- Kinh Tương Ưng Bộ
- HT. Thích Minh Châu dịch
- Phần 44
- Chương X
- Tương Ưng Không Thuyết
I. Trưởng Lão Ni Khemà (S.iv,374)
1) Một thời Thế Tôn trú ở
Sàvatthi, tại Jetavana, vườn ông Anàthapindika.
2) Lúc bấy giờ, Tỷ-kheo-ni Khemà
đang đi du hành giữa dân chúng Kosala và trú ở tại Toranavatthu, giữa
Sàvatthi và Sàketà.
3) Vua Pasenadi nước Kosala cũng đang
đi từ Sàketa đến Sàvatthi và trú một đêm ở Toranavatthu, giữa Sàketa
và Sàvatthi.
4) Rồi vua Pasenadi nước Kosala gọi
một người và nói:
-- Hãy đến, này Người kia. Ông
có biết vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào ở tại Toranavatthu để hôm nay ta có
thể đến yết kiến vị ấy?
-- Thưa vâng, tâu Đại vương.
Người ấy vâng đáp vua Pasenadi nước
Kosala, đi tìm khắp Toranavatthu không thấy có vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào
để vua Pasenadi nước Kosala có thể đến yết kiến.
5) Rồi người ấy thấy Tỷ-kheo-ni
Khemà đến trú ở Toranavatthu; sau khi thấy, người ấy đi đến vua Pasenadi
nước Kosala và thưa:
-- Tâu Đại vương, tại Toranavatthu
không có vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào để Đại vương có thể yết kiến.
Nhưng tâu Đại vương, có Tỷ-kheo-ni Khemà là đệ tử của Thế Tôn, bậc
A-la-hán, Chánh Đẳng Giác. Tiếng đồn tốt đẹp sau đây được truyền
đi về bậc nữ Tôn giả ấy: "Nữ Tôn giả là bậc hiền trí, thông
minh, có trí, nghe nhiều, lời nói đến tâm, ứng đáp lanh lợi". Đại
vương có thể đến yết kiến vị ấy.
6) Rồi vua Pasenadi nước Kosala đi
đến Tỷ-kheo-ni Khemà; sau khi đến, đảnh lễ vị ấy rồi ngồi xuống một
bên.
7) Ngồi một bên, vua Pasenadi nước
Kosala thưa với Tỷ-kheo-ni Khemà:
-- Thưa Nữ Tôn giả, Như Lai có tồn
tại sau khi chết không?
-- Tâu Đại vương, Thế Tôn không
trả lời: "Như Lai có tồn tại sau khi chết".
8) -- Thế là, thưa Nữ Tôn giả, Như
Lai không tồn tại sau khi chết?
-- Tâu Đại vương, Thế Tôn cũng
không trả lời: "Như Lai không có tồn tại sau khi chết".
9) -- Thế là, thưa Nữ Tôn giả, Như
Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết?
-- Tâu Đại vương, Thế Tôn cũng
không trả lời: "Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết".
10) -- Thế là, thưa Nữ Tôn giả,
Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết?
-- Tâu Đại vương, Thế Tôn cũng
không trả lời: "Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau
khi chết".
11) -- Được hỏi: "Thưa Nữ Tôn
giả, Như Lai có tồn tại sau khi chết không?", Nữ Tôn giả trả lời:
"Tâu Đại vương, Thế Tôn không trả lời: ‘Như Lai có tồn tại sau
khi chết"". Được hỏi: "Thế là, thưa Nữ Tôn giả, có phải
Như Lai không tồn tại sau khi chết không?", Nữ Tôn giả trả lời:
"Tâu Đại vương, Thế Tôn cũng không trả lời: ‘Như Lai không có tồn
tại sau khi chết"". Được hỏi: "Thế là, thưa Nữ Tôn giả,
có phải Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết?", Nữ
Tôn giả trả lời: "Tâu Đại vương, Thế Tôn cũng không trả lời:
‘Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết"". Được hỏi:
"Thế là, thưa Nữ Tôn giả, có phải Như Lai không tồn tại và không
không tồn tại sau khi chết?", Nữ Tôn giả trả lời: "Tâu Đại
vương, Thế Tôn cũng không trả lời: ‘Như Lai không tồn tại và không
không tồn tại sau khi chết"". Thưa Nữ Tôn giả, do nhân gì, do
duyên gì, Thế Tôn lại không trả lời?
12)-- Vậy thưa Đại vương, ở đây,
tôi sẽ hỏi Đại vương. Đại vương kham nhẫn như thế nào, hãy trả lời
như vậy.
13) Đại vương nghĩ thế nào, thưa
Đại vương, Đại vương có người kế toán nào, chưởng ấn nào
(muddiko), toán số nào có thể đếm được cát sông Hằng có số hột cát
như vậy, có số trăm hột cát như vậy, có số ngàn hột cát như vậy, có
số trăm ngàn hột cát như vậy?
-- Thưa không, thưa Nữ Tôn giả.
14) -- Đại vương có người kế toán
nào, có người chưởng ấn nào, có người toán số nào có thể đong lường
được nước của biển lớn có số đấu nước như vậy, có số trăm đấu
nước như vậy, có số ngàn đấu nước như vậy, có số trăm ngàn đấu
nước như vậy?
-- Thưa không, thưa Nữ Tôn giả.
-- Vì sao?
-- Thưa Nữ Tôn giả, vì rằng biển
lớn thâm sâu, vô lường, khó dò đến đáy.
15) -- Cũng vậy, thưa Đại vương,
nếu có người muốn định nghĩa Như Lai ngang qua sắc thân (rupeena), nhưng
sắc thân ấy, Như Lai đã đoạn tận, cắt đứt tận gốc rễ, làm cho như
thân cây ta-la, làm cho không thể tái sanh, làm cho không thể sanh khởi trong
tương lai; được giải thoát khỏi sự ước lượng của sắc thân. Thưa
Đại vương, Như Lai là thâm sâu, vô lường, không thể đến tận đáy, như
biển lớn. Nói rằng: "Như Lai có tồn tại sau khi chết", không thể
chấp nhận. Nói rằng: "Như Lai không có tồn tại sau khi chết", cũng
không thể chấp nhận. Nói rằng: "Như Lai có tồn tại và không tồn tại
sau khi chết", cũng không thể chấp nhận. Nói rằng: "Như Lai không
tồn tại và không không tồn tại sau khi chết", cũng không thể chấp
nhận.
16) Nếu có người muốn định
nghĩa Như Lai ngang qua cảm thọ, nhưng cảm thọ ấy, Thế Tôn đã đoạn tận,
cắt đứt tận gốc rễ, làm cho như thân cây ta-la, làm cho không thể tái
sanh, làm cho không thể sanh khởi trong tương lai; được giải thoát khỏi sự
ước lượng của cảm thọ. Thưa Đại vương, Như lai là thâm sâu, vô lường,
không thể đến tận đáy, như biển lớn. Nói rằng: "Như Lai có tồn
tại sau khi chết", không thể chấp nhận... Nói rằng: "Như Lai không
tồn tại và không không tồn tại sau khi chết", cũng không thể chấp
nhận.
17-19) Nếu có người muốn định
nghĩa Như Lai qua các tưởng... qua các hành... qua các thức; nhưng thức ấy,
Như Lai đoạn tận, cắt đứt tận gốc rễ, làm cho như thân cây ta-la,
làm cho không thể tái sanh, làm cho không thể sanh khởi trong tương lai; được
giải thoát khỏi sự ước lượng của thức. Thưa Đại vương, Như Lai là
thâm sâu, vô lường, không thể đến tận đáy, như biển lớn. Nói rằng:
"Như Lai có tồn tại sau khi chết", không thể chấp nhận. Nói rằng:
"Như Lai không có tồn tại sau khi chết", cũng không thể chấp nhận.
Nói rằng: "Như Lai có tồn tại và không có tồn tại sau khi chết",
cũng không thể chấp nhận. Nói rằng: "Như Lai không tồn tại và
không không tồn tại sau khi chết", cũng không thể chấp nhận.
20) Rồi vua Pasanadi nước Kosala hoan
hỷ, tín thọ lời của Tỷ-kheo-ni Khemà, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh
lễ Tỷ-kheo-ni Khemà, thân phía hữu hướng về Nữ Tôn giả rồi ra đi.
21) Rồi vua Pasenadi nước Kosala, sau
một thời gian, đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi
xuống một bên.
22) Ngồi một bên, vua Pasenadi nước
Kosala bạch Thế Tôn:
-- Bạch Thế Tôn, Như Lai có tồn tại
sau khi chết không?
-- Thưa Đại vương, Ta không trả lời:
"Như Lai có tồn tại sau khi chết".
23) Thế là, thưa Thế Tôn, Như Lai
không có tồn tại sau khi chết?
-- Thưa Đại vương, Ta cũng không
trả lời: "Như Lai không có tồn tại sau khi chết".
24-25)... (Như trên)...
26-34... (Như trên, từ số 11 đến
số 19, với những thay đổi cần thiết)...
35) -- Thật vi diệu thay, bạch Thế
Tôn! Thật hy hữu thay, bạch Thế Tôn! Vì rằng giữa Đạo sư với nữ đệ
tử, ý nghĩa với ý nghĩa, văn ngôn với văn ngôn có sự tương đồng, có
sự tương hòa, không có sự mâu thuẫn, tức là tối thượng văn cú.
36) Một thời, bạch Thế Tôn, con
đi đến Tỷ-kheo-ni Khemà và hỏi về ý nghĩa này. Nữ Tôn giả ấy đã trả
lời cho con về ý nghĩa này với những câu này, với những lời này, giống
như Thế Tôn. Thật là vi diệu, bạch Thế Tôn! Thật là hy hữu, bạch Thế
Tôn! Vì rằng giữa Đạo sư với nữ đệ tử, ý nghĩa với ý nghĩa, văn
ngôn với văn ngôn có sự tương đồng, có sự tương hòa, không có sự
mâu thuẫn, tức là tối thượng văn cú. Bạch Thế Tôn, nay con phải đi,
con có nhiều công vụ, nhiều việc phải làm.
-- Thưa Đại vương, nay Đại
vương hãy làm những gì Đại vương nghĩ là hợp thời.
37) Rồi vua Pasenadi nước Kosala hoan
hỷ, tín thọ lời Thế Tôn nói, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế
Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài rồi ra đi.
II. Anuràdha. (S.iv380)
1) Một thời Thế Tôn trú ở
Vesàli, tại Đại Lâm, ở Trùng Các giảng đường.
2) Lúc bấy giờ Tôn giả Anuràdha
đang ở một ngôi chòi trong rừng không xa Thế Tôn bao nhiêu.
3) Rồi rất nhiều du sĩ ngoại đạo
đi đến Tôn giả Anuràdha; sau khi đến, nói lên với Tôn giả Anuràdha những
lời chào đón hỏi thăm; sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân
hữu, liền ngồi xuống một bên.
4) Ngồi một bên, các ngoại đạo
du sĩ ấy thưa với Tôn giả Anuràdha:
-- Này Hiền giả Anuràdha, Như Lai là
bậc Thượng Nhân, là bậc Tối thắng nhân, là bậc đã đạt được địa
vị tối thượng. Bậc Như Lai ấy đã được trình bày dưới bốn trường
hợp: "Như Lai có tồn tại sau khi chết. Hay Như Lai không tồn tại sau
khi chết. Hay Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết. Hay Như
Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết".
-- Thưa chư Hiền, Như Lai ấy là bậc
Thượng nhân, bậc Tối thắng nhân, là bậc đã đạt được địa vị tối
thượng. Bậc Như Lai ấy được trình bày ngoài bốn trường hợp sau đây:
"Như Lai có tồn tại sau khi chết. Hay Như Lai không có tồn tại sau khi
chết. Hay Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết. Hay Như Lai
không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết".
Khi được nghe nói vậy, các du sĩ
ngoại đạo ấy nói với Tôn giả Anuràdha:
-- Tỷ-kheo này có lẽ là mới tu,
xuất gia không bao lâu. Hay nếu là vị trưởng lão, thời vị này là ngu
si, không có thông minh.
5) Các du sĩ ngoại đạo ấy, sau
khi chê trách (apasàdetvà) Tôn giả Anuràdha là người mới tu và ngu si, liền
từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi.
6) Rồi Tôn giả Anuràdha, sau khi
các du sĩ ngoại đạo ấy ra đi không bao lâu, liền suy nghĩ: "Nếu các
du sĩ ngoại đạo ấy hỏi ta thêm câu hỏi nữa, ta phải trả lời như thế
nào để câu ta trả lời cho các du sĩ ngoại đạo ấy là đúng với lời
Thế Tôn, ta không có xuyên tạc Thế tôn với điều không thật. Ta trả lời
đúng pháp, thuận pháp, và những ai nói lời tương ứng đúng pháp, không
có cơ hội để chỉ trích".
7) Rồi Tôn giả Anuràdha đi đến
Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.
8) Ngồi xuống một bên, Tôn giả
Anuràdha bạch Thế Tôn:
-- Ở đây, bạch Thế Tôn, con trú
trong một ngôi chòi trong rừng, không xa Thế Tôn bao nhiêu. Rồi, bạch Thế
Tôn, rất nhiều du sĩ ngoại đạo đi đến con, sau khi đến, nói lên với
con những lời chào đón hỏi thăm; sau khi nói lên những lời chào đón hỏi
thăm thân hữu rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, bạch Thế
Tôn, các du sĩ ngoại đạo ấy nói với con: "Này Hiền giả Anuràdha,
Như Lai là bậc Thượng nhân, là bậc Tối thắng nhân, là bậc đã đạt
được địa vị tối thượng. Bậc Như Lai ấy đã được trình bày dưới
bốn trường hợp: ‘Như Lai có tồn tại sau khi chết. Hay Như Lai không tồn
tại sau khi chết. Hay Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết.
Hay Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết’". Bạch
Thế Tôn, khi được nói vậy, con nói với các du sĩ ngoại đạo ấy như
sau: "Thưa chư Hiền, Như Lai là bậc Thượng nhân, là bậc Tối thắng
nhân, là bậc đã đạt được địa vị tối thắng. Bậc Như Lai ấy được
trình bày ngoài bốn trường hợp như sau: ‘Như Lai có tồn tại sau khi chết.
Hay Như Lai không tồn tại sau khi chết. Hay Như Lai có tồn tại và không tồn
tại sau khi chết. Hay Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau
khi chết"". Khi được nói vậy, các du sĩ ngoại đạo ấy nói với
con: "Tỷ-kheo này có lẽ là mới tu, xuất gia chưa bao lâu. Hay nếu là
vị trưởng lão, thời vị này là ngu si, không có thông minh". Các du sĩ
ngoại đạo ấy, sau khi chê trách con là người mới tu và ngu si, liền từ
chỗ ngồi đứng dậy và ra đi.
9) Bạch Thế Tôn, khi các vị du sĩ
ngoại đạo ấy đi không bao lâu con suy nghĩ như sau: "Nếu các vị du sĩ
ngoại đạo ấy hỏi ta thêm câu hỏi nữa, ta phải trả lời như thế nào
để câu trả lời của ta cho các du sĩ ngoại đạo ấy là đúng với lời
Thế Tôn, ta không có xuyên tạc Thế Tôn với điều không thật. Ta trả lời
đúng pháp, thuận pháp và những ai nói lời tương ưng đúng pháp, không
có cơ hội để chỉ trích".
10)-- Ông nghĩ thế nào, này
Anuràdha, sắc là thường hay vô thường?
-- Là vô thường, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
-- Là khổ, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự
biến hoại, có hợp lý chăng khi quán cái ấy: "Cái này là của tôi.
Cái này là tôi. Cái này là tự ngã của tôi"?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
-- Thọ là thường hay vô thường?.
.. Tưởng là thường hay vô thường?... Các hành là thường hay vô thường?.
.. Thức là thường hay vô thường?
-- Là vô thường, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
-- Là khổ, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự
biến hoại, có hợp lý chăng khi quán cái ấy: "Cái này là của tôi.
Cái này là tôi. Cái này là tự ngã của tôi"?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
11) -- Do vậy, này Anuràdha, phàm có
sắc gì quá khứ, vị lai, hiện tại, hoặc nội hay ngoại, hoặc thô hay tế,
hoặc liệt hay thắng, hoặc xa hay gần; tất cả sắc cần phải như thật
quán với chánh trí tuệ rằng: "Cái này không phải của tôi. Cái này
không phải là tôi. Cái này không phải tự ngã của tôi". Phàm có thọ
gì, quá khứ, vị lai, hiện tại... Phàm có tưởng gì... Phàm có các hành
gì... Phàm có thức gì quá khứ, vị lai, hiện tại, hoặc nội hay ngoại,
hoặc thô hay tế, hoặc liệt hay thắng, hoặc xa hay gần; tất cả thức cần
phải như thật quán với chánh trí tuệ rằng: "Cái này không phải của
tôi. Cái này không phải là tôi. Cái này không phải tự ngã của
tôi".
12) Thấy vậy, này Anuràdha, vị Đa
văn Thánh đệ tử nhàm chán đối với sắc, nhàm chán đối với thọ, nhàm
chán đối với tưởng, nhàm chán đối với các hành, nhàm chán đối với
thức. Do nhàm chán nên vị ấy ly tham. Do ly tham nên vị ấy được giải
thoát. Trong sự giải thoát, khởi lên trí biết rằng: "Ta đã được
giải thoát". Vị ấy biết rõ: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã
thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa".
13) Ông nghĩ thế nào, này Anuràdha,
Ông có quán sắc là Như Lai không?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
-- Ông có quán thọ là Như Lai không?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
-- Ông có quán tưởng là Như Lai không?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
-- Ông có quán các hành là Như Lai
không?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
-- Ông có quán thức là Như Lai không?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
14-18) -- Ông nghĩ thế nào, này
Anuràdha, Ông có quán Như Lai ở trong sắc không?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
-- Ông có quán Như Lai ở ngoài sắc
không?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
-- Ông có quán Như Lai ở trong thọ
không?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
-- Ông có quán Như Lai ở ngoài thọ
không?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
-- Ông có quán Như Lai ở trong tưởng
không?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
-- Ông có quán Như Lai ở ngoài tưởng
không?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
-- Ông có quán Như Lai ở trong các
hành không?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
-- Ông có quán Như Lai ở ngoài các
hành không?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
-- Ông có quán Như Lai ở trong thức
không?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
-- Ông có quán Như Lai ở ngoài thức
không?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
19-20) -- Ông nghĩ như thế nào, này
Anuràdha, Ông có quán Như Lai là sắc, thọ, tưởng, hành, thức hay không?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
-- Ông có quán Như Lai là không có
sắc, không có thọ, không có tưởng, không có các hành, không có thức hay
không?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
21) -- Ở đây, này Anuràdha, Ông
ngay trong hiện tại không có nắm được Như Lai một cách chân thật, một
cách xác chứng, thời có hợp lý chăng khi Ông tuyên bố về Như Lai rằng:
"Thưa chư Hiền, Như Lai là bậc
Thượng nhân, là bậc Tối thắng nhân, là bậc đã đạt được địa vị
tối thượng. Bậc Như Lai ấy được biết đến ngoài bốn trường hợp
sau đây: ‘Như Lai có tồn tại sau khi chết. Hay Như Lai không có tồn tại
sau khi chết. Hay Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết. Hay Như
Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết"".
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
22) -- Lành thay, lành thay! Này
Anuràdha. Trước đây và hiện nay, này Anuràdha, Ta chỉ nói lên sự khổ
và sự diệt khổ.
III. Sàriputta-Kotthika (1) (hay Trú
trước) (S.iv,384)
1) Một thời Tôn giả Sàriputta và
Tôn giả Mahà Kotthika trú ở Barànasi, tại Isipatana, trong vườn Nai.
2) Rồi Tôn giả Mahà Kotthika, vào
buổi chiều, từ chỗ Thiền tịnh đứng dậy, đi đến Tôn giả Sàriputta,
sau khi đến, nói lên với Tôn giả Sàriputta những lời chào đón hỏi thăm;
sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, liền ngồi xuống
một bên.
3) Ngồi một bên, Tôn giả Mahà
Kotthika nói với Tôn giả Sàriputta:
-- Thưa Hiền giả Sàriputta, Như Lai
có tồn tại sau khi chết hay không?
-- Thưa Hiền giả, Thế Tôn không
trả lời: "Như Lai có tồn tại sau khi chết".
4)-- Thế là, thưa Hiền giả, Như
Lai không tồn tại sau khi chết?
-- Thưa Hiền giả, Thế Tôn cũng không
trả lời: "Như Lai không tồn tại sau khi chết".
5)-- Thế là, thưa Hiền giả, Như
Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết?
-- Thưa Hiền giả, Thế Tôn cũng không
trả lời: "Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết".
6)-- Thế là, thưa Hiền giả, Như
Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết?
-- Thưa Hiền giả, Thế Tôn cũng không
trả lời: "Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết".
7) -- Được hỏi: "Thưa Hiền
giả, Như Lai có tồn tại sau khi chết không?", Hiền giả trả lời:
"Thưa Hiền giả, Thế Tôn không trả lời: ‘Như Lai có tồn tại sau
khi chết"". Được hỏi: "Thưa Hiền giả, thế là Như Lai không
tồn tại sau khi chết?", Hiền giả trả lời: "Thưa Hiền giả, Thế
Tôn cũng không trả lời: ‘Như Lai không tồn tại sau khi chết’".
Được hỏi: "Thế là, thưa Hiền giả, Như Lai có tồn tại và không tồn
tại sau khi chết?", Hiền giả trả lời: "Thưa Hiền giả, Thế Tôn
cũng không trả lời: ‘Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết"".
Được hỏi: "Thưa Hiền giả, thế là Như Lai không tồn tại và không
không tồn tại sau khi chết?", Hiền giả trả lời: "Thưa Hiền giả,
Thế Tôn cũng không trả lời: ‘Như Lai không tồn tại và không không tồn
tại sau khi chết"". Thưa Hiền giả, do nhân gì, do duyên gì, Thế
Tôn lại không trả lời?
8) "Như Lai có tồn tại sau khi
chết", thưa Hiền giả, là chấp trước sắc. "Như Lai không có tồn
tại sau khi chết" là chấp trước sắc. "Như Lai có tồn tại và
không tồn tại sau khi chết" là chấp trước sắc. "Như Lai không tồn
tại và không không tồn tại sau khi chết" là chấp trước sắc.
9) "Như Lai có tồn tại sau khi
chết" là chấp trước thọ. "Như Lai không có tồn tại sau khi chết"
là chấp trước thọ. "Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi
chết" là chấp trước thọ. "Như Lai không tồn tại và không
không tồn tại sau khi chết" là chấp trước thọ.
10) "Như Lai có tồn tại sau khi
chết" là chấp trước tưởng. "Như Lai không tồn tại sau khi chết"
là chấp trước tưởng. "Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau
khi chết" là chấp trước tưởng. "Như Lai không tồn tại và
không không tồn tại sau khi chết" là chấp trước tưởng.
11) "Như Lai có tồn tại sau khi
chết" là chấp trước các hành. "Như Lai không tồn tại sau khi chết"
là chấp trước các hành. "Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau
khi chết" là chấp trước các hành. "Như Lai không tồn tại và
không không tồn tại sau khi chết" là chấp trước các hành.
12) "Như Lai có tồn tại sau khi
chết" là chấp trước thức. "Như Lai không tồn tại sau khi chết"
là chấp trước thức. "Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi
chết" là chấp trước thức. "Như Lai không tồn tại và không
không tồn tại sau khi chết" là chấp trước thức.
13) Này Hiền giả, do nhân này, do
duyên này, Thế Tôn không trả lời.
IV. Sàriputta - Kotthika (2) (hay Tập
khởi) (S.iv,387)
1) Một thời, Tôn giả Sàriputta và
Tôn giả Mahà Kotthika trú ở Bàranasi (Ba-la-nại), tại Isipatana, chỗ vườn
Nai...
2-7) -- Thưa Hiền giả, do nhân gì
Thế Tôn không trả lời câu hỏi ấy?
8) -- Thưa Hiền giả, do không như
thật biết, như thật thấy sắc; do không như thật biết, như thật thấy
sắc tập khởi; do không như thật biết, như thật thấy sắc đoạn diệt;
do không như thật biết, như thật thấy con đường đưa đến sắc đoạn
diệt nên mới có quan điểm rằng: "Như Lai có tồn tại sau khi chết.
Hay Như Lai không có tồn tại sau khi chết. Hay Như Lai có tồn tại và
không tồn tại sau khi chết. Hay Như Lai không tồn tại và không không tồn
tại sau khi chết..".
9-11). .. thọ... tưởng... các
hành...
12) Do không như thật biết, như thật
thấy thức; do không như thật biết, như thật thấy thức tập khởi; do không
như thật biết, như thật thấy thức đoạn diệt; do không như thật biết,
như thật thấy con đường đưa đến thức đoạn diệt nên mới có quan
điểm rằng: "Như Lai có tồn tại sau khi chết. Hay Như Lai không có tồn
tại sau khi chết. Hay Như Lai có tồn tại và không có tồn tại sau khi chết.
Hay Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết".
13) Do như thật biết, như thật thấy
sắc; do như thật biết, như thật thấy sắc tập khởi; do như thật biết,
như thật thấy sắc đoạn diệt; do như thật biết, như thật thấy con
đường đưa đến sắc đoạn diệt nên không có quan điểm rằng:
"Như Lai có tồn tại sau khi chết. Hay Như Lai không có tồn tại sau khi
chết. Hay Như Lai có tồn tại và không có tồn tại sau khi chết. Hay Như
Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết".
14-16). .. thọ... tưởng... các
hành...
17) Do như thật biết, như thật thấy
thức; do như thật biết, như thật thấy thức tập khởi; do như thật biết,
như thật thấy thức đoạn diệt; do như thật biết, như thật thấy con
đường đưa đến thức đoạn diệt nên không có quan điểm rằng:
"Như Lai có tồn tại sau chết. Hay Như Lai không có tồn tại sau khi chết.
Hay Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết. Hay Như Lai không tồn
tại và không không tồn tại sau khi chết".
18) Thưa Hiền giả, đây là nhân,
đây là duyên, đây là lý do mà Thế Tôn không trả lời vấn đề ấy.
V. Sàriputta - Kotthika (3) (hay Ái)
(S.iv,368)
1) Một thời, Tôn giả Sàriputta và
Tôn giả Mahà Kotthika trú ở Bàranasi (Ba-la-nại), tại Isipatana, chỗ vườn
Nai...
2-7) -- Thưa Hiền giả, do nhân gì,
do duyên gì, Thế Tôn không trả lời câu hỏi ấy?
8) -- Thưa Hiền giả, đối với ai
chưa đoạn trừ tham đối với sắc, chưa đoạn trừ dục, chưa đoạn trừ
ái, chưa đoạn trừ khát, chưa đoạn trừ nhiệt tâm, chưa đoạn trừ khát
ái, thời người ấy có quan điểm: "Như Lai có tồn tại sau khi chết.
Hay Như Lai không có tồn tại sau khi chết. Hay Như Lai có tồn tại và
không tồn tại sau khi chết. Hay Như Lai không tồn tại và không không tồn
tại sau khi chết".
9-11). .. đối với thọ... đối với
tưởng... đối với các hành...
12) Thưa Hiền giả, đối với ai
chưa đoạn trừ tham đối với thức, chưa đoạn trừ dục, chưa đoạn trừ
ái chưa đoạn trừ khát, chưa đoạn trừ nhiệt tâm, chưa đoạn trừ khát
ái, thời người ấy có quan điểm: "Như Lai có tồn tại sau khi chết.
Hay Như Lai không có tồn tại sau khi chết. Hay Như Lai có tồn tại và
không tồn tại sau khi chết. Hay Như Lai không tồn tại và không không tồn
tại sau khi chết".
13) Này Hiền giả, đối với ai đã
đoạn trừ tham đối với sắc, đã đoạn trừ dục, đã đoạn trừ ái,
đã đoạn trừ khát, đã đoạn trừ nhiệt tâm, đã đoạn trừ khát ái,
người ấy sẽ không có quan điểm: "Như Lai có tồn tại sau khi chết.
Hay Như Lai không có tồn tại sau khi chết. Hay Như Lai có tồn tại và
không tồn tại sau khi chết. Hay Như Lai không tồn tại và không không tồn
tại sau khi chết".
14-16). .. đối với thọ... đối với
tưởng... đối với các hành...
17) Này Hiền giả, đối với ai đã
đoạn trừ lòng tham đối với thức,đã đoạn trừ dục, đã đoạn trừ
ái, đã đoạn trừ khát, đã đoạn trừ nhiệt tâm, đã đoạn trừ khát
ái, thời người ấy không có quan điểm: "Như Lai có tồn tại sau chết.
Hay Như Lai không có tồn tại sau khi chết. Hay Như Lai có tồn tại và
không tồn tại sau khi chết. Hay Như Lai không tồn tại và không không tồn
tại sau khi chết".
18) Này Hiền giả, đây là nhân, đây
là duyên, đây là lý do mà Thế Tôn không trả lời vấn đề ấy.
VI. Sàriputta - Kotthika (4) (hay Vườn)
(S.iv,388)
I
1) Một thời Tôn giả Sàriputta và
Tôn giả Mahà Kotthika trú ở Bàranasì, tại Isipatana, ở vườn Nai.
2) Rồi Tôn giả Sàiputta, vào buổi
chiều, từ chỗ tịnh cư đứng dậy, đi đến Tôn giả Mahà Kotthika; sau
khi đến, nói lên với Tôn giả Mahà Kotthika những lời chào đón hỏi thăm,
sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một
bên.
3) Ngồi một bên, Tôn giả
Sàriputta nói với Tôn giả Kotthika:
-- Thưa Tôn giả Kotthika, Như Lai có
tồn tại sau khi chết?... Như Lai không tồn tại và không không tồn tại
sau khi chết?... Được hỏi vậy, Hiền giả trả lời: "Thế Tôn không
trả lời: ‘Như Lai có tồn tại sau khi chết... Như Lai không tồn tại và
không không tồn tại sau khi chết"".
Do nhân gì, thưa Hiền giả, do duyên
gì, Thế Tôn không trả lời vấn đề ấy?
4) -- Thưa Hiền giả, với ai còn
ái lạc sắc, ưa thích sắc, hoan hỷ sắc, không như thật biết, như thật
thấy sắc đoạn diệt, thời người ấy có quan điểm: "Như Lai có tồn
tại sau khi chết... Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi
chết". Thưa Hiền giả, với ai còn ái lạc thọ, ưa thích thọ, hoan hỷ
thọ, không như thật biết, như thật thấy thọ đoạn diệt, thời người
ấy có các quan điểm: "Như Lai có tồn tại sau khi chết... Như Lai không
tồn tại và không không tồn tại sau khi chết"... tưởng... các
hành... Thưa Hiền giả, với ai còn ái lạc thức, ưa thích thức, hoan hỷ
thức, không như thật biết, như thật thấy thức đoạn diệt, thời người
ấy có các quan điểm: "Như Lai có tồn tại sau khi chết... Như Lai không
tồn tại và không không tồn tại sau khi chết".
5) Này Hiền giả, đối với ai không
ái lạc sắc, không ưa thích sắc, không hoan hỷ sắc, như thật biết, như
thật thấy sắc đoạn diệt, thời người ấy không có các quan điểm:
"Như Lai có tồn tại sau khi chết. .. Như Lai không tồn tại và không
không tồn tại sau khi chết". Thưa Hiền giả, với ai không còn ái lạc
thọ... tưởng... các hành... không ái lạc thức, không ưa thích thức,
không hoan hỷ thức, như thật biết, như thật thấy thức đoạn diệt, thời
người ấy không có các quan điểm: "Như Lai có tồn tại sau khi chết...
Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết".
6) Này Hiền giả, đây là nhân, đây
là duyên, đây là lý do mà Thế Tôn không trả lời về vấn đề ấy.
II
7) -- Thưa Hiền giả, có lý do nào
khác, do đấy Thế Tôn không trả lời về vấn đề ấy?
-- Thưa có, này Hiền giả.
8) Ai còn ái lạc hữu, thưa Hiền
giả, ưa thích hữu, hoan hỷ hữu, không như thật biết, không như thật thấy
hữu đoạn diệt, thời người ấy có các quan điểm: "Như Lai có tồn
tại sau khi chết... Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi
chết".
9) Ai không còn ái lạc hữu, thưa
Hiền giả, không ưa thích hữu, không hoan hỷ hữu, như thật biết, như thật
thấy hữu đoạn diệt, thời người ấy không có các quan điểm: "Như
Lai có tồn tại sau khi chết... Như Lai không tồn tại và không không tồn
tại sau khi chết".
10) Thưa Hiền giả, đây là lý do
vì sao Thế Tôn không trả lời về vấn đề ấy.
III
11) -- Thưa Hiền giả, có lý do nào
khác, do vậy Thế Tôn không trả lời về vấn đề ấy?
-- Thưa có, này Hiền giả.
12) Ai còn ái lạc thủ, thưa Hiền
giả, ưa thích thủ, hoan hỷ thủ, không như thật biết, như thật thấy thủ
đoạn diệt, thời người ấy có những quan điểm: "Như Lai có tồn tại
sau khi chết... Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết".
13) Ai không còn ái lạc thủ, thưa
Hiền giả, không ưa thích thủ, không hoan hỷ thủ, như thật biết, như thật
thấy thủ đoạn diệt, thời người ấy không có những quan điểm:
"Như Lai có tồn tại sau khi chết... Như Lai không tồn tại và không
không tồn tại sau khi chết".
14) Thưa Hiền giả, đây là lý do
vì sao Thế Tôn không trả lời về vấn đề ấy.
IV
15) -- Thưa Hiền giả, có lý do nào
khác, do vậy Thế Tôn không trả lời về vấn đề ấy?
-- Thưa có, này Hiền giả.
16) Với ai còn ái lạc ái, thưa Hiền
giả, ưa thích ái, hoan hỷ ái, không như thật biết, không như thật thấy
ái đoạn diệt, thời người ấy có những quan điểm: "Như Lai có tồn
tại sau khi chết... Như Lai không có tồn tại và không không tồn tại sau
khi chết".
17) Với ai, thưa Hiền giả, không
còn ái lạc ái, không ưa thích ái, không hoan hỷ ái, và như thật biết,
như thật thấy ái đoạn diệt, thời người ấy không có các quan điểm:
"Như Lai có tồn tại sau khi chết... Như Lai không tồn tại và không
không tồn tại sau khi chết".
18) Thưa Hiền giả, đây là lý do
vì sao Thế Tôn không trả lời về vấn đề ấy.
V
19) -- Thưa Hiền giả, có lý do nào
khác, do vậy Thế Tôn không trả lời về vấn đề ấy?
-- Ở đây, thưa Hiền giả Sàriputta,
sao Hiền giả còn muốn hỏi thêm chi nữa. Đối với Tỷ-kheo đã được
giải thoát nhờ đoạn tận ái, thời không còn gì để nêu rõ là được
tăng trưởng.
VII. Moggalàna (hay Xứ) (S.iv.391)
1). ..
2) Rồi du sĩ Vacchagotta đi đến Tôn
giả Mahà Moggalàna; sau khi đến, nói với Tôn giả Mahà Moggalàna những lời
chào đón hỏi thăm, sau khi nói những lời chào đón hỏi thăm thân hữu liền
ngồi xuống một bên.
3) Ngồi một bên, du sĩ Vacchagotta
thưa với Tôn giả Mahà Moggalàna:
-- Thưa Tôn giả Moggalàna, thế giới
là thường còn?
-- Này Vaccha, Thế Tôn không trả lời:
"Thế giới là thường còn".
4) -- Vậy thưa Tôn giả Moggalàna,
thế giới là vô thường?
-- Này Vaccha, Thế Tôn cũng không trả
lời: "Thế giới là vô thường".
5) -- Thưa Tôn giả Moggalàna, có phải
thế giới là hữu biên?
-- Này Vaccha, Thế Tôn không trả lời:
"Thế giới là hữu biên".
6) -- Vậy thưa Tôn giả Moggalàna,
thế giới là vô biên?
-- Này Vaccha, Thế Tôn cũng không trả
lời: "Thế giới là vô biên".
7) -- Thưa Tôn giả Moggalàna, có phải
sinh mạng và thân thể là một?
-- Này Vaccha, Thế Tôn không trả lời:
"Sinh mạng và thân thể là một".
8)-- Thưa Tôn giả Moggalàna, vậy
sinh mạng và thân thể là khác?
-- Này Vaccha, Thế Tôn cũng không trả
lời: "Sinh mạng và thân thể là khác".
9)-- Thưa Tôn giả Moggalàna, có phải
Như Lai có tồn tại sau khi chết?
-- Này Vaccha, Thế Tôn không trả lời:
"Như Lai có tồn tại sau khi chết".
10)-- Thưa Tôn giả Moggalàna, vậy
Như Lai không có tồn tại sau khi chết?
-- Này Vaccha, Thế Tôn cũng không trả
lời: "Như Lai không có tồn tại sau khi chết".
11) -- Thưa Tôn giả Moggalàna, vậy
Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết?
-- Này Vaccha, Thế Tôn cũng không trả
lời: "Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết".
12)-- Thưa Tôn giả Moggalàna, vậy
Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết?
-- Này Vaccha, Thế Tôn cũng không trả
lời: "Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết".
13)-- Thưa Tôn giả Moggalàna, do
nhân gì, do duyên gì các vị du sĩ ngoại đạo, khi được hỏi như thế này,
thời trả lời như thế này: "Thế giới là thường còn. Hay thế giới
là vô thường. Hay thế giới là hữu biên. Hay thế giới là vô biên. Hay
sinh mạng và thân thể là một. Hay sinh mạng và thân thể là khác. Hay Như
Lai có tồn tại sau khi chết. Hay Như Lai không có tồn tại sau khi chết.
Hay Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết. Hay Như Lai không tồn
tại và không không tồn tại sau khi chết?
14) Thưa Tôn giả Moggalàna, do nhân
gì, do duyên gì, Sa-môn Gotama, khi được hỏi như thế này, thời không trả
lời như thế này: "Thế giới là thường còn. Hay thế giới là vô thường.
Hay thế giới là hữu biên. Hay thế giới là vô biên. Hay sinh mạng và
thân thể là một. Hay sinh mạng và thân thể là khác. Hay Như Lai có tồn tại
sau khi chết. Hay Như Lai không có tồn tại sau khi chết. Hay Như Lai có tồn
tại và không tồn tại sau khi chết. Hay Như Lai không tồn tại và không
không tồn tại sau khi chết"?
15) -- Này Vaccha, vì rằng các du sĩ
ngoại đạo quán con mắt là: "Cái này là của tôi. Cái này là tôi.
Cái này là tự ngã của tôi";. .. quán tai... quán mũi... quán lưỡi...
quán thân... quán ý là: "Cái này là của tôi, cái này là tôi. Cái này
là tự ngã của tôi". Do vậy, các du sĩ ngoại đạo, nên khi được hỏi
như vậy, trả lời như vầy: "Thế giới là thường còn... Hay Như Lai
không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết".
16) Và Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh
Đẳng Giác, này Vaccha, quán con mắt là: "Cái này không phải của tôi.
Cái này không phải là tôi. Cái này không phải tự ngã của tôi"...
quán tai... quán mũi... quán lưỡi... quán thân... quán ý là: "Cái này
không phải của tôi. Cái này không phải là tôi. Cái này không phải là tự
ngã của tôi". Do vậy, Như Lai khi được hỏi như vậy, không có trả
lời như vầy: "Thế giới là thường còn... Như Lai không tồn tại và
không không tồn tại sau khi chết".
17) Rồi du sĩ Vacchagotta từ chỗ ngồi
đứng dậy đi đến Thế Tôn; sau khi đi đến, nói lên với Thế Tôn những
lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân
hữu liền ngồi xuống một bên.
18) Ngồi một bên, Vacchagotta bạch
Thế Tôn:
-- Thưa Tôn giả Gotama, thế giới
thường còn?
-- Này Vaccha, Ta không trả lời:
"Thế giới là thường còn".
19-26)... (như trên)...
27) -- Thưa Tôn giả Gotama, có phải
Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết?
-- Này Vaccha, Ta không có trả lời:
"Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết".
28) -- Thưa Tôn giả Gotama, do nhân
gì, do duyên gì các du sĩ ngoại đạo, khi được hỏi như vậy, thời trả
lời như vầy: "Thế giới là thường còn... Như Lai không tồn tại và
không không tồn tại sau khi chết"? Thưa Tôn giả Gotama, do nhân gì, do
duyên gì, khi Tôn giả Gotama được hỏi như vậy, lại không trả lời như
vầy: "Thế giới là thường còn... Như Lai không tồn tại và không
không tồn tại sau khi chết"?
29)-- Này Vaccha, các du sĩ ngoại đạo
quán con mắt là: "Cái này là của tôi. Cái này là tôi. Cái này là tự
ngã của tôi", quán tai... quán mũi... quán lưỡi... quán thân... quán ý
là: "Cái này là của tôi. Cái này là tôi. Cái này là tự ngã của
tôi". Do vậy, các du sĩ ngoại đạo khi được hỏi như vậy, nên trả
lời như vầy: "Thế giới là thường còn... Như Lai không tồn tại và
không không tồn tại sau khi chết".
30) Còn Như Lai, này Vaccha, bậc
A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, quán con mắt là: "Cái này không phải của
tôi. Cái này không phải là tôi. Cái này không phải là tự ngã của
tôi", quán tai... quán mũi... quán lưỡi... quán thân... quán ý là:
"Cái này không phải của tôi. Cái này không phải là tôi. Cái này
không phải là tự ngã của tôi". Do vậy, Như Lai khi được hỏi như vậy,
không trả lời như vầy: "Thế giới là thường còn... Như Lai không tồn
tại và không không tồn tại sau khi chết".
31) -- Thật vi diệu thay, thưa Tôn
giả Gotama! Thật hy hữu thay, thưa Tôn giả Gotama! Vì rằng giữa Đạo sư
với nam đệ tử, ý nghĩa với ý nghĩa, văn ngôn với văn ngôn có sự tương
đồng, có sự tương hòa, không có sự mâu thuẫn, tức là tối thượng
văn cú.
32) Thưa Tôn giả Gotama, nay con đi
đến Sa-môn Mahà Moggalàna và nói về ý nghĩa này. Sa-môn Moggalàna, với những
câu như thế này, với những lời như thế này đã trả lời về ý nghĩa
này giống như Tôn giả Gotama. Vì rằng giữa Đạo sư với nam đệ tử, ý
nghĩa với ý nghĩa, văn ngôn với văn ngôn có sự tương đồng, có sự tương
hòa, không có sự mâu thuẫn, tức là tối thượng văn cú.
VIII. Vaccha (hay Trói buộc)
(S.iv,395)
1). ..
2) Rồi du sĩ Vacchagotta đi đến Thế
Tôn; sau khi đến, nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm,
sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một
bên.
3) Ngồi một bên, du sĩ Vacchagotta bạch
Thế Tôn:
-- Thưa Tôn giả Gotama, thế giới
có phải là thường còn?
-- Này Vaccha, Ta không có trả lời:
"Thế giới là thường còn..".
4-11)... (như trên)...
12) -- Thưa Tôn giả Gotama, có phải
Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết?
-- Này Vaccha, Ta không có trả lời:
"Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết".
13) -- Thưa Tôn giả Gotama, do nhân
gì, do duyên gì, các du sĩ ngoại đạo khi được hỏi như vậy, thời trả
lời như vầy: "Thế giới là thường còn... Như Lai không tồn tại và
không không tồn tại sau khi chết"? Do nhân gì, do duyên gì, thưa Tôn giả
Gotama, khi Tôn giả Gotama được hỏi như vậy, lại không trả lời:
"Thế giới là thường còn... Như Lai không tồn tại và không không tồn
tại sau khi chết"?
14) -- Này Vaccha, các du sĩ ngoại đạo
quán sắc như là tự ngã, hay tự ngã như là có sắc, hay sắc ở trong tự
ngã, hay tự ngã ở trong sắc. Họ quán thọ như là tự ngã... quán tưởng...
quán các hành... quán thức như là tự ngã, hay tự ngã như là có thức,
hay thức ở trong tự ngã, hay tự ngã ở trong thức. Do vậy, các du sĩ ngoại
đạo khi được hỏi như vậy, liền trả lời như vầy: "Thế giới là
thường còn... Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết".
15) Như Lai, này Vaccha, là bậc
A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, quán sắc không phải là tự ngã, hay tự ngã
không phải có sắc, hay sắc không ở trong tự ngã, hay tự ngã không ở
trong sắc. Như Lai quán thọ không phải tự ngã... quán tưởng... quán các
hành... quán thức không phải là tự ngã, hay tự ngã không phải có thức,
hay thức không ở trong tự ngã, hay tự ngã không ở trong thức. Do vậy, Như
Lai khi được hỏi như vậy, lại không trả lời như vầy: "Thế giới
là thường còn... Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết".
16) Rồi du sĩ ngoại đạo
Vacchagotta từ chỗ ngồi đứng dậy, đi đến Tôn giả Mahà Moggalàna; sau
khi đến, nói lên với Tôn giả Mahà Moggalàna những lời chào đón hỏi thăm,
sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một
bên.
17) Ngồi một bên, du sĩ Vacchagotta
nói với Tôn giả Mahà Moggalàna:
-- Thưa Tôn giả Moggalàna, có phải
thế giới là thường còn?
-- Này Vaccha, Thế Tôn không trả lời:
"Thế giới là thường còn".
18-26)... (như trên)...
27) -- Thưa Tôn giả Moggalàna, có phải
Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết?
-- Này Vaccha, Thế Tôn không có trả
lời: "Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết".
28) -- Thưa Tôn giả Moggalàna, do
nhân gì, do duyên gì, các du sĩ ngoại đạo khi được hỏi như vậy, liền
trả lời như vầy: "Thế giới là thường còn... Như Lai không tồn tại
và không không tồn tại sau khi chết"? Do nhân gì, do duyên gì, thưa Tôn
giả Moggalàna, Sa-môn Gotama khi được hỏi như vậy, lại không trả lời
như vầy: "Thế giới là thường còn... Như Lai không tồn tại và
không không tồn tại sau khi chết"?
29) -- Này Vaccha, các du sĩ ngoại đạo
quán sắc như là tự ngã, hay tự ngã như là có sắc, hay sắc ở trong tự
ngã, hay tự ngã ở trong sắc. Họ quán thọ... quán tưởng... quán các
hành... quán thức như là tự ngã, hay tự ngã như là có thức, hay thức
ở trong tự ngã, hay tự ngã ở trong thức. Do vậy, các du sĩ ngoại đạo
khi được hỏi như vậy, liền trả lời như vầy: "Thế giới là thường
còn... Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết".
30) Còn Như Lai, này Vaccha, bậc
A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, quán sắc không phải là tự ngã, hay tự ngã
không phải có sắc, quán sắc không ở trong tự ngã, hay tự ngã không ở
trong sắc. Như Lai quán thọ... quán tưởng... quán các hành... quán thức
không phải là tự ngã, hay tự ngã như là có thức, hay thức ở trong tự
ngã, hay tự ngã ở trong thức. Do vậy, Như Lai khi được hỏi như vậy, không
có trả lời như vầy: "Thế giới là thường còn... Như Lai không tồn
tại và không không tồn tại sau khi chết".
31) -- Thật vi diệu thay, thưa Tôn
giả Moggalàna! Vì rằng, giữa Đạo sư và nam đệ tử, ý nghĩa với ý nghĩa,
văn ngôn với văn ngôn có sự tương đồng, có sự tương hòa, không có sự
mâu thuẫn, tức là tối thượng văn cú.
32) Thưa Tôn giả Moggalàna, nay tôi
đi đến Sa-môn Gotama, sau khi đến tôi hỏi về ý nghĩa này. Sa-môn Gotama với
những câu văn, với những lời văn đã trả lời về ý nghĩa này giống
như Tôn giả Moggalàna. Thật vi diệu thay, Tôn giả Moggalàna! Thật hy hữu
thay, Tôn giả Moggalàna! Vì rằng, giữa Đạo sư và nam đệ tử, ý nghĩa với
ý nghĩa, văn ngôn với văn ngôn có sự tương đồng, có sự tương hòa,
không có sự mâu thuẫn, tức là tối thượng văn cú.
IX. Luận Nghị Đường (Kutùhalasàlà)
(S.iv,398)
1). ..
2) Rồi du sĩ Vacchagotta đi đến Thế
Tôn; sau khi đến, nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm,
sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một
bên.
3) Ngồi một bên, du sĩ Vacchagotta
thưa với Thế Tôn:
-- Thưa Tôn giả Gotama, những ngày
về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là
du sĩ ngoại đạo ngồi tụ tập, tụ hội tại Luận nghị đường, và
câu chuyện sau đây được khởi lên: "Vị Pùrana Kassapa này là vị hội
chủ, vị giáo trưởng, vị sư trưởng giáo hội, có tiếng tốt, có danh vọng,
khai tổ giáo phái, được quần chúng tôn sùng". Khi nói về một đệ
tử từ trần, mệnh chung, họ nói sanh xứ của vị ấy như sau: "Vị này
sanh tại chỗ này. Vị này sanh tại chỗ này". Nếu đệ tử là vị thượng
nhân, tối thượng nhân, đã đạt địa vị tối thắng, khi vị này từ trần,
mệnh chung, họ nói sanh xứ của vị ấy như sau: "Vị này sanh tại chỗ
này. Vị này sanh tại chỗ này".
4-9) Makkhali Gosàla... Nigantha
Nàtaputta... Sanjaya Belatthiputta... Pakuddha Kaccàyana... vị Ajita Kesakambala này
là vị hội chủ, vị giáo trưởng, vị sư trưởng giáo hội, có tiếng tốt,
có danh vọng, khai tổ giáo phái, được quần chúng tôn sùng. Khi nói về một
đệ tử từ trần, mệnh chung, họ nói sanh xứ của vị ấy như sau:
"Vị này sanh tại chỗ này. Vị này sanh tại chỗ này". Nếu đệ
tử là vị thượng nhân, tối thượng nhân, đã đạt địa vị tối thắng,
khi vị này từ trần, mệnh chung, họ nói sanh xứ của vị ấy như sau:
"Vị này sanh tại chỗ này. Vị này sanh tại chỗ này".
10) Còn Sa-môn Gotama này là vị hội
chủ, vị giáo trưởng, vị sư trưởng giáo hội, có tiếng tốt, có danh vọng,
khai tổ giáo phái, được quần chúng tôn sùng. Khi nói về một đệ tử
đã từ trần, đã mệnh chung, Sa-môn Gotama nói sanh xứ của vị ấy như
sau: "Vị này sanh tại chỗ này. Vị này sanh tại chỗ này". Nếu
đệ tử là bậc thượng nhân, tối thắng nhân đã đạt địa vị tối
thượng, khi vị này từ trần, mệnh chung, Sa-môn Gotama không có trả lời:
"Vị này sanh tại chỗ này. Vị này sanh tại chỗ này". Nhưng Ngài
nói về vị ấy như sau: "Vị ấy đã chặt đứt ái, đã phá hủy các
kiết phược, nhờ chơn chánh thấy rõ kiêu mạn, đã đoạn tận khổ
đau".
11) Thưa Tôn giả Gotama, con có khởi
lên phân vân và nghi ngờ như sau: "Như thế nào, cần phải thấu hiểu
pháp của Sa-môn Gotama?"
12) -- Này Vaccha, thôi vừa rồi sự
phân vân của Ông. Thôi vừa rồi sự nghi ngờ của Ông. Chính do trên điểm
Ông phân vân mà nghi ngờ được khởi lên. Ta tuyên bố sự sanh khởi, này
Vaccha, đối với những ai có chấp thủ, không phải đối với ai không có
chấp thủ.
13) Ví như, này Vaccha, một ngọn lửa
cháy đỏ khi nào có nhiên liệu (saupàdàna), không phải không có nhiên liệu.
Cũng vậy, này Vaccha, Ta tuyên bố về sanh khởi đối với người có chấp
thủ (sanh y), không phải với người không có chấp thủ.
14) -- Thưa Tôn giả Gotama, trong khi
có gió thổi ngọn lửa đi thật xa, thời Tôn giả Gotama tuyên bố cái gì
làm nhiên liệu cho ngọn lửa này?
-- Này Vaccha, trong khi có gió thổi
ngọn lửa đi thật xa, thời Ta nói chính gió là nhiên liệu. Trong khi ấy,
này Vaccha, chính gió là nhiên liệu (upàdàna).
15) -- Thưa Tôn giả Gotama, trong khi
một loài hữu tình quăng bỏ thân này để sanh vào một thân khác, thời
Tôn giả Gotama tuyên bố cái gì làm nhiên liệu cho thân này?
-- Này Vaccha, trong khi một loài hữu
tình quăng bỏ thân này và sanh vào một thân khác, này Vaccha, Ta tuyên bố
rằng trong khi ấy chính ái (tanhà) là nhiên liệu (upàdànam).
X. Ananda (hay Sự có mặt của
ngã) (S.iv,400)
1). ..
2) Rồi du sĩ Vacchagotta đi đến Thế
Tôn; sau khi đến, nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm,
sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một
bên.
3) Ngồi một bên, du sĩ Vacchagotta
thưa với Thế Tôn:
-- Thưa Tôn giả Gotama, có tự ngã
không?
Khi được hỏi vậy, Thế Tôn im lặng.
-- Thưa Tôn giả Gotama, có tự ngã
không?
Lần thứ hai, Tôn giả Gotama giữ
im lặng.
Rồi du sĩ Vacchagotta từ chỗ ngồi
đứng dậy và ra đi.
4) Rồi Tôn giả Ananda, sau khi du sĩ
Vacchagotta ra đi không bao lâu, liền bạch Thế Tôn:
-- Bạch Thế Tôn, vì sao Thế Tôn
không trả lời câu hỏi của du sĩ Vacchagotta?
5) -- Này Ananda, nếu được hỏi:
"Có tự ngã không?", và Ta trả lời cho du sĩ Vacchagotta là:
"Có tự ngã", như vậy, này Ananda, thuộc về phái các Sa-môn,
Bà-la-môn chấp thường kiến.
6) Và này ànanda, nếu được hỏi:
"Có phải không có tự ngã?"Và Ta trả lời cho du sĩ Vacchagotta là:
"Không có tự ngã", như vậy, này Ànanda, là thuộc về phái các
Sa-môn, Bà-la-môn chấp đoạn kiến.
7) Lại nữa, này ànanda, nếu được
hỏi: "Có tự ngã không?" và Ta trả lời cho du sĩ Vacchagotta là:
"Có tự ngã", như vậy, câu trả lời của Ta có phù hợp với trí
khởi lên rằng: "Tất cả các pháp là vô ngã"?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
8) -- Lại nữa, này Ananda, nếu được
hỏi: "Có phải không có tự ngã?" và Ta trả lời cho du sĩ
Vacchagotta là: "Không có tự ngã", như vậy, này Ananda, lại làm cho
du sĩ Vacchagotta càng ngơ ngác bối rối hơn nữa: "Trước đây ta có tự
ngã, nay không có tự ngã nữa".
XI.Sabhiya (S.iv,401)
1) Một thời, Tôn giả Sabhiya
Kaccàna trú ở Nàtika, tại ngôi nhà bằng gạch.
2) Rồi du sĩ Vacchagotta đi đến Tôn
giả Sabhiya Kaccàna; sau khi đến, nói lên với Tôn giả Sabhiya Kaccàna những
lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân
hữu rồi ngồi xuống một bên.
3) Ngồi một bên, du sĩ Vacchagotta nói
với Tôn giả Sabhiya Kaccàna như sau:
-- Thưa Tôn giả Kaccàna, có phải
Như Lai có tồn tại sau khi chết?
-- Này Vaccha, Thế Tôn không trả lời:
"Như Lai có tồn tại sau khi chết".
4) -- Thế là, thưa Tôn giả
Kaccàna, Như Lai không tồn tại sau khi chết?
-- Này Vaccha, Thế Tôn cũng không trả
lời: "Như Lai không tồn tại sau khi chết".
5) Thế là, thưa Tôn giả Kaccàna,
Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết?
-- Này Vaccha, Thế Tôn cũng không trả
lời: "Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết".
6) -- Thế là, thưa Tôn giả
Kaccàna, Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết?
-- Này Vaccha, Thế Tôn cũng không trả
lời: "Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết".
7) -- Thưa Tôn giả Kaccàna, vì sao
khi được hỏi: "Như Lai có tồn tại sau khi chết?", Tôn giả lại
nói: "Này Vaccha, Thế Tôn không có trả lời: ‘Như Lai có tồn tại
sau khi chết’"?
8) Thưa Tôn giả Kaccàna, vì sao khi
được hỏi: "Như Lai không có tồn tại sau khi chết?", Tôn giả lại
nói: "Này Vaccha, Thế Tôn không trả lời: ‘Như Lai không có tồn tại
sau khi chết""?
9) Thưa Tôn giả Kaccàna, vì sao khi
được hỏi: "Như Lai có tồn tại và không có tồn tại sau khi chết?",
Tôn giả lại nói: "Này Vaccha, Thế Tôn không trả lời: ‘Như Lai có tồn
tại và không có tồn tại sau khi chết’"?
10) Thưa Tôn giả Kaccàna, vì sao khi
được hỏi: "Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết?"
Tôn giả lại nói: "Này Vaccha, Thế Tôn cũng không trả lời: ‘Như Lai
không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết"".
11) Thưa Tôn giả Kaccàna, do nhân
gì, do duyên gì, Sa-môn Gotama lại không trả lời về vấn đề ấy?
12) -- Này Vaccha, do nhân gì, do
duyên gì, mà trình bày người ấy là có sắc, hay không có sắc, có tưởng
hay không có tưởng, không có tưởng hay không không có tưởng, thì khi
nhân ấy, duyên ấy được đoạn diệt không có dư tàn, một cách toàn diện,
một cách hoàn toàn, khi ấy lấy cái gì để trình bày người ấy là có sắc,
hay không có sắc, có tưởng hay không có tưởng, không có tưởng hay không
không có tưởng?
13) -- Này Tôn giả Kaccàna, Tôn giả
xuất gia đã bao lâu?
-- Thưa Hiền giả, không lâu, chỉ
có ba năm.
14) -- Hãy xem, với thời gian ngắn
như vậy, lại được thấy nhiều như vậy. Còn nói gì đến các vấn đề
vi diệu!