Đức
Phật và Phật pháp
HT. Narada
Phạm Kim Khánh dịch
- [19]
- Nghiệp là gì?
"Tác ý là Nghiệp" -- Tăng Nhứt A Hàm
Nghiệp (Kamma)
Kamma, Nghiệp, theo đúng nghĩa của
danh từ, là hành động, hay việc làm. Định nghĩa cùng tột của Nghiệp
là Tác ý (cetana). Tư tưởng, lời nói, việc làm, thường khởi xuất do
"ý muốn làm" tạo động cơ. Phật Giáo gọi ý muốn làm ấy là
Tác ý (cetana). Tất cả những hánh động có tác ý, dầu biểu hiện bằng
thân, khẩu, hay ý , đều tạo Nghiệp. Tất cả những hành động có tác
ý, thiện hay bất thiện, đều tạo Nghiệp. Những hành động không có chủ
tâm, mặc dầu đã biểu hiện bằng lời nói hay việc làm, đều không tạo
Nghiệp.
Đức Phật dạy:"Nầy hỡi các
Tỳ Khưu, Như Lai xác nhận rằng chính Tác ý là Nghiệp. Do có ý muốn mới
có hành động, bằng thân, khẩu hay ý [1]".
Ngoại trừ những hành động của
chư Phật và chư vị A La Hán, mỗi hành động có tác ý đều gọi là Nghiệp.
Mặc dầu chư Phật và chư vị A La Hán vẫn còn chịu ảnh hưởng của những
nhân đã gieo trong quá khứ, các Ngài không còn tạo Nghiệp mới nữa vì
các Ngài đã thoát ra ngoài cái lành và cái dữ, đã tận diệt vô minh và
ái dục là hai nguồn gốc của Nghiệp. Ratana Sutta (Tam Bảo Kinh) ghi rằng:
"Mầm giống (Khina-bija) đã bị tận diệt, những ham muốn vị kỹ
không còn khởi sanh."
Như vậy không có nghĩa là chư Phật
và chư vị A La Hán sống một cách thụ động. Các Ngài luôn luôn tích cực
hoạt động để tạo an lành hạnh phúc cho chúng sanh. Hành động của các
ngài, thường được coi là thiện, không có năng lực tạo Nghiệp. Am hiểu
tận tường thực tướng của vạn pháp, các Ngài phá tan mọi thằng thúc
(kiết sử) trói buộc chúng sanh trong vòng luân hồi, những chuỗi dài nhân
và quả.
Một vài hệ thống tín ngưỡng
cũng nhìn nhận rằng mọi chênh lệch trong xã hội đều do Nghiệp, nhưng
khi đề cập đến Nghiệp, lại chủ trương rằng mọi hành động, có tác
ý hay không, đều tạo Nghiệp.
Theo chủ trương ấy, một người
giết cha, giết mẹ dầu cố tâm hay vô ý, đều phạm trọng tội như nhau.
Cũng như đối với lửa, dầu vô tình hay cố ý thọc tay vào lửa thì phải
bị phỏng như nhau, không hơn không kém.
Lập luận như vậy dĩ nhiên sẽ
đưa đến một định thức phi lý. Đứa bé trong bào thai, vô tình làm cho
mẹ đau đớn, hay bà mẹ vô ý làm đau đứa con trong lòng mình, hẳn cũng
tạo Nghiệp bất thiện? Vã lại, nêu ra một sự kiện để giải thích một
sự kiện tương tợ, như trường hợp của người thọc tay vào lửa và một
người hành động ác là một luận cứ không thể đứng vững. Thí dụ,theo
luận điệu trên, nếu ông A sai ông B đi giết người, thì chính ông B phạm
tội sát nhân mà ông A thì không sao cả, vì chỉ có ông B là người
"thọc tay vào lửa". Hơn nữa, cũng theo luận điệu trên, một
hành động ác không có tác ý có thể còn tai hại hơn một hành động ác
có tác ý. Nói cách khác, cố ý làm ác bị hại ít hơn là vô tình, vì
theo ví dụ người thọc tay vào lửa, biết rằng lửa nóng người cố tâm
tất phải dè dặt hơn nên ít bị nóng. Người vô tình, vì không định ý
trước, không kịp ngăn ngừa, ắt bị phỏng nhiều hơn. [2]
Trong sự báo ứng của Nghiệp, Tâm
là yếu tố tối quan trọng. Tất cả những việc làm,lời nói và tư tưởng
đều do tâm ảnh hưởng. "Khi không điều phục được tâm tức nhiên
không thể kềm chế được việc làm, lời nói, và tư tưởng. Điều phục
tâm tức kềm chế thân, khẩu, ý." [3]
"Chính tâm dẫn dắt thế gian,
chính tâm lôi kéo thế gian; và tất cả mọi người đều làm chủ cái
tâm."
Kinh Pháp cú có câu:
"Tâm dẫn đầu mọi hành động.
Tâm là chủ. Tâm tạo tác tất cả. Nếu nói hay làm với tâm ác thì do đó,
đau khổ sẽ theo liền với ta như bánh xe lăn theo dấu chân con bò kéo
xe." (câu 2)
Ta có thể thắc mắc vì sao một vật
vô hình như tâm lại có thể gây ra những xáo trộn cho thế gian vật chất.
Thật ra không có gì khó hiểu. Chính các bộ máy cực kỳ hùng mạnh và
có khả năng làm đảo lộn thế gian hiện đại chỉ là sản phẩm của những
bộ óc phong phú.
Cái tâm vô hình tạo nên tất cả
những tác động báo ứng của Nghiệp.
Nghiệp không nhất thiết chỉ là
những hành động trong quá khứ, mà bao trùm quá khứ và hiện tại. Như vậy,
nói một cách, chúng ta như thế nào trong hiện tại là tùy thuộc trong quá
khứ chúng ta đã hành động như thế nào, và trong tương lai chúng ta sẽ
hành động như thế nào tùy thuộc nơi hành động của chúng ta như thế nào
trong hiện tại. Hiểu một cách khác nữa, ta phải thêm rằng trong hiện tại
chúng ta như thế nào không hoàn toàn bởi vì trong quá khứ ta đã như thế
và trong tương lai chúng ta sẽ như thế nào cũng không hoàn toàn tùy thuộc
nơi chúng ta như thế nào trong hiện tại.
Hiện tại chắc chắn là con đẻ của
quá khứ, đồng thời cũng là mẹ sanh của tương lai.
Nhưng trong sự báo ứng vô cùng phức
tạp của Nghiệp, ta không thể nhìn vào hiện tại mà quả quyết quá khứ
và tương lai. Thí dụ như tên cướp sát nhân ngày hôm nay có thể là một
người hiền như bậc thánh nhân ngày mai. Một người hiền lương đạo đức
ngày hôm qua có thể hôm nay trở nên hư hèn hung dữ.
Lời mẹ dạy con: "Nếu con
ngoan sẽ được mẹ cưng và con sẽ vui vẽ. Nếu con không ngoan mẹ sẽ
không cưng và con sẽ buồn" là giáo lý Nghiệp Báo.
Cái gì giống nhau thu hút lẫn nhau.
Tốt đem lại tốt, xấu đem lại xấu. Đó là định luật Nhân Quả.
Tót tắt, Nghiệp Báo là định luật
Nhân Quả trong lĩnh vực luân lý hay như người phương Tây thường nói,
là "ảnh hưởng của hành động".
Nghiệp và Quả
(Kamma và Vipaka)
Nghiệp là hành động. Quả là phản
ứng của hành động ấy. Nói cách khác, Quả (Vipaka) là hậu quả của
hành động. Cũng như mỗi vật đều dính liền với cái bóng của nó, mỗi
hành động có tác ý (cetana) đều dính liền với quả. Nghiệp có thể ví
như một cái hột có khả năng trở thành cây. Quả như trái cây. Lá, hoa
các thứ là những sự khác biệt bên ngoài như sức khỏe, sự thịnh vượng,
sự giàu sang, sự bệnh hoạn và những điều bất hạnh trong đời sống vật
chất mà không ai tránh khỏi.
Nói một cách chính xác, Nghiệp và
Quả đều tùy thuộc nơi Tâm. Hành động (Nghiệp) và hậu quả của hành
động ấy (Quả) đều do Tâm tạo nên. Vì Nghiệp có thể tốt hay xấu, Quả
có thể lành hay dữ.
Nếu hành động thuộc về tâm thì
quả cũng thuộc về tâm. Lắm khi ta nghe an vui hạnh phúc, khoan khoái trong
lòng, hay buồn bực đau khổ v.v... đó là đang thọ Quả thuộc về tâm. Quả
trổ sanh tốt hay xấu tùy theo Nhân gieo tốt hay xấu.
Trong phạm vi vật chất, Anisamsa là
những phước lành như giàu sang, khỏe mạnh, tuổi thọ v.v..., Adinava là những
tôi khổ như bần cùng, xấu xí, bệnh tật, yểu tử v.v... Nghiệp là những
tâm thiện và bất thiện tại thế (Kusala akusala lokiya citta) và Quả
(Vipaka) là những loại tâm Quả tại thế (lokiya vipaka citta).
Theo Vi Diệu Pháp [4], Nghiệp gồm
12 loại tâm bất thiện và 8 loại tâm thiện thuộc Dục Giới (kamavacara),
5 loại tâm thiện thuộc Sắc Giới (rupavacara) và 4 loại tâm thiện thuộc
Vô Sắc Giới (arupavacara). Tổng cộng là 29 tâm tại thế (lokiya citta).
Ngoài ra, 8 loại tâm siêu thế
(lokuttara citta) không thể coi là Nghiệp vì các loại tâm ấy có khuynh hướng
diệt Nghiệp.
Động cơ của tất cả các loại
tâm tại thế là Tác ý (cetana), trái lại, yếu tố chánh yếu trong các loại
tâm siêu thế là Trí tuệ (panna).
9 loại tâm thiện thuộc Sắc Giới
và Vô Sắc Giới (5 thiện Sắc Giới và 4 thiện Vô Sắc Giới ) hoàn toàn
thuộc về tâm, không biểu hiện dưới hình thức việc làm và lời nói như
20 loại tâm thuộc Dục Giới.
Mọi hành động đều do tâm. Chính
tâm biểu hiện bằng thân, khẩu hay ý.
Tất cả 29 loại tâm kể trên
(12+8+5+4) đều được gọi là Nghiệp vì các loại tâm ấy có khả năng tạo
Quả một cách tự động, không cần trợ lực của yếu tố nào từ bên
ngoài.
Vui, buồn, hạnh phúc hay đau khổ,
hậu quả dĩ nhiên phải có của các loại tâm thiện hay bất thiện, gọi
là tâm Quả thuộc Dục Giới. Năm loại tâm Quả thuộc Sắc Giới và 4 loại
tâm Quả thuộc Vô Sắc Giới đều là hậu quả đương nhiên của Nghiệp.
Đã gieo nhân tức phải gặt Quả,
lúc nầy, nơi nầy, hay lúc khác, nơi khác, ở kiếp hiện tại hay trong kiếp
vị lai. Ngày hôm nay ta gặt hái những gì chính ta đã gieo trong hiện tại
hay trong quá khứ.
Trong bộ Samyutta Nikaya, Tạp A Hàm,
có những lời dạy như sau:
- "Đã gieo giống nào,
- Sẽ gặt quả nấy.
- Hành thiện sẽ thâu gặt quả lành.
- Hành ác sẽ thâu gặt quả dữ.
- Hãy gieo giống tốt,
- Ta sẽ hưởng quả lành. [5]"
Nghiệp Báo tự nó là một định
luật có hiệu lực trong một phạm vi riêng biệt, không chịu ảnh hưởng
của tha lực nào từ bên ngoài đưa vào.
Khả năng trổ Quả đã dính liền
với Nghiệp. Trong hành động (bằng thân, khẩu, ý) đã có tiềm tàng năng
lực tạo Quả, cũng như trong hột đã có tiềm tàng tạo nên cây và sanh
ra trái. Nhân sanh Quả, Quả giải thích Nhân. Hột sanh trái, thấy trái ta
biết hột như thế nào. Sự liên quan giữa hột và trái cũng như giữa
Nghiệp và Quả. "Trong Nhân đã có sẳn mầm giống của Quả."
Hạnh phúc và đau khổ, thường xảy
đến cho nhân loại, là Quả phải có, trổ sanh do những nhân nào. Phật
Giáo không chủ trương có sự thưởng phạt do một oai lực siêu phàm toàn
tri, toàn năng, tối thượng ban bố cho những linh hồn đã làm lành hay gây
dữ. Thuyết Duy Thần cố giải thích mọi việc bằng kiếp sống trường cửu
trong tương lai mà không biết đến quá khứ. Thuyết Duy Thần tin rằng linh
hồn của người chết sẽ trãi qua một cuộc phán xét và xem những phước
báu và tội khổ trong đời hoàn toàn do ý muốn của một Tạo Hóa Tối Thượng,
ngự trên một cảnh trời nào đó, tạo ra càn khôn vạn vật và trọn quyền
định đoạt số phận của nhân loại, vật do mình tạo ra.
Phật Giáo không nhìn nhận có một
linh hồn trường cửu, được tạo nên một cách ngẩu nhiên và độc đoán.
Phật Giáo tin có định luật và công lý thiên nhiên, không phải một đấng
Thượng đế toàn năng hay một Đức Phật đại từ đại bi tạo nên. Theo
định luật và công lý thiên nhiên ấy thì mỗi hành động đều gây nên
một phản ứng tương xứng mà người đời thường lầm tưởng là sự
ban thưởng hay hình phạt.
Một vài người dựa theo nhận thức
riêng của mình cho rằng thuyết Nghiệp Báo trong Phật Giáo là một loại
nha phiến để thoa dịu và ru ngủ người xấu số bằng luận điệu như
sau:
"Bây giờ anh phải chịu khó
nghèo khổ vì đã tạo Nghiệp xấu trong quá khứ. Anh kia được giàu sang
vì anh ấy tạo Nghiệp tốt. Như vậy, hãy cam tâm chịu lấy số phận
nghèo đói của anh và cố gắng tạo Nghiệp tốt trong hiện tại để được
giàu sang trong kiếp tới.
"Trong kiếp nầy anh bị hà hiếp
bóc lột vì đã tạo Nghiệp xấu trong quá khứ. Hãy nhận lãnh số phận hẩm
hiu ấy và nhẫn nại cam tâm chịu khổ. Từ nay hãy ăn hiền ở lành, chắc
rằng kiếp sau anh sẽ được giàu sang hạnh phúc."
Đức Phật không hề dạy như vậy.
Thuyết Nghiệp Báo trong Phật Giáo cũng không bao giờ chấp nhận một cuộc
phán xử sau kiếp sống. Đức Phật vị tha, từ bi vô lượng vô biên, truyền
dạy Nghiệp Báo không phải để bảo vệ người giàu sang và an ủi người
nghèo khổ bằng cánh hứa hẹn hạnh phúc huyền ảo trong tương lai.
Theo lý Nghiệp Báo, chúng ta không
nhất định phải bị trói buộc trong hoàn cảnh nào, vì Nghiệp Báo không
phải là số mạng, cũng không phải Tiền Định do một oai lực huyền bí
nào đã định đoạt cho ta một cách bất khả kháng. Chính hành động thiện
hay ác của ta gây phản ứng lành hay dữ. Do đó chúng ta hoàn toàn tự do tạo
ra những phản ứng mới để hòa dịu Nghiệp lực. Chúng ta có đủ năng lực
để chuyển phần nào cái Nghiệp của chúng ta theo ý muốn. Chuyển đến mức
độ nào chỉ tùy nơi ta.
Như vậy chúng sanh không bị bắt
buộc phải gặt hái trọn vẹn những gì đã gieo. Trong một tình trạng
nào đó và trong một giới hạn nào đó, với sự cố gắng chánh đáng, ta
có thể sửa đổi cái Nghiệp của ta.
Nguồn Gốc của
Nghiệp
Vô minh (avijja) hay không hiểu biết
thấu đáo thực tướng của sự vật là nguyên nhân chính tạo ra Nghiệp.
Trong Thập Nhị Nhân Duyên (Paticca Samuppada) có câu:
"Tùy thuộc nơi Vô Minh, Hành
phát sanh" (avijja paccaya samkhara)."
Vì không am hiểu chân tướng của
vạn pháp nên mới có những hành động tạo Nghiệp.
Ái dục (Tanha) - đi liền với Vô
Minh - là một nguyên nhân khác tạo duyên sanh ra Nghiệp. Chính Vô Minh và
Ái Dục là cội rễ của mọi tội ác. Tất cả những hành động của hạng
phàm nhân (puthujjana, là những chúng sanh còn trong tam giới) mặc dầu bắt
nguồn từ ba căn trong sạch là bố thí (alobha, không tham), từ bi (adosa,
không sân) và trí tuệ (amoha, không si) vẫn còn tạo Nghiệp, vì chưa tận
diệt Vô Minh và Ái Dục. Trái lại, những loại tâm siêu thế (maggacitta,
đạo tâm) không tạo Nghiệp vì bản chất của các loại tâm ấy có khuynh
hướng tận diệt Vô Minh và Ái Dục.
Người Tạo
Nghiệp
Ai tạo Nghiệp? Ai gặt quả?
"Nghiệp có phải là một sự tích trữ trong linh hồn không?"
Để trả lời câu hỏi tế nhị
ấy, Đại Đức Buddhaghosa viết như sau trong sách Visuddhi Magga (Thanh Tịnh
Đạo):
- "Không có người tạo Nghiệp.
- "Không có người gặt quả,
- "Chỉ có những thành phần cầu tiến mãi
mãi
- (chỉ có sự vận chuyển của pháp hành).
- "Đó là nhận thức chân chánh. [6]"
Theo Phật Giáo, có hai thực tế. Thực
tế biểu hiện ra bề ngoài và thực tế cùng tột. Thực tế bề ngoài là
những chân lý mặc ước, hay Tục đế (sammuti sacca). Thực tế cùng tột
là chân lý trừu tượng, tuyệt đối, cùng tột, hay Chân đế (paramattha
sacca). Thí dụ như cái bàn, cái quạt, con người, con vật v.v... là những
thực tế biểu hiện ra ngoài mà ngũ quan ta có thể cảm nhận. Bằng một
cách mặc ước, chúng ta đồng ý chấp nhận danh từ bàn, quạt, người, vật
v.v... để chỉ những vật ấy. Vậy bàn là thực tế bề ngoài, chân lý mặc
ước, tục đế.
Nhưng nếu phân tách cái bàn, ta thấy
rằng cái mà ta gọi là bàn chỉ là sự kết hợp của những tế bào, và
tế bào chỉ là sự kết hợp của những năng lực và tánh chất. Vậy,
phân tách đến mức cùng tột, vật chất chỉ là sự cấu thành của những
năng lực và tánh chất. Năng lực và tánh chất ấy là thực tế cùng tột,
chân lý tuyệt đối, chân đế.
Khi nói chuyện với mọi người, nhà
bác học gọi nước là nước. Nhưng trong phòng thí nghiệm, nhà bác học gọi
nước là H2O. Nước là danh từ mặc ước, chế định, phổ thông. H2O là
danh từ chuyên môn, là thực tế tuyệt đối.
Cùng một thế ấy, trong những câu
chuyện thông thường, ta dùng danh từ mặc ước như đàn ông, đàn bà,
chúng sanh v.v... Những cái được gọi là hình sắc ấy, khi được phân
tách tỉ mỉ cho thấy rằng chỉ là những thành phần tâm-vật-lý luôn
luôn biến đổi, không thể tồn tại y hệt trong hai khoảnh khắc kế tiếp.
Như vậy, Phật Giáo không tin rằng
có một thực thể đơn thuần như một người hay một linh hồn vĩnh cửu,
hành động ngoài sự hành động, tri giác ngoài sự tri giác, hay ý thức một
việc ngoài ý thức. Nói cách khác, Phật Giáo chủ trương có sự hành động
mà không có người hành động, có sự tri giác mà không có người tri giác,
có thức mà không có người ý thức.
Vậy thì ai tạo
Nghiệp và ai gặt Quả?
Tác ý (cetana) hay ý muốn, làm động
cơ phát xuất hành động (bằng thân, khẩu, ý), là người tạo người
Nghiệp. Thọ (vedana), cảm giác, là người gặt Quả. Ngoài hai tâm sở"tác
ý" và "thọ", không có người tạo Nghiệp cũng không có người
gặt Quả.
Đại Đức Buddhaghosa dạy rằng khi
những thành phần vật chất phối hợp lại, cấu thành cái gọi là cây, một
ngày nào và ở một điểm nào, và trổ ra trái, thì ta nói"cây sanh
trái" hay "cây trổ trái". Cùng dường thế ấy, năm uẩn(sắc,
thọ, tưởng, hành, thức) phối hợp lại, cấu thành cái gọi là trời hay
người và, một ngày nào, quả lành hay quả dữ thổ sanh thì ta nói rằng
vị trời hay người ấy có phước hay vô phước.
Về điểm nầy Phật Giáo cũng đồng
quan điểm với giáo sư William James khi giáo sư bác bỏ luận cứ của
Descartes và chủ trương rằng: "Chính tư tưởng là người tư tưởng.
[7]"
Nghiệp ở đâu?
Một nhà phân tách tâm linh như sau
viết như sau:
"Nghiệp được tích trữ bên
trong phần tâm linh, nhưng thông thường chỉ có một số ít người tìm ra
và xâm nhập được vào thâm cung bí hiểm của tâm linh ấy. Nghiệp là sự
thâu nhận trọn vẹn tất cả những kinh nghiệm đã trãi qua, những cảm
giác đã thọ, những ảnh hưởng đã thâm nhiễm của một cá nhân. Tiềm
thức không phải chỉ trung thực ghi nhận những kinh nghiệm cá nhân mà
còn giữ lại những cảm xúc và những khuynh hướng sơ khởi và - mặc dầu
hình như suy giảm lần trong con người văn minh dưới lớp lễ nghi hình thức
của xã hội - vẫn còn tiềm lực mạnh mẽ có thể bộc phát một cách bất
ngờ với một năng lực hùng hậu không thể đóan trước được."
Người Phật tử cũng nhận định
như vậy, nhưng với một ý niệm sửa đổi căn bản khác biệt.
Phật Giáo chủ trương rằng cái
Nghiệp không được tàng trữ trong một nơi nào gọi là tâm linh, bởi vì
không có chi chứng minh rằng có một nơi nào trong guồng máy phức tạp và
luôn luôn biến đổi con người có thể làm nơi chứa đựng như một kho tàng.
Tuy nhiên, mỗi kinh nghiệm, mỗi cảm
giác, mỗi ảnh hưởng đã ghi nhận, mỗi đặc tính, phàm hay thánh, của một
số cá nhân đều được phát triển tùy sự biến đổi liên tục của những
hiện tượng tâm-vật-lý của cá nhân ấy như một dòng suối luân lưu bất
tận.
Tóm tắt, tất cả nghiệp lực đều
tùy thuộc nơi sự biến đổi của luồng tâm lực (citta santati) và luôn
luôn sẵn sàng phát hiện trong muôn ngàn hiện tượng, mỗi khi có cơ hội.
Một hôm Vua Milinda hỏi Đại Đức
Nagasena:
-"Kính bạch Đại Đức, Nghiệp
được tích trữ ở đâu?"
- Tâu Đại vương, ta không thể
nói Nghiệp được tích trữ ở một nơi nào trong cái tâm luôn luôn biến
đổi, hay ở một nơi nào khác trong thân thể con người. Nhưng tùy thuộc
nơi danh và sắc, Nghiệp khởi hiện trong một lúc thích ứng. Cũng như ta
không thể nói trái xoài được tích trữ ở nơi nào trong cây xoài nhưng,
tùy thuộc nơi cây xoài và khi đầy đủ cơ duyên, nó sẽ trổ ra đúng
lúc, đúng mùa. [8]"
Cũng như ta không thể nói gió hay lửa
nằm ở nơi nào nhất định, ta không thể quả quyết Nghiệp được chứa
đựng trong hay ngoài thân.
Nghiệp là một năng lực cá biệt
được chuyển từ kiếp nầy sang kiếp khác. Nghiệp thủ một vai trò quan
trọng trong việc cấu tạo tâm tánh con người. Nghiệp giải thích những
hiện tượng kỳ diệu mà ta gọi là vĩ nhân, thiên tài, thần đồng v.v...
Một sự hiểu biết rành mạch về định luật Nghiệp Báo là điều kiện
chánh yếu khả dĩ tạo tình trạng an lành hạnh phúc cho thế gian.
Chú thích
[1] Anguttara Nikaya, iii, 415; The
Expositor phần I, trang 117; Atthasalini, trang 88.
[2[ Xem Poussin, "The Way to
Nirvara", trang 68.
[3] Atthasalini, trang 63; The Expositor,
phần I, trang 91.
[4] Xem Compendium of Philosophy;
Abhidhammattha Sangaha, Ch. 1; Manual of Abhidhamma, Ch. 1.
[5] Quyển 1, trang 227. Kindred Sayings,
phần I, trang 293.
[6] Quyển II, trang 602. Xem Warren,
Buddhism in Translation, trang 248. The Path of Purity, chương iii, trang 728.
Kammasa karako natthi - vipakassa ca
vedako; Suddhadhamma pavattanti - evetam samma dassanam.
[7] Psychology, trang 216.
[8] Visuddhi Magga, Thanh Tịnh Đạo,
chương XVII.