Đức
Phật và Phật pháp
HT. Narada
Phạm Kim Khánh dịch
- [12]
- Con Đường Hoằng Pháp
"Như Lai đã thoát khỏi mọi trói buộc, dầu ở cảnh
Trời hay cảnh người. Các con cũng vậy, hỡi các Tỳ Khưu, Đã vượt qua
khỏi mọi thằng thúc". -- Mahavagga
Con đường Hoằng Pháp vừa lợi
ích vừa thành công của Đức Phật kéo dài bốn mươi lăm năm. Từ lúc
Thành Đạo, năm ấy ba mươi lăm tuổi, chí đến khi Đại Niết Bàn, tám mươi
tuổi, Đức Phật không ngừng phục vụ nhân loại bằng cả hai lối - gương
lành và lời dạy. Suốt cả năm trường, đôi khi một mình, lắm lúc cùng
với môn đệ, Ngài đi từ nơi này đến nơi khác để truyền bá Giáo
Pháp trong dân gian và dẫn dắt nhiều người ra khỏi vòng cương tỏa của
luân hồi.
Theo khí hậu ở Ấn Độ, trong mùa
Vassàna, trời mưa tầm tã nên Đức Phật ở lại một nơi. Đó cũng là
phong tục của các nhà tu sĩ Ấn Độ thời bấy giờ.
Thuở xưa, cũng như hiện nay, ở
Ấn Độ có ba mùa rõ rệt là Vassàna (mùa mưa), Hemanta (mùa đông) và
Gimhana (mùa nóng). Vassàna, hay mùa mưa bắt đầu từ tháng Asalha và kéo
dài đến tháng Assayuga nghĩa là từ khoảng giữa tháng Bảy đến tháng Mười
Một, Dương Lịch.
Trong mùa Vassàna (Hạ), vì mưa dầm
tầm tã nên mực nước sông rạch thường dâng lên cao, đường sá ngập lụt,
giao thông gián đoạn, và dân chúng phải sống quanh quẩn trong nhà hay trong
làng với chút ít vật thực gì đã để dành được từ các mùa trước.
Trong thời gian ấy, các vị đạo sĩ khó lòng đi được đó đây để giảng
đạo, khó lòng di chuyển mà không xúc phạm đến sanh mạng của bao nhiêu
loài động vật, tìm sống ở một nơi ít còn khô ráo, hay tổn hại đến
cây cỏ mùa màng. Do đó, các tu sĩ, kể cả các đệ tử của Đức Phật,
thường tạm ngưng mọi họat động phải di chuyển để rút về những nơi
vắng vẻ.
Theo thường, Đức Phật và các đệ
tử Ngài được cung thỉnh về an cư kiết hạ ở các tu viện hay những
khu vườn ẩn dật. Đôi khi các Ngài cũng rút vào rừng sâu. Vào những
lúc ấy, Đức Phật ở đâu thì dân chúng trong vùng kéo đến nghe Pháp và
cố tận dụng thời gian ấy để tạo phước.
- Hai Mươi Hạ
Đầu Tiên
- Hạ Đầu Tiên - tại Benares
(Ba La Nại)
Sau khi Vận Chuyển Pháp
Luân cho năm vị đệ tử trong ngày trăng tròn tháng Asalha, Đức Phật nhập
Hạ đầu tiên tại vườn Lộc Uyển, Isipatana, gần Benares (Ba La Nại). Lúc
ấy ở đây chưa có nhà cửa hay tu viện. Trong Hạ này, Ngài cảm hóa Yasa.
Hạ
Thứ Nhì, Thứ Ba Và Thứ Tư - tại Rajagaha
Rajagaha (Vương Xá Thành) là kinh đô
của Vương Quốc Magadha (Ma Kiệt Đà), dưới triều Vua Bimbisara (Bình Sa Vương).
Do lời thỉnh cầu của vua trước ngày Bồ Tát Thành Đạo, Đức Phật trở
lại viếng thành Rajagaha, và trong dịp này Vua Bimbisara dâng lên Đức Phật
và chư đệ tử Ngài khu Rừng Tre, Veluvana (Trúc Lâm). Nơi đây vắng vẻ,
thật là chỗ trú ngụ lý tưởng của hàng tu sĩ vì không quá xa cũng không
quá gần đô thị. Đức Phật nhập Hạ ba năm liên tiếp tại nơi này.
Hạ
Thứ Năm - tại Vesali
Mùa Hạ này Đức Phật ngự trong một
tịnh thất tại Mahavana (Đại Lâm) gần thành Vesali (Vệ Xá). Ở đây, được
tin Đức Vua Suddhodana (Tịnh Phạn) lâm bệnh trầm trọng, Ngài đi lần về
đến tận phòng, thuyết Pháp cho cha nghe. Đức vua tức khắc đắc Quả A
La Hán, nhập Diệt Thọ Tưởng Định (đại định) trong bảy ngày và viên
tịch luôn.
Cũng trong Hạ này Đức Phật cho phép
sáng lập Giáo Hội Tỳ Khưu Ni, theo lời thỉnh nguyện của Bà Maha Pajapati
Gotami.
Sau khi cử hành lễ hỏa táng đức
vua xong, Bà Maha Pajapati Gotami đến hầu Phật, lúc ấy đang tạm ngự tại
Nigrodharama, và xin phép cho hàng phụ nữ được gia nhập vào Giáo Hội. Nhưng
Đức Phật từ chối và trở về tịnh thất tại thành Vesali. Bà Pajapati
Gotami muốn xuất gia đến đỗi, cùng với các mệnh phụ phu nhân dòng
Sakya (Thích Ca) và dòng Koliya, đi bộ từ Kapilavatthu (Ca Tỳ La Vệ) đến
Vesali, và nhờ sự hỗ trợ của Đức Ananda, được phép xuất gia và
thành lập Giáo Hội Tỳ Khưu Ni.
Hạ
Thứ Sáu - tại đồi Mankula, gần Allahabad
Cũng như trước kia Ngài dùng "Đôi
Phép Lạ" - Yamaka Patihariya [1] (làm cho lửa và nước từ lỗ chân lông
phun ra) để chế ngự tính ngã mạn của thân bằng quyến thuộc tại quê
nhà, nơi đây Ngài dùng lại phép ấy lần thứ nhì để thâu phục những
người khác đạo.
Hạ
Thứ Bảy - tại cung Trời Tavatimsa (Đạo Lợi)
Vài ngày sau khi hạ sanh Thái Tử
Siddhattha (Sĩ Đạt Ta) thì Hoàng Hậu Maha Maya (Ma Da) thăng hà và tái sanh
vào cung Trời Tusita (Đấu Xuất Đà). Trong Hạ thứ bảy Đức Phật thuyết
Abhidhamma (Vi Diệu Pháp) cho chư Thiên ở cung Trời Đạo Lợi, và vị Trời
trước kia là Hoàng Hậu Ma Da, từ Đấu Xuất Đà đến Đạo Lợi nghe Pháp.
Mỗi ngày Đức Phật trở về quả
địa cầu, tóm tắt bài Pháp để cho Đức Sariputta (Xá Lợi Phất) giảng
rộng giáo lý ấy cho hàng đệ tử. Tạng Vi Diệu Pháp còn lưu truyền đến
nay là bài Pháp đầy đủ chi tiết do Đại Đức Sariputta (Xá Lợi Phất)
truyền dạy. Kinh sách ghi rằng sau khi nghe xong những thời Pháp này, vị Trời
trước kia là mẹ của Thái Tử Siddhattha (Sĩ Đạt Ta) đắc Quả Tu Đà Hườn.
Hạ
Thứ Tám
Tại rừng Bhesakala, gần
tảng đá Sumsumara, trong quận Bhagga.
Hạ
Thứ Chín
Tại Kosambi. Trong Hạ này có bà
Magandiya tự tạo cho mình một mối hận thù sâu sắc đối với Đức Phật
và tìm mọi cơ hội để bêu xấu thanh danh của Ngài. Magandiya là một thiếu
nữ xinh đẹp sanh trưởng trong một gia đình thuộc giai cấp Bà la môn. Cha
mẹ nàng kén rể, muốn chỉ gả nàng cho người thật xứng đáng.
Ngày kia, lúc quan sát thế gian, Đức
Phật nhận thấy hai ông bà đã hội đủ duyên lành, tinh thần phát triển
đầy đủ. Vì lòng từ bi muốn tế độ hai ông bà nên Đức Phật ngự đến
nơi, lúc ông đang cúng tế Thần Lửa. Vị Bà la môn lấy làm say mê trước
hình dáng tốt đẹp của Đức Phật và nghĩ thầm rằng đây quả thật xứng
đáng là rể đông sàng mà ông hết lòng mong mỏi từ lâu. Ông liền thỉnh
Đức Phật ở nán lại chờ ông đi một chút sẽ trở lại và vội vã chạy
kêu con gái. Lúc ấy Đức Phật cố ý giậm dấu chân trên mặt đất rồi
đi sang một chỗ khác gần đó. Khi người bà la môn dẫn vợ và cô con
gái ăn mặc đẹp đẽ đến nơi thì chỉ nhìn thấy dấu chân. Bà vợ giỏi
về khoa tướng số, biết rằng dấu chân này không phải của người tầm
thường mà phải là của người rất trong sạch, đã tận diệt mọi dục
vọng. Ông Bà la môn chế nhạo vợ và nhìn thấy Đức Phật cách đó
không xa, ông dẫn con đến, đề nghị gả cho Ngài. Đức Phật mô tả
cách Ngài chế ngự dục vọng như sau:
- "Đã nhận thấy Ái Dục, Bất Mãn và Tham Vọng
[2]
- Ta không thích thú trong dục lạc của ái tình.
- Cơ thể đầy ô trược này là gì?
- Ta không bao giờ muốn sờ chạm đến nó,
- Dầu chỉ đụng bằng chân." [3]
Nghe đến đây, hai ông bà Bà la
môn chứng ngộ Đạo Quả A Na Hàm, tầng thánh thứ ba. Nhưng cô Magandhiya
không hiểu, ngỡ rằng như thế là chửi mắng, làm nhục cô, nên lấy làm
tức giận. Bị chạm tự ái, cô nghĩ: "Nếu người này không cần đến
ta thì cứ nói thật, và như vậy là hoàn toàn thích đáng. Tại sao ông ta
lại tuyên bố rằng cơ thể này đầy ô trược? Hay lắm! Ông ta sẽ thấy,
do sự sanh trưởng trong giai cấp Bà la môn, do gia tộc, do địa vị xã hội,
tài sản và duyên dáng trẻ son của ta, ta sẽ có một người chồng xứng
đáng và chừng đó ta sẽ biết làm những gì phải làm đối với Sa Môn
Gotama (Cồ Đàm)."
Về sau bà trở nên thứ hậu của
Vua Udena. Dựa trên quyền thế lúc bấy giờ, bà đút lót và xúi giục người
mắng chửi và xua đuổi Đức Phật ra khỏi thành phố. Khi Đức Phật vào
thành, những người ấy hô to ngay đến Ngài:
"Ông là tên trộm, là tên khờ
dại, là người điên cuồng, là con lạc đà, là bò, là lừa, là chúng
sanh ở địa ngục, là thú vật. Ông không mong gì được lên nhàn cảnh.
Hình phạt và khổ cảnh là tất cả những gì ông có thể mong đợi."
Đại Đức Ananda không thể chịu
đựng những lời nguyền rủa tục tằn như vậy, đến hầu Phật và bạch:
"Bạch Đức Thế Tôn, người
ta đang chửi rủa và nhục mạ chúng ta thậm tệ. Xin Ngài cho dời đi nơi
khác."
- Này Ananda, bây giờ ta nên đi đâu?
- Bạch Đức Thế Tôn, đến một
thị trấn khác.
- Nếu ở nơi ấy người ta cũng chửi
rủa và nhục mạ ta như vậy rồi ta sẽ đi đâu?
- Bạch Đức Thế Tôn, lại đi đến
một nơi khác nữa.
- Này Ananda, không nên nói vậy. Nơi
nào gặp chuyện khó khăn, chính nơi ấy ta phải giàn xếp ổn thỏa. Và chỉ
khi giàn xếp xong ta mới có quyền đi nơi khác. Nhưng này Ananda, ai chửi rủa
nhục mạ ta?
- Bạch Đức Thế Tôn, ai cũng chửi
rủa ta. Những người cùng đinh nô lệ và tất cả mọi người.
Đức Phật nhân cơ hội dạy Đại
Đức Ananda hành pháp nhẫn nhục như sau:
"1. Như voi chiến ở trận địa,
hứng lãnh làn tên mũi đạn từ bốn phía dồn dập bắn tới, dường thế
ấy, ta phải chịu đựng những lời nguyền rủa chửi mắng từ mọi nơi.
Đúng thật vậy, phần đông sống không giới đức.
2. Nhiều voi ngựa được dẫn đến
chỗ vua quan tụ tập. Giữa đám đông voi ngựa ấy, vua chọn con nào thuần
thục nhất để cưỡi. Giữa đám đông con người, cao thượng nhất là người
có giới đức thuần thục, chịu đựng những lời nguyền rủa.
3. Quý báu thay! Những con lừa thuần
thục, những con ngựa rặc giống của xứ Sindh và những thớt tượng sang
trọng có ngà. Những con người thuần thục, giới đức trang nghiêm là hơn
tất cả." [4]
Và Đức Phật dạy thêm Đức
Ananda:
"Không nên lo ngại, những người
này chỉ chửi mắng trong bảy ngày. Đến ngày thứ tám họ sẽ lặng yên.
Một chuyện khó khăn xảy đến Đức Phật không thể kéo dài quá bảy
ngày." [5]
Hạ
Thứ Mười - tại rừng Parileyyaka
Trong lúc Đức Phật ngự tại
Kosambi, một vụ tranh luận xảy ra giữa hai nhóm tỳ khưu - một nhóm giỏi
về Kinh và một nhóm giỏi về Luật - vì có một vị phạm nhằm một giới
nhỏ có liên quan đến cách thức sử dụng phòng vệ sinh. Những người
ủng hộ cũng chia làm hai phe. Đức Phật bổn thân đứng ra giàn xếp cũng
không xong. Hai bên đều tỏ ra có tánh gây gỗ, và niềm bất hòa ngấm ngầm
tiếp diễn. Đức Phật suy nghĩ:
"Trong tình trạng hiện tại, đám
đông người này cố tâm muốn lấn áp nhau, khiến cho những ngày an cư kiết
hạ của ta trở nên bất ổn. Hơn nữa chúng Tăng ở đây không để ý đến
lời dạy của ta. Hay là ta rời khỏi đám đông để ẩn dật trong rừng sâu".
Liền đó, không cho chư Tăng biết,
Ngài một mình ra đi, đến khu rừng Parileyyaka, và nhập Hạ dưới gốc một
cây sala (long thọ) tươi đẹp.
Theo tích chuyện được kể lại,
trong thời gian này có một con voi và một con khỉ theo hầu cận và lo lắng
mọi nhu cầu cho Đức Phật. [6]
Hạ
Thứ Mười Một - tại Ekanala, làng theo đạo Bà-la-môn
Bài kinh Kasibharadvaja Sutta [7] thuật
lại như sau:
Một thời kia Đức Phật ngự tại
Ekanala trong Dakkhinagiri, một làng theo Bà La Môn Giáo của xứ Magadha. Lúc
ấy lối năm trăm tay cày làm việc cho ông Bà la môn Kasibharadvaja sắp sửa
ra đồng. Đức Phật đắp y mang bát đến nơi người ta đang phân phối vật
thực và đứng sang một bên. Vị Bà la môn Kasibharadvaja thấy vậy nói:
"Này Tôn Giả, tôi cày và gieo. Sau khi cày và gieo, tôi ăn. Ông cũng vậy,
này Tôn giả, ông cũng phải cày và gieo, sau khi đã cày và gieo, ông sẽ
ăn."
- Này Ông Bà La Môn, Như Lai cũng cày
và gieo vậy. Đã cày và gieo xong, Như Lai ăn.
- Nhưng nào tôi có thấy đâu cái
cày, cái ách hay cái lưỡi cày, cũng không thấy bò hay cây roi bò của Tôn
Giả Gotama (Cồ Đàm), mặc dầu Tôn Giả nói: "Như Lai cũng cày và
gieo. Đã cày và gieo xong, Như Lai ăn".
Tôn Giả tự xưng là nông dân, nhưng
chúng tôi có thấy đâu lằn cày của Tôn Giả. Vậy xin Tôn Giả cho chúng
tôi biết ông cày ở đâu?
Đức Phật trả lời:
"Đức tin (saddha) là hột giống,
giới luật (tapo) là mưa, trí tuệ (panna) là ách cày và cây cày, hạnh
khiêm tốn (hiri) là cán cày, tâm (mano) là dây cương, và niệm (sati) là lưỡi
cày và roi bò.
"Như Lai sống với lục căn thu
thúc, nói năng và ẩm thực tiết độ. Như Lai đã dùng hạnh chân thật để
cắt đứt những cọng cỏ dại. Thành đạt Đạo Quả Tối Thượng (A La Hán)
là mở dây thả bò.
"Tinh tấn (viriya) là loài thú
chở nặng đã đưa Như Lai đến trạng thái không bị trói buộc (Niết
Bàn).
"Trực chỉ thẳng tiến, bất
thối chuyển và đã đi, không còn sầu muộn.
"Đó, lằn cày của Như Lai được
thực hiện như thế đó. Hậu quả của nó là trạng thái Bất Tử.
"Đã kéo xong lằn cày thì
không còn phiền muộn âu sầu nữa."
Nghe xong, vị Bà La Môn Kasibharadvaja
bới đầy một chén cơm trộn sữa, dâng đến Đức Phật và nói: "Vậy
xin Tôn Giả Gotama (Cồ Đàm) độ chén cơm trộn sữa này! Tôn Giả quả thật
là một nông dân vì Ngài đã trồng một loại cây trổ trái 'Bất Tử'."
Tuy nhiên, Đức Phật từ chối không
nhận chén cơm. Ngài dạy:
"Vật thực nhận lãnh do sự
thuyết giảng giáo lý là không thích nghi để Như Lai dùng. Này Ông Bà La
Môn, đó là thông lệ của Bậc Đại Giác. Đấng Chánh Biến Tri không thể
dùng vật thực ấy. Khi nào truyền thống này còn được giữ gìn thì đó
là chánh mạng.
"Chỉ dùng những vật thực và
ẩm thực hoàn toàn trong sạch bởi vì bậc thánh nhân tĩnh lặng là thửa
ruộng phì nhiêu để cho những ai muốn, có thể gieo trồng hột giống tốt."
Hạ
Thứ Mười Hai - tại Veranja
Một vị Bà la môn ở Veranja nghe Đức
Phật ngụ tại quê mình cùng với đông đảo chúng Tăng, gần cây Nimba của
Naleru nên đến hầu Ngài và nêu lên nhiều câu hỏi có liên quan đến phẩm
hạnh của Đức Phật. Sau khi được nghe lời giải đáp, vị Bà la môn lấy
làm hoan hỷ, xin quy y Tam Bảo và cung thỉnh Đức Phật và chư Tăng ở lại
nhập Hạ tại Veranja. Đức Thế Tôn nhận lời bằng cách giữ im lặng.
Bất hạnh thay, ngay lúc ấy tại
Veranja có nạn đói. Do đó Đức Phật và chư Tăng phải dùng thức ăn của
ngựa. Một người lái ngựa có lòng tốt dâng thức ăn của ngựa còn lại
và Đức Phật chia sớt phần vật thực ấy một cách hoàn toàn bình thản.
Trong khoảng thời gian ấy, Ngài Xá
Lợi Phất, một hôm, sau khi xuất thiền, đến hầu Phật và cung kính bạch:
"Bạch hóa Đức Thế Tôn, Giáo Pháp của vị Phật nào tồn tại lâu
dài và Giáo Pháp nào không tồn tại?" Đức Phật trả lời rằng Giáo
Pháp của chư Phật Vipassi, Sikhi và Vessabhu không tồn tại lâu dài còn
Giáo Pháp của chư Phật Kakusandha, Konagamana và Kassapa tồn tại lâu dài.
[8]
Đức Phật dạy rằng sự kiện này
do một vài vị Phật không giảng dạy cặn kẽ giáo lý và không ban hành
giới luật để giữ hàng môn đệ trong nếp sống kỷ cương và có những
vị Phật đã làm đầy đủ các điều ấy.
Nhân đó Ngài Sariputta (Xá Lợi Phất)
cung kính xin Đức Phật ban hành những giới căn bản (Patimokkha, giới bổn)
để trong tương lai có thể giữ chư Tăng trong nếp sống kỷ cương, và đời
sống Thiêng Liêng Phạm Hạnh được tồn tại lâu dài.
- Hãy nhẫn nại, Sariputta(Xá Lợi
Phất), hãy nhẫn nại.
Và Đức Phật dạy thêm:
"Chỉ có Như Lai biết chừng nào
là đúng lúc. Cho đến khi có một vài trường hợp hoen ố phát sanh trong
hàng Tăng chúng Như Lai không ban hành những "Phương Tiện Kỷ Luật"
và đặt ra "Giới Luật Căn bản" (Patimokkha) cho hàng môn đệ. Chừng
nào có trường hợp hoen ố xảy diễn trong hàng Tăng chúng, chỉ đến chừng
ấy Như Lai mới ban hành những "Phương Tiện Kỷ Luật" và đặt
ra "Giới luật Căn Bản" để tận diệt các ô nhiễm ấy.
"Này Sariputta (Xá Lợi Phất),
chừng nào chúng Tăng đạt đến mức cao thượng lâu dài (rattannu-mahattam),
phát triển đầy đủ (vepulla-mahattam), tăng trưởng lợi ích
(labhagga-mahattam), và pháp học uyên bác (bahussuta-mahattam) thì trường hợp
hoen ố sẽ phát sinh trong Tăng chúng. Đến chừng ấy Như Lai sẽ ban hành
những Phương Tiện Kỷ Luật và Giới Luật Căn Bản để ngăn ngừa những
điều ô nhiễm ấy.
"Này Sariputta (Xá Lợi Phất),
hiện nay Giáo Hội các đệ tử không có điều gì bất ổn, không có những
khuynh hướng xấu xa, không ô nhiễm, trong sạch và giới hạnh trang nghiêm.
Người cuối cùng trong năm trăm đệ tử cũng đã Nhập Lưu, không còn phải
bị rơi lại nữa, đã vững chắc và đang tiến đến giác ngộ." [9]
(Mùa nhập Hạ tại Veranja là đầu
đề cho "Lời Giới Thiệu" quyển Parajika trong tạng Luật).
Khi ra Hạ này Đức Phật tiếp tục
du phương hoằng đạo đến Soreyya, Samkassa, Kannakujja, Payaga, và qua sông,
ghé lại ít lâu tại Bénares và từ đó trở về Vesali ngự tại đồi Tháp
trong Mahavana (Đại Lâm).
Hạ Thứ Mười
Ba - tại tảng đá Caliya.
Hạ Thứ Mười
Bốn - tại Jetavana, kỳ Viên, Savatthi.
Đại Đức Rahula (La Hầu La) thọ Cụ
Túc Giới năm này khi Ngài đúng hai mươi tuổi.
Hạ Thứ Mười
Lăm - tại Kapilavatthu (Ca Tỳ La Vệ).
Cái chết thê thảm của Vua
Suppabuddha (Thiện Giác) xảy ra trong Hạ này. Vua oán giận Đức Phật vì
Ngài ra đi, bỏ con gái vua là Công Chúa Yasodhara (Da Du Đà La).
Cũng nên ghi nhận rằng Đức Phật
chỉ nhập Hạ một năm nơi chôn nhau cắt rún của Ngài.
Hạ Thứ Mười
Sáu - tại thành Avali.
Trong Hạ này Đức Phật thâu phục
quỷ Alavaka (Dạ Xoa), có tiếng là thường ăn thịt người.
Alavaka là một con quỷ hung tợn, lấy
làm tức giận khi thấy Đức Phật ở trong nhà của nó. Quỷ Alavaka liền
đến trước mặt Đức Phật và bảo Ngài ra đi. Đức Phật nói: "Được,
tốt lắm", và đi ra. Alavaka lại biểu đi vào. Đức Phật trở vô. Lần
thứ nhì, rồi lần thứ ba, nó lại biểu như vậy. Đức Phật tuân lời.
Nhưng đến lần thứ tư, Ngài từ chối và bảo Alavaka muốn làm gì thì cứ
làm.
-- Được, này ông Sa Môn, tôi hỏi
ông một câu, nếu ông không giải đáp được, tôi sẽ phân tán tâm ông,
hoặc cắt xẻ tim ông, hoặc nắm chân ông quăng tuốt qua phía bên kia sông
Hằng.
- Không thể được, trên thế gian
này Như Lai không thấy ai, dầu là chư Thiên, sa môn, bà la môn hay trong đám
đông Trời và người, không ai có thể phân tán tâm Như Lai, hoặc cắt xẻ
tim Như Lai, hoặc nắm chân Như Lai cố quăng qua phía bên kia sông Hằng. Tuy
nhiên, Đạo Hữu muốn hỏi việc gì cứ hỏi.
Alavaka liền nêu lên câu hỏi sau đây:
- "Vật sở hữu quý nhất của con người là
gì?
- Điều gì, nếu thực hành đúng, sẽ đem lại hạnh
phúc?
- Hương vị nào ngọt ngào hơn tất cả?
- Sống thế nào gọi là cao thượng nhất?"
Đức Phật trả lời:
- "Đức tin là vật sở hữu quý nhất của con
người.
- Giáo Pháp, nếu thực hành đúng, sẽ đem lại hạnh
phúc.
- Đức hạnh chân thật quả là hương vị ngọt ngào
nhất.
- Sống với trí tuệ được xem là cao thượng nhất."
Alavaka lại hỏi tiếp:
- "Làm cách nào vượt qua trận thủy tai?
- Làm sao vượt trùng dương?
- Làm cách nào chế ngự sầu muộn?
- Tự thanh lọc bằng cách nào?"
Đức Thế Tôn trả lời:
- "Vượt qua trận thủy tai nhờ niềm tin.
- Nhờ đức kiên trì, vượt trùng dương.
- Chế ngự sầu muộn bằng tinh tấn.
- Tự thanh lọc bằng trí tuệ."
Alavaka lại hỏi thêm:
- "Thành đạt trí tuệ bằng cách nào?
- Làm sao mưu tìm sự nghiệp?
- Thành đạt danh vọng bằng cách nào?
- Cái gì làm cho tình bằng hữu trở nên khắng
khít?
- Từ thế gian này sang cõi khác,
- Làm thế nào tránh khỏi sầu muộn? [10]
Đức Phật đáp:
"Người kiên trì, sáng suốt
có niềm tin, thành đạt trí tuệ bằng cách lắng nghe Giáo Pháp của bậc
Đại Giác, có khả năng dẫn đến Niết Bàn.
Người làm công việc thích nghi một
cách kiên trì, cần mẫn, sẽ tìm được sự nghiệp.
Nhờ hạnh chân thật, thành đạt
danh vọng.
Đức quảng đại khoan dung làm cho
tình bằng hữu trở nên khắng khít.
Người cư sĩ thành thật, có được
bốn phẩm hạnh: chân thật, giới đức, can đảm và rộng rãi bố thí, sẽ
không buồn phiền sầu muộn sau khi qua đời.
Được rồi, Đạo Hữu hãy đi hỏi
các vị sa môn và bà la môn khác xem họ có gì quý báu, cao thượng hơn chân
thật, tự kiểm soát, quảng đại và nhẫn nại không?"
Alavaka đã am hiểu những lời Phật
dạy nên bạch:
"Đã thấu hiểu bí quyết để
mưu cầu an lạc trong tương lai, vậy tôi còn phải đi hỏi các vị sa môn
và bà la môn khác làm gì? Đức Thế Tôn hôm nay quang lâm đến Alavi chính
vì sự an lành của tôi. Tôi đã thấu hiểu rằng của bố thí sẽ đem lại
quả lành phong phú. Từ làng này sang làng khác, từ đô thị này đến thị
trấn kia, tôi sẽ thênh thang đó đây để tán dương công đức của bậc
Chánh Biến Tri và tánh cách toàn thiện của Giáo Pháp Cao Thượng."
Hạ Thứ Mười
Bảy - tại Rajagaha.
Hạ Thứ Mười
Tám - tại tảng đá Caliya.
Hạ Thứ Mười
Chín Và Hai Mươi - tại Rajagaha.
-oOo-
Đức
Phật và Angulimala [11]
Đức Phật thâu phục tên sát nhân
hung tợn Angulimala trong hạ thứ hai mươi. Lúc nhỏ ông này tên Ahimsaka (người
vô tội). Cha ông là quốc sư của vua xứ Kosala. Ông ăn học ở Taxila, một
trung tâm giáo dục trứ danh thời xưa, và trở thành vị đệ tử lỗi lạc
và thân tín nhất của một ông thầy rất danh tiếng. Bất h宨 thay, vì thế mà bạn bè ông nảy sanh lòng ganh tị, bày
điều gièm xiểm và thành công đầu độc tư tưởng của thầy. Ông này
tin lời, lấy làm tức giận, và không kịp nghĩ suy hay dò xét, mưu hại
Ahimsaka bằng cách truyền lệnh cho ông này phải đem đến một ngàn ngón
tay người, ngón út ở bàn tay mặt, dâng lên ông để làm lễ thọ giáo. Mặc
dầu không vui, Ahimsaka gượng gạo vâng lời thầy, đi vào rừng Jalini, tại
Kosala, và bắt đầu chuỗi dài những cuộc sát nhân ghê tởm, để chặt lấy
ngón tay. Ban đầu ông xỏ xâu các ngón tay lại, treo lên cành cây. Nhưng vì
kên kên và quạ đến ăn nên ông đeo trên cổ như một tràng hoa làm bằng
ngón tay người, giữ cho khỏi bị mất và để dành cho đủ số cần thiết.
Do đó có tên "Angulimala", có nghĩa là "tràng hoa kết bằng
ngón tay".
Kinh sách [12] ghi rằng khi ông để
dành được chín trăm chín mươi chín ngón thì Đức Phật xuất hiện. Nhìn
thấy Đức Phật, Angulimala mừng lắm, nghĩ rằng đây là cơ hội để ông
hoàn tất sứ mạng.
Ông liền rảo bước thẳng tới Đức
Phật, tay rút gươm ra khỏi vỏ.
Đức Phật dùng thần thông tạo những
trở ngại làm cho Angulimala chạy theo không kịp, dầu cố hết sức rượt
bắt. Mệt mỏi hết sức, mồ hôi nhễ nhại, ông dừng chân lại và cất
tiếng gọi: "Hãy dừng lại, ông sa môn".
Đức Thế Tôn từ tốn đáp:
"Mặc dầu Như Lai đi, Như Lai
đã dừng bước. Còn con, Angulimala, hãy dừng bước."
Tên sát nhân suy nghĩ: "Các vị
sa môn này luôn luôn nói thật. Vị này nói rằng ông ta đã dừng bước, còn
ta thì không dừng. Thế là nghĩa làm sao?"
Angulimala liền hỏi thêm: "Này
Ông Sa Môn. Ông còn đi, chính tôi đã dừng. Ông lại nói rằng tôi không dừng
còn ông thì đã dừng. Xin hỏi, này Ông Sa Môn, lời nói của ông có ý nghĩa
gì?"
Đức Phật dịu dàng đáp: "Đúng
vậy, Angulimala, Như Lai đã dừng bước, dừng luôn, mãi mãi. Như Lai đã từ
khước, dứt bỏ, không còn hành hung hay gây tổn thương cho một sanh vật
nào. Còn chính con không giữ lại bàn tay đẫm máu, vẫn sát hại đồng loại.
Vậy, Như Lai đã dừng, còn con thì vẫn tiếp tục."
Đến đây nghiệp tốt của
Angulimala mau chóng trồi lên mặt. Ông nghĩ rằng vị sa môn này chắc không
phải ai khác hơn là Đức Phật Gotama (Cồ Đàm), quang lâm đến đây vì
lòng bi mẫn, muốn tế độ mình. Nghĩ vậy, ông liền vứt đi tất cả võ
khí, rồi đến gần Đức Phật, đảnh lễ Ngài và xin quy y. Về sau Đức
Phật chấp nhận ông vào Giáo Hội Tăng Già Cao Thượng bằng cách thốt ra
lời: "Ehi Bhikkhu!" "Hãy đến đây Tỳ Khưu!"
Tin Angulimala xuất gia tỳ khưu với
Đức Phật được truyền rộng ra khắp xứ. Riêng Vua Kosala cảm thấy nhẹ
nhàng như thoát khỏi nạn, vì Angulimala quả thật là một đại họa cho dân
chúng trong xứ.
Nhưng tâm của Tỳ khưu Angulimala vẫn
không an tĩnh bởi vì luôn luôn Ngài tưởng nhớ đến dĩ vãng tội lỗi của
mình và những tiếng kêu la than khóc của các nạn nhân. Chí đến những lúc
một mình hành thiền ở nơi vắng vẻ cũng không quên được. Ngày kia, khi
đi trì bình ngoài đường, ngài bị người ta dùng gậy gộc đánh đập và
chọi đá vào mình, phải đi về chùa với đầu cổ đầy thương tích,
máu chảy dầm dề, mình mẩy chỗ bị bầm dập, nơi bị cắt đứt, một
cơ hội để Đức Phật nhắc lại rằng đó là hậu quả bất thiện của
những hành vi hung bạo của ngài trong quá khứ.
Ngày nọ, lúc đi bát, Tỳ Khưu
Angulimala thấy một người phụ nữ sắp lâm bồn đang gặp khó khăn, rên
xiết bên đường. Động lòng bi mẫn, Ngài đem câu chuyện đau thương ấy
bạch lại với Đức Phật. Đức Phật khuyên Ngài hãy quày trở lại, đọc
những lời xác nhận sau đây - những câu này vẫn còn được lưu truyền
đến nay dưới tựa đề Angulimala Paritta:
"Này Đạo Hữu, từ ngày được
sanh vào Thánh tộc (nghĩa là từ ngày tôi xuất gia), tôi chưa hề cố ý
tiêu diệt đời sống của một sinh vật nào. Do lời chân thật này, ước
mong cô được vuông tròn và con của cô bình an vô sự."
Ngài Angulimala học thuộc lòng bài
kinh, rồi đi đến nơi, ngồi cách người phụ nữ một bức màn, đọc lại.
Người mẹ đau khổ liền sanh được dễ dàng. Đến nay bài kinh Paritta
[13] này vẫn còn công hiệu.
Về sau, vào đúng thời kỳ, Đại
Đức Angulimala đắc Quả A La Hán. Khi nhắc đến đường lối Đức Phật
cảm hóa Ngài, Đại Đức Angulimala nói:
- "Có những sanh vật bị khắc
phục bằng võ lực,
- Bằng cù móc hay roi vọt.
- Nhưng ta đây, được thuần hóa do một
nhân vật
- Không cần đến gậy gộc, cũng không
dùng gươm đao [14]
-oOo-
Trong hai mươi lăm năm còn lại, Đức
Phật sống phần lớn ở Savatthi, tại Jetavana (Kỳ Viên Tịnh Xá) do trưởng
giả Anathapindika (Cấp Cô Độc) kiến tạo và phần khác tại Pubbarama do
bà Visakha dâng.
Chú thích
[1] Xem Chương 8.
[2] Tanha (Ái Dục), Arati (Bất Mãn)
và Raga (Tham Vọng) là ba người con gái của Ma Vương.
[3] Buddhist Legends, phần i, trang 274.
[4] Dhammapada, Kinh Pháp Cú, câu 320,
321, 322.
[5] Xem Buddhist Legends, tập i, tr.
176.
[6] Dhammapadatthakatha, bản Chú giải
Kinh Pháp Cú, Kosambaka Vatthu.
[7] Sutta Nipata, trang 12.
[8] Vinaya Pitaka, Tạng Luật, bài
kinh Suttavibhanga (Parajika) tr. 1-11, Miss I. B. Horner, Book of The Discipline, phần
1, trang 1-23.
[9] Đức Phật muốn ám chỉ Đại
Đức Ananda.
[10] Xem Kindred Sayings, phần I, trang
276-277.
[11] Psalms of the Brethren, trang
318-325. Xem Angulimala Sutta, Majjhima Nikaya, kinh 86, tập 2, trang 97.
[12] Psalms of the Brethren, trang
320-321.
[13] Kinh Bảo vệ.
[14] Psalms of the Brethren, trang 328.