- Kinh Tương Ưng Bộ
- HT. Thích Minh Châu dịch
- Phần 28
- Chương VII : Tương Ưng Sàriputta
I. Lý (S.iii,235)
1) Một thời Tôn giả Sàriputta trú
ở Sàvatthi (Xá-vệ), tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anàthapindika (Cấp
Cô Độc).
2) Rồi Tôn giả Sàriputta, vào buổi
sáng, đắp y, cầm y bát, đi vào Sàvatthi để khất thực.
3-4) Đi khất thực xong, sau buổi
ăn, trên con đường đi khất thực về, Tôn giả đi đến Andhavana để nghỉ
trưa. Sau khi đi vào rừng Andha, Tôn giả đến ngồi nghỉ trưa dưới một
gốc cây.
5) Rồi Tôn giả Sàriputta, vào buổi
chiều, từ chỗ tịnh cư đứng dậy, đi đến Jetavana, vườn ông
Anàthapindika.
6) Tôn giả Ananda thấy Tôn giả
Sàariputta từ xa đi đến; sau khi thấy, liền nói với Tôn giả Sàriputta:
-- Hiền giả Sàriputta, các căn của
Hiền giả lắng dịu, sắc mặt được thanh tịnh, trong sáng. Hôm nay, Hiền
giả an trú với sự an trú nào?
7) -- Ở đây, này Hiền giả, ly dục,
ly pháp bất thiện, tôi chứng đạt và an trú Thiền thứ nhất, một trạng
thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ. Này Hiền giả, tôi không khởi
lên ý nghĩ: "Tôi đang chứng nhập Thiền thứ nhất", hay "Tôi
đã chứng nhập Thiền thứ nhất", hay "Tôi đã ra khỏi Thiền thứ
nhất".
8) -- Như vậy chắc chắn Hiền giả
trong một thời gian dài, đã khéo nhổ tận gốc các tùy miên ngã kiến,
ngã sở kiến, ngã mạn. Do vậy, Tôn giả Sàriputta không khởi lên ý nghĩ:
"Tôi đang chứng nhập Thiền thứ nhất", hay "Tôi đã chứng nhập
Thiền thứ nhất", hay "Tôi đã ra khỏi Thiền thứ nhất".
II. Không Tầm
1-5) Một thời Tôn giả Sàriputta
trú ở Sàvatthi...
6) Tôn giả Ananda thấy Tôn giả
Sàriputta từ xa đi đến; sau khi thấy, liền nói với Tôn giả Sàriputta:
-- Hiền giả Sàriputta, các căn của
Hiền giả lắng dịu, sắc mặt được thanh tịnh, trong sáng. Hôm nay Hiền
giả an trú với sự an trú nào?
7) -- Ở đây, này Hiền giả, làm
cho lắng dịu tầm và tứ, tôi đã chứng đạt và an trú Thiền thứ hai, một
trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội tỉnh nhứt
tâm. Tôi không có khởi lên ý nghĩ: "Tôi đang chứng nhập Thiền thứ
hai", hay "Tôi đã chứng nhập Thiền thứ hai", hay "Tôi đã
ra khỏi Thiền thứ hai".
8) -- Như vậy, chắc chắn Hiền giả
trong một thời gian dài, đã khéo nhổ tận gốc các tùy miên ngã kiến,
ngã sở kiến, ngã mạn. Do vậy, Tôn giả Sàriputta không khởi lên ý nghĩ:
"Tôi đang chứng nhập Thiền thứ hai", hay "Tôi đã chứng nhập
Thiền thứ hai", hay "Tôi đã ra khỏi Thiền thứ hai".
III. Hỷ
1-5) Một thời Tôn giả Sàriputta
trú ở Savatthi...
6) Tôn giả Ananda thấy Tôn giả
Sàriputta từ xa đi đến; sau khi thấy, liền nói với Tôn giả Sàriputta:
-- Hiền giả Sàriputta, các căn của
Hiền giả lắng dịu, sắc mặt được thanh tịnh, trong sáng. Hôm nay Hiền
giả an trú với sự an trú nào?
7-8) -- Ở đây, này Hiền giả, ly hỷ
và trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm lạc thọ mà các bậc Thánh gọi
là: "Xả niệm lạc trú", tôi chứng đạt và an trú Thiền thứ ba.
Này Hiền giả, tôi không khởi lên ý nghĩ: "Tôi đang chứng nhập Thiền
thứ ba", hay "Tôi đã chứng nhập Thiền thứ ba", hay "Tôi
đã ra khỏi Thiền thứ ba".
-- Như vậy, chắc chắn Hiền giả
trong một thời gian... hay "Tôi đã ra khỏi Thiền thứ ba".
IV. Xả
1-5) Một thời Tôn giả Sàriputta
trú ở Sàvatthi...
6) Tôn giả Ananda thấy Tôn giả
Sàriputta từ xa đi đến... với sự an trú nào?
7) -- Ở đây, này Hiền giả, xả lạc
và xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ từ trước, tôi chứng đạt và an
trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Này Hiền
giả, tôi không khởi lên ý nghĩ: "Tôi đang chứng nhập Thiền thứ
tư", hay "Tôi đã chứng nhập Thiền thứ tư", hay "Tôi đã
ra khỏi Thiền thứ tư".
8) -- Như vậy, chắc chắn Hiền giả...
hay "Tôi đã ra khỏi Thiền thứ tư".
V. Không Vô Biên Xứ
1-6) Một thời Tôn giả Sàriputta
trú ở Sàvatthi...
... Tôn giả Ananda thấy... với sự
an trú nào?
7-8) -- Ở đây, này Hiền giả, vượt
lên hoàn toàn sắc tưởng, đoạn diệt hữu đối tưởng, không tác ý các
dị tưởng, với ý nghĩ: "Hư không là vô biên", tôi chứng đạt và
an trú Không vô biên xứ. Này Hiền giả, tôi không khởi lên ý nghĩ... hay
"Tôi đã ra khỏi Không vô biên xứ".
-- Như vậy, chắc chắn Hiền giả...
"Tôi đã ra khỏi Không vô biên xứ".
VI. Thức Vô Biên Xứ
1-6) Một thời, Tôn giả Sàriputta
trú ở Sàvatthi...
... Tôn giả Ananda thấy... với sự
an trú nào?
7-8) -- Ở đây, này Hiền giả, vượt
qua hoàn toàn Không vô biên xứ, với ý nghĩ: "Thức là vô biên",
tôi chứng đạt và an trú Thức vô biên xứ... hay "... đã ra khỏi Thức
vô biên xứ".
VII. Vô Sở Hữu Xứ
1-6) Một thời Tôn giả Sàriputta
trú ở Sàvatthi.
... Tôn giả Ananda thấy... với sự
an trú nào?
7-8) -- Ở đây, này Hiền giả, vượt
qua hoàn toàn Thức vô biên xứ, với ý nghĩ: "Không có vật gì",
tôi chứng đạt và an trú Vô sở hữu xứ... hay "... đã ra khỏi Vô sở
hữu xứ".
VIII. Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ
1-6) Một thời, Tôn giả Sàriputta
trú ở Sàvatthi.
... Tôn giả Ananda thấy... với sự
an trú nào?
7-8) -- Ở đây, này Hiền giả, vượt
qua hoàn toàn Vô sở hữu xứ, tôi chứng đạt và an trú Phi tưởng phi phi
tưởng xứ... hay "... đã ra khỏi Phi tưởng phi phi tưởng xứ".
IX. Diệt Tận Định (Tạp 18, Đại
2, 131) (S.iii,238)
1-6) Một thời Tôn giả Sàriputta
trú ở Sàvatthi...
... Tôn giả Ananda thấy... với sự
an trú nào?
7-8) -- Ở đây, này Hiền giả, vượt
qua hoàn toàn Phi tưởng phi phi tưởng xứ, tôi chứng đạt và an trú Diệt
thọ tưởng định. Nhưng này Hiền giả, tôi không khởi lên ý nghĩ:
"Tôi đang chứng nhập Diệt thọ tưởng định", hay " Tôi đã
chứng nhập Diệt thọ tưởng định", hay "Tôi đã ra khỏi Diệt
thọ tưởng định".
-- Như vậy, chắc chắn Hiền giả
trong một thời gian dài đã khéo nhổ tận gốc các tùy miên ngã kiến,
ngã sở kiến, ngã mạn. Do vậy Tôn giả Sàriputta không khởi lên ý nghĩ:
"Tôi đang chứng nhập Diệt thọ tưởng định", hay "Tôi đã
chứng nhập Diệt thọ tưởng định", hay "Tôi đã ra khỏi Diệt
thọ tưởng định".
X. Sùcimukhi (Tịnh Diện) (S.iii,238)
1) Một thời Tôn giả Sàriputta trú
ở Ràjagaha (Vương Xá), Veluvana (Trúc Lâm), tại chỗ nuôi dưỡng các con
sóc.
2) Rồi Tôn giả Sàriputta, vào buổi
sáng. đắp y, cầm y bát, đi vào Ràjagaha để khất thực. Sau khi đi khất
thực từng nhà một ở Ràjagaha (Vương Xá), Tôn giả ngồi dựa vào một bức
tường, dùng đồ ăn khất thực.
3) Rồi một nữ du sĩ ngoại đạo
Sùcimukhi đi đến Tôn giả Sàriputta; sau khi đến, nói với Tôn giả
Sàriputta:
4) -- Này Sa-môn, có phải Ông ăn, cúi
mặt xuống?
-- Này Chị, tôi ăn, không cúi mặt
xuống.
5) -- Vậy Sa-môn, Ông ăn, ngưỡng mặt
lên?
-- Này Chị, tôi ăn, không ngưỡng
mặt lên.
6) -- Vậy Sa-môn, Ông ăn, hướng mặt
về bốn phương chính?
-- Này Chị, tôi ăn, không có hướng
mặt về bốn phương chính.
7) -- Vậy Sa-môn, Ông ăn, hướng mặt
về bốn phương phụ?
-- Này Chị, tôi ăn, không có hướng
mặt về bốn phương phụ.
8) -- Được hỏi: "Này Sa-môn,
có phải Ông ăn, cúi mặt xuống?" Ông trả lời: "Này Chị, tôi
ăn, không cúi mặt xuống". Được hỏi: "Vậy này Sa-môn, Ông ăn,
ngưỡng mặt lên?" Ông đáp: "Này Chị, tôi ăn, không ngưỡng mặt
lên". Được hỏi: "Vậy này Sa-môn, Ông ăn, hướng mặt về bốn
phương chính?" Ông đáp: "Này Chị, tôi ăn, không hướng mặt về
bốn phương chính". Được hỏi: "Vậy Sa-môn, Ông ăn, hướng mặt
về bốn phương phụ?" Ông đáp: "Này Chị, tôi ăn, không hướng mặt
về bốn phương phụ". Vậy này Sa-môn, Ông ăn, hành động như thế nào?
9) -- Những Sa-môn hay Bà-la-môn
nào, này Chị, nuôi sống bằng những tà mạng như địa lý (nakkhattavijjà)
và súc sanh minh (nghề hèn hạ); này Chị, các vị ấy được gọi là các
Sa-môn, Bà-la-môn ăn cúi mặt xuống.
10) Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào,
này Chị, nuôi sống bằng những tà mạng như thiên văn (nakkhattavijjà) và
súc sanh minh (nghề hèn hạ); này Chị, các vị ấy được gọi là các
Sa-môn, Bà-la-môn ăn ngưỡng mặt lên.
11) Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào,
này Chị, nuôi sống bằng những tà mạng như đưa tin tức, làm trung gian
môi giới; này Chị, các vị ấy được gọi các Sa-môn, Bà-la-môn ăn hướng
mặt về bốn phương chính.
12) Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào,
này Chị, nuôi sống bằng những tà mạng như bói toán, và các nghề hèn hạ;
này Chị, các vị ấy được gọi những Sa-môn, Bà-la-môn ăn hướng mặt
về bốn phương phụ.
13) Còn ta, này Chị, ta không nuôi sống
bằng những tà mạng như địa lý và các nghề hèn hạ; ta không nuôi sống
bằng những tà mạng như thiên văn và các nghề hèn hạ; ta không nuôi sống
bằng những tà mạng như đưa tin tức, làm trung gian môi giới; ta cũng không
nuôi sống bằng những tà mạng như bói toán và các nghề hèn hạ. Ta tìm
cầu món ăn một cách hợp pháp. Sau khi tìm món ăn một cách hợp pháp, ta
dùng các món ăn ấy.
14) Rồi nữ tu sĩ ngoại đạo Sùcimukhi
đi từ đường này qua đường khác, từ ngã tư này qua ngã tư khác ở
thành Vương Xá, và tuyên bố: "Sa-môn Thích tử dùng các món ăn một cách
hợp pháp. Sa-môn Thích tử dùng các món ăn một cách không có lỗi lầm.
Hãy cúng dường các món ăn cho Sa-môn Thích tử".