputta nói với
Tôn giả Upasena:
-- Nhưng chúng tôi không thấy thân Tôn giả
Upasena đổi khác hay các căn bị biến hoại.
5) Nhưng Tôn giả Upasena nói như sau:
-- Này chư Hiền, hãy đến và nhắc cái giường
cùng với cái thân này của tôi đưa ra ngoài, trước khi thân này ở đây
bị phân tán như một nắm rơm...
6) Này Hiền giả Sàriputta, đối với ai nghĩ rằng:
"Tôi là con mắt", hay: "Con mắt là của tôi"... "Tôi
là cái lưỡi", hay: "Cái lưỡi là của tôi"... "Tôi là
ý", hay: "Ý là của tôi", thời đối với các người ấy, này
Hiền giả Sàriputta, thân có thể bị đổi khác, hay các căn bị biến hoại.
Và này Hiền giả Sàriputta, tôi không nghĩ như sau: "Tôi là con mắt",
hay: "Con mắt là của tôi"... "Tôi là cái lưỡi", hay:
"Cái lưỡi là của tôi"... hay: "Tôi là ý", hay: "Ý là
của tôi", thời này Hiền giả Sàriputta, làm sao thân ấy của tôi lại
có thể đổi khác, hay các căn có thể biến hoại.
7) Vì rằng trong một thời gian dài, Tôn giả
Upasena đã khéo nhổ tận gốc ngã kiến, ngã sở kiến, ngã mạn tùy miên,
cho nên Tôn giả Upasena không có những tư tưởng như: "Tôi là con mắt",
hay: "Con mắt là của tôi"... hay: "Tôi là cái lưỡi", hay:
"Lưỡi là của tôi"... hay: "Tôi là ý", hay: "Ý là của
tôi".
8) Rồi các Tỷ-kheo ấy nhắc cái giường cùng với
Tôn giả Upasena ra ngoài.
9) Rồi thân của Tôn giả Upasena, ngay tại chỗ
ấy phân tán như một nắm rơm.
70.VIII.Upavàna (1) (S.iv,41)
1). ..
2) Rồi Tôn giả Upavàna đi đến Thế Tôn...
3) Ngồi xuống một bên, Tôn giả Upavàna bạch
Thế Tôn:
-- "Thiết thực hiện tại, thiết thực hiện
tại (Sanditthika)", bạch Thế Tôn, như vậy được nói đến. Cho đến
như thế nào, bạch Thế Tôn, là thiết thực hiện tại, có kết quả tức
thời, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được những người
có trí tự mình giác hiểu?
4) -- Ở đây, này Upavàna, sau khi mắt thấy sắc,
Tỷ-kheo cảm thọ sắc và cảm thọ tham sắc có nội tham đối với các sắc;
vị ấy biết rõ: "Tôi có nội tham đối với các sắc". Cho đến
chừng nào sau khi mắt thấy sắc, Tỷ-kheo cảm thọ sắc và cảm thọ tham
sắc, và có nội tham đối với các sắc; vị ấy biết rõ: "Tôi có nội
tham đối với các sắc". Như vậy, này Upavàna, là thiết thực hiện tại,
có kết quả tức thời, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng,
được những người trí tự mình giác hiểu.
5-6) Lại nữa, này Upavàna, Tỷ-kheo sau khi tai
nghe tiếng... sau khi mũi ngửi hương...
7-8) Lại nữa, này Upavàna, Tỷ-kheo sau khi lưỡi
nếm vị... thân cảm xúc...
9) Lại nữa, này Upavàna, sau khi ý nhận biết
pháp, Tỷ-kheo cảm thọ pháp và cảm thọ tham pháp, và có nội tham đối với
các pháp; vị ấy biết rõ: "Tôi có nội tham đối với các pháp".
Cho đến chừng nào sau khi ý nhận biết pháp, Tỷ-kheo cảm thọ pháp và cảm
thọ tham pháp, và có nội tham đối với các pháp; vị ấy biết rõ:
"Tôi có nội tham đối với các pháp". Như vậy, này Upavàna, là
thiết thực hiện tại, có kết quả tức thời, đến để mà thấy, có khả
năng hướng thượng, được những người trí tự mình giác hiểu.
10) Ở đấy, này Upavàna, sau khi mắt thấy sắc,
Tỷ-kheo cảm thọ sắc, nhưng không cảm thọ tham sắc, và không có nội
tham đối với sắc; vị ấy biết rõ: "Tôi không có nội tham đối với
sắc". Cho đến chừng nào, này Upavàna, sau khi mắt thấy sắc, Tỷ-kheo
cảm thọ sắc, nhưng không cảm thọ tham sắc, và không có nội tham đối
với các sắc; vị ấy biết rõ: "Tôi không có nội tham đối với các
sắc". Như vậy, này Upavàna, là thiết thực hiện tại, có kết quả tức
thời, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được những người
trí tự mình giác hiểu.
11-14) Lại nữa, này Upavàna, Tỷ-kheo sau khi tai
nghe tiếng... mũi ngửi hương... lưỡi nếm vị... thân cảm xúc...
15) Lại nữa, này Upavàna, sau khi ý nhận thức
pháp, Tỷ-kheo cảm thọ pháp nhưng không cảm thọ tham pháp, và không có nội
tham đối với pháp; vị ấy biết rõ: "Tôi không có nội tham đối với
pháp". Cho đến chừng nào, này Upavàna, Tỷ-kheo sau khi ý nhận thức
pháp, cảm thọ pháp nhưng không cảm thọ tham pháp, và không có nội tham
đối với pháp; vị ấy biết rõ: "Tôi không có nội tham đối với pháp".
Như vậy, này Upavàna, là thiết thực hiện tại, có kết quả tức thời,
đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, chỉ những người có
trí tự mình giác hiểu.
71.IX. SÁU XÚC XỨ (1) (S.iv,43)
1). ..
2) -- Tỷ-kheo nào, này các Tỷ-kheo, không như thật
biết rõ sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm, sự xuất
ly của sáu xúc xứ; vị ấy không thành tựu Phạm hạnh, còn đứng xa Pháp
và Luật này.
3) Được nghe nói vậy, một Tỷ-kheo bạch Thế
Tôn:
-- Ở đây, bạch Thế Tôn, con đã thất vọng
(anassàsim). Bạch Thế Tôn, con không như thật biết rõ sự tập khởi, sự
đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của sáu xúc xứ.
4-6) -- Ông nghĩ thế nào, này Tỷ-kheo? Ông có
quán con mắt: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự
ngã của tôi"?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
-- Lành thay, này Tỷ-kheo. Ở đây, này Tỷ-kheo,
do Ông như thật thấy con mắt với chánh trí tuệ: "Cái này không phải
của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của
tôi"; như vậy là khéo thấy. Đây là khổ được đoạn tận... tai...
mũi...
7-8). .. lưỡi... thân...
9) Ông nghĩ thế nào, này Tỷ-kheo? Ông có quán
ý: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của
tôi"?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
-- Lành thay, này Tỷ-kheo. Ở đây, này Tỷ-kheo,
do Ông như thật thấy ý với chánh trí tuệ: "Cái này không phải của
tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của
tôi"; như vậy là khéo thấy. Đây là khổ đoạn tận.
72.X. Sáu Xúc Xứ (2) (S.iv,44)
1). ..
2) -- Tỷ-kheo nào, này các Tỷ-kheo, không như thật
biết rõ sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự
xuất ly của sáu xúc xứ; vị ấy không thành tựu Phạm hạnh, còn đứng
xa Pháp và Luật này.
3) Được nghe nói vậy, một Tỷ-kheo bạch Thế
Tôn:
-- Ở đây, bạch Thế Tôn, con thất vọng. Bạch
Thế Tôn, con không như thật biết rõ sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị
ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của sáu xúc xứ.
4-6) -- Ông nghĩ thế nào, này Tỷ-kheo? Ông có
quán con mắt: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là
tôi, cái này là tự ngã của tôi"?
-- Thưa có vậy, bạch Thế Tôn.
-- Lành thay, này Tỷ-kheo. Ở đây, này Tỷ-kheo,
do Ông như thật thấy con mắt với chánh trí tuệ: "Cái này không phải
của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của
tôi". Như vậy là khéo thấy; như vậy xúc xứ thứ nhứt này sẽ được
Ông đoạn tận, không còn tái sanh nữa trong tương lai... tai... mũi...
7-8)... lưỡi... thân...
9) Ông nghĩ thế nào, này Tỷ-kheo? Ông có quán
ý: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này
không phải là tự ngã của tôi"?
-- Thưa có vậy, bạch Thế Tôn.
-- Lành thay, này Tỷ-kheo. Ở đây, này Tỷ-kheo,
do Ông như thật thấy ý với chánh trí tuệ: "Cái này không phải của
tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của
tôi"; như vậy là khéo thấy. Như vậy xúc xứ thứ sáu này sẽ được
Ông đoạn tận, không còn tái sanh nữa trong tương lai.
73.XI. Sáu Xúc Xứ (3) (S.iv,44)
1). ..
2) -- Tỷ-kheo nào, này các Tỷ-kheo, không như thật
biết rõ sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm, và sự
xuất ly của sáu xúc xứ; vị ấy không thành tựu Phạm hạnh, còn đứng
xa Pháp và Luật này.
3) Được nghe nói vậy, một Tỷ-kheo bạch Thế
Tôn:
-- Ở đây, bạch Thế Tôn, con thất vọng. Bạch
Thế Tôn, con không như thật biết rõ sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị
ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của sáu xúc xứ.
4-6) -- Ông nghĩ thế nào, này Tỷ-kheo, mắt là
thường hay vô thường?
-- Là vô thường, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
-- Là khổ, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại,
có hợp lý chăng nếu quán cái ấy là: "Cái này là của tôi, cái này
là tôi, cái này là tự ngã của tôi"?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
5-8) -- Tai... Mũi... Lưỡi... Thân...
9) Ý là thường hay vô thường?
-- Là vô thường, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
-- Là khổ, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại,
có hợp lý chăng nếu quán cái ấy: "Cái này là của tôi, cái này là
tôi, cái này là tự ngã của tôi"?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
10) -- Thấy vậy, này Tỷ-kheo, bậc Đa văn Thánh
đệ tử nhàm chán đối với mắt, nhàm chán đối với tai, nhàm chán đối
với mũi, nhàm chán đối với lưỡi, nhàm chán đối với thân, nhàm chán
đối với ý. Do nhàm chán nên vị ấy ly tham. Do ly tham vị ấy được giải
thoát. Trong sự giải thoát, trí khởi lên biết rằng: "Ta đã được
giải thoát". Vị ấy biết rõ: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã
thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa".
III. Phẩm Bệnh
74.I. Bệnh (1) (S.iv,46)
1) Nhân duyên ở Sàvatthi...
2) Rồi một Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn...
3) Ngồi xuống một bên, Tỷ-kheo ấy bạch Thế
Tôn:
-- Trong tịnh xá của chúng con, bạch Thế Tôn,
có một tân Tỷ-kheo ít người biết đến, bị bệnh hoạn, đau đớn, bị
trọng bệnh. Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn đi đến Tỷ-kheo ấy
vì lòng từ mẫn.
4) Rồi Thế Tôn sau khi nghe tiếng "Mới",
nghe tiếng "Bệnh", khi biết được: "Tỷ-kheo ấy ít được
người biết đến" liền đi đến Tỷ-kheo ấy.
5) Tỷ-kheo ấy thấy đức Phật từ xa đi đến,
sau khi thấy, liền gượng dậy trên giường.
6) Thế Tôn liền nói với Tỷ-kheo ấy:
-- Thôi! Này Tỷ-kheo, Ông chớ có gượng dậy trên
giường. Có những chỗ ngồi đã soạn sẵn, tại đấy Ta sẽ ngồi.
Rồi Thế Tôn ngồi trên chỗ ngồi đã soạn sẵn.
7) Sau khi ngồi, Thế Tôn nói với Tỷ-kheo ấy:
-- Này Tỷ-kheo, Ông có kham nhẫn được không?
Ông có chịu đựng được không? Có phải khổ thọ giảm thiểu, không tăng
trưởng? Có phải có triệu chứng giảm thiểu, không phải tăng trưởng?
-- Bạch Thế Tôn, con không thể kham nhẫn, không
thể chịu đựng. Mãnh liệt là khổ thọ con cảm giác! Chúng tăng trưởng,
không có giảm thiểu. Có triệu chứng tăng trưởng, không phải giảm thiểu.
8) -- Này Tỷ-kheo, mong rằng Ông không có gì nghi
ngờ, không có gì hối hận.
-- Bạch Thế Tôn, chắc chắn con không có gì
nghi ngờ, không có gì hối hận.
9) -- Nhưng đối với giới của mình, Ông có gì
tự khiển trách không?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
10) -- Này Tỷ-kheo, nếu đối với giới của mình
Ông không có gì để khiển trách, thời này Tỷ-kheo, Ông thế nào cũng có
nghi ngờ đối với vấn đề gì, cũng có hối hận gì.
-- Bạch Thế Tôn, con không hiểu pháp Thế Tôn dạy
về mục đích thanh tịnh trì giới.
11) -- Này Tỷ-kheo, nếu Ông không hiểu pháp Ta dạy
về mục đích thanh tịnh trì giới, thời này Tỷ-kheo, Ông hiểu pháp Ta dạy
như thế nào?
-- Bạch Thế Tôn, con hiểu pháp do Thế Tôn dạy
là tham và đoạn tham.
12) -- Lành thay, lành thay, này Tỷ-kheo! Lành thay,
này Tỷ-kheo! Ông hiểu pháp Ta dạy là tham và đoạn tham. Với mục đích
tham và đoạn tham, này Tỷ-kheo, là pháp Ta dạy.
13) Ông nghĩ thế nào, này Tỷ-kheo, mắt là thường
hay vô thường?
-- Là vô thường, bạch Thế Tôn...
-- Tai... Mũi... Lưỡi... Thân... Ý là thường hay
vô thường?
-- Là vô thường, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
-- Là khổ, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại,
có hợp lý chăng nếu quán cái ấy là: "Cái này là của tôi, cái này
là tôi, cái này là tự ngã của tôi"?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
14) -- Thấy vậy, này Tỷ-kheo, bậc Đa văn Thánh
đệ tử nhàm chán đối với mắt... "... không còn trở lui trạng thái
này nữa".
15) Thế Tôn thuyết như vậy, Tỷ-kheo ấy hoan hỷ,
tín thọ lời Thế Tôn dạy. Và trong khi lời dạy này được nói lên, Tỷ-kheo
ấy khởi lên pháp nhãn ly trần vô cấu: "Phàm cái gì sanh khởi, tất
cả đều chịu sự đoạn diệt".
75.II. Bệnh (2) (S.iv,47)
1-10) (Hoàn toàn giống như kinh trước).
11) -- Này Tỷ-kheo, nếu Ông không hiểu pháp Ta dạy
về mục đích thanh tịnh trì giới, thời này Tỷ-kheo, Ông hiểu pháp Ta dạy
như thế nào?
-- Bạch Thế Tôn, con hiểu pháp Thế Tôn dạy
là với mục đích tịch tịnh hoàn toàn, không chấp thủ.
12) -- Lành thay, lành thay, này Tỷ-kheo! Lành thay,
này Tỷ-kheo! Ông hiểu pháp Ta dạy là với mục đích tịch tịnh hoàn
toàn, không có chấp thủ.
13-14) (Như kinh trước)
15) Thế Tôn thuyết như vậy. Tỷ-kheo ấy hoan hỷ,
tán thán lời Thế Tôn dạy. Và trong khi lời dạy này được nói lên,
tâmTỷ-kheo ấy được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp thủ.
76.III. Ràdha (1) (S.iv,48)
1). ..
2) Rồi Tôn giả Ràdha...
3) Ngồi xuống một bên, Tôn giả Ràdha bạch Thế
Tôn:
-- Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn vắn tắt
thuyết pháp cho con. Sau khi nghe pháp của Thế Tôn con sẽ sống một mình,
an tịnh, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.
4) -- Cái gì vô thường, này Ràdha, ở đây Ông
cần phải đoạn tận lòng dục.
5-7) Và này Ràdha, cái gì là vô thường? Mắt, này
Ràdha, là vô thường, ở đây Ông cần phải đoạn tận lòng dục. Các sắc
là vô thường... Nhãn thức là vô thường... Nhãn xúc... Do duyên nhãn xúc
khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ, hay bất khổ bất lạc; cảm thọ ấy
là vô thường. Ở đây, Ông cần phải đoạn tận lòng dục... Tai... Mũi...
8-9). .. Lưỡi... Thân...
10) Ý là vô thường, ở đây Ông cần phải đoạn
tận lòng dục. Các pháp... Ý thức... Do duyên ý xúc khởi lên cảm thọ
gì, lạc, khổ, hay bất khổ bất lạc; cảm thọ ấy là vô thường. Ở đây,
Ông cần phải đoạn tận lòng dục.
11) Phàm cái gì là vô thường, này Ràdha, ở đây,
Ông cần phải đoạn tận lòng dục.
77.IV. Ràdha (2) (S.iv,49)
1-2-3). ..
4) -- Phàm cái gì là khổ, này Ràdha, ở đây
Ông cần phải đoạn tận lòng dục.
5-10) Và này Ràdha, cái gì là khổ? Mắt, này
Ràdha, là khổ; ở đây, Ông cần phải đoạn tận lòng dục. Các pháp...
Nhãn thức... Nhãn xúc... Do duyên ý xúc, khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ,
hay bất khổ bất lạc; cảm thọ ấy là khổ. Ở đây, Ông cần phải đoạn
tận lòng dục.
11) Phàm cái gì là khổ, này Ràdha, ở đây, Ông
cần phải đoạn tận lòng dục.
78.V.RàDHA (2) (S.iv,49)
1-2-3). ..
4) -- Phàm cái gì là vô ngã, này Ràdha, Ông cần
phải đoạn tận lòng dục.
5-9) Và này Ràdha, cái gì là vô ngã? Mắt, này
Ràdha, là vô ngã; ở đây, Ông cần phải đoạn tận lòng dục. Các sắc...
Nhãn thức... Nhãn xúc... Do duyên ý xúc...
10) Ý là vô ngã... Các pháp... Ý thức... Ý
xúc... Do duyên ý xúc, khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ hay bất khổ bất
lạc; cảm thọ ấy là vô ngã. Ở đây, Ông cần phải đoạn tận lòng dục.
11) Phàm cái gì là vô ngã, này Ràdha, ở đây,
Ông cần phải đoạn tận lòng dục.
79.VI. Vô Minh (I) (S.iv,49)
1). ..
2) Rồi một Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn...
3) Ngồi xuống một bên, Tỷ-kheo ấy bạch Thế
Tôn:
-- Có một pháp gì, bạch Thế Tôn, (nếu) Tỷ-kheo
đoạn tận pháp ấy, thời vô minh được đoạn tận và minh sanh khởi?
-- Có một pháp, này Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo đoạn
tận pháp ấy, vô minh được đoạn tận, minh sanh khởi.
4) -- Một pháp ấy là gì, bạch Thế Tôn, nếu Tỷ-kheo
đoạn tận pháp ấy, vô minh được đoạn tận và minh sanh khởi?
-- Vô minh, này Tỷ-kheo, là một pháp, nếu Tỷ-kheo
đoạn tận pháp ấy, vô minh được đoạn tận, minh sanh khởi.
5) -- Tỷ-kheo biết như thế nào, bạch Thế Tôn,
thấy như thế nào, vô minh được đoạn tận, minh được sanh khởi?
6) -- Này Tỷ-kheo, Tỷ-kheo biết mắt, thấy mắt
là vô thường nên vô minh đoạn tận, minh sanh khởi... tai... mũi...
7-11). .. lưỡi... thân... ý...
12) Này Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo biết như vậy, thấy
như vậy nên vô minh được đoạn tận, minh được sanh khởi.
80.VII.Vô Minh (2) (S.iv,50)
1-5) (Như kinh trước)
6) -- Ở đây, này Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo có nghe:
"Các pháp không nên thiên chấp". Này Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo ấy
nghe như sau: "Tất cả các pháp không nên thiên chấp", vị ấy thắng
tri tất cả các pháp. Do liễu tri tất cả pháp nên thấy tất cả tướng
có thể thay đổi... Vị ấy thấy con mắt có thể thay đổi... các sắc...
nhãn thức... nhãn xúc... Do duyên ý xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ
hay bất khổ bất lạc; vị ấy thấy cảm thọ ấy có thể thay đổi.
7) Này Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo biết vậy, thấy vậy
nên vô minh được đoạn tận, minh được sanh khởi.
81.VIII. Tỷ Kheo (S.iv,50)
1). ..
2) Rồi nhiều Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn...
3) Ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo ấy bạch
Thế Tôn:
-- Ở đây, bạch Thế Tôn, có những du sĩ ngoại
đạo hỏi chúng con: "Do mục đích gì, này các Hiền giả, các người
sống Phạm hạnh dưới Sa-môn Gotama?" Được hỏi vậy, bạch Thế Tôn,
chúng con trả lời cho các du sĩ ngoại đạo ấy: "Vì mục đích liễu
tri đau khổ, này chư Hiền, chúng tôi sống Phạm hạnh dưới Sa-môn
Gotama". Được hỏi vậy và được trả lời vậy, bạch Thế Tôn, có
phải chúng con đã nói lên quan điểm của Thế Tôn? Và có phải chúng con
không xuyên tạc Thế Tôn với điều không thực? Có phải chúng con trả lời
thuận pháp và đúng pháp? Và ai là người đồng pháp nói đúng pháp không
tìm được lý do để chỉ trích?
4) -- Thật vậy, này các Tỷ-kheo, được hỏi vậy
và được trả lời vậy, các Ông đã nói lên quan điểm của Ta. Và các
Ông không xuyên tạc Ta với điều không thực. Các Ông trả lời thuận
pháp và đúng pháp. Và không có người đồng pháp nói đúng pháp nào tìm
được lý do để chỉ trích. Với mục đích liễu tri đau khổ, này các Tỷ-kheo,
Phạm hạnh được sống dưới Ta.
5) Này các Tỷ-kheo, nếu các du sĩ ngoại đạo có
thể hỏi các Ông như sau: "Này Hiền giả, thế nào là vì mục đích
liễu tri đau khổ ấy, Phạm hạnh được sống dưới Sa-môn Gotama?"
Được hỏi vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông có thể trả lời cho các du sĩ
ngoại đạo ấy như sau:
6-11) "Mắt, này chư Hiền, là khổ. Vì liễu
tri như vậy, Phạm hạnh được sống dưới Thế Tôn. Các sắc... Do duyên
nhãn xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ hay bất khổ bất lạc; vì liễu
tri cảm thọ ấy là khổ, nên Phạm hạnh được sống dưới Thế Tôn...
Ý là khổ, vì liễu tri như vậy, Phạm hạnh được sống dưới Thế Tôn...
Do duyên ý xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ, hay bất khổ bất lạc;
vì liễu tri cảm thọ ấy là khổ, nên Phạm hạnh được sống dưới Thế
Tôn. Đây, này chư Hiền, là khổ ấy. Vì liễu tri khổ ấy, Phạm hạnh
được sống dưới Thế Tôn".
12) Được hỏi vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông
có thể trả lời cho các du sĩ ngoại đạo ấy như vậy.
82.IX. Thế Giới (S.iv,52)
1). ..
2) Rồi một Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn...
3) Ngồi xuống một bên, Tôn giả Phagguna bạch
Thế Tôn:
4-6) -- Có con mắt nào, bạch Thế Tôn, do con mắt
ấy, có thể biết và tuyên bố về chư Phật quá khứ đã nhập Niết-bàn,
đã đoạn các chướng ngại, đã đoạn các hành tung khát ái, đã chấm dứt
luân hồi, đã vượt qua mọi khổ đau?... tai... mũi...
7-8). .. lưỡi... thân...
9) Có ý nào, bạch Thế Tôn, do ý ấy, có thể
biết và tuyên bố về chư Phật quá khứ đã nhập Niết-bàn, đã đoạn các
chướng ngại, đã đoạn các hành tung (khát ái), đã chấm dứt luân hồi,
đã vượt qua mọi khổ đau?
10-12) -- Không có con mắt nào, này Phagguna, do con
mắt ấy, có thể biết và tuyên bố về chư Phật quá khứ đã nhập Niết-bàn,
đã đoạn các chướng ngại, đã đoạn các hành tung (khát ái), đã chấm
dứt luân hồi, đã vượt mọi khổ đau... tai... mũi...
13-14). .. Không có lưỡi... Không có thân...
15) Không có ý nào, này Phagguna, do ý ấy, có thể
biết và tuyên bố về chư Phật quá khứ đã nhập Niết-bàn, đã đoạn các
chướng ngại, đã đoạn các hành tung (khát ái), đã chấm dứt luân hồi,
đã vượt qua mọi khổ đau.
IV. Phẩm Channa
84. I. Biến Hoại (Paloka) (S.iv,53)
1). ..
2) Rồi Tôn giả Ananda đi đến Thế Tôn...
3) Ngồi xuống một bên, Tôn giả Ananda bạch Thế
Tôn:
-- "Thế giới, thế giới", bạch Thế
Tôn, như vậy được nói đến. Cho đến như thế nào, bạch Thế Tôn, được
gọi là thế giới?
4) -- Cái gì chịu sự biến hoại (palokadhamma),
này Ananda, đây gọi là thế giới trong giới luật của bậc Thánh. Và này
Ananda, cái gì chịu sự biến hoại?
5-7) Mắt, này Ananda, chịu sự biến hoại. Các sắc
chịu sự biến hoại. Nhãn thức chịu sự biến hoại. Nhãn xúc chịu sự
biến hoại. Do duyên nhãn xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ, hay bất
khổ bất lạc; cảm thọ ấy chịu sự biến hoại... Tai... Mũi...
8-9)... Lưỡi... Thân...
10) Ý chịu sự biến hoại. Các pháp chịu sự
biến hoại. Ý thức chịu sự biến hoại. Ý xúc chịu sự biến hoại. Do
duyên ý xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ, hay bất khổ bất lạc; cảm
thọ ấy chịu sự biến hoại.
11) Cái gì chịu sự biến hoại, này Ananda, cái
ấy gọi là thế giới trong giới luật của bậc Thánh.
85. II. Trống Không (S.iv,54)
1). ..
2-3) Rồi Tôn giả Ananda... bạch Thế Tôn:
-- "Trống không là thế giới, trống không
là thế giới", bạch Thế Tôn, như vậy được nói đến. Cho đến
như thế nào, bạch Thế Tôn, được gọi trống không là thế giới?
4) -- Vì rằng, này Ananda, thế giới là không tự
ngã, và không thuộc tự ngã, nên thế giới được gọi là trống không.
Và cái gì, này Ananda, là không tự ngã và không thuộc tự ngã?
5-6) Mắt, này Ananda, là không tự ngã và không
thuộc tự ngã. Các sắc là không tự ngã, hay không thuộc tự ngã. Nhãn thức
là không tự ngã, hay không thuộc tự ngã. Nhãn xúc là không tự ngã, hay
không thuộc tự ngã... Do duyên ý xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ,
hay bất khổ bất lạc; cảm thọ ấy không có tự ngã hay không thuộc tự
ngã.
11) Và vì rằng, này Ananda, không có tự ngã, hay
không thuộc tự ngã nên được gọi trống không là thế giới này.
86. III. Vắn Tắt (S.iv,54)
1-2). ..
3) Ngồi xuống một bên, Tôn giả Ananda... bạch
Thế Tôn:
-- Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn vắn tắt
thuyết pháp cho con. Sau khi nghe pháp của Thế Tôn, con sẽ sống một mình,
an tịnh, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.
4-6) -- Ông nghĩ thế nào, này Ananda, mắt là thường
hay vô thường?
-- Là vô thường, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
-- Là khổ, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại,
có hợp lý chăng nếu quán cái ấy là: "Cái này là của tôi, cái này
là tôi, cái này là tự ngã của tôi"?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
-- Các sắc là thường hay vô thường?
-- Là vô thường, bạch Thế Tôn.
... Nhãn thức... Nhãn xúc... Do duyên nhãn xúc khởi
lên cảm thọ gì, lạc, khổ hay bất khổ bất lạc; cảm thọ ấy là thường
hay vô thường?
-- Là vô thường, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
-- Là khổ, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại,
có hợp lý chăng khi quán cái ấy là: "Cái này là của tôi, cái này
là tôi, cái này là tự ngã của tôi"?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn... Tai... Mũi...
7-9). .. Lưỡi... Thân... Do duyên ý xúc khởi lên
cảm thọ gì, lạc, khổ, hay bất khổ bất lạc; cảm thọ ấy là thường
hay vô thường?
-- Là vô thường, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
-- Là khổ, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại,
có hợp lý chăng nếu quán cái ấy là: "Cái này là của tôi, cái này
là tôi, cái này là tự ngã của tôi"?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
10) -- Thấy vậy, này Ananda, bậc Đa văn Thánh đệ
tử nhàm chán đối với mắt... nhàm chán đối với nhãn xúc... Do duyên ý
xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ hay bất khổ bất lạc; vị ấy
nhàm chán cảm thọ ấy. Do nhàm chán, vị ấy ly tham. Do ly tham, vị ấy
được giải thoát. Trong sự giải thoát, trí khởi lên biết rằng: "Ta
đã được giải thoát". Vị ấy biết rõ: "Sanh đã tận, Phạm hạnh
đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này
nữa".
87. IV. Channa (S.iv,55)
1) Một thời Thế Tôn ở tại Ràjagaha (Vương Xá),
Veluvana (Trúc Lâm), tại chỗ nuôi dưỡng các con sóc.
2) Lúc bấy giờ, Tôn giả Sàiputta, Tôn giả
Mahà Cunda và Tôn giả Channa trú ở núi Gijjhakù.
3) Lúc bấy giờ, Tôn giả Channa bị bệnh, đau
đớn, bị trọng bệnh.
4) Rồi Tôn giả Sàputta, vào buổi chiều, từ
Thiền tịnh đứng dậy, đi đến Tôn giả Mahà Cunda; sau khi đến nói với
Tôn giả Mahà Cunda:
-- Này Hiền giả Cunda, chúng ta hãy đi đến Tôn
giả Channa để hỏi thăm về bệnh hoạn.
-- Thưa vâng, Hiền giả.
Tôn giả Mahà Cunda vâng đáp Tôn giả Sàriputta.
5) Rồi Tôn giả Sàriputta và Tôn giả Mahà Cunda
đi đến Tôn giả Channa, sau khi đến ngồi trên chỗ đã soạn sẵn.
6-7) Sau khi ngồi, Tôn giả Sàriputta nói với Tôn
giả Channa:
-- Này Hiền giả Channa, Hiền giả có kham nhẫn
được chăng? Có chịu đựng được chăng? Có phải khổ thọ giảm thiểu
không có tăng trưởng? Có phải có triệu chứng giảm thiểu, không phải tăng
trưởng?
-- Thưa Hiền giả Sàriputta tôi không có thể
kham nhẫn, không có thể chịu đựng. Mãnh liệt là các khổ thọ tôi cảm
giác! Chúng tăng trưởng, không có giảm thiểu. Có triệu chứng tăng trưởng,
không phải giảm thiểu.
8) Này Hiền giả, ví như một người lực sĩ chém
đầu (một người khác) với một thanh kiếm sắc. Cũng vậy, này Hiền giả,
những ngọn gió kinh khủng thổi lên đau nhói trong đầu tôi. Thưa Hiền giả,
tôi không có thể kham nhẫn, không có thể chịu đựng... không phải giảm
thiểu.
9) Này Hiền giả, ví như một người lực sĩ lấy
một dây nịt bằng da cứng quấn tròn quanh đầu rồi xiết mạnh. Cũng vậy,
này Hiền giả, tôi cảm thấy đau đầu một cách kinh khủng. Này Hiền giả,
tôi không thể kham nhẫn, không có thể chịu đựng... không phải giảm thiểu.
10) Này Hiền giả, ví như một người đồ tể
thiện xảo hay một đệ tử người đồ tể mổ bụng với một con dao cắt
thịt bò sắc bén. Cũng vậy, này Hiền giả, những ngọn gió kinh khủng cắt
mổ bụng của tôi. Thưa Hiền giả, tôi không có thể kham nhẫn, không có
thể chịu đựng... không phải giảm thiểu.
11) Này Hiền giả, ví như hai người lực sĩ sau
khi nắm một người yếu hơn với những cánh tay của mình, nướng người
ấy, đốt người ấy trên một hố than hừng. Cũng vậy, này Hiền giả, một
sức nóng kinh khủng khởi lên trong thân tôi. Này Hiền giả, tôi không có
thể kham nhẫn, không có thể chịu đựng. Mãnh liệt là các khổ thọ tôi
cảm giác! Chúng tăng trưởng, không có giảm thiểu. Có triệu chứng tăng
trưởng, không phải giảm thiểu.
12) Thưa Hiền giả Sàriputta, tôi sẽ đem lại
con dao. Tôi không muốn sống nữa.
13) -- Tôn giả Channa, chớ có đem lại con dao! Tôn
giả Channa, hãy chịu đựng! Chúng tôi muốn Tôn giả Channa chịu đựng. Nếu
Tôn giả Channa không có các món ăn, không có các dược phẩm thích hợp,
thời tôi sẽ tìm các dược phẩm thích hợp cho Tôn giả Channa. Nếu Tôn
giả Channa không có người hầu hạ thích ứng, thời tôi sẽ hầu hạ Tôn
giả Channa. Tôn giả Channa chớ có đem lại con dao. Tôn giả Channa hãy chịu
đựng. Chúng tôi muốn Tôn giả Channa chịu đựng.
14) -- Thưa Hiền giả Sàriputta, không phải tôi
không có các món ăn thích hợp, tôi có các món ăn thích hợp. Không phải
tôi không có các dược phẩm thích hợp, tôi có các dược phẩm thích hợp.
Không phải tôi không có những người hầu hạ thích ứng, tôi có những
người hầu hạ thích ứng. Đã lâu ngày tôi hầu hạ bậc Đạo Sư với tâm
thích thú, không phải không thích thú. Đây, thưa Hiền giả, là xứng đáng
với người đệ tử. Vì rằng đã hầu hạ bậc Đạo Sư với tâm thích
thú, không phải không thích thú. Không có phạm tội, nếu Tỷ-kheo Channa
đem lại con dao. Này Hiền giả Sàriputta, Hiền giả hãy thọ trì như vậy.
15) -- Chúng tôi sẽ hỏi Tôn giả Channa một
câu, nếu Tôn giả Channa kham nhẫn được hỏi và trả lời.
-- Hãy hỏi đi, Hiền giả Sàriputta, sau khi nghe,
chúng ta sẽ biết.
16) -- Này Hiền giả Channa, mắt, nhãn thức, những
pháp do nhãn thức nhận biết, Hiền giả có quán: " Cái này là của
tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi"?... Tai... Mũi... Lưỡi...
Thân... Này Hiền giả Channa, ý, ý thức, các pháp do ý thức nhận biết,
Hiền giả có quán: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là
tự ngã của tôi"?
17) -- Này Hiền giả Sàriputta, mắt, nhãn thức,
các pháp do nhãn thức nhận biết, tôi quán: "Cái này không phải của
tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của
tôi".
18) -- Này Hiền giả Channa, trong mắt, trong nhãn
thức, trong các pháp do nhãn thức nhận biết, do thấy gì, do thắng tri gì
mà Hiền giả quán: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải
là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi"?
19) -- Thưa Hiền giả Sàriputta, trong mắt, trong
nhãn thức, trong các pháp do nhãn thức nhận biết, sau khi thấy đoạn diệt,
sau khi thắng tri đoạn diệt, tôi quán: "Cái này không phải của tôi,
cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi".
Trong tai... Trong mũi... Trong lưỡi... Trong thân.. Thưa Hiền giả... Trong ý,
trong ý thức, trong các pháp do ý thức nhận biết, sau khi thấy đoạn diệt,
sau khi thắng tri đoạn diệt, tôi quán: "Cái này không phải của tôi,
cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi".
20) Được nghe nói vậy, Tôn giả Mahà Cunda nói
với Tôn giả Channa:
-- Hiền giả Channa, Hiền giả cần phải luôn
luôn chú ý đến lời dạy này của Thế Tôn: "Ai còn tham luyến, thời
có dao động; ai không tham luyến, thời không dao động. Ai không dao động,
thời được khinh an. Ai được khinh an, thời không thiên chấp. Ai không
thiên chấp (nati), thời không có đến và đi. Ai không có đến và đi, thời
không có diệt và sanh. Ai không có diệt và sanh, thời không có đời này,
đời sau, không có giữa hai đời. Đây là sự đoạn tận đau khổ".
21) Rồi Tôn giả Sàriputta và Tôn giả Mahà
Cunda, sau khi giáo giới Tôn giả Channa với lời giáo giới này, từ chỗ ngồi
đứng dậy, và ra đi.
22) Tôn giả Channa, sau khi hai vị Tôn giả ấy
đi không bao lâu, liền đem lại con dao.
23) Rồi Tôn giả Sàriputta đi đến Thế Tôn, sau
khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.
24) Ngồi xuống một bên, Tôn giả Sàriputta bạch
Thế Tôn:
-- Bạch Thế Tôn, Tôn giả Channa đã đem lại
con dao. Sanh thú của vị ấy là gì? Đời sau vị ấy sẽ như thế nào?
-- Có phải trước mặt Ông, này Sàriputta, Tỷ-kheo
Channa đã tuyên bố là không phạm tội?
25) -- Thưa có, bạch Thế Tôn. Có một làng của
dân tộc Vajji tên là Pubbavijjhamam; tại đấy, có những gia đình thân hữu,
có những gia đình thân thích với Tôn giả Channa, chính những gia đình ấy
mới có lỗi.
26) -- Này Sàriputta, những gia đình thân hữu và
những gia đình thân thích ấy của Tôn giả Channa là những gia đình có lỗi.
Tuy vậy, này Sàriputta, với sự việc như vậy, Ta không nói Channa là có lỗi.
Này Sàriputta, ai bỏ thân này và chấp thủ thân khác; người ấy, Ta nói
là có lỗi. Nhưng Tỷ-kheo Channa thời không vậy. Tỷ-kheo Channa không có tội
lỗi khi đem lại con dao. Này Sàriputtra, Ông cần phải thọ trì như vậy.
88. V. Punna (S.iv,60)
1). ..
2) Rồi Tôn giả Punna đi đến Thế Tôn...
3) Ngồi xuống một bên, Tôn giả Punna bạch Thế
Tôn:
-- Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn vắn tắt
thuyết pháp cho con. Sau khi nghe pháp của Thế Tôn, con sẽ sống một mình,
an tịnh, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.
4) -- Này Punna, có những sắc do mắt nhận thức
khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Nếu
Tỷ-kheo hoan hỷ sắc ấy, tán dương, an trú luyến trước; do vị ấy hoan
hỷ sắc ấy, tán dương, an trú luyến trước, hỷ (nandì) sanh. Này Punna,
Ta nói rằng: "Do hỷ tập khởi nên khổ tập khởi". Này Punna, có
những tiếng do tai nhận thức... Có những hương do mũi nhận thức... Có
những vị do lưỡi nhận thức.. Có những xúc do thân nhận thức... Này
Punna, có những pháp do ý nhận thức khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái,
liên hệ đến dục, hấp dẫn. Nếu Tỷ-kheo hoan hỷ pháp ấy, tán dương,
an trú luyến trước; do vị ấy hoan hỷ pháp ấy, tán dương, an trú luyến
trước nên hỷ sanh. Này Punna, Ta nói rằng: "Do hỷ tập khởi nên khổ
tập khởi".
5) Này Punna, có những sắc do mắt nhận thức khả
lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Nếu Tỷ-kheo
không hoan hỷ sắc ấy, không tán dương, không an trú luyến trước; do vị
ấy không hoan hỷ sắc ấy, không tán dương, không an trú luyến trước nên
hỷ đoạn diệt. Này Punna, Ta nói rằng: "Do hỷ đoạn diệt nên khổ
đoạn diệt"... Này Punna, có những pháp do ý nhận thức khả lạc, khả
hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Nếu Tỷ-kheo không
hoan hỷ pháp ấy, không tán dương, không an trú luyến trước; do vị ấy
không hoan hỷ pháp ấy, không tán dương, không an trú luyến trước nên hỷ
đoạn diệt. Này Punna, Ta nói rằng: "Do hỷ đoạn diệt nên khổ đoạn
diệt".
6) Này Punna, sau khi được nghe giáo giới với lời
giáo giới vắn tắt này của Ta, Ông sẽ trú tại quốc độ nào?
-- Bạch Thế Tôn, có một quốc độ tên là
Sunàparanta, tại đấy con sẽ ở.
7) -- Thô bạo, này Punna, là người xứ Sunàparanta.
Độc ác, này Punna, là người xứ Sunàparanta. Nếu người xứ Sunàparanta,
này Punna, chửi bới, nhiếc mắng Ông, thời này Punna, ở đây, Ông nghĩ thế
nào?
-- Nếu người xứ Sunàparanta, bạch Thế Tôn, chửi
bới, nhiếc mắng con, ở đây, con sẽ nghĩ: "Thật là hiền thiện, người
xứ Sunàparanta này! Thật là khéo hiền thiện, người xứ Sunàparanta này!
Vì những người này không lấy tay đánh đập ta". Như vậy, ở đây,
bạch Thế Tôn, con sẽ nghĩ như vậy. Như vậy, ở đây, bạch Thiện Thệ,
con sẽ nghĩ như vậy.
8) -- Nếu người xứ Sunàparanta, này Punna, sẽ
đánh đập Ông bằng tay, thời ở đây, này Punna, Ông sẽ nghĩ thế nào?
-- Nếu người xứ Sunàparanta, bạch Thế Tôn, đánh
đập con bằng tay, thời ở đây, con sẽ suy nghĩ: "Thật là hiền thiện,
những người xứ Sunàparanta này! Thật là khéo hiền thiện, những người
xứ Sunàparanta này! Vì những người này không đánh đập ta bằng cục đất".
Ở đây, bạch Thế Tôn, con sẽ nghĩ như vậy. Ở đây, bạch Thiện Thệ,
con sẽ nghĩ như vậy.
9) -- Nhưng nếu người xứ Sunàparanta, này Punna,
đánh đập Ông bằng cục đất, thời ở đây, này Punna, Ông nghĩ thế nào?
-- Nếu những người xứ Sunàparanta, bạch Thế
Tôn, đánh đập con bằng cục đất, thời ở đây, con sẽ suy nghĩ:
"Thật là hiền thiện, những người xứ Sunàparanta này! Thật là khéo
hiền thiện, những người xứ Sunàparanta này! Vì những người này không
đánh đập ta bằng gậy". Ở đây, bạch Thế Tôn, con sẽ nghĩ như vậy.
Ở đây, bạch Thiện Thệ, con sẽ nghĩ như vậy.
10) -- Nhưng nếu những người xứ Sunàparanta,
này Punna, sẽ đánh đập Ông với gậy, thời ở đây, này Punna, Ông nghĩ
thế nào?
-- Nếu những người xứ Sunàparanta này, bạch
Thế Tôn, sẽ đánh đập con với gậy, thời ở đây, con sẽ suy nghĩ:
"Thật là hiền thiện, những người xứ Sunàparanta này! Thật là khéo
hiền thiện, những người xứ Sunàparanta này! Vì những người này không
đánh đập ta bằng kiếm". Ở đây, bạch Thế Tôn, con sẽ nghĩ như vậy.
Ở đây, bạch Thiện Thệ, con sẽ nghĩ như vậy.
11) -- Nhưng nếu những người xứ Sunàparanta,
này Punna, lại đánh đập Ông bằng kiếm, thời ở đây, này Punna, Ông sẽ
nghĩ thế nào?
-- Nếu những người xứ Sunàparanta, bạch Thế
Tôn, đánh đập con với cây kiếm, thời ở đây, con sẽ suy nghĩ: "Thật
là hiền thiện, những người xứ Sunàparanta này! Thật là khéo hiền thiện,
những người xứ Sunàparanta này! Vì những người này không đoạn mạng
ta với cây kiếm sắc bén". Ở đây, bạch Thế Tôn, con sẽ nghĩ như vậy.
Ở đây, bạch Thiện Thệ, con sẽ nghĩ như vậy.
12) -- Nhưng nếu những người xứ Sunàparanta,
này Punna, sẽ đoạn mạng Ông với lưỡi kiếm sắc bén, thời ở đây,
này Punna, Ông sẽ nghĩ như thế nào?
-- Nếu những người xứ Sunàparanta, bạch Thế
Tôn, sẽ đoạn mạng con với lưỡi kiếm sắc bén, thời ở đây, con sẽ
suy nghĩ: "Có những đệ tử của Thế Tôn, khi phiền não, tủi hổ và
ghê tởm bởi thân và sinh mạng đã sử dụng đến con dao. Nay dầu không
tìm đến ta vẫn được sử dụng con dao". Ở đây, bạch Thế Tôn, con
sẽ nghĩ như vậy. Ở đây, bạch Thiện Thệ, con sẽ nghĩ như vậy.
13) -- Lành thay, lành thay, này Punna! Đầy đủ với
sự an tịnh tự điều này, Ông có thể sống tại quốc độ Sunàparanta.
Này Punna, nay Ông hãy làm những gì Ông nghĩ là hợp thời.
14) Rồi Tôn giả Punna hoan hỷ, tín thọ lời Thế
Tôn dạy, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân phía hữu hướng
về Ngài, dọn dẹp sàng tọa, cầm y bát, rồi bộ hành đi đến xứ Sunàparanta.
Ngài tuần tự bộ hành và đến xứ Sunàparanta. Tại đây, Tôn giả Punna
trú tại xứ Sunàparanta.
15) Và trong mùa mưa ấy, Tôn giả Punna độ cho
khoảng 500 cư sĩ. Cũng trong mùa mưa ấy, Tôn giả chứng được ba minh. Và
cũng trong mùa mưa ấy Tôn giả Punna viên tịch.
16) Rồi nhiều Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn...
17) Ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo ấy bạch
Thế Tôn:
-- Bạch Thế Tôn, thiện gia nam tử Punna, sau khi
được Thế Tôn giáo giới một cách vắn tắt, đã mệnh chung. Sanh thú của
vị ấy là gì? Đời sau của vị ấy thế nào?
-- Bậc Hiền trí, này các Tỷ-kheo, là thiện nam
tử Punna. Sở hành là đúng pháp và thuận pháp. Vị ấy không làm phiền
não Ta với những kiện tụng về pháp. Hoàn toàn tịch diệt, này các Tỷ-kheo,
là thiện nam tử Punna.
89. VI. Bàhiya (S.iv, 63)
1). ..
2) Rồi Tôn giả Bàhiya đi đến Thế Tôn...
3) Ngồi xuống một bên, Tôn giả Bàhiya bạch Thế
Tôn:
-- Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn vắn tắt
thuyết pháp cho con. Sau khi nghe pháp của Thế Tôn, con sẽ sống một mình,
an tịnh, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.
4-8) -- Ông nghĩ thế nào, này Bàhiya, mắt là thường
hay vô thường?
-- Là vô thường, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
-- Là khổ, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại,
có hợp lý chăng nếu quán: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái
này là tự ngã của tôi"?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
-- Các sắc là thường hay vô thường?
-- Là vô thường, bạch Thế Tôn.
-- Nhãn thức... Nhãn xúc....
9)... Do duyên ý xúc này khởi lên cảm thọ gì,
lạc, khổ hay bất khổ bất lạc; cảm thọ ấy là thường hay vô thường?
-- Là vô thường, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
-- Là khổ, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại,
có hợp lý chăng nếu quán: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái
này là tự ngã của tôi"?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
10) -- Thấy vậy, này Bàhiya, bậc Đa văn Thánh
đệ tử nhàm chán đối với mắt, nhàm chán đối với sắc, nhàm chán đối
với nhãn thức, nhàm chán đối với nhãn xúc... Do duyên ý xúc khởi lên cảm
thọ gì, lạc, khổ hay bất khổ bất lạc; vị ấy nhàm chán đối với cảm
thọ ấy. Do nhàm chán, vị ấy ly tham. Do ly tham, vị ấy giải thoát. Trong
sự giải thoát, trí khởi lên biết rằng: "Ta đã được giải thoát".
Vị ấy biết rõ: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc
nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa".
11) Và Tôn giả Bàhiya trở thành một vị
A-la-hán nữa.
90. VII. Ái Nhiễm (Ejà) (S.iv,64)
1). ..
2) -- Ái nhiễm, này các Tỷ-kheo, là bệnh tật;
ái nhiễm là mụt nhọt; ái nhiễm là mũi tên. Do vậy, này các Tỷ-kheo, Như
Lai sống không ái nhiễm, không bị mũi tên làm bị thương.
3) Do vậy, này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo có ước
vọng gì, hãy ước sống không ái nhiễm, không bị mũi tên làm bị thương.
4) Chớ có nghĩ đến mắt, chớ có nghĩ đến
trong mắt, chớ có nghĩ đến từ mắt, chớ có nghĩ đến: "Mắt là của
tôi". Chớ có nghĩ đến các sắc, chớ có nghĩ đến trong các sắc, chớ
có nghĩ đến từ các sắc, chớ có nghĩ đến: "Các sắc là của
tôi". Chớ có nghĩ đến nhãn thức, chớ có nghĩ đến trong nhãn thức,
chớ có nghĩ đến từ nhãn thức, chớ có nghĩ đến: "Nhãn thức là của
tôi". Chớ có nghĩ đến nhãn xúc, chớ có nghĩ đến trong nhãn xúc, chớ
có nghĩ đến từ nhãn xúc, chớ có nghĩ đến: "Nhãn xúc là của
tôi". Do duyên nhãn xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ hay bất khổ
bất lạc; chớ có nghĩ đến cảm thọ ấy, chớ có nghĩ đến trong cảm
thọ ấy, chớ có nghĩ đến từ cảm thọ ấy, chớ có nghĩ đến: "Cảm
thọ ấy là tôi".
5-6) Chớ có nghĩ đến tai... Chớ có nghĩ đến
mũi...
7-8) Chớ có nghĩ đến lưỡi... Chớ có nghĩ đến
thân...
9) Chớ có nghĩ đến ý, chớ có nghĩ đến trong
ý, chớ có nghĩ đến từ ý, chớ có nghĩ đến: "Ý là của tôi".
Chớ có nghĩ đến các pháp, chớ có nghĩ đến trong các pháp, chớ có nghĩ
đến từ các pháp, chớ có nghĩ đến: "Các pháp là của tôi". Chớ
có nghĩ đến ý thức, chớ có nghĩ đến trong ý thức, chớ có nghĩ đến
từ ý thức, chớ có nghĩ đến: "Ý thức là của tôi". Chớ có
nghĩ đến ý xúc, chớ có nghĩ đến trong ý xúc, chớ có nghĩ đến từ ý
xúc, chớ có nghĩ đến: "Ý xúc là của tôi". Do duyên ý xúc, khởi
lên cảm thọ gì, lạc, khổ hay bất khổ bất lạc; chớ có nghĩ đến cảm
thọ ấy, chớ có nghĩ đến trong cảm thọ ấy, chớ có nghĩ đến từ cảm
thọ ấy, chớ có nghĩ đến: "Cảm thọ ấy là của tôi".
10) Chớ có nghĩ đến tất cả, chớ có nghĩ đến
trong tất cả, chớ có nghĩ đến từ tất cả, chớ có nghĩ đến: "Tất
cả là của tôi".
11) Vị ấy do không nghĩ đến nên không chấp thủ
một vật gì ở đời. Do không chấp thủ, vị ấy không có dao động
(paritassati). Do không dao động, vị ấy tự mình tịch tịnh một cách hoàn
toàn. Vị ấy biết rõ: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc
nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa".
91. VIII. Ai٠Nhiễm (S.iv,66)
1). ..
2) -- Ái nhiễm, này các Tỷ-kheo, là bệnh tật,
ái nhiễm là mụt nhọt, ái nhiễm là mũi tên. Do vậy, này các Tỷ-kheo, Như
Lai sống không ái nhiễm, không bị mũi tên bắn.
3) Do vậy, này các Tỷ-kheo, nếu có mong ước, hãy
mong ước không ái nhiễm, không bị mũi tên bắn.
4-6) Chớ có nghĩ đến mắt, chớ có nghĩ đến
trong mắt, chớ có nghĩ đến từ mắt, chớ có nghĩ đến: "Mắt là của
ta". Chớ có nghĩ đến các sắc, chớ có nghĩ đến trong các sắc, chớ
có nghĩ đến từ các sắc, chớ có nghĩ đến: "Các sắc là của
ta". Chớ có nghĩ đến nhãn thức... Chớ có nghĩ đến nhãn xúc... Do
duyên nhãn xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ hay bất khổ bất lạc;
chớ có nghĩ đến cảm thọ ấy, chớ có nghĩ đến trong cảm thọ ấy, chớ
có nghĩ đến từ cảm thọ ấy, chớ có nghĩ đến: "Cảm thọ ấy là
của ta". Này các Tỷ-kheo, nghĩ đến cái gì, nghĩ đến trong cái gì,
nghĩ đến từ cái gì, nghĩ đến: "Cái gì là của ta", từ đấy cái
ấy đổi khác. Vì rằng bị đổi khác, vì chấp trước tái sanh
(Bhavasatto), nên thế giới hoan hỷ tái sanh... tai... mũi...
7-8). .. lưỡi... thân...
9) Chớ có nghĩ đến ý, chớ có nghĩ đến trong
ý, chớ có nghĩ đến từ ý, chớ có nghĩ đến: "Ý là của ta".
Chớ có nghĩ đến các pháp, chớ có nghĩ đến trong các pháp, chớ có nghĩ
đến từ các pháp, chớ có nghĩ đến: "Các pháp là của ta". Chớ
có nghĩ đến ý thức, chớ có nghĩ đến trong ý thức, chớ có nghĩ đến
từ ý thức, chớ có nghĩ đến: "Ý thức là của ta". Chớ có nghĩ
đến ý xúc, chớ có nghĩ đến trong ý xúc, chớ có nghĩ đến từ ý xúc,
chớ có nghĩ đến: "Ý xúc là của ta". Do duyên ý xúc, khởi lên cảm
thọ gì, lạc, khổ hay bất khổ bất lạc; chớ có nghĩ đến cảm thọ
ấy, chớ có nghĩ đến trong cảm thọ ấy, chớ có nghĩ đến từ cảm thọ
ấy, chớ có nghĩ đến: "Cảm thọ ấy là của ta". Này các Tỷ-kheo,
nghĩ đến cái gì, nghĩ đến trong cái gì, nghĩ đến từ cái gì, nghĩ đến:
"Cái gì là của ta", từ đấy cái ấy đổi khác. Vì rằng bị đổi
khác, vì chấp trước tái sanh, nên thế giới hoan hỷ tái sanh.
Này các Tỷ-kheo, cho đến uẩn, giới, xứ... chớ
có nghĩ đến cái ấy, chớ có nghĩ đến trong cái ấy, chớ có nghĩ đến
từ cái ấy, chớ có nghĩ đến: "Cái ấy là của ta". Vị ấy
không nghĩ đến như vậy nên không chấp thủ một cái gì trong đời. Do không
chấp thủ nên không có dao động. Do không có dao động, vị ấy tự mình
tịch tịnh một cách hoàn toàn. Vị ấy biết rõ: "Sanh đã tận, Phạm
hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng
thái này nữa".
92. IX. Cả Hai (S.iv,67)
1). ..
2) -- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng cho các Ông về
cả hai. Hãy lắng nghe. Này các Tỷ-kheo, thế nào là cả hai?
3) Mắt và các sắc, tai và các tiếng, mũi và
các hương, lưỡi và các vị, thân và các xúc, ý và các pháp. Này các Tỷ-kheo,
đây gọi là cả hai.
4) Này các Tỷ-kheo, ai nói như sau: "Sau khi
đoạn tận hai cái này, tôi sẽ trình bày hai cái khác"; thời người
ấy chỉ nói suông, nếu hỏi, người ấy không có thể chứng minh, còn có
thể rơi vào ách nạn.
5) Vì sao? Vì rằng vấn đề ấy vượt ngoài phạm
vi của người ấy.
93. X. Cả Hai (S.iv,67)
1). ..
2) -- Do duyên cả hai, này các Tỷ-kheo, thức hiện
hữu. Này các Tỷ-kheo, thế nào là do duyên cả hai, thức hiện hữu?
3) Do duyên mắt và các sắc, khởi lên nhãn thức.
Mắt là vô thường, biến hoại, tự tánh đổi khác. Các sắc là vô thường,
biến hoại, tự tánh đổi khác. Như vậy, cả hai này là biến động, tiêu
tan, vô thường, biến hoại, tự tánh đổi khác. Nhãn thức là vô thường,
biến hoại, tự tánh đổi khác. Do nhân nào, do duyên nào, nhãn thức khởi
lên; nhân ấy, duyên ấy là vô thường, biến hoại, tự tánh đổi khác.
Này các Tỷ-kheo, nhãn thức này khởi lên từ một duyên vô thường, từ
đâu sẽ thành thường còn được? Này các Tỷ-kheo, sự hợp hội, tụ tập,
hòa hợp của ba pháp này, này các Tỷ-kheo, đây gọi là nhãn xúc. Nhãn
xúc cũng vô thường, biến hoại, tự tánh đổi khác. Do nhân nào, do duyên
nào, nhãn xúc khởi lên; nhân ấy, duyên ấy là vô thường, biến hoại, tự
tánh đổi khác. Này các Tỷ-kheo, nhãn xúc này khởi lên từ một duyên vô
thường, từ đâu sẽ trở thành thường còn được? Do cảm xúc nên có cảm
thọ (?), do cảm xúc nên có tư lường, do cảm xúc nên có hay biết (?). Ở
đây, các pháp này là biến động, tiêu tan, vô thường, biến hoại, tự tánh
đổi khác.
4) Và do duyên tai và các tiếng khởi lên nhĩ thức...
5) Và do duyên mũi và các hương khởi lên tỷ thức...
6) Và do duyên lưỡi và các vị khởi lên thiệt
thức...
7) Và do duyên thân và các xúc khởi lên thân thức...
8) Và do duyên ý và các pháp khởi lên ý thức.
Ý là vô thường, biến hoại, tự tánh đổi khác. Các pháp là vô thường,
biến hoại, tự tánh đổi khác. Ở đây, cả hai cái này là biến động,
tiêu tan, vô thường, biến hoại, tự tánh đổi khác. Ý thức là vô thường,
biến hoại, tự tánh đổi khác. Cái gì là nhân, cái gì là duyên cho ý thức
khởi lên; nhân ấy, duyên ấy là vô thường, biến hoại, tự tánh đổi
khác. Này các Tỷ-kheo, ý thức khởi lên do duyên vô thường, thời từ đâu
sẽ thường còn được? Này các Tỷ-kheo, sự hợp hội, tụ tập, hòa hợp
của ba pháp này, này các Tỷ-kheo, đây gọi là ý xúc. Ý xúc cũng vô thường,
biến hoại, tự tánh là đổi khác. Do nhân gì, duyên gì khiến ý xúc sanh
khởi; nhân ấy, duyên ấy là vô thường, biến hoại, tự tánh đổi khác.
Này các Tỷ-kheo, ý xúc khởi lên do duyên vô thường, từ đâu sẽ là thường
còn được? Này các Tỷ-kheo, do cảm xúc nên có cảm thọ, do cảm xúc,
nên có tư lường, do cảm xúc, nên có hay biết. Ở đây, các pháp này là
biến động, tiêu tan, vô thường biến hoại, tự tánh đổi khác.
9) Như vậy, này các Tỷ-kheo, do duyên cả hai, thức
hiện hữu.
V. Phẩm Từ Bỏ
94. I. Thâu Nhiếp (S.iv,70)
1). ..
2) -- Có sáu xúc xứ này, này các Tỷ-kheo, không
nhiếp phục, không phòng hộ, không bảo vệ, không thâu nhiếp, đem lại
đau khổ. Thế nào là sáu?
3-5) Mắt xúc xứ, này các Tỷ-kheo, không nhiếp
phục, không phòng hộ, không bảo vệ, không thâu nhiếp, đem lại đau khổ...
Tai... Mũi...
6-7)... Lưỡi... Thân...
8) Ý xúc xứ, này các Tỷ-kheo, không nhiếp phục,
không phòng hộ, không bảo vệ, không thâu nhiếp, đem lại đau khổ.
9) Sáu xúc xứ này, này các Tỷ-kheo, không nhiếp
phục, không phòng hộ, không bảo vệ, không thâu nhiếp, đem lại đau khổ.
10) Có sáu xúc này, này các Tỷ-kheo, khéo nhiếp
phục, khéo phòng hộ, khéo bảo vệ, khéo thâu nhiếp, đem lại an lạc. Thế
nào là sáu?
11-13) Mắt xúc xứ, này các Tỷ-kheo, khéo nhiếp
phục, khéo phòng hộ, khéo bảo vệ, khéo thâu nhiếp, đem lại an lạc...
Tai... Mũi...
14-15)... Lưỡi... Thân...
16) Ý xúc xứ, này các Tỷ-kheo, khéo nhiếp phục,
khéo phòng hộ, khéo bảo vệ, khéo thâu nhiếp, đem lại an lạc.
17) Sáu xúc xứ này, này các Tỷ-kheo, khéo nhiếp
phục, khéo phòng hộ, khéo bảo vệ, khéo thâu nhiếp, đem lại an lạc.
18) Thế Tôn nói như vậy. Nói như vậy xong, bậc
Đạo Sư lại nói thêm:
1) Hỡi các vị Tỷ-kheo,
Chính sáu xúc xứ này,
Chỗ nào không thâu nhiếp,
Chỗ ấy có đau khổ.
Những ai học biết được,
Chế ngự, phòng hộ chúng,
Với lòng tin làm bạn,
Sống thoát ly dục vọng.
2) Thấy sắc pháp khả ái,
Thấy sắc không khả ái,
Hãy nhiếp phục đường tham,
Đối các sắc khả ái,
Chớ khiến ý nhiễm ô:
"Đối sắc, ta không thích".
3) Sau khi nghe các tiếng,
Khả ái, không khả ái,
Chớ để tâm say mê,
Với các tiếng khả ái.
Hãy nhiếp phục lòng sân,
Với tiếng không khả ái,
Chớ khiến ý nhiễm ô:
"Đối tiếng, ta không thích".
4) Sau khi ngửi các hương,
Thơm dịu, thật khả ái,
Sau khi ngửi các hương,
Bất tịnh, thật đáng ghét;
Hãy nhiếp phục lòng sân,
Đối các hương đáng ghét,
Còn đối hương khả ái,
Chớ để dục chi phối.
5) Nếm xong vị ngon ngọt,
Và nếm vị không ngon,
Chớ có sanh tham luyến,
Khi hưởng nếm vị ngon,
Chớ nói lời chống đối,
Khi nếm vị không ngon.
6) Khi cảm thọ lạc xúc,
Chớ đắm say tham luyến,
Khi cảm thọ khổ xúc,
Chớ bị xúc động mạnh.
Đối với cả hai xúc,
Lạc, khổ đều niệm xả,
Không thích, không chống đối,
Bất cứ loại xúc nào.
7) Đối với các người khác,
Mê theo hý luận tưởng,
Họ mê theo hý luận,
Họ hành theo hư tưởng;
Hãy đoạn trừ tất cả,
Gia sự do ý tạo,
Hãy nhiếp các hành động,
Hướng đến hạnh viễn ly.
8) Như vậy đối sáu xứ,
Khi ý khéo tu tập,
Nếu có cảm xúc gì,
Tâm không bị dao động.
Tỷ-kheo hãy nhiếp phục,
Cả hai tham sân ấy,
Hãy đến bờ bên kia,
Vượt buộc ràng sanh tử.
92. II. Thâu Nhiếp (S.iv,72)
1). ..
2) Rồi Tôn giả Màlukyaputta đi đến Thế Tôn...
3) Ngồi xuống một bên, Tôn giả Màlukyaputta bạch
Thế Tôn:
-- Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn thuyết
pháp vắn tắt cho con. Sau khi nghe pháp của Thế Tôn, con sẽ sống một
mình, an tịnh, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.
4) -- Ở đây, này Màlukyaputta, nay Ta nói gì với
các Tỷ-kheo trẻ tuổi, khi Ông là một Tỷ-kheo già yếu, niên cao, đại lão,
đã đến tuổi trưởng thượng, đã đến cuối cuộc đời, lại yêu cầu
Ta giáo giới một cách vắn tắt?
5) -- Bạch Thế Tôn, dầu cho con già yếu, niên
cao, đại lão, đã đến tuổi trưởng thượng, đã đến cuối cuộc đời,
mong Thế Tôn hãy thuyết pháp vắn tắt cho con! Mong Thiện Thệ hãy thuyết
pháp vắn tắt cho con! Chắc chắn con sẽ hiểu ý nghĩa lời Thế Tôn giảng.
Chắc chắn con sẽ trở thành người thừa tự pháp của Thế Tôn.
6) -- Ông nghĩ thế nào, này Màlukyaputta? Các sắc
do mắt nhận thức, Ông không thấy, trước đây Ông không thấy, nay Ông
không thấy, và Ông không muốn thấy; ở đây đối với chúng, Ông có
lòng dục, tham hay khát ái không?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
7) -- Các tiếng do tai nhận thức, Ông không nghe,
trước đây Ông không nghe, nay Ông không nghe, và Ông không muốn nghe; ở đây
đối với chúng, Ông có lòng dục, tham hay khát ái hay không?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
8) -- Các hương do mũi nhận thức, Ông không ngửi,
trước đây Ông không ngửi, nay Ông không ngửi, và Ông không muốn ngửi;
ở đây đối với chúng, Ông có lòng dục, tham hay khát ái không?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
9) -- Các vị do lưỡi nhận thức, Ông không nếm,
trước đây Ông không nếm, nay Ông không nếm, và Ông không muốn nếm; ở
đây đối với chúng, Ông có lòng dục, tham hay khát ái không?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
10) -- Các xúc do thân nhận thức, Ông không cảm
thọ, trước đây Ông không cảm thọ, nay Ông không cảm thọ, và Ông
không muốn cảm thọ; ở đây đối với chúng, Ông có lòng dục, tham hay
khát ái không?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
11) -- Các pháp do ý thức nhận thức, Ông không
nhận thức, trước đây Ông không nhận thức, và Ông không muốn nhận thức;ở
đây đối với chúng, Ông có lòng dục, tham hay khát ái không?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
12) -- Và ở đây, này Màlukyaputta, đối với các
pháp được thấy, được nghe, được cảm nhận, được biết đến, Ông
sẽ chỉ thấy được với những vật thấy được, sẽ chỉ nghe được với
những vật nghe được, sẽ chỉ cảm nhận được đối với những vật cảm
nhận được, sẽ chỉ nhận biết được đối với những vật có thể nhận
biết được.
13) Vì rằng, này Màlukyaputta, đối với các
pháp được thấy, được nghe, được cảm nhận, được biết đến, Ông
sẽ chỉ thấy được với những vật thấy được, chỉ nghe được với
những vật nghe được, chỉ cảm nhận được đối với những vật cảm
nhận được, chỉ nhận biết được đối với những vật nhận biết
được. Cho nên, này Màlukyaputta, Ông không có vì cái ấy. Do vì, này
Màlukyaputta, Ông không có vì cái ấy, nên Ông không có: "Ở nơi đây".
Do vì, này Màlukyaputta, Ông không có: "Ở nơi đây", do vậy, này
Màlukyaputta, Ông sẽ không có đời này, đời sau, và giữa hai đời ấy.
Đây là sự chấm dứt khổ đau.
14) -- Bạch Thế Tôn, lời giảng vắn tắt này của
Thế Tôn, con hiểu một cách rộng rãi như sau:
1) Thấy sắc, niệm mê say,
Tác ý đến ái tướng,
Tâm tham đắm cảm thọ,
Tham luyến sắc an trú.
Vị ấy, thọ tăng trưởng,
Nhiều loại, từ sắc sinh,
Tham dục và hại tâm,
Não hại tâm vị ấy,
Như vậy, khổ tích lũy,
Được gọi xa Niết - bàn.
2) Nghe tiếng, niệm mê say,
Tác ý đến ái tướng,
Tâm tham đắm cảm thọ,
Tham luyến tiếng an trú.
Vị ấy, thọ tăng trưởng,
Nhiều loại, từ tiếng sanh,
Tham dục và hại tâm,
Não hại tâm vị ấy,
Như vậy, khổ tích lũy,
Đựơc gọi xa Niết-bàn.
3) Ngửi hương, niệm mê say,
Tác ý đến ái tướng,
Tâm tham đắm cảm thọ,
Tham luyến tiếng an trú.
Vị ấy, thọ tăng trưởng,
Nhiều loại, từ tiếng sanh,
Tham dục và hại tâm,
Não hại tâm vị ấy,
Như vậy, khổ tích lũy,
Được gọi xa Niết-bàn.
4) Nếm vị, niệm mê say,
Tác ý đến ái tướng,
Tâm tham đắm cảm thọ,
Tham luyến vị an trú.
Vị ấy, thọ tăng trưởng,
Nhiều loại, từ vị sanh,
Tham dục và hại tâm,
Não hại tâm vị ấy,
Như vậy, khổ tích lũy,
Được gọi xa Niết-bàn.
5) Cảm xúc, niệm mê say,
Tác ý đến ái tướng,
Tâm tham đắm cảm thọ,
Tham luyến xúc an trú.
Vị ấy, thọ tăng trưởng,
Nhiều loại, từ xúc sanh,
Tham dục và hại tâm,
Não hại tâm vị ấy,
Như vậy, khổ tích lũy,
Được gọi xa Niết-bàn.
6) Biết pháp, niệm mê say,
Tác ý đến ái tướng
Tâm tham đắm cảm thọ,
Tham luyến pháp an trú.
Vị ấy, thọ tăng trưởng,
Nhiều loại, từ pháp sanh,
Tham dục và hại tâm,
Não hại tâm vị ấy,
Như vậy, khổ tích lũy,
Được gọi xa Niết-bàn
7) Vị ấy không tham sắc,
Thấy sắc, không ái luyến,
Tâm không dính cảm thọ,
Không luyến sắc an trú.
Theo sắc, vị ấy thấy,
Tùy sắc, thọ cảm giác,
Tiêu mòn, không tích lũy,
Như vậy, chánh niệm hành,
Như vậy, khổ không chứa.
Được gọi gần Niết-bàn,
8) Vị ấy không tham tiếng,
Nghe tiếng, không ái luyến,
Tâm không dính cảm thọ,
Không luyến tiếng an trú.
Theo tiếng, vị ấy nghe,
Tùy tiếng thọ cảm giác.
Tiêu mòn, không tích lũy,
Như vậy, chánh niệm hành,
Như vậy, khổ không chứa,
Được gọi gần Niết-bàn.
9) Vị ấy không tham hương,
Ngửi hương, không ái luyến,
Tâm không dính cảm thọ,
Không luyến hương an trú.
Theo hương, vị ấy ngửi,
Tùy hương, thọ cảm giác,
Tiêu mòn, không tích lũy,
Như vậy, chánh niệm hành,
Như vậy, khổ không chứa.
Được gọi gần Niết-bàn.
10) Vị ấy không tham vị,
Nếm vị, không ái luyến,
Tâm không dính cảm thọ,
Không luyến vị an trú.
Theo vị, vị ấy nếm.
Tùy vị, thọ cảm giác,
Tiêu mòn, không tích lũy,
Như vậy, chánh niệm hành,
Như vậy, khổ không chứa.
Được gọi gần Niết-bàn.
11) Vị ấy không tham xúc,
Cảm xúc, không ái luyến,
Tâm không dính cảm thọ,
Không luyến xúc an trú,
Theo xúc, vị ấy cảm,
Tùy xúc, thọ cảm giác,
Tiêu mòn, không tích lũy,
Như vậy, chánh niệm hành,
Như vậy, khổ không chứa,
Được gọi gần Niết-bàn.
12) Vị ấy không tham pháp,
Biết pháp, không ái luyến,
Tâm không dính cảm thọ,
Không luyến pháp an trú.
Theo pháp, vị ấy cảm,
Tùy pháp, thọ cảm giác,
Tiêu mòn, không tích lũy,
Như vậy, chánh niệm hành,
Như vậy, khổ không chứa,
Được gọi gần Niết-bàn.
Bạch Thế Tôn, lời Thế Tôn nói vắn tắt này,
con hiểu một cách rộng rãi như vậy.
15) -- Lành thay, lành thay, này Màlukyaputta! Lành
thay, này Màlukyaputta, lời nói vắn tắt của Ta, Ông đã hiểu ý nghĩa một
cách rộng rãi:
1) Thấy sắc, niệm mê say,
Tác ý đến ái tướng,
Tâm tham đắm cảm thọ,
Tham luyến sắc an trú.
Vị ấy, thọ tăng trưởng,
Nhiều loại, từ sắc sanh.
Tham dục và hại tâm,
Não hại tâm vị ấy,
Như vậy, khổ tích lũy,
Được gọi xa Niết-bàn.
.... ..
12) Vị ấy không tham pháp,
Biết pháp, không ái luyến,
Tâm không dính cảm thọ,
Không luyến pháp an trú.
Theo pháp, vị ấy cảm,
Tùy pháp, thọ cảm giác,
Tiêu mòn, không tích lũy,
Như vậy, chánh niệm hành,
Như vậy, khổ không chứa,
Được gọi gần Niết-bàn.
Lời nói vắn tắt này của Ta, này Màlukyaputta,
Ông cần phải hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như vậy.
16) Rồi Tôn giả Màlukyaputta, sau khi hoan hỷ,
tín thọ lời Thế Tôn dạy, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn,
thân phía hữu hướng về Ngài, rồi ra đi.
17) Rồi Tôn giả Màlukyaputta sống một mình, an
tịnh, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, không bao lâu, chứng được mục
đích mà các thiện gia nam tử chơn chánh xuất gia, từ bỏ gia đình, sống
không gia đình, chính là vô thượng cứu cánh Phạm hạnh ngay trong hiện tại,
tự mình với thắng trí, chứng ngộ, chứng đạt và an trú. Vị ấy biết
rõ: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm,
không còn trở lui trạng thái này nữa".
18) Và Tôn giả Màlukyaputta trở thành một vị
A-la-hán nữa.
96. III. Thối Đọa (Parihànam) (S.iv,76)
1). ..
2) -- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết cho các Ông
về pháp thối đọa, pháp bất thối đọa và sáu thắng xứ.
3) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là pháp thối đọa?
4-6) Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sau khi mắt
thấy sắc, các ác, bất thiện pháp; các ức niệm tư duy liên hệ đến kiết
sử được khởi lên. Nếu Tỷ-kheo đón nhận chúng (adhivàseti), không từ
bỏ, không đoạn trừ, không tiêu diệt, không khiến chúng không thể sanh
khởi, thời này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải hiểu rằng: "Ta
làm thối thất các thiện pháp". Đây Thế Tôn gọi là pháp thối đọa,.
.. tai nghe tiếng... mũi ngửi hương...
7-8). .. lưỡi nếm vị... thân cảm xúc...
9) Lại nữa, này các Tỷ-kheo, sau khi ý nhận thức
pháp, các ác, bất thiện pháp; các ức niệm tư duy liên hệ đến kiết sử
được khởi lên. Nếu Tỷ-kheo đón nhận chúng, không từ bỏ, không đoạn
trừ, không tiêu diệt, không khiến chúng không thể sanh khởi, thời này
các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải hiểu rằng: "Ta làm thối thất
các thiện pháp". Đây Thế Tôn gọi là pháp thối đọa.
10) Như vậy, này các Tỷ-kheo, là pháp thối đọa.
11) Và này các Tỷ-kheo, như thế nào là pháp bất
thối đọa.
12-24) Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sau khi mắt
thấy sắc, các ác, bất thiện pháp; các ức niệm tư duy liên hệ đến kiết
sử được khởi lên. Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo không có đón nhận
chúng, từ bỏ, đoạn trừ, tiêu diệt, khiến chúng không thể sanh khởi,
thời này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải hiểu rằng: "Ta không
làm thối thất các thiện pháp". Đây Thế Tôn gọi là pháp bất thối
đọa.. .. tai nghe tiếng... mũi ngửi hương...
15-16)... lưỡi nếm vị... thân cảm xúc...
17) Ở đây, này các Tỷ-kheo, sau khi ý nhận thức
pháp, các ác, bất thiện pháp; các ức niệm tư duy liên hệ đến kiết sử
được khởi lên. Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo không có đón nhận chúng,
từ bỏ, đoạn trừ, tiêu diệt, khiến chúng không thể sanh khởi, thời
này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải hiểu rằng: "Ta không làm thối
thất các thiện pháp". Đây Thế Tôn gọi là pháp bất thối đọa.
18) Như vậy, này các Tỷ-kheo, là pháp bất thối
đọa.
19) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là sáu thắng xứ?
20-24) Ở đây, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo sau
khi mắt thấy sắc, các ác, bất thiện pháp; các ức niệm tư duy liên hệ
đến kiết sử không khởi lên. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải hiểu
rằng: "Xứ này đã được nhiếp phục". Và Thế Tôn gọi đây là
thắng xứ... tai...mũi... lưỡi... thân...
25) Lại nữa, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo sau
khi ý nhận thức pháp, các ác bất thiện pháp; các ức niệm tư duy liên hệ
đến kiết sử không khởi lên. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải hiểu
rằng: "Xứ này đã được nhiếp phục". Và Thế Tôn gọi đây là
thắng xứ.
96. IV. Sống Phóng Dật (Pamàdavihàri) (S.iv,78)
1) Nhân duyên ở Sàvatthi...
2) -- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết cho các Ông
về trú phóng dật và trú không phóng dật. Hãy lắng nghe.
3) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là trú phóng dật?
4-6) Ai sống không nhiếp hộ nhãn căn, này các Tỷ-kheo,
thời tâm người ấy bị nhiễm ô (vyàsincati) đối với các sắc do mắt
nhận biết. Với người tâm bị nhiễm ô thời không có hân hoan. Do không
có hân hoan nên không có hỷ. Do không có hỷ nên không có khinh an. Do không
khinh an nên khổ an trú. Với người đau khổ, tâm không có thể định
tĩnh. Do tâm không định tĩnh, các pháp không hiển lộ. Do các pháp không
hiển lộ, người ấy được gọi là người an trú phóng dật... nhĩ
căn... tỷ căn...
7-8)... thiệt căn... thân căn...
9) Ai sống không nhiếp hộ ý căn, tâm bị nhiễm
ô đối với các pháp do ý nhận biết. Với người tâm bị nhiễm ô thời
không có hân hoan. Do không hân hoan nên không có hỷ. Do không có hỷ nên
không có khinh an. Do không có khinh an nên khổ an trú. Với người đau khổ,
tâm không có thể định tĩnh. Do tâm không định tĩnh, các pháp không hiển
lộ. Do các pháp không hiển lộ, người ấy được gọi là người an trú
phóng dật.
10) Như vậy, này các Tỷ-kheo, là an trú phóng dật.
11) Và như thế nào, này các Tỷ-kheo, là an trú
không phóng dật?
12-14) Ai sống nhiếp hộ nhãn căn, tâm không bị
nhiễm ô đối với các sắc do mắt nhận biết. Với người tâm không bị
nhiễm ô thời hân hoan sanh. Do có hân hoan nên hỷ sanh. Do có hỷ sanh nên
thân được khinh an. Do thân khinh an nên cảm lạc thọ. Với người an lạc,
tâm được định tĩnh. Do tâm định tĩnh, các pháp được hiển lộ. Do các
pháp được hiển lộ, người ấy được gọi là người trú không phóng dật...
nhĩ căn... tỷ căn...
15-16)... thiệt căn... thân căn...
17) Ai sống nhiếp hộ ý căn, tâm không bị nhiễm
ô đối với các pháp do ý nhận biết. Với người tâm không bị nhiễm ô
thời hân hoan sanh. Do có hân hoan nên hỷ sanh. Do có hỷ tâm nên thân được
khinh an. Do thân khinh an nên cảm lạc thọ. Với người an lạc, tâm được
định tĩnh. Do tâm định tĩnh, các pháp được hiển lộ. Do các pháp được
hiển lộ, người ấy được gọi là người trú không phóng dật.
18) Như vậy, này các Tỷ-kheo, là trú không
phóng dật.
98. V. Nhiếp Hộ (Samvara) (S.iv,79)
1). ..
2) -- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng cho các Ông về
nhiếp hộ và không nhiếp hộ. Hãy lắng nghe.
3) Và thế nào, này các Tỷ-kheo, là không nhiếp
hộ?
4-6) Và này các Tỷ-kheo, có những sắc do mắt
nhận thức khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến dục, hấp
dẫn. Nếu một Tỷ-kheo hoan hỷ sắc ấy, tán dương và an trú với tâm
tham luyến; thời này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải hiểu rằng:
"Ta đã làm thối thất các thiện pháp". Thế Tôn gọi đây là
pháp thối đọa. .. Có những tiếng do tai nhận thức... Có những hương do
mũi nhận thức...
7-8) Có những vị do lưỡi nhận thức... Có những
xúc do thân cảm giác...
9) Có những pháp do ý nhận thức khả lạc, khả
hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Nếu một Tỷ-kheo
hoan hỷ pháp ấy, tán dương và an trú với tâm tham luyến; thời này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo ấy cần phải hiểu rằng: "Ta đã làm thối thất các thiện
pháp". Và Thế Tôn gọi đây là thối thất.
10) Như vậy, này các Tỷ-kheo, là không nhiếp hộ.
11) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là nhiếp hộ?
12-14) Này các Tỷ-kheo, có những sắc do mắt nhận
thức khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến dục, hấp dẫn.
Nếu một Tỷ-kheo không hoan hỷ sắc ấy, không tán dương và an trú với
tâm không tham luyến; thời này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải hiểu rằng:
"Ta không làm thối thất các thiện pháp". Và Thế Tôn gọi đây
là không thối thất... Có những tiếng do tai nhận thức... Có những hương
do mũi nhận thức...
15-16) Có những vị do lưỡi nhận thức... Có những
xúc do thân cảm giác...
17) Và này các Tỷ-kheo, có những pháp do ý nhận
thức khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái liên hệ đến dục, hấp dẫn.
Nếu một Tỷ-kheo không hoan hỷ pháp ấy, không tán dương và an trú với
tâm không tham luyến; này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải hiểu rằng:
"Ta không làm thối thất các thiện pháp". Và Thế Tôn gọi đây
là không thối thất.
18) Như vậy, này các Tỷ-kheo, là có nhiếp hộ.
99. VI. Thiền Định (S.iv,80)
1)...
2) -- Này các Tỷ-kheo, hãy tu tập Thiền định.
Này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo được Thiền định, hiểu rõ như thật.
3) Và hiểu rõ như thật cái gì?
4-8)-- Như thật hiểu rõ mắt là vô thường,
như thật hiểu rõ các sắc là vô thường, như thật hiểu rõ nhãn thức
là vô thường, như thật hiểu rõ nhãn xúc là vô thường. Phàm duyên nhãn
xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ, hay bất khổ bất lạc; như thật
hiểu rõ cảm thọ ấy là vô thường... tai... mũi... lưỡi... thân...
9) Như thật hiểu rõ ý là vô thường, như thật
hiểu rõ các pháp là vô thường, như thật hiểu rõ nhãn thức là vô thường,
như thật hiểu rõ nhãn xúc là vô thường. Phàm duyên ý xúc, khởi lên cảm
thọ gì, lạc, khổ, hay bất khổ bất lạc; như thật hiểu rõ cảm thọ
ấy là vô thường.
10) Này các Tỷ-kheo, hãy tu tập Thiền định. Này
các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo được Thiền định, hiểu rõ như thật.
100. VII. Thiền Tịnh (Patisallàna) (S.iv,80)
1). ..
2) -- Này các Tỷ-kheo, hãy hành trì hạnh Thiền
tịnh. Này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo Thiền tịnh, hiểu rõ như thật.
3) Và hiểu rõ gì như thật?
4-9) Như thật hiểu rõ mắt là vô thường, như
thật hiểu rõ các sắc là vô thường, như thật hiểu rõ nhãn thức là
vô thường, như thật hiểu rõ nhãn xúc là vô thường. Phàm duyên nhãn
xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ, hay bất khổ bất lạc; như thật
hiểu rõ cảm thọ ấy là vô thường... tai... lưỡi... thân... ý...
10) Này các Tỷ-kheo, hãy hành trì hạnh Thiền tịnh.
Này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo Thiền tịnh, hiểu rõ như thật.
101. VIII. Không Phải Của Các Ông (S.iv,81)
1). ..
2) -- Cái gì không phải của các Ông, này các Tỷ-kheo,
hãy từ bỏ nó. Từ bỏ nó, sẽ đưa lại hạnh phúc an lạc cho các Ông.
3) Và này các Tỷ-kheo, cái gì không phải của
các Ông?
4-6) Mắt, này các Tỷ-kheo, không phải của các
Ông. Hãy từ bỏ nó. Từ bỏ nó, sẽ đưa lại hạnh phúc, an lạc cho các
Ông. Các sắc không phải của các Ông. Hãy từ bỏ chúng. Từ bỏ chúng, sẽ
đưa lại hạnh phúc, an lạc cho các Ông. Nhãn thức không phải của các
Ông. Hãy từ bỏ nó. Từ bỏ nó, sẽ đưa lại hạnh phúc, an lạc cho các
Ông. Nhãn xúc không phải của các Ông. Hãy từ bỏ nó. Từ bỏ nó, sẽ
đưa lại hạnh phúc, an lạc cho các Ông Phàm duyên nhãn xúc khởi lên cảm
thọ gì, lạc, khổ, hay bất khổ bất lạc; cảm thọ ấy không phải của
các Ông. Hãy từ bỏ nó. Từ bỏ nó, sẽ đưa lại hạnh phúc, an lạc cho
các Ông... Tai... Mũi...
7-8)... Lưỡi... Thân...
9) Ý không phải của các Ông. Hãy từ bỏ nó. Từ
bỏ nó, sẽ đưa lại hạnh phúc, an lạc cho các Ông. Các pháp không phải
của các Ông. Hãy từ bỏ chúng. Từ bỏ chúng, sẽ đưa lại hạnh phúc,
an lạc cho các Ông. Ý thức không phải của các Ông. Hãy từ bỏ nó. Từ
bỏ nó, sẽ đưa lại hạnh phúc, an lạc cho các Ông. Ý xúc không phải của
các Ông. Hãy từ bỏ nó. Từ bỏ nó, sẽ đưa lại hạnh phúc, an lạc cho
các Ông. Phàm duyên ý xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ, hay bất khổ
bất lạc; cảm thọ ấy không phải của các Ông. Hãy từ bỏ nó. Từ bỏ
nó, sẽ đưa lại hạnh phúc, an lạc cho các Ông.
10) Ví như, này các Tỷ-kheo, trong rừng Thắng
Lâm này có người mang đi, hay mang đốt, hay làm theo những gì người ấy
muốn, tất cả cỏ, củi, nhánh cây hay lá, thời các Ông có nghĩ như sau:
"Người ấy mang chúng tôi đi, hay đốt chúng tôi, hay làm gì chúng tôi
theo ý người ấy muốn"?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
-- Vì sao? Vì chúng không phải tự ngã hay không
thuộc về tự ngã.
11-16) Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, mắt không phải
của các Ông. Hãy từ bỏ nó. Từ bỏ nó, sẽ đưa đến hạnh phúc, an lạc
cho các Ông. Các sắc không phải của các Ông... Nhãn thức không phải của
các Ông... Nhãn xúc không phải của các Ông... Do duyên ý xúc khởi lên cảm
thọ gì, lạc, khổ, hay bất khổ bất lạc; cảm thọ ấy không phải của
các Ông. Hãy từ bỏ nó. Từ bỏ nó, sẽ đưa đến hạnh phúc, an lạc cho
các Ông.
102. IX. Không Phải Của Các Ông (S.iv,82)
(Như kinh trên từ 2 đến 9, không có ví dụ).
103. X. Uddaka (S.iv,83)
1). ..
2) -- Uddaka Ràmaputta, này các Tỷ-kheo, có nói như
sau:
"Ta là bậc minh trí,
Ta chiến thắng tất cả,
Ta đào lên khổ căn,
Trước kia chưa từng đào".
Này các Tỷ-kheo, Uddaka Ràmaputta không phải bậc
minh trí, lại tự nói: "Ta là bậc minh trí"; không chiến thắng tất
cả, lại nói: "Ta chiến thắng tất cả" không đào lên khổ căn,
lại nói: "Đã đào lên khổ căn".
3) Ở đây, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo nói một
cách chân chánh, có thể nói như sau:
Ta là bậc minh trí,
Ta chiến thắng tất cả,
Ta đào lên khổ căn,
Trước kia, chưa từng đào.
4) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo minh
trí (vedagù)? Này các Tỷ-kheo, khi nào một Tỷ-kheo đối với sáu xúc xứ
như thật biết rõ sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm
và sự xuất ly; như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo minh trí.
5) Và này các Tỷ-kheo, như thế nào là Tỷ-kheo
chiến thắng tất cả? Này các Tỷ-kheo, khi nào Tỷ-kheo đối với sáu xúc
xứ, sau khi như thật biết rõ sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt,
sự nguy hiểm và sự xuất ly, được giải thoát không có chấp thủ; như
vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo chiến thắng tất cả.
6) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo đã
đào lên khổ căn trước kia chưa được đào? Mụt nhọt, này các Tỷ-kheo,
là một danh từ chỉ cho cái thân do bốn đại tạo thành này, sanh ra từ
cha mẹ, do cơm cháo nuôi dưỡng, tự tánh là vô thường, biến hoại, mai một,
hủy hoại, hủy diệt. Gốc rễ của mụt nhọt, này các Tỷ-kheo, là đồng
nghĩa với khát ái. Này các Tỷ-kheo, khi nào Tỷ-kheo đoạn tận khát ái,
chặt đứt đến gốc rễ, làm cho như thân cây ta-la, làm cho không thể
tái sanh, không có thể sanh khởi trong tương lai; như vậy, này các Tỷ-kheo,
là Tỷ-kheo đã đào lên khổ căn từ trước chưa được đào lên.
7) Này các Tỷ-kheo, chính là Uddaka Ràmaputta đã
nói lên lời nói như sau:
Ta là bậc minh trí,
Ta chiến thắng tất cả,
Ta đào lên khổ căn,
Trước kia chưa từng đào.
Này các Tỷ-kheo, Uddaka không phải là bậc minh
trí, lại tự nói: "Ta là bậc minh trí"; không chiến thắng tất cả,
lại nói: "Ta chiến thắng tất cả"; không đào lên khổ căn, lại
nói: "Đã đào lên khổ căn".
8) Ở đây, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo nói một
cách chân chánh, có thể nói như sau:
Ta là bậc minh trí,
Ta chiến thắng tất cả,
Ta đào lên khổ căn,
Trước kia chưa từng đào.