- Kinh Tương Ưng Bộ
- HT. Thích Minh Châu dịch
- Phần 54
- Chương X
- Tương Ưng Hơi Thở Vô, Hơi
Thở Ra
I. Phẩm Một Pháp
1.I. Một Pháp (S.v,311)
1) Tại Sàvatthi...
2) Ở đây... nói như sau:
3) -- Có một pháp, này các Tỷ-kheo,
được tu tập, được làm cho sung mãn thời có quả lớn, có lợi ích lớn.
Thế nào là một pháp? Niệm hơi thở vô, hơi thở ra. Và này các Tỷ-kheo,
niệm hơi thở vô, hơi thở ra, tu tập như thế nào, làm cho sung mãn như thế
nào thời có quả lớn, có lợi ích lớn?
4) Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đi đến rừng, hay đi đến gốc cây, hay đi đến chỗ nhà trống, ngồi kiết-già,
lưng thẳng, đặt niệm trước mặt; vị ấy chánh niệm thở vô, chánh niệm
thở ra.
5) Thở vô dài, vị ấy rõ biết:
"Tôi thở vô dài". Thở ra dài, vị ấy rõ biết: "Tôi thở ra
dài". Thở vô ngắn, vị ấy rõ biết : "Tôi thở vô ngắn". Thở
ra ngắn, vị ấy rõ biết: "Tôi thở ra ngắn".
6) "Cảm giác toàn thân, tôi sẽ
thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở ra",
vị ấy tập. "An tịnh thân hành, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập.
"An tịnh thân hành, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.
7) "Cảm giác hỷ thọ, tôi sẽ
thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác hỷ thọ, tôi sẽ thở ra",
vị ấy tập. "Cảm giác lạc thọ, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập.
"Cảm giác lạc thọ, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.
8) "Cảm giác tâm hành, tôi sẽ
thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác tâm hành, tôi sẽ thở ra",
vị ấy tập. "An tịnh tâm hành, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập.
"An tịnh tâm hành, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Cảm giác về
tâm, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác về tâm, tôi sẽ
thở ra", vị ấy tập.
9) "Với tâm hân hoan, tôi sẽ
thở vô", vị ấy tập. "Với tâm hân hoan, tôi sẽ thở ra", vị
ấy tập. "Với tâm định tĩnh, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập.
"Với tâm định tĩnh, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Với
tâm giải thoát, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Với tâm giải
thoát, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.
10) "Quán vô thường, tôi sẽ
thở vô", vị ấy tập. "Quán vô thường, tôi sẽ thở ra", vị
ấy tập. "Quán ly tham, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán
ly tham, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Quán đoạn diệt, tôi sẽ
thở vô", vị ấy tập. "Quán đoạn diệt, tôi sẽ thở ra", vị
ấy tập. "Quán từ bỏ, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán
từ bỏ, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.
11) Tu tập như vậy, này các Tỷ-kheo,
làm cho sung mãn như vậy, niệm hơi thở vô, hơi thở ra thời có quả lớn,
có lợi ích lớn.
2. II. Gíac Chi (S.v,312)
1-2) Tại Sàvatthi... Tại đấy... nói
như sau:
3) -- Niệm hơi thở vô, hơi thở
ra, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn thời có quả lớn,
có lợi ích lớn. Và này các Tỷ-kheo, tu tập như thế nào, làm cho sung
mãn như thế nào, niệm hơi thở vô, hơi thở ra thời có quả lớn, có lợi
ích lớn?
4) Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
tu tập niệm giác chi câu hữu với niệm hơi thở vô, hơi thở ra, liên hệ
đến viễn ly, liên hệ đến ly tham, liên hệ đến đoạn diệt, hướng đến
từ bỏ; tu tập trạch pháp giác chi... ; tu tập tinh tấn giác chi... ; tu tập
hỷ giác chi... ; tu tập khinh an giác chi...; tu tập niệm giác chi...; tu tập
định giác chi...; tu tập xả giác chi câu hữu với niệm hơi thở vô, hơi
thở ra, liên hệ đến viễn ly, liên hệ đến ly tham, liên hệ đến đoạn
diệt, hướng đến từ bỏ.
5) Tu tập như vậy, này các Tỷ-kheo,
làm cho sung mãn như vậy, niệm hơi thở vô, hơi thở ra thời có quả lớn,
có lợi ích lớn.
3. III. Thanh Tịnh (S.v,313)
1-2) Sàvatthi... Ở đấy... thuyết
như sau:
3) -- Niệm hơi thở vô, hơi thở
ra, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn thời có quả lớn,
có lợi ích lớn. Tu tập như thế nào, này các Tỷ-kheo, làm cho sung mãn như
thế nào, niệm hơi thở vô, hơi thở ra thời có quả lớn, có lợi ích lớn?
4) Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đi đến khu rừng, hay đi đến gốc cây, hay đi đến căn nhà trống, ngồi
kiết-già, lưng thẳng, đặt niệm trước mặt; vị ấy chánh niệm hơi thở
vô, chánh niệm hơi thở ra.
5-10)... như kinh 1, từ đoạn 5 đến
đoạn 10...
11) -- Tu tập như vậy, này các Tỷ-kheo,
làm cho sung mãn như vậy, niệm hơi thở vô, hơi thở ra có quả lớn thời
có lợi ích lớn.
4. IV. Qủa (S.v,313)
1-2)...
3) -- Niệm hơi thở vô, hơi thở
ra, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn thời có quả lớn,
có lợi ích lớn. Tu tập như thế nào, này các Tỷ-kheo, làm cho sung mãn như
thế nào, niệm hơi thở vô, hơi thở ra có quả lớn, có lợi ích lớn?
4-10) Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đi đến khu rừng, hay đi đến gốc cây, hay đi đến căn nhà trống, ngồi
kiết-già... "Quán từ bỏ, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập.
"Quán từ bỏ, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.
11) Tu tập như vậy, này các Tỷ-kheo,
làm cho sung mãn như vậy, niệm hơi thở vô, hơi thở ra thời có quả lớn,
có lợi ích lớn.
12) Niệm hơi thở vô, hơi thở ra
được tu tập như vậy, này các Tỷ-kheo, được làm cho sung mãn như vậy,
được chờ đợi một trong hai quả sau: Ngay trong hiện tại, được Chánh
trí; nếu có dư y, chứng quả Bất lai.
5. V. Qủa (2) (S.v,314)
1-2). ..
3) -- Niệm hơi thở vô, hơi thở
ra, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn thời có quả lớn,
có lợi ích lớn. Tu tập như thế nào, làm cho sung mãn như thế nào, niệm
hơi thở vô, hơi thở ra thời có quả lớn, có lợi ích lớn?
4-10) Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đi đến khu rừng, hay đi đến gốc cây, hay đi đến căn nhà trống, ngồi...
"Quán từ bỏ, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.
11) Tu tập như vậy, này các Tỷ-kheo,
làm cho sung mãn như vậy, niệm hơi thở vô, hơi thở ra thời có quả lớn,
có lợi ích lớn.
12) Tu tập như vậy, này các Tỷ-kheo,
làm cho sung mãn như vậy, niệm hơi thở vô, hơi thở ra thời được chờ
đợi bảy quả, bảy lợi ích. Thế nào là bảy quả, bảy lợi ích?
13) Ngay trong hiện tại, lập tức
thành tựu Chánh trí. Nếu ngay trong hiện tại không lập tức thành tựu
Chánh trí, thời khi mệnh chung, thành tựu Chánh trí. Nếu khi mệnh chung
không thành tựu Chánh trí, thời sau khi đoạn diệt năm hạ phần kiết sử,
được Trung gian Bát-niết-bàn, được Tổn hại Bát-niết-bàn, được Vô
hành Bát-niết-bàn, được Hữu hành Bát-niết-bàn, được thượng lưu, đạt
đến Sắc cứu cánh thiên.
14) Tu tập như vậy, này các Tỷ-kheo,
làm cho sung mãn như vậy, niệm hơi thở vô, hơi thở ra thời được chờ
đợi bảy quả, bảy lợi ích này.
6. VI. Arittha (S.v,314)
1-2) Tại Sàvatthi. Tại đấy, Thế
Tôn... nói như sau:
-- Này các Tỷ-kheo, các Ông hãy tu
tập niệm hơi thở vô, hơi thở ra.
3) Khi được nói vậy, Tôn giả
Arittha bạch Thế Tôn:
-- Bạch Thế Tôn, con có tu tập niệm
hơi thở vô, hơi thở ra.
-- Này Arittha, Ông tu tập niệm hơi
thở vô, hơi thở ra như thế nào?
4) -- Bạch Thế Tôn, đối với các
dục (kàma) quá khứ, con đoạn trừ dục tham (kàmacchanda). Đối với dục
tương lai, con từ bỏ dục tham. Đối ngại tưởng (pàtighasanna), đối với
nội ngoại pháp, được khéo nhiếp phục nơi con. Chánh niệm, con thở vô.
Chánh niệm, con thở ra. Như vậy, bạch Thế Tôn, con tu tập niệm hơi thở
vô, hơi thở ra.
5) -- Đây cũng là niệm hơi thở vô,
hơi thở ra, này Arittha, nhưng Ta tuyên bố là không phải. Này Arittha, Ta sẽ
nói cho Ông như thế nào là niệm hơi thở vô, hơi thở ra, được phát triển,
được làm cho viên mãn. Hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ nói.
-- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Tôn giả Arittha vâng đáp Thế Tôn.
6) Thế Tôn nói như sau:
-- Này Arittha, niệm hơi thở vô, hơi
thở ra được phát triển, làm cho viên mãn như thế nào?
7-13) Ở đây, này Arittha, Tỷ-kheo
đi đến khu rừng, hay đi đến gốc cây, hay đi đến căn nhà trống, ngồi
kiết-già:. .. "Quán từ bỏ, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập.
"Quán từ bỏ, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.
14) Như vậy, này Arittha, niệm hơi
thở vô, hơi thở ra được phát triển, được làm cho sung mãn.
7. VII. Kappina (S.v,315)
1-2) Tại Sàvatthi...
3) Lúc bấy giờ Tôn giả Mahà
Kappina đang ngồi kiết-già, không xa bao nhiêu, thân thẳng, để niệm trước
mặt.
4) Thế Tôn thấy Tôn giả Mahà
Kappina ngồi kiết-già, không xa bao nhiêu, thân thẳng, để niệm trước mặt.
Thấy vậy, Ngài liền gọi các Tỷ-kheo:
-- Này các Tỷ-kheo, các Ông có thấy
Tỷ-kheo ấy, thân có rung động hay có dao động không?
5) -- Bạch Thế Tôn, chúng con thấy
vị Tôn giả ấy ngồi giữa Tăng chúng hay ngồi một mình, độc cư; chúng
con không thấy vị Tôn giả ấy thân bị rung động hay dao động.
6) -- Đối với một vị có Thiền
định như vậy, này các Tỷ-kheo, nhờ tu tập, nhờ làm cho sung mãn, nên
thân vị ấy không rung động hay dao động, nên tâm vị ấy không rung động
hay dao động. Đối với vị Tỷ-kheo ấy, được định như vậy, không có
khó khăn, không có gian nan, không có mệt nhọc.
7) Và này các Tỷ-kheo, vị ấy tu tập,
làm cho sung mãn định nào mà thân không rung động, không dao động, hay tâm
không rung động, không dao động? Này các Tỷ-kheo, do vị ấy tu tập, làm
cho sung mãn định niệm hơi thở vô, hơi thở ra, nên thân không rung động,
không dao động, hoặc tâm không rung động hay dao động.
8) Và này các Tỷ-kheo, định niệm
hơi thở vô, hơi thở ra tu tập như thế nào, làm cho sung mãn như thế nào
mà thân không rung động hay không dao động, hoặc tâm không rung động hay
không dao động?
9-15) Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị
ấy đi đến khu rừng, hay đi đến gốc cây, hay đi đến căn nhà trống,
ngồi-kiết già... "Quán từ bỏ, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập,
"Quán từ bỏ, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.
16) Nhờ tu tập như vậy, định niệm
hơi thở vô, hơi thở ra, này các Tỷ-kheo, nhờ làm cho sung mãn như vậy nên
thân không bị rung động hay dao động, hoặc tâm không rung động hay dao động.
8. VIII. Ngọn Đèn (S.v,316)
1-2) Sàvatthi... nói như sau:
3) -- Định niệm hơi thở vô, hơi
thở ra, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn thời có
quả lớn, có lợi ích lớn. Và này các Tỷ-kheo, tu tập định niệm hơi
thở vô, hơi thở ra như thế nào, làm cho sung mãn như thế nào thời có quả
lớn, có lợi ích lớn?
4-10) Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đi đến khu rừng, hay đi đến gốc cây, hay đi đến căn nhà trống...
"Quán từ bỏ, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán từ bỏ,
tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.
11) Định niệm hơi thở vô, hơi thở
ra, này các Tỷ-kheo, tu tập như vậy, làm cho sung mãn như vậy thời có quả
lớn, có lợi ích lớn.
12) Này các Tỷ-kheo, Ta trước khi
giác ngộ, chưa chứng Chánh Đẳng Giác, khi còn là Bồ-tát, Ta trú nhiều với
trú này. Này các Tỷ-kheo, do Ta trú nhiều với trú này, thân Ta và con mắt
không có mệt nhọc; và tâm Ta được giải thoát khỏi các lậu hoặc,
không có chấp thủ.
13) Do vậy, này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo
ước muốn rằng: "Mong rằng thân và mắt khỏi bị mệt mỏi, và mong
rằng tâm tôi được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp thủ",
thời định niệm hơi thở vô và hơi thở ra này cần phải khéo tác ý.
14) Do vậy, này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo
ước muốn rằng: "Mong rằng các niệm, các tư duy của ta được đoạn
tận", thời định niệm hơi thở vô, hơi thở ra này phải được khéo
tác ý.
15) Do vậy, này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo
ước muốn rằng: "Mong rằng ta sẽ trú với tưởng nhàm chán đối với
các pháp không nhàm chán", thời định niệm hơi thở vô, hơi thở ra này
cần phải được khéo tác ý.
16) Do vậy, này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo
ước muốn rằng: "Mong rằng ta sẽ trú với tưởng không nhàm chán đối
với các pháp nhàm chán", thời định niệm hơi thở vô, hơi thở ra này
cần phải được khéo tác ý.
17) Do vậy, này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo
ước muốn rằng: "Tôi sẽ trú với tưởng nhàm chán đối với các
pháp không nhàm chán và nhàm chán", thời định niệm...
18) Do vậy, này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo
ước muốn rằng: "Tôi sẽ trú với tưởng không nhàm chán đối với
các pháp nhàm chán và không nhàm chán", thời định niệm...
19) Do vậy, này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo
ước muốn rằng: "Mong rằng sau khi từ bỏ cả hai không nhàm chán và
nhàm chán, tôi sẽ trú xả, chánh niệm, tỉnh giác", thời định niệm...
20) Do vậy, này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo
ước muốn rằng: "Mong rằng ly dục, ly pháp bất thiện, tôi sẽ chứng
đạt và an trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh,
có tầm, có tứ", thời định niệm...
21) Do vậy, này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo
ước muốn rằng: "Mong rằng làm cho tịnh chỉ tầm và tứ, tôi sẽ chứng
đạt và an trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không
tầm, không tứ, nội tĩnh, nhất tâm", thời định niệm...
22) Do vậy, này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo
ước muốn rằng: "Mong rằng ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh
giác,thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú,
tôi sẽ chứng đạt và an trú Thiền thứ ba", thời định niệm...
23) Do vậy, này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo
ước muốn rằng: "Mong rằng đoạn lạc, đoạn khổ, chấm dứt hỷ
ưu đã cảm thọ trước, tôi chứng đạt và an trú Thiền thứ tư, không
khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh", thời định niệm...
24) Do vậy, này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo
ước muốn rằng: "Vượt qua sắc tưởng một cách hoàn toàn, chấm dứt
đối ngại tưởng, không tác ý các tưởng sai biệt, nghĩ rằng: ‘Hư không
là vô biên", chứng đạt và an trú Không vô biên xứ", thời định
niệm...
25) Do vậy, này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo
ước muốn rằng: "Vượt qua Không vô biên xứ một cách hoàn toàn, nghĩ
rằng: ‘Thức là vô biên", tôi có thể chứng đạt và an trú Thức
vô biên xứ", thời định niệm...
26) Do vậy, này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo
ước muốn rằng: "Vượt qua Thức vô biên xứ một cách hoàn toàn, nghĩ
rằng: ‘Không có vật gì’, tôi sẽ chứng đạt và an trú Vô sở hữu xứ",
thời định niệm...
27) Do vậy, này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo
ước muốn rằng: "Vượt qua Vô sở hữu xứ một cách hoàn toàn, tôi
sẽ chứng đạt và an trú Phi tưởng phi phi tưởng xứ", thời định
niệm hơi thở vô, hơi thở ra này cần phải được khéo tác ý.
28) Do vậy, này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo
ước muốn rằng: "Vượt qua Phi tưởng phi phi tưởng xứ một cách
hoàn toàn, tôi sẽ chứng đạt và an trú Diệt thọ tưởng định", thời
định niệm hơi thở vô, hơi thở ra này cần phải được khéo tác ý.
29) Trong khi tu tập định niệm hơi
thở vô, hơi thở ra như vậy, này các Tỷ-kheo, trong khi làm cho sung mãn như
vậy, vị ấy cảm giác lạc thọ. Vị ấy rõ biết: "Thọ ấy là vô
thường". Vị ấy rõ biết: "Không có chấp trước thọ ấy".
Vị ấy rõ biết: "Không có hoan duyệt thọ ấy". Nếu vị ấy cảm
giác khổ thọ, vị ấy rõ biết: "Thọ ấy là vô thường". Vị
ấy rõ biết: "Không chấp trước thọ ấy". Vị ấy rõ biết
không hoan duyệt thọ ấy". Nếu vị ấy cảm giác bất khổ bất lạc
thọ. Vị ấy rõ biết: "Thọ ấy là vô thường". Vị ấy rõ biết:
"Không có chấp trước thọ ấy". Vị ấy rõ biết: "Không có
hoan duyệt thọ ấy".
30) Nếu vị ấy cảm giác lạc thọ,
thọ ấy được cảm thọ không bị trói buộc. Nếu vị ấy cảm giác khổ
thọ, thọ ấy được cảm thọ không bị trói buộc. Nếu vị ấy cảm
giác bất khổ bất lạc thọ, thọ ấy được cảm thọ không bị trói buộc.
Khi vị ấy đang cảm giác một cảm thọ tận cùng sức chịu đựng của
thân, vị ấy rõ biết: "Tôi cảm giác một cảm thọ tận cùng sức chịu
đựng của thân". Khi vị ấy cảm giác một cảm thọ tận cùng sức
chịu đựng của sinh mạng, vị ấy rõ biếy: "Tôi cảm giác một cảm
thọ tận cùng sức chịu đựng của sinh mạng". Khi thân hoại mạng
chung, vị ấy rõ biết: "Ở đây, tất cả mọi cảm thọ đều không
có gì được hân hoan, và sẽ trở thành mát lạnh".
31) Ví như, này các Tỷ-kheo, do
duyên dầu, duyên tim, một cây đèn dầu được cháy sáng. Nếu dầu và tim
của ngọn đèn ấy đi đến tiêu diệt, nhiên liệu không được mang đến,
thời ngọn đèn sẽ tắt. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, khi Tỷ-kheo cảm
giác một cảm thọ tận cùng sức chịu đựng của thân, vị ấy rõ biết:
"Tôi cảm giác một cảm thọ tận cùng sức chịu đựng của thân".
Khi Tỷ-kheo cảm giác một cảm thọ tận cùng sức chịu đựng của sinh mạng,
vị ấy rõ biết: "Tôi cảm giác một cảm thọ tận cùng sức chịu đựng
của sinh mạng". Khi thân hoại mạng chung, vị ấy rõ biết: "Ở đây,
tất cả những gì được cảm thọ đều không có gì được hân hoan, và
sẽ trở thành mát lạnh".
9. IX. Vesàli (S.v,320)
1) Như vầy tôi nghe.
Một thời, Thế Tôn ở giữa dân
chúng Vesàli, tại Đại Lâm, ngôi nhà có nóc nhọn.
2) Lúc bấy giờ Thế Tôn dùng nhiều
phương tiện giảng về bất tịnh, nêu rõ về bất tịnh, tán thán sự tu
tập bất tịnh.
3) Rồi Thế Tôn nói với các Tỷ-kheo:
-- Ta muốn sống Thiền tịnh một
mình trong nửa tháng, không gặp một ai, trừ người đem đồ ăn cho Ta.
-- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế
Tôn, không cho một ai đến thăm Thế Tôn, trừ một người đem đồ ăn.
4) Rồi các Tỷ-kheo ấy được nghe
Thế Tôn dùng nhiều pháp môn nói về bất tịnh, nêu rõ về bất tịnh,
nói lời tán thán sự tu tập bất tịnh, nên sống chuyên chú tu tập bất
tịnh dưới nhiều hình thức sai biệt. Họ tủi hổ với thân này, tàm
quý và nhàm chán, tầm cầu đem lại con dao. Mười Tỷ-kheo một ngày đem lại
con dao... Hai mươi... Ba mươi Tỷ-kheo trong một ngày đem lại con dao.
5) Rồi Thế Tôn sau nửa tháng, từ
Thiền tịnh đứng dậy và bảo Tôn giả Ananda:
-- Này Ananda, vì sao chúng Tỷ-kheo
giảm thiểu như vậy?
6) -- Bạch Thế Tôn, vì Thế Tôn
dùng nhiều pháp môn thuyết cho các Tỷ-kheo về bất tịnh, nêu rõ về bất
tịnh, tán thán sự tu tập bất tịnh, nên các vị ấy sống chuyên chú tu
tập bất tịnh dưới nhiều hình thức sai biệt. Họ tủi hổ với thân nầy,
tàm quý và nhàm chán, tầm cầu đem lại con dao. Mười Tỷ-kheo trong một
ngày đem lại con dao... Hai mươi... Ba mươi Tỷ-kheo trong một ngày đem lại
con dao. Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn thuyết cho pháp môn khác, nhờ
vậy chúng Tỷ-kheo được an trú vào chánh trí.
7) -- Vậy này Ananda, hãy tập họp
tại giảng đường tất cả các Tỷ-kheo trú xung quanh Vesàli.
-- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Tôn giả Ananda vâng đáp Thế Tôn
và mời tất cả Tỷ-kheo trú xung quanh Vesàli tập họp tại giảng đường,
rồi Tôn giả Ananda đi đến Thế Tôn; sau khi đến, bạch Thế Tôn:
-- Bạch Thế Tôn, chúng Tỷ-kheo đã
tập họp. Nay Thế Tôn hãy làm những gì Thế Tôn nghĩ là phải thời.
8) Rồi Thế Tôn đi đến giảng
đường; sau khi đến, ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn. Thế Tôn bảo
các Tỷ-kheo:
9) -- Này các Tỷ-kheo, định niệm
hơi thở vô, hơi thở ra này được tu tập, được làm cho sung mãn là tịch
tịnh, thù diệu, thuần nhất (asecanako), lạc trú, làm cho các ác, bất thiện
pháp đã sanh biến mất, tịnh chỉ lập tức (thànaso).
10) Ví như, này các Tỷ-kheo, trong
cuối mùa hạ, bụi nhớp bay lên và một đám mưa lớn trái mùa lập tức
làm chúng biến mất, tịnh chỉ. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, định niệm
hơi thở vô, hơi thở ra được tu tập, được làm cho sung mãn là tịch tịnh,
thù diệu, thuần nhất, lạc trú, làm cho các ác, bất thiện pháp đã sanh
biến mất, tịnh chỉ lập tức.
11) Và này các Tỷ-kheo, định niệm
hơi thở vô, hơi thở ra, được tu tập như thế nào, được làm cho sung
mãn như thế nào là tịch tịnh, thù diệu, thuần nhất, lạc trú, làm cho
các ác, bất thiện pháp đã sanh được biến mất và tịnh chỉ lập tức?
12-18) Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đi đến khu rừng, hay đi đến gốc cây, hay đi đến căn nhà trống, ngồi
kiết-già... "Quán từ bỏ, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập.
"Quán từ bỏ, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.
19) Này các Tỷ-kheo, định niệm
hơi thở vô, hơi thở ra tu tập như vậy, làm cho sung mãn như vậy là tịch
tịnh, thù diệu, thuần nhất, lạc trú, và các ác, bất thiện pháp đã
sanh được biến mất và tịnh chỉ lập tức.
10. X. Kimbila (S.v,322)
1) Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú ở Kimbila,
tại Veluvana.
2) Ở đấy, Thế Tôn gọi Tôn giả
Kimbila:
-- Tu tập như thế nào, này Kimbila,
làm cho sung mãn như thế nào, định niệm hơi thở vô, hơi thở ra được
quả lớn, được lợi ích lớn?
Khi được nói vậy, Tôn giả
Kimbila im lặng.
3) Lần thứ hai, Thế Tôn...
4) Lần thứ ba, Thế Tôn bảo Tôn
giả Kimbila:
-- Tu tập như thế nào, này Kimbila,
làm cho sung mãn như thế nào, định niệm hơi thở vô, hơi thở ra thời
được quả lớn, được lợi ích lớn?
Lần thứ ba, Tôn giả Kimbila im lặng.
5) Được nói vậy, Tôn giả Ananda
bạch Thế Tôn:
-- Nay đã đến thời, bạch Thế Tôn.
Nay đã đến thời, bạch Thiện Thệ. Mong Thế Tôn giảng dạy pháp tu tập
định niệm hơi thở vô, hơi thở ra! Sau khi nghe Thế Tôn dạy, các Tỷ-kheo
sẽ thọ trì.
-- Vậy này Ananda, hãy nghe và khéo
tác ý, Ta sẽ giảng.
-- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Tôn giả Ananda vâng đáp Thế Tôn.
6) Thế Tôn nói như sau:
-- Định niệm hơi thở vô, hơi thở
ra, này Ananda, tu tập như thế nào, làm cho sung mãn như thế nào thời có
quả lớn, có lợi ích lớn?
7-13) Ở đây, này Ananda, Tỷ-kheo
đi đến khu rừng, hay đi đến gốc cây, hay đi đến căn nhà trống...
"Quán từ bỏ, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán từ bỏ,
tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.
14) Tu tập như vậy, này Ananda, làm
cho sung mãn như vậy, định niệm hơi thở vô, hơi thở ra thời có quả lớn,
có lợi ích lớn.
15) Lúc nào, này Ananda, Tỷ-kheo thở
vô dài, vị ấy rõ biết: "Tôi thở vô dài". Hay khi Tỷ-kheo thở
ra dài, vị ấy rõ biết: "Tôi thở ra dài". Hay khi Tỷ-kheo thở vô
ngắn, vị ấy rõ biết: "Tôi thở vô ngắn". Hay khi Tỷ-kheo thở
ra ngắn, vị ấy rõ biết: "Tôi thở ra ngắn". "Cảm giác toàn
thân, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác toàn thân, tôi sẽ
thở ra", vị ấy tập. "An tịnh thân hành, tôi sẽ thở vô", vị
ấy tập. "An tịnh thân hành, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. Này
Ananda, sống quán thân trên thân, Tỷ-kheo trú như vậy, nhiệt tâm, tỉnh
giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời. Vì sao?
16) Này Ananda, Ta tuyên bố rằng,
tùy thuộc về thân, tức là hơi thở vô, hơi thở ra. Do vậy, này Ananda,
quán thân trên thân, Tỷ-kheo trú như vậy, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm,
nhiếp phục tham ưu ở đời.
17) Trong khi, này Ananda, Tỷ-kheo:
"Cảm giác hỷ thọ, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm
giác hỷ thọ, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Cảm giác lạc thọ,
tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác lạc thọ, tôi sẽ thở
ra", vị ấy tập. "Cảm giác tâm hành, tôi sẽ thở vô", vị
ấy tập. "Cảm giác tâm hành, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.
"An tịnh tâm hành, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "An tịnh
tâm hành, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. Trong khi quán thọ trên các cảm
thọ, Tỷ-kheo trú như vậy, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục
tham ưu ở đời. Vì sao?
18) Này Ananda, Ta tuyên bố rằng,
tùy thuộc về thọ, tức là hơi thở vô, hơi thở ra, được khéo tác ý.
Do vậy, này Ananda, quán thọ trên các cảm thọ, Tỷ-kheo trú như vậy, nhiệt
tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời.
19) Trong khi, này Ananda, Tỷ-kheo:
"Cảm giác về tâm, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác
về tâm, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Với tâm hân hoan, tôi sẽ
thở vô", vị ấy tập. "Với tâm hân hoan, tôi sẽ thở ra", vị
ấy tập. "Với tâm định tĩnh, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập.
"Với tâm định tĩnh, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Với
tâm giải thoát, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Với tâm giải
thoát, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. Trong khi quán tâm trên tâm, Tỷ-kheo
trú như vậy, nhiệt tâm, tỉnh giác, nhiếp phục tham ưu ở đời. Vì sao?
20) Này Ananda, Ta tuyên bố rằng sự
tu tập chánh niệm hơi thở vô, hơi thở ra không phải cho người thất niệm
và không tỉnh giác. Do vậy, này Ananda, quán tâm trên tâm, Tỷ-kheo trong khi
ấy, trú nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời.
21) Trong khi Tỷ-kheo, này Ananda,
"Quán vô thường, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán vô thường,
tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Quán ly tham, tôi sẽ thở vô",
vị ấy tập. "Quán ly tham, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.
"Quán đoạn diệt, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán đoạn
diệt, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Quán từ bỏ, tôi sẽ thở
vô", vị ấy tập. "Quán từ bỏ, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.
Trong khi quán pháp trên các pháp, này Ananda, Tỷ-kheo trú như vậy, nhiệt tâm,
tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời, đoạn tận các tham
ưu; sau khi thấy với trí tuệ, vị ấy khéo trú xả. Do vậy, này Ananda,
quán pháp trên các pháp, Tỷ-kheo trú như vậy, nhiệt tâm, tỉnh giác,
chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời.
22) Ví như, này Ananda, một đống rác
bụi lớn ở ngã tư đường, nếu từ phương Đông, một cái xe (sakatam hay
ràtha) đi đến và làm cho đống rác bụi ấy giảm bớt đi; nếu từ
phương Tây...; nếu từ phương Bắc...; nếu từ phương Nam, một cái xe đi
đến và làm cho đống rác bụi ấy giảm bớt đi. Cũng vậy, này Ananda, Tỷ-kheo
trong khi trú, quán thân trên thân, làm cho giảm bớt đi các ác, bất thiện
pháp, khi trú, quán thọ trên các cảm thọ... khi trú, quán tâm trên tâm...
khi trú, quán pháp trên các pháp... làm cho giảm bớt đi các ác, bất thiện
pháp.
II. Phẩm Thứ Hai
11. I. Icchànangala (S.v,325)
1) Một thời, Thế Tôn trú ở
Icchànangala, tại khóm rừng ở Icchànangala.
2) Tại đấy, Thế Tôn bảo các Tỷ-kheo:
-- Ta muốn sống độc cư Thiền tịnh
trong ba tháng, không tiếp một ai, trừ một người đem đồ ăn lại.
-- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế
Tôn. Như vậy, không một ai đến viếng Thế Tôn, trừ một người đem đồ
ăn lại.
3) Rồi Thế Tôn, sau khi ba tháng ấy
đã mãn, từ chỗ Thiền tịnh độc cư đứng dậy, gọi các Tỷ-kheo:
-- Này các Tỷ-kheo, nếu các du sĩ
ngoại đạo đến hỏi các Ông: "Với sự an trú nào, này chư Hiền,
Sa-môn Gotama an trú nhiều trong mùa mưa?" Được hỏi vậy, này các Tỷ-kheo,
các Ông hãy trả lời cho cho các du sĩ ngoại đạo ấy như sau: "Với
định niệm hơi thở vô, hơi thở ra, này chư Hiền, Thế Tôn an trú nhiều
trong các mùa mưa".
4) Ở đây, này các Tỷ-kheo, chánh
niệm Ta thở vô, chánh niệm Ta thở ra.
5-10) Hay thở vô dài, Ta rõ biết:
"Ta thở vô dài". Hay thở ra dài, Ta rõ biết: "Ta thở ra
dài". Hay thở vô ngắn, Ta rõ biết: "Ta thở vô ngắn". Hay thở
ra ngắn, Ta rõ biết: "Ta thở ra ngắn"... "Quán từ bỏ, Ta thở
vô", Ta rõ biết như vậy. "Quán từ bỏ, Ta thở ra", Ta rõ biết
như vậy.
11) Này các Tỷ-kheo, ai muốn nói một
cách chơn chánh, đây là Thánh trú, đây là Phạm trú, đây là Như Lai trú;
người ấy nói một cách chơn chánh, phải nói định niệm hơi thở vô, hơi
thở ra là Thánh trú, là Phạm trú, là Như Lai trú.
12) Này các Tỷ-kheo, những Tỷ-kheo
nào là bậc hữu học, tâm chưa thành tựu, đang sống cần cầu vô thượng
an ổn khỏi các khổ ách; những vị ấy tu tập, làm cho sung mãn định niệm
hơi thở vô, hơi thở ra, sẽ đưa đến đoạn tận các lậu hoặc. Và này
các Tỷ-kheo, những Tỷ-kheo nào là bậc A-la-hán, đoạn tận các lậu hoặc,
tu hành thành mãn, những việc nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống,
đã thành đạt lý tưởng, đã tận trừ hữu kiết sử, chánh trí, giải
thoát; những vị ấy tu tập, làm cho sung mãn định niệm hơi thở vô, hơi
thở ra, ngay trong hiện tại, đưa đến lạc trú, chánh niệm tỉnh giác.
13) Này các Tỷ-kheo, ai muốn nói một
cách chơn chánh, đây là Thánh trú, đây là Phạm trú, đây là Như Lai trú;
người ấy nói một cách chơn chánh, phải nói định niệm hơi thở vô, hơi
thở ra là Thánh trú, là Phạm trú, là Như Lai trú.
12. II. Nghi Ngờ (S.v,327)
1) Một thời Tôn giả Lomasavangiisa
trú giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, trong khu vườn Nigrodha.
2) Lúc bấy giờ Thích tử Mahànàma
đi đến Tôn giả Lomasavangiisa; sau khi đến, đảnh lễ Tôn giả
Lomasavangiisa rồi ngồi xuống một bên. Ngồi một bên, Thích tử Mahànàma
thưa với Tôn giả Lomasavangiisa:
3) -- Thưa Tôn giả, hữu học trú với
Như Lai trú là một, hay hữu học trú là khác, Như Lai trú là khác?
-- Này Hiền giả Mahànàma, hữu học
trú không phải là một với Như Lai trú. Này Hiền giả Mahànàma, hữu học
trú là khác, Như Lai trú là khác.
4) Này Hiền giả Mahànàma, những Tỷ-kheo
nào là bậc hữu học, tâm chưa thành tựu, đang sống cần cầu vô thượng
an ổn khỏi các khổ ách; sau khi đoạn tận năm triền cái, những vị ấy
trú. Thế nào là năm? Đoạn tận dục tham triền cái, các vị ấy trú. Đoạn
tận sân triền cái... Đoạn tận hôn trầm thụy miên triền cái... Đoạn
tận trạo hối triền cái... Đoạn tận nghi hoặc triền cái, các vị ấy
trú. Này Hiền giả Mahànàma, những Tỷ-kheo nào là bậc hữu học, trú với
tâm chưa thành tựu, đang sống cần cầu vô thượng an ổn khỏi các khổ
ách; sau khi đoạn tận năm triền cái này, những vị ấy trú.
5) Và này Hiền giả Mahànàma, những
Tỷ-kheo nào là bậc A-la-hán, đã đoạn tận các lậu hoặc, đã tu hành
thành mãn, những việc nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã
thành đạt lý tưởng, đã tận trừ hữu kiết sử, chánh trí, giải
thoát; những vị ấy đoạn tận năm triền cái, chặt đứt tận gốc rễ,
làm cho như thân cây ta-la, làm cho không thể tái sanh, làm cho không thể khởi
lên. Thế nào là năm? Dục tham triền cái được đoạn tận, được chặt
đứt từ gốc rễ, được làm cho như thân cây ta-la, được làm cho không
thể tái sanh, được làm cho không thể khởi lên; sân triền cái được
đoạn tận... hôn trầm thụy miên triền cái được đoạn tận... trạo hối
triền cái được đoạn tận... nghi hoặc triền cái được đoạn tận,
được chặt đứt từ gốc rễ, được làm cho như thân cây ta-la, được
làm cho không thể tái sanh, được làm cho không thể khởi lên. Này Hiền
giả Mahànàma, Tỷ-kheo là bậc A-la-hán, đã đoạn tận các lậu hoặc, đã
tu hành thành mãn, những việc nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống,
đã thành đạt lý tưởng, đã tận trừ hữu kiết sử, chánh trí, giải
thoát; những vị ấy đã đoạn tận năm triền cái này, đã chặt đứt từ
gốc rễ, đã làm cho như thân cây ta-la, đã làm cho không thể tái sanh, đã
làm cho không thể khởi lên.
6) Như vậy, với pháp môn này, này
Hiền giả Mahànàma, Hiền giả cần phải hiểu rằng hữu học trú là
khác, Như Lai trú là khác.
7) 1. -- Một thời, thưa Hiền giả
Mahànàma, Thế Tôn trú ở Icchànangala, tại khu rừng Icchànangala.
8) 2. Rồi này Mahànàma, Thế Tôn bảo
các Tỷ-kheo:
9) 3. Rồi Thế Tôn...
10) 4. "Ở đây, này các Tỷ-kheo,
Ta...
11-16) 5-10. Thở vô dài...
17) 11. Ai muốn nói một cách chơn
chánh, đây là Thánh trú...
18) 12. Những ai là những Tỷ-kheo hữu
học...
19) 13. Ai muốn nói một cách chơn
chánh..".
20) Với pháp môn này, này Hiền giả
Mahànàma, cần phải hiểu như sau: Hữu học trú là khác, Như Lai trú là
khác.
13. III. Aananda (1) (S.v,328)
1-2) Sàvatthi...
Rồi Tôn giả Ananda đi đến Thế Tôn...
Ngồi xuống một bên, Tôn giả Ananda bạch Thế Tôn:
3) -- Bạch Thế Tôn, có một pháp
nào được tu tập, được làm cho sung mãn, làm cho viên mãn bốn pháp? Bốn
pháp được tu tập, được làm cho sung mãn, làm cho viên mãn bảy pháp? Bảy
pháp được tu tập, được làm cho sung mãn, làm cho viên mãn hai pháp?
-- Này Ananda, có một pháp được
tu tập, được làm cho sung mãn, làm cho viên mãn bốn pháp. Bốn pháp được
tu tập, được làm cho sung mãn, làm cho viên mãn bảy pháp. Bảy pháp được
tu tập, được làm cho sung mãn, làm cho viên mãn hai pháp.
4) -- Một pháp ấy là gì, bạch Thế
Tôn, được tu tập, được làm cho sung mãn, làm cho viên mãn bốn pháp? Bốn
pháp được tu tập, được làm cho sung mãn, làm cho viên mãn bảy pháp? Bảy
pháp được tu tập được làm cho sung mãn, làm cho viên mãn hai pháp?
-- Này Ananda, định niệm hơi thở
vô, hơi thở ra được tu tập, được làm cho sung mãn, làm cho viên mãn bốn
niệm xứ. Bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, làm cho
viên mãn bảy giác chi. Bảy giác chi được tu tập, được làm cho sung
mãn, làm cho viên mãn minh và giải thoát.
I
5) Định niệm hơi thở vô, hơi thở
ra tu tập như thế nào, làm cho sung mãn như thế nào, làm cho viên mãn bốn
niệm xứ?
6-12) Ở đây, này Ananda, Tỷ-kheo
đi đến khu rừng, hay đi đến gốc cây, hay đi đến căn nhà trống...
"Quán từ bỏ, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.
13-14) Lúc nào, này Ananda, Tỷ-kheo
thở vô dài, vị ấy rõ biết: "Tôi thở vô dài..". Này Ananda, sống
quán thân trên thân, Tỷ-kheo trong khi ấy trú nhứt tâm, tỉnh giác, chánh
niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời. Vì sao? (xem 10, đoạn số 15-16)...
15-16) Trong khi, này Ananda, Tỷ-kheo
"Cảm giác hỷ thọ, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập... tham ưu ở
đời. (xem 10, đoạn số 17-18)
17-18) Trong khi, này Ananda, Tỷ-kheo
"Cảm giác về tâm, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập... tham ưu ở đời.
(xem 10, đoạn số 19-20)
19) Trong khi, này Ananda, Tỷ-kheo
"Quán vô thường, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập... nhiếp phục
tham ưu ở đời. (xem 10, đoạn số 20-21)
20) Định niệm hơi thở vô, hơi thở
ra, này Ananda, được tu tập như vậy, được làm cho sung mãn như vậy, làm
viên mãn bốn niệm xứ.
II
21) Tu tập như thế nào, này Ananda,
làm cho sung mãn như thế nào, bốn niệm xứ làm cho viên mãn bảy giác chi?
22) Trong khi, này Ananda, Tỷ-kheo
trú, quán thân trên thân, niệm được an trú; khi ấy, này Ananda, Tỷ-kheo
có niệm, không phải thất niệm. Trong khi, này Ànanda, Tỷ-kheo an trú niệm,
không phải thất niệm, thời niệm giác chi, đối với Tỷ-kheo ấy được
thành tựu. Trong khi, này Ananda, Tỷ-kheo tu tập niệm giác chi, niệm giác
chi được Tỷ-kheo tu tập đi đến viên mãn. Vị ấy trú chánh niệm như vậy,
với trí tuệ quyết trạch, tư sát, thành tựu quán pháp ấy.
23) Trong khi, này Ananda, Tỷ-kheo sống
chánh niệm như vậy, với trí tuệ quyết trạch, tư sát và đi đến quán
sát ấy; khi ấy, này Ananda, trạch pháp giác chi bắt đầu phát khởi trong
Tỷ-kheo ấy. Trong khi Tỷ-kheo tu tập trạch pháp giác chi; khi ấy, nhờ tu tập,
trạch pháp giác chi đi đến viên mãn. Trong khi vị ấy với trí tuệ, quyết
trạch, tư sát và thành tựu quán sát pháp ấy, thời tinh tấn, không thụ
động bắt đầu phát khởi nơi vị ấy.
24) Trong khi, này Ananda, Tỷ-kheo với
trí tuệ quyết trạch, tư sát và thành tựu quán sát pháp ấy, thời tinh tấn,
không thụ động phát khởi trong Tỷ-kheo ấy. Trong khi Tỷ-kheo tu tập tinh
tấn giác chi; khi ấy, nhờ tu tập, tinh tấn giác chi đi đến viên mãn. Với
vị có tinh cần, có tinh tấn, hỷ không liên hệ đến vật chất khởi lên.
25) Trong khi, này Ananda, Tỷ-kheo tinh
cần, tinh tấn, hỷ không liên hệ đến vật chất khởi lên; khi ấy, hỷ
giác chi bắt đầu phát khởi trong Tỷ-kheo ấy. Trong khi Tỷ-kheo tu tập hỷ
giác chi; khi ấy, nhờ tu tập, hỷ giác chi đi đến viên mãn. Với vị có
ý hoan hỷ, thân được khinh an, tâm được khinh an.
26) Trong khi, này Ananda, Tỷ-kheo với
ý hoan hỷ, thân được khinh an, tâm được khinh an; khi ấy, khinh an giác
chi bắt đầu phát khởi trong Tỷ-kheo ấy. Trong khi Tỷ-kheo tu tập khinh an
giác chi; khi ấy, nhờ tu tập, khinh an giác chi đi đến viên mãn. Với vị
có thân khinh an, lạc hiện hữu. Với vị có lạc, tâm được định tĩnh.
27) Trong khi, này Ananda, Tỷ-kheo có
tâm khinh an, được an lạc, tâm được định tĩnh; khi ấy, này các Tỷ-kheo,
định giác chi bắt đầu phát khởi trong Tỷ-kheo ấy. Trong khi, Tỷ-kheo tu
tập định giác chi; khi ấy, định giác chi, nhờ tu tập, đi đến viên
mãn. Vị ấy với tâm định tĩnh như vậy, khéo trú xả nhìn sự vật.
29) Trong khi, này Ananda, Tỷ-kheo với
tâm định tĩnh khéo trú xả nhìn (sự vật) như vậy; khi ấy, này Ananda, xả
giác chi bắt đầu phát khởi trong Tỷ-kheo ấy. Trong khi Tỷ-kheo tu tập xả
giác chi; khi ấy, xả giác chi, nhờ tu tập, đi đến viên mãn.
29-31) Trong khi, này Ananda, Tỷ-kheo
trú, quán thọ trên các cảm thọ... quán tâm trên tâm... quán pháp trên
các pháp... (như trên, từ đoạn số 22-28)
32) Tu tập như vậy, này Ananda, làm
cho sung mãn như vậy, bốn niệm xứ làm viên mãn bảy giác chi.
III.
33) Tu tập như thế nào, làm cho
sung mãn như thế nào, bảy giác chi làm viên mãn minh và giải thoát?
34) Ở đây, này Ananda, Tỷ-kheo tu tập
niệm giác chi liên hệ đến viễn ly, liên hệ đến ly tham, liên hệ đến
đoạn diệt, hướng đến từ bỏ... tu tập xả giác chi liên hệ đến viễn
ly, liên hệ đến ly tham, liên hệ đến đoạn diệt, hướng đến từ bỏ.
35) Tu tập như vậy, làm cho sung
mãn như vậy, bảy giác chi làm viên mãn minh và giải thoát.
14. IV. Ananda (2)(S.v,333)
1). ..
2) Rồi Tôn giả Ananda đi đến Thế
Tôn... Thế Tôn nói với Tôn giả Ananda:
(Rồi Thế Tôn hỏi câu hỏi giống
như trước và Ananda trả lời).
"Đối với chúng con, các pháp
lấy Thế Tôn làm căn bản.."..
(Rồi Thế Tôn lập lại toàn bộ
như kinh trước, từ đoạn số 3-35)
15. V. Tỷ Kheo (1) (S.v,334)
(Ở đây, các Tỷ-kheo hỏi cùng một
câu hỏi ấy và được Thế Tôn trả lời toàn bộ đúng như kinh trước,
từ đoạn số 3-35)
16. VI. Tỷ Kheo (2) (S.v,335)
(Ở đây, Thế Tôn hỏi các Tỷ-kheo
cùng một câu hỏi, các Tỷ-kheo trả lời các pháp lấy Thế Tôn làm căn bản...,
rồi Thế Tôn trả lời toàn bộ đúng như kinh trước).
17. VII. Kiết Sử (S.v,340)
1). ..
2) -- Định niệm hơi thở vô, hơi
thở ra, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến
đoạn tận các kiết sử.
18. VIII. Tùy Miên (S.v,340)
1). ..
2). .. đưa đến nhổ sạch các tùy
miên.
19. IX. Con Đường (S.v,340)
1). ..
2). .. đưa đến liễu tri con đường
(ba kinh trên được giải thích như kinh kế tiếp).
20. X. Đoạn Tận Các Lậu Hoặc (S.v,340)
1). ..
2). .. đưa đến đoạn tận các lậu
hoặc.
3) -- Này các Tỷ-kheo, tu tập như
thế nào, làm cho sung mãn như thế nào, định niệm hơi thở vô, hơi thở
ra đưa đến đoạn tận các kiết sử... đưa đến nhổ sạch các tùy
miên... đưa đến liễu tri con đường... đưa đến đoạn tận các lậu hoặc?
4-10) Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đi đến khu rừng, hay đi đến gốc cây, hay đi đến căn nhà trống...
"Quán từ bỏ, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.
11) Tu tập như vậy, làm cho sung
mãn như vậy, định niệm hơi thở vô, hơi thở ra đưa đến đoạn tận các
kiết sử... nhổ sạch các tùy miên... liễu tri con đường... đoạn tận các
lậu hoặc.