- Kinh Tương Ưng Bộ
- HT. Thích Minh Châu dịch
- Phần 24
- Chương III : Tương Ưng Kiến
I. Phẩm Dự Lưu
I. Gió (Tạp 7, Đại 2,45a)
(S.iii,202)
1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...
Thế Tôn nói với các Tỷ-kheo:
-- Do có cái gì, này các Tỷ-kheo,
do chấp thủ cái gì, do thiên chấp cái gì, (tà) kiến này khởi lên:
"Gió không thổi, sông không chảy, đàn bà mang thai không sanh, mặt trăng,
mặt trời không mọc hay không lặn. Tất cả đều đứng vững như cột trụ"?
3) -- Đối với chúng con, bạch Thế
Tôn, các pháp lấy Thế Tôn làm căn bản, lấy Thế Tôn làm lãnh đạo, lấy
Thế Tôn làm chỗ nương tựa. Lành thay, bạch Thế Tôn! Thế Tôn hãy nói
cho chúng con ý nghĩa của lời dạy ấy. Sau khi nghe lời dạy của Thế Tôn,
các Tỷ-kheo sẽ thọ trì.
-- Vậy này các Tỷ-kheo, hãy nghe
và suy nghiệm kỹ, Ta sẽ giảng.
-- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế
Tôn. Thế Tôn nói như sau:
4) -- Do có sắc, này các Tỷ-kheo,
do chấp thủ sắc, do thiên chấp sắc, (tà) kiến này khởi lên: "Gió
không thổi, sông không chảy, đàn bà có thai không sanh, mặt trăng, mặt trời
không mọc hay không lặn. Tất cả đều đứng vững như cột trụ".
5-7) Do có thọ... có tưởng... có
các hành...
8) Do có thức, này các Tỷ-kheo, do
chấp thủ thức, do thiên chấp thức, (tà) kiến này khởi lên: "Gió
không thổi... Tất cả đều đứng vững như cột trụ".
9) Các Ông nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo,
sắc là thường hay vô thường?
-- Là vô thường, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
-- Là khổ, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự
biến hoại, nếu không chấp thủ cái ấy, thời có thể khởi lên (tà) kiến:
"Gió không thổi... Tất cả đều đứng vững như cột trụ"?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
10-12) -- Thọ... Tưởng... Các
hành...
13). .. Thức là thường hay vô thường?
-- Là vô thường, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường, là khổ hay lạc?
-- Là khổ, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự
biến hoại, nếu không chấp thủ cái ấy, thời có thể khởi lên (tà) kiến:
"Gió không thổi... Tất cả đều đứng vững như cột trụ"?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
14) -- Cái gì được thấy, được
nghe, được nghĩ đến, được biết, được đạt đến, được tìm cầu,
được ý tư duy; cái ấy là thường hay vô thường?
-- Là vô thường, bạch Thế Tôn?
-- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
-- Là khổ, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự
biến hoại, nếu không chấp thủ cái ấy, thời có thể khởi lên (tà) kiến:
"Gió không thổi... Tất cả đều đứng vững như cột trụ"?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
15) -- Khi nào vị Thánh đệ tử, này
các Tỷ-kheo, đối với sáu xứ này, nghi hoặc được đoạn trừ; đối với
khổ, nghi hoặc được đoạn trừ; đối với khổ tập khởi, nghi hoặc
được đoạn trừ; đối với khổ đoạn diệt, nghi hoặc được đoạn trừ;
đối với con đường đưa đến khổ đoạn diệt, nghi hoặc được đoạn
trừ; như vậy, này các Tỷ-kheo gọi là bậc Thánh đệ tử đã chứng được
Dự lưu, không còn bị thối đọa, quyết chắc hướng đến giác ngộ.
II. Cái Này Là Của Tôi. (S.iii,203)
1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...
-- Do có cái gì, này các Tỷ-kheo,
do chấp thủ cái gì, do thiên chấp cái gì, (tà) kiến này được khởi lên:
"Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của
tôi"?
3) -- Đối với chúng con, bạch Thế
Tôn, các pháp lấy Thế Tôn làm căn bản...
4) -- Do có sắc, này các Tỷ-kheo,
do chấp thủ sắc, do thiên chấp sắc, (tà) kiến này được khởi lên:
"Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của
tôi".
5-7) Do có thọ... tưởng... các
hành...
8) Do có thức, này các Tỷ-kheo, do
chấp thủ thức, do thiên chấp thức, (tà) kiến này được khởi lên:
"Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của
tôi".
9) Các Ông nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo,
sắc là thường hay vô thường?
-- Là vô thường, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
-- Là khổ, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự
biến hoại, nếu không chấp thủ cái ấy, thời có thể khởi lên (tà) kiến
này: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của
tôi?"
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
10-12) --. .. Thọ... Tưởng... Các
hành...
13) Thức là thường hay vô thường?
-- Là vô thường, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
-- Là khổ, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự
biến hoại, nếu không chấp thủ cái ấy, thời có thể khởi lên (tà) kiến
này: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của
tôi"?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
14) -- Cái gì được thấy, được
nghe, được nghĩ đến, được biết, được tìm cầu, được ý tư duy, cái
ấy là thường hay vô thường?
-- Là vô thường, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
-- Là khổ, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự
biến hoại, nếu không chấp thủ cái ấy, thời có thể khởi lên (tà) kiến
này: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của
tôi"?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
15) -- Khi nào vị Thánh đệ tử, này
các Tỷ-kheo, đối với sáu xứ này, nghi hoặc được đoạn trừ; đối với
khổ, nghi hoặc được đoạn trừ;... đối với con đường đưa đến khổ
đoạn diệt, nghi hoặc được đoạn trừ; như vậy, này các Tỷ-kheo, gọi
là bậc Thánh đệ tử đã chứng được Dự lưu, không còn bị thối đọa,
quyết chắc hướng đến giác ngộ.
III. Cái Này Là Tự Ngã (S.iii,204)
1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...
-- Do có cái gì, này các Tỷ-kheo,
do chấp thủ cái gì, do thiên chấp cái gì, (tà) kiến này khởi lên:
"Cái ấy là tự ngã, cái ấy là thế giới. Sau khi chết, cái ấy sẽ
thường còn, thường hằng, thường trú, không chịu sự biến hoại"?
3) -- Đối với chúng con, bạch Thế
Tôn, các pháp lấy Thế Tôn làm căn bản...
4) -- Do có sắc, này các Tỷ-kheo,
do chấp thủ sắc, do thiên chấp sắc, (tà) kiến này khởi lên: "Cái
ấy là tự ngã, cái ấy là thế giới. Sau khi chết, cái ấy sẽ thường còn,
thường hằng, thường trú, không chịu sự biến hoại".
5-7). .. thọ... tưởng... các
hành...
8) Do có thức, do chấp thủ thức,
do thiên chấp thức, (tà) kiến này khởi lên: "Cái ấy là tự ngã,
cái ấy là thế giới. Sau khi chết cái ấy sẽ thường còn, thường hằng,
thường trú, không chịu sự biến hoại".
9) Các Ông nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo,
sắc là thường hay vô thường?
-- Là vô thường, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
-- Là khổ, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự
biến hoại, nếu không có chấp thủ cái ấy, thời có thể khởi lên (tà)
kiến này: "Cái ấy là tự ngã, cái ấy là thế giới. Sau khi chết,
cái ấy sẽ thường còn, thường hằng, thường trú, không chịu sự biến
hoại"?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
10-13). .. Thọ... Tưởng... Các
hành... Thức là thường hay vô thường?
-- Là vô thường, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường, là khổ hay lạc?
-- Là khổ, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự
biến hoại, nếu không chấp thủ cái ấy, thời có thể khởi lên (tà) kiến
này: "Cái ấy là tự ngã, cái ấy là thế giới. Sau khi chết, cái ấy
sẽ thường còn, thường hằng, thường trú, không chịu sự biến hoại"?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
14) -- Cái gì được thấy, được
nghe, được nghĩ đến, được biết, được đạt tới, được tìm cầu,
được ý tư duy, cái ấy là thường hay vô thường?
-- Là vô thường, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
-- Là khổ, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự
biến hoại, nếu không có chấp thủ cái ấy, thời có thể khởi lên (tà)
kiến này: "Cái ấy là tự ngã, cái ấy là thế giới. Sau khi chết,
cái ấy sẽ thường còn, thường hằng, thường trú, không chịu sự biến
hoại"?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
15) -- Khi nào, này các Tỷ-kheo, vị
Thánh đệ tử đối với sáu xứ này, nghi hoặc được đoạn trừ; đối
với khổ, nghi hoặc được đoạn trừ;... đối với con đường đưa đến
khổ đoạn diệt, nghi hoặc được đoạn trừ; như vậy, này các Tỷ-kheo,
được gọi là vị Thánh đệ tử chứng được Dự lưu, không còn thối
đọa, quyết chắc hướng đến giác ngộ.
IV. Có Thể Không Phải Của Tôi (S.iii,205)
1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...
-- Do cái gì, này các Tỷ-kheo, do chấp
thủ cái gì, do thiên chấp cái gì, (tà) kiến này khởi lên: "Nếu trước
không có ta, thời đã không có của ta. Nếu sẽ không có ta, thời sẽ
không có của ta"?
(Như kinh trên, chỉ có sự sai khác
về tà kiến ).
V. Không Có (Tạp 7, Đại 2,43c)
(S.iii,206)
-- Do có cái gì, này các Tỷ-kheo,
do chấp thủ cái gì, do thiên chấp cái gì, (tà) kiến này khởi lên:
"Không có bố thí, không có lễ hy sinh, không có tế tự, không có quả
dị thục các nghiệp thiện ác, không có đời này, không có đời khác,
không có mẹ, không có cha, không có các loài hóa sanh. Ở đời, không có
những vị Sa-môn chánh hạnh, chánh hướng, đã tự mình chứng tri, chứng
ngộ đời này và đời khác, và truyền dạy lại. Con người này do bốn
đại hợp thành, khi mệnh chung, địa đại trở về trả lại cho địa giới;
thủy đại trở về trả lại cho thủy giới; hỏa đại trở về trả lại
cho hỏa giới; phong đại trở về trả lại cho phong giới; các căn nhập vào
hư không. Bốn người gánh quan tài với người nằm trong quan tài là năm,
gánh người chết mang đi (đến chỗ hỏa táng), thốt ra những lời tán tụng,
các xương trắng như màu bồ câu và những vật cúng dường trở thành tro
bụi. Chỉ có người ngu mới tán dương bố thí. Lời nói của họ trống
không, giả dối, khi họ thuyết có sự sống. Kẻ ngu cũng như người hiền,
sau khi thân hoại mạng chung, sẽ đoạn diệt, tiêu thất, không còn tồn tại
sau khi chết"?
3)-- Đối với chúng con, bạch Thế
Tôn, các pháp lấy Thế Tôn làm căn bản...
4) (Như kinh trên, chỉ khác ở tà
kiến ).
VI. Đối Với Người Hành Động (Tạp
7, Đại 2,44b) (S.iii,208)
1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...
-- Do có cái gì, này các Tỷ-kheo,
do chấp thủ cái gì, do thiên chấp cái gì, (tà) kiến này khởi lên:
"Tự làm hay khiến người làm, chém giết hay khiến người chém giết,
đốt nấu hay khiến người đốt nấu, gây phiền muộn hay khiến người gây
phiền muộn, gây áo não hay khiến người gây áo não, tự mình gây sợ
hãi hay khiến người gây sợ hãi, sát sanh, lấy của không cho, phá cửa
nhà mà vào cướp bóc, đánh cướp một nhà lẻ loi, chận đường cướp
giựt, tư thông vợ người, nói láo, hành động như vậy không có tội ác
gì. Nếu lấy một bánh xe sắc bén giết hại tất cả chúng sanh trên cõi
đất thành một đống thịt, thành một chồng thịt, cũng không vì vậy
mà có tội ác, mà gây ra tội ác. Nếu có người đi trên bờ phía Nam
sông Hằng giết hại, tàn sát, chém giết, khiến người chém giết, đốt
nấu, khiến người đốt nấu, cũng không vì vậy mà có tội ác. Nếu có
người đi trên bờ phía Bắc sông Hằng bố thí, khiến người bố thí, tế
lễ, khiến người tế lễ, cũng không vì vậy mà có phước báo. Bố thí,
điều phục, cấm giới, tự chế, tôn trọng sự thật, không có phước đức,
không đưa đến phước đức"?
4) -- Đối với chúng con, bạch Thế
Tôn, các pháp lấy Thế Tôn làm căn bản...
(Như kinh trên, chỉ khác phần tà
kiến ).
VII. Nhân (Tạp 7, Đại 2,44a)
(S.iii,210)
1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...
-- Do có cái gì, này các Tỷ-kheo,
do chấp thủ cái gì, do thiên chấp cái gì, (tà) kiến này khởi lên:
"Không có nhân, không có duyên, các loài hữu tình bị nhiễm ô; vô
nhân, vô duyên, các loài hữu tình bị nhiễm ô. Không có nhân, không có
duyên, các loài hữu tình được thanh tịnh; vô nhân, vô duyên, các loài hữu
tình được thanh tịnh. Không có lực, không có tinh tấn, không có nhân lực,
không có sự cố gắng của người. Tất cả chúng sanh, tất cả hữu
tình, tất cả sinh vật, tất cả sinh mạng đều không tự tại, không lực,
không tinh tấn. Họ bị dắt dẫn, chi phối bởi định mệnh, bởi điều
kiện bộ loại của họ, bởi cá tánh của họ. Họ hưởng thọ khổ, lạc,
y theo sáu loại thác sanh của họ"?
3) -- Đối với chúng con, bạch Thế
Tôn, các pháp lấy Thế Tôn làm căn bản...
(Như các kinh trên, chỉ khác phần tà
kiến ).
VIII. Đạt Tà Kiến (Tạp 7, Đại
2,44b, 44c) (S.iii,211)
1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...
-- Do có cái gì, này các Tỷ-kheo,
do chấp thủ cái gì, do thiên chấp cái gì, khởi lên (tà) kiến như sau:
"Có bảy thân không bị làm ra, không làm ra, không bị sáng tạo, không
sáng tạo, không sanh sản, thường tại như đỉnh núi, đứng thẳng như trụ
đá. Chúng bất động, không chuyển biến, không xâm lăng nhau. Chúng không
ảnh hưởng đến lạc hay khổ với nhau, hoặc cả khổ và lạc"?
3) Bảy thân ấy là gì? - Địa thân,
thủy thân, hỏa thân, phong thân, khổ, lạc và thứ bảy là mạng. Bảy
thân này không bị làm ra, không làm ra, không bị sáng tạo, không sáng tạo,
không sanh sản, thường tại như đỉnh núi, đứng thẳng như trụ đá.
Chúng bất động, không chuyển biến, không xâm lăng nhau, chúng không ảnh
hưởng đến lạc hay khổ với nhau, hoặc cả khổ và lạc.
4) Khi một ai dùng lưỡi kiếm sắc
bén chém đầu, thời không có ai tước đoạt sanh mạng của ai cả, lưỡi
kiếm chỉ rơi vào giữa bảy thân mà thôi.
5) Có tất cả là 1.400.000 chủng loại
thác sanh, lại có thêm 6.000 và có thêm 600 nữa. Có 500 loại nghiệp và năm
nghiệp (theo 5 căn), lại có ba nghiệp (về thân, khẩu, ý), lại có toàn
nghiệp (thân và khẩu), và bán nghiệp (ý), có 62 đạo, 62 trung kiếp, sáu
giai cấp, tám nhân địa, 4.900 sanh nghiệp, 4.900 kẻ du hành, 4.900 chỗ ở của
loài Nàga, 2.000 căn, 3.000 cảnh địa ngục, 36 trần giới, 7 tưởng thai, 7
vô tưởng thai, 7 tiết thai, 7 loài Thiên, 7 loài Người, 7 loài quỷ, 7 hồ
nước, 7 pavutas (rừng hay hồ nhỏ), 7 papàta (vực thẳm), 700 papàta (vực
thẳm), 7 mộng, 700 mộng, có 8 trăm 40 vạn đại kiếp, trong thời gian ấy,
kẻ ngu và người hiền sau khi lưu chuyển luân hồi sẽ trừ tận khổ
đau.
6) Không có lời nguyền: "Với
giới hạnh này, với kỷ luật này, với khổ hạnh này hay với Phạm hạnh
này, tôi sẽ làm cho chín muồi những nghiệp chưa được thuần thục, hoặc
trừ diệt những nghiệp đã thuần thục bởi những nhẫn thọ liên tục,
không thể đo lường khổ và lạc với những vật đo lường, trong khi luân
hồi không có giảm tăng, không có thặng dư, thiếu thốn.
7) Ví như một cuộn chỉ được
tung ra sẽ được kéo dài đến một mức độ nào đó. Cũng như vậy, kẻ
ngu và người hiền sau khi lưu chuyển luân hồi sẽ đoạn tận khổ
đau".
8) -- Đối với chúng con, bạch Thế
Tôn, các pháp lấy Thế Tôn làm căn bản...
(Như các kinh trên, chỉ khác về tà
kiến ).
IX. Thế Gian Là Thường (S.iii,213)
(Như các kinh trên, chỉ khác về tà
kiến. Ở đây tà kiến được thay bằng thế gian là thường
).
X. Thế Gian Là Vô Thường (S.iii,214)
(Như các kinh trên, chỉ khác về tà
kiến ).
XI. Hữu Biên
(Như các kinh trên, chỉ khác về tà
kiến ).
XII. Vô Biên
(Như các kinh trên, chỉ khác về tà
kiến ).
XIII. Mạng Với Thân Là Một
(Như các kinh trên, chỉ khác về tà
kiến ).
XIV. Mạng Với Thân Là Khác
(Như các kinh trên, chỉ khác về tà
kiến ).
XV. Như Lai Có Tồn Tại
(Như các kinh trên, chỉ khác về tà
kiến ).
XVI. Như Lai Không Có Tồn Tại
(Như các kinh trên, chỉ khác về tà
kiến ).
XVII. Như Lai Có Tồn Tại Và Không
Có Tồn Tại
(Như các kinh trên, chỉ khác về tà
kiến ).
XVIII. Như Lai Không Tồn Tại Và
Không Không Tồn Tại (S.iii,216)
1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...
-- Này các Tỷ-kheo, do có cái gì,
do chấp thủ cái gì, do thiên chấp cái gì, (tà) kiến này khởi lên:
"Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết"?
3) -- Đối với chúng con, bạch Thế
Tôn, các pháp lấy Thế Tôn làm căn bản...
4-8) -- Do có sắc, này các Tỷ-kheo,
do chấp thủ sắc, do thiên chấp sắc, (tà) kiến này khởi lên: "Như
Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết".. .. thọ... tưởng...
các hành... Do có thức, này các Tỷ-kheo, do chấp thủ thức, do thiên chấp
thức, khởi lên (tà) kiến này: "Như Lai không tồn tại và không không
tồn tại sau khi chết".
9) Các Ông nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo,
sắc là thường hay vô thường?
-- Vô thường, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
-- Là khổ, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự
biến hoại, nếu không chấp thủ cái ấy, thời có thể khởi lên (tà) kiến
như sau: "Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết?"
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
10-13). .. Thọ... Tưởng... Các
hành... Thức...
14) -- Cái được thấy, được
nghe, được nghĩ đến, được biết đến, được đạt tới, được tìm
cầu, được ý suy tư; cái ấy là thường hay vô thường?
-- Vô thường, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
-- Là khổ, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự
biến hoại, nếu không chấp thủ cái ấy, thời có thể khởi lên (tà) kiến
như sau: "Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết"?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
15) -- Khi nào vị Thánh đệ tử, này
các Tỷ-kheo, đối với các xứ này, nghi hoặc được đoạn trừ, đối với
khổ, nghi hoặc được đoạn trừ, đối với khổ tập khởi, nghi hoặc
được đoạn trừ, đối với khổ đoạn diệt, nghi hoặc được đoạn trừ,
vị Thánh đệ tử như vậy được gọi là đã chứng được bậc Dự
lưu, không bị thối đọa, chắc quyết hướng đến giác ngộ.
II. Phẩm Trùng Thuyết (1)
I. Gió
(Những kinh I, II trong phẩm này là
giống như những kinh trong Chương Ba, Kiến Tương Ưng từ số I cho đến số
XVIII).
II. Phi Hữu Phi Vô (S.iii,218)
III. Phẩm Trùng Thuyết (2)
I. Tự Ngã Có Sắc (Những kinh
này giống như các kinh trước chỉ khác là tà kiến được thay bằng Tự
ngã có sắc, sau khi chết, không bệnh ).
II. Tự Ngã Không Có Sắc.
(như trên, được thay bằng Tự
ngã không có sắc, sau khi chết, không bệnh ).
III. Tư Ngã Có Sắc Và Không Sắc.
IV. Tự Ngã Không Có Sắc Và Khôn g
Không Sắc
V. Thuần Lạc
(... Tự ngã là thuần lạc, sau
khi chết, không bệnh ).
VI. Thuần Khổ
VII. Thuần Lạc Và Thuần Khổ
VIII. Chẳng Phải Khổ , Chẳng Phải
Lạc (S.iii,220)
IV. Phẩm Trùng Thuyết (3)
I. (Như kinh Chương Một I, Kinh
Nakulapità).
II- XXV. (Như kinh từ số I, Phẩm
Trùng Thuyết 1, đến VII Phẩm Trùng Thuyết 2)
XXVI. Phi Lạc Phi Khổ (Như
kinh VIII, Phẩm Trùng Thuyết 2).
V. Phẩm Trùng Thuyết (4)
I - XXVII. Như kinh (I-II) Phẩm Trùng
Thuyết 3) (S.iii,222)